Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt nam từ thực tiễn Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.59 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG VĂN SƠN

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHOẺ CỦA NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ VINH,
TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHOẺ CỦA
NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.................... 8
1.1. Khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác .................................................................................................. 8
1.2. Sự cần thiết và ý nghĩa việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại sức khoẻ cho người khác .............................................................. 12
1.3. Những quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức
khoẻ cho người khác trong Luật hình sự một số nước trên thế giới ............... 15
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHOẺ CỦA NGƯỜI KHÁC .............................................................. 18
2.1. Quá trình phát triển của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại


cho sức khoẻ của người khác trong luật hình sự Việt Nam ............................ 18
2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi) về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ........................... 26
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHOẺ CỦA NGƯỜI KHÁC ....................... 58
3.1. Thực tiễn việc áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở
thành phố Vinh,tỉnh Nghệ An ......................................................................... 58
3.2. Các giải pháp nhằm áp dụng đúng quy định của Bộ luật Hình sự về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ....... 68
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

XHCN

:Xã hội chủ nghĩa

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CTTP


: Cấu thành tội phạm

CYGTT

: Cố ý gây thương tích

HĐTP

: Hội đồng thẩm phán

TAND

: Tòa án nhân dân

THTT

: Tiến hành tố tụng

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao



DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Số liệu, tỷ lệ tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác với tội phạm nói chung ..................................... 60
Bảng 3.2: Số liệu, tỷ lệ tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác với các tội về trật tự trị an nói chung................ 60
Bảng 3.3: Kết quả truy tố tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác theo từng khoản cụ thể ............................... 63
Bảng 3.4: Hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo bị xét xử về tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ..... 65


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề bảo vệ con người tạo dựng một xã hội trong sạch và lành mạnh
đảm bảo cho sự phát triển của xã hội, của đất nước là nhiệm vụ cấp bách
trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt bảo vệ con người gắn với việc bảo vệ sức
khoẻ và tính mạng được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, trong điều kiện
nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển do công cuộc đổi mới cũng như hội
nhập quốc tế, giao lưu kinh tế với các nước trên thế giới thì tình hình tội phạm
ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp. Theo đó quyền con người luôn được
pháp luật bảo hộ, nhất là quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự và nhân phẩm. Tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: Mọi người
có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,
danh dự và nhân phẩm. Chính vì thế mà các cơ quan bảo vệ pháp luật đã luôn
tích cực đấu tranh ngăn chặn các hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm của con người và đặc biệt là các hành vi phạm tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ cho người khác và được quy định

rất sớm trong pháp luật hình sự ở nước ta
Cùng với tình hình đổi mới và đi lên chung của đất nước, Thành phố
Vinh, tỉnh Nghệ An - là một trong những trung tâm văn hoá chính trị của khu
vực miền Trung, đạt được nhiều thành tựu to lớn, ngày càng khẳng định được
vị trí của mình, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, tuy nhiên kéo
theo đó cũng nảy sinh sự phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc, sự tha hoá
về đạo đức, lối sống, sự xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội cũng như các loại tội
phạm như về trộm cắp, cướp giật, ma tuý, mại dâm, các tội xâm phạm sức
khoẻ, danh dự nhân phẩm của người khác, trong đó có tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ cho người khác có chiều hướng gia tăng, xâm
phạm trực tiếp tới khách thể được Pháp luật hình sự bảo vệ đó là tính mạng
sức khoẻ của con người. Hậu quả mà tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
1


hại cho sức khỏe của người khác là rất lớn, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới
sức khỏe của người bị hại, ảnh hưởng tới tình hình trật tự, an ninh của xã hội.
Bên cạnh đó thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác còn có nhiều
vướng mắc, nhiều vụ án rất khó trong việc điều tra,truy tố dễ dẫn đến hiện tượng
oan sai, bỏ lọt tội phạm. Quy định của pháp luật hình sự, xét xử về loại tội này
còn chưa thống nhất, còn nhiều bất cập.
Do đó, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
hiện hành về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng
mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng chính là lý do mà tác giả chọn
nghiên cứu đề tài "Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của
người khác theo pháp luật hình sự Việt nam từ thực tiễn Thành phố Vinh,
tỉnh Nghệ An” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
không phải là vấn đề mới mẻ, đã có khá nhiều sách, công trình nghiên cứu, các
bài viết đăng trên các tạp chí pháp lý đề cập đến loại tội phạm này. Tuy nhiên,
hiện nay tội phạm này là một trong các vấn đề nóng trong xã hội, diễn biến với
tính chất ngày càng phức tạp nên đã được nhiều nhà khoa học Luật gia đề cập,
nghiên cứu ở nhiều hình thức, mức độ, khía cạnh khác nhau nhưng các công
trình nghiên cứu này chủ yếu tiếp cận ở các góc độ khái quát chung nhất hoặc
dưới góc độ so sánh tội phạm này với các loại tội phạm khác trong cùng chương
hoặc các công trình nghiên cứu đó nghiên cứu tại thời điểm áp dụng BLHS cũ,
đã gần hết hiệu lực, phạm vi bài viết thuộc các địa phương khác nhau như:
Trong các giáo trình luật hình sự như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
của Đại học Luật Hà Nội năm 2008; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần
các tội phạm cụ thể của Trung tâm đào tạo từ xa Đại học Huế; Giáo trình Luật
2


hình sự Việt Nam phần các tội phạm cụ thể của Khoa luật Đại học quốc gia
Hà Nội năm 2005; Trong các công trình nghiên cứu khoa học về luật hình sự;
Các tập bình luận khoa học về luật hình sự...
Các công trình nghiên cứu đối với tội danh này như các bài viết trong các
luận văn thạc sỹ, tiến sỹ của một số tác giả: Luận văn thạc sỹ Luật học về
“Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” của tác giả Tô
Ngọc Đường - Học viện khoa học xã hội, năm 2011; Luận án tiến sĩ luật học “
Đấu tranh phòng, chống tội CYGTT trên địa bàn tỉnh Thái Bình” của tác giả
Phạm Thị Mỹ Hương - Học viện khoa học xã hội năm 2016; Luận văn thạc sỹ
Luật học về “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình”
của tác giả Trần Cẩm Thanh - Học viện khoa học xã hội, năm 2016 và “Tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp

luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” của tác giả Nguyễn
Thị Hoà - Viện khoa học xã hội, năm 2016...
Ngoài các công trình nghiên cứu nêu trên, còn rất nhiều bài viết trên các tạp
chí chuyên ngành, như Tạp chí Kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao,
Tạp chí Tòa án nhân dân, trên rất nhiều số đã đề cập đến loại tội này trên nhiều
góc độ, khía cạnh khác nhau như bài viết của tác giả: Nguyễn Văn Dũng, Bàn về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại
điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Tạp chí Tòa
án nhân dân, số 1/2018; Đỗ Đức Hồng Hà, Các quan điểm chung quanh quy
định về chuẩn bị tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7 (335)/2017; Nguyễn
Thanh Bình “ Một số giải pháp, kiến nghị nhằm phòng, chống tội cố ý gây
thương tích trên địa bàn huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang”, tạp chí kiểm sát số 7
(4/2010); bài viết của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà “Các quan điểm chung quanh
3


quy định về chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác”, tạp chí nghiên cứu lập pháp số 07 (4/2017); hay bài viết
của Đại tá, PGS.TS. Bùi Văn Thịnh và ThS Vũ Bá Xiêm “Một số quy định của
pháp luật liên quan đến việc xác định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác theo Điều 104 BLHS”, tạp chí TAND kỳ II số 18
(9/2014); Nguyễn Anh Tuấn, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong Bộ luật
hình sự năm 1999, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7 (321)/2007; Trần
Nguyên Quân, Một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng các tình tiết định khung
tăng nặng của tội cố ý gây thương tích, Tạp chí Kiểm sát số 1/2014; Nguyễn
Nông, Phân biệt tội "giết người" với tội "cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác" trong trường hợp dẫn đến chết người, Tạp
chí Kiểm sát, số 21/2005….

Các công trình nghiên cứu trên đã đạt được những thành tựu nhất định
trong công cuộc nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành, đánh giá,
nhận xét những điểm mà nhà làm luật đã làm được trong thời gian vừa qua để từ
đó có thể đi đến việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng; đánh
giá những bất cập, hạn chế mà cơ quan tiến hành tố tụng chưa làm được; hay
những quan điểm của cơ quan tiến hành tố tụng gặp khó khăn trong việc áp dụng
pháp luật,… Tuy nhiên, mỗi vùng miền lại có những đặc thù về kinh tế, văn
hóa, xã hội dẫn đến tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác ở mỗi nơi là khác nhau. Đặc biệt thành phố
Vinh, Nghệ An – thành phố có vị trí quan trọng ở miền Trung sẽ mang đến
góc nhìn mới mẻ hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng đến việc nghiên cứu làm sáng tỏ các quy định của
pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
4


khác theo luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng quy định này trong thực tiễn
trên địa bàn thành phố Vinh, Nghệ An, từ đó xác định những bất cập để đưa
ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác cũng như đề xuất những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định Bộ luật hình sự
năm 2015 về tội phạm này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài tác giả luận
văn đặt cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phân tích làm rõ vấn đề lý luận chung của tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.
- Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong luật Hình sự Việt Nam từ
thời kỳ trước Cách mạng tháng 8 cho đến nay, làm rõ khái niệm, quy định của
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong
bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi.
- Nghiên cứu thực tiễn xử lý tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác theo quy định của BLHS năm 1999 trên địa
thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong thời gian 05 năm (từ năm 2013 đến
2017). Từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể góp phần nâng cao chất lượng truy tố
loại tội phạm này trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung và
thực tiễn áp dụng về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác cụ thể: khái niệm, ý nghĩa của việc quy định tội phạm này,
các dấu hiệu pháp lý, cũng như thực tiễn áp dụng đối với tội cố ý gây thương
5


tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định của pháp
luật Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung đề tài thực hiện trong phạm vi của chuyên ngành luật hình sự
và tố tụng hình sự về tội cố ý gây thưng tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác quy định tại Điều 104 BLHS 1999 và Điều 134 BLHS 2015, sửa đổi.
Đề tài tập trung nghiên cứu các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn của thành phố Vinh, tỉnh Nghệ
An từ năm (2013-2017).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn giải quyết các nội dung khoa học của đề tài dựa trên quan điểm

của chũ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng; các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành về
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân
tích tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp khảo sát, thực
tiễn; phương pháp thống kê số liệu tổng kết hàng năm trong các báo cáo của
Viện kiểm sát và các tài liệu vụ án hình sự trong thực tiễn để hoàn thành các
nhiệm vụ mà luận văn đã đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của Điều 104 BLHS năm
1999 (về nhóm các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác). Qua đó góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa và đấu
tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng ở Việt Nam; giữ gìn an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội. Nâng cao chất lượng truy tố loại tội này nói
chung và ở thành phố Vinh, Nghệ An nói riêng.
6


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có ý nghĩa quan trọng về cả lý luận và thực tiễn, đây là công
trình nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện dưới góc độ pháp luật
hình sự về tội cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp cụ thể trong việc đấu tranh phòng
chống loại tội phạm này.
Luận văn có thể là một trong những tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên thuộc chuyên ngành Tư
pháp tại các cơ sở đào tạo luật. Trang bị kiến thức cho các cán bộ thực tiễn
đang công tác tại Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong quá trình giải

quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật..
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái niệm, đặc điểm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong luật Hình sự Việt Nam
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở thành phố Vinh,
tỉnh Nghệ an.

7


Chương 1
KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI SỨC KHOẺ CHO NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ hữu hiệu, sắc bén trong
công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ
chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân, góp phần ổn định, duy trì
trật tự kinh tế- xã hội. Đặc biệt trong chế độ Xã hội chủ nghĩa (XHCN) hiện
nay thì vấn đề về tính mạng, sức khoẻ danh dự, nhân phẩm con người luôn
được pháp luật bảo vệ. Vì thế mà tại khoản 1, Điều 8 Bộ luật hình sự (BLHS)
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 quy định rõ khái niệm
tội phạm: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ

luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa” [17, tr.13] mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử
lý hình sự.
Cho đến nay, trong Bộ luật Hình sự Việt Nam chưa có một định nghĩa cụ
thể về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Tuỳ vào góc độ tiếp cận mà có nhiều cách hiểu khác nhau.

8


Có định nghĩa cho rằng: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác là hành vi cố ý gây tổn hại sức khỏe cho người khác
dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác”, có định nghĩa cho rằng: “Tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi
của một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức
khỏe”. [4, tr.137]
Tuy nhiên, từ khái niệm chung về tội phạm được quy định tại Điều 8 Bộ
luật hình sự năm 1999 thì có thể hiểu khái niệm về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau: Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý nhằm gây thương tích hoặc tổn
hại cho sức khoẻ của người khác. Sức khoẻ ở đây theo Từ điển Bách khoa
Việt Nam là: Trạng thái đầy đủ về vật chất, tâm thần mà không chỉ có nghĩa
là không có bênh hay thương tật; cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng

với các biến đổi của môi trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao
động có hiệu quả.
Tội cố ý gây thương tích là hành vi cố ý làm cho người khác bị thương,
xâm phạm vào tính mạng, sức khoẻ của con người được pháp luật Việt Nam
bảo hộ. Hành vi cố ý gây thương tích bị coi là tội phạm và tội phạm đó được
quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999. Theo Điều luật này thì tội
cố ý gây thương tích (CYGTT) được hiểu là hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác chính là hành vi cố ý như: đâm,
chém, đấm, đá, đầu độc...xâm hại đến sức khoẻ của con người làm cho người
đó bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ làm mất đi một phần hay toàn bộ sức
lực sẵn có của chính người đó, ảnh hưởng tới một phần hay nhiều bộ phận
trên cơ thể con người như bàn tay, bàn chân, thân thể, mặt... để lại những
9


trạng thái bất thường hay thương tật hoặc làm giảm đi một phần chức năng
hoạt động của một số bộ phận trên cơ thể khiến cho họ khó khăn trong hoạt
động hơn khi chưa có những thương tích nhất định. Xét về góc độ nào đó thì
hành vi này cũng giống hành vi của tội giết người, nhưng tính chất, mức độ
nguy hiểm thấp hơn nên nó chỉ làm cho nạn nhân bị thương hoặc bị tổn hại
đến sức khoẻ chứ không làm cho nạn nhân bị chết.
Hành vi của người phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác được thực hiện do lỗi cố ý, tức là người phạm tội nhận thức được
rõ hành vi của mình nhất định sẽ gây ra thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ cho
người khác nhưng vẫn ý thức để mặc cho hậu quả đó xẩy ra. Hậu quả của
hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là thương tích
hoặc tổn hại sức khoẻ cho nạn nhân. Thương tích ở đây là căn cứ có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự, xác định có tội
hay không có tội, thương tích đó phải được đánh giá một cách chính xác, cụ

thể thông qua hoạt động giám định của Hội đồng giám định y khoa. Hành vi
gây thương tích có thể được thực hiện với sự hỗ trợ của công cụ, phương tiện
hoặc dùng sự tác động bằng thực thể, và phải có thương tích trên thực tế thì
người thực hiện hành vi mới có khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hậu quả của tội phạm này là gây thương tích hoặc tổn thương đến sức khoẻ
cho người khác ở mức độ đáng kể theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự
năm 1999 là có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên hoặc dưới 11% và nó thuộc
một trong các trường hợp sau:
- Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều
người (điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS);
- Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân (điểm b khoản 1 Điều 104 BLHS);
- Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người
(điểm c khoản 1 Điều 104 BLHS);

10


- Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau
hoặc người khác không có khả năng tự vệ (điểm d khoản 1 Điều 104 BLHS);
- Phạm tội đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo
của mình (điểm đ khoản 1 Điều 104 BLHS);
- Phạm tội có tổ chức (điểm e khoản 1 Điều 104 BLHS);
- Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục (điểm g khoản 1 Điều 104 BLHS);
- Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê (điểm h khoản 1 Điều
104 BLHS);
- Phạm tội có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm (điểm i khoản 1
Điều 104 BLHS);
- Phạm tội để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của
nạn nhân (điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS).

- Tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người (khoản 3 Điều 104 BLHS).
Trường hợp này xét về mặt chủ quan thì người phạm tội chỉ muốn gây thương
tích, hoặc để mặc cho nạn nhân bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không
mong muốn cho nạn nhân chết. Khi thực hiện tội phạm, người phạm tội
không nhận thức được hoặc chưa nhận thức được có thể xẩy ra hậu quả chết
người. Trong trường hợp này, người phạm tội chỉ cố ý đối với việc gây
thương tích, không cố ý giết chết người.
Trên cơ sở các quan điểm trên cũng như các quy định của BLHS hiện
hành, tác giả đưa ra khái niệm về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác như sau: “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác là hành vi cố ý tác động trái pháp luật đến thân thể của người
khác làm cho người đó mất đi một phần hoặc toàn bộ sức lực, gây thiệt hại
cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể nhất định theo quy
định của Bộ luật Hình sự, do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện”.
11


1.2. Sự cần thiết và ý nghĩa việc quy định tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khoẻ cho người khác
Kể từ sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tình hình đất nước ta đã
có những thay đổi lớn về mọi mặt. Việc thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN mà nội dung cơ bản là ghi nhận
và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; chiến
lược hoàn thiện hệ thống pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp và chủ động
hội nhập quốc tế của Việt Nam đã mang lại những chuyển biến lớn, tích cực về
kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước. Bên cạnh đó, tình hình tội phạm
nhìn chung, vẫn diễn biến hết sức phức tạp với những phương thức, thủ đoạn
tinh vi, xảo quyệt. Số lượng tội phạm luôn có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng

hơn cả về quy mô và tính chất, nhất là tội phạm xâm phạm về tính mạng sức
khoẻ danh dự nhân phẩm con người. Điều này đã làm cho vấn đề về quyền con
người, về việc bảo vệ tính mạng sức khoẻ của con người càng trở nên quan
trong hơn bao giờ hết. Vì thế những quy định BLHS về quyền con người trở
nên bất cập không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn thể hiện ở một số điểm
chủ yếu như sau:
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta đã có những
bước phát triển quan trọng, từng bước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới và đã mang lại những lợi ích to lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều
vấn đề cần phải giải quyết, nhất là vấn đề về xâm phạm về tính mạng sức
khoẻ của con người. Trước đây, khi nền kinh tế nước ta còn đang ở thời kỳ
tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì
chưa thực sự phát huy tác dụng trong việc bảo vệ và thúc đẩy các nhân tố tích
cực của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển một cách lành
mạnh. Một số quy định của Bộ luật về tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ danh
dự nhân phẩm của con người chưa được quy định rõ ràng, chỉ mới được áp
12


dụng một cách chung chung nên công tác đấu tranh, ngăn ngừa tội phạm tỏ ra
không mấy hiệu quả.
Bên cạnh đó, nhằm thể thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng và
nhà nước về vấn đề con người và hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố
tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử
lý người phạm tội. Đồng thời, để có biện pháp ngăn chặn đối với những người
có hành vi coi thường tính mạng sức khoẻ con người thì càng phải xử lý
nghiêm khắc để làm gương cho người khác.
Đặc biệt, sự phát triển của Hiến pháp năm 2013 về việc ghi nhận và đảm
bảo thực hiện các quyền con người, quyền công dân đặt ra yêu cầu phải tiếp tục
đổi mới, hoàn thiện cả hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự với

tính cách là công cụ pháp lý quan trọng và sắc bén nhất trong việc bảo đảm và
bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Theo đó, thì BLHS cần
ghi nhận điều luật quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc xâm phạm đến
tính mạng sức khoẻ của người khác một cách cụ thể và rõ ràng hơn theo hướng
bảo đảm xử lý nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con người, quyền cơ bản
của công dân; mặt khác cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi theo hướng đề cao
hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; tạo
điều kiện thuận lợi để người bị kết án tái hòa nhập cộng đồng.
Kể từ khi chưa có quy định về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của người khác trong BLHS một cách cụ thể cho đến khi
BLHS năm 1985 của nước ta ra đời còn nhiều bất cập về mặt kỹ thuật lập
pháp, việc định tội, định khung cũng như cách thiết kế khung hình phạt cũng
như khoảng cách khung hình phạt tội phạm này nên ít nhiều đã có những bất
cập việc hướng dẫn thi hành và áp dụng loại tội này trên thực tế.Những hạn
chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm về tính mạng sức khoẻ của con người; chưa
thực sự tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hội
13


nhập quốc tế của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và
bảo đảm các quyền của người dân. Do đó, việc quy định tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là rất cần thiết và mang lại những
ý nghĩa nhất định sau:
Việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ cho
người khác trong bộ luật hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội.
Trên cơ sở của việc xác định đúng tội phạm, chính xác về hành vi của người
phạm tội, các cơ quan thực hành quyền công tố, cơ quan tiến hành tố tụng có
thể truy tố, đưa ra quyết định đúng đắn, chính xác, tương xứng với hành vi mà
người phạm tội đã thực hiện.

Trên cơ sở tội danh đã được quy định trong Bộ luật hình sự giúp các cơ
quan tiến hành tố tụng xác định đúng tội phạm, đảm bảo việc xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, loại trừ việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
kết án oan sai, vô căn cứ đối với những người có hành vi không nguy hiểm cho
xã hội, không trái pháp luật hình sự và tạo tiền đề pháp lý cho việc quyết định
hình phạt công bằng đối với những người phạm tội.
Dựa vào quy định của Bộ luật hình sự để làm cơ sở áp dụng chính xác các
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thời hạn điều tra, việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn, đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo và việc ra các quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng đảm
bảo có căn cứ và đúng pháp luật, sẽ góp phần đắc lực vào việc bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bên cạnh đó giúp các cơ quan Điều
tra, Viện kiểm sát, Toà án tuân thủ chính xác các quy định của đạo luật hình sự,
áp dụng điều, khoản, điểm của điều luật hoặc tổng hợp các điều luật bao quát
được hành vi phạm tội đã thực hiện. Xác định đúng chính xác và đầy đủ đạo
luật hình sự phản ánh được sự đánh giá pháp lý của Nhà nước đối với tội phạm
đã thực hiện

14


Trên cơ sở quy định của Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại sức khoẻ của người khác, khi xảy ra hành vi phạm tội thì cơ quan
tiến hành tố tụng dựa vào quy định của Luật hình sự để truy tố đúng người
đúng tội từ đó thể hiện hoạt động có hiệu quả, ý thức tuân thủ pháp luật triệt
để cũng như ý thức trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp của các cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, từ đó góp phần nâng cao uy tín,
chất lượng hoạt động của các cơ quan này cũng như hỗ trợ cho việc củng cố
và tăng cường pháp chế XHCN.
1.3. Những quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức

khoẻ cho người khác trong Luật hình sự một số nước trên thế giới
Nghiên cứu Bộ luật hình sự các nước Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa, Nhật Bản cho thấy rằng, Bộ luật hình sự các nước quy định khá
đầy đủ và chặt chẽ về các tội xâm phạm sức khỏe của con người. Qua quá
trình học tập kinh nghiệm của các quốc gia khác trong việc điều chỉnh hành vi
xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của con người được pháp
luật bảo hộ là điều cần thiết. Do đó, trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật
hình sự Việt Nam đã có thu những quy định tiến bộ, phù hợp cho phần các
quy định về nhóm tội xâm phạm sức khỏe của con người.
1.3.1. Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1979, sửa
đổi năm 1997
Tại Điều 14 của BLHS Trung Quốc (1997) đã định nghĩa tội phạm như
sau: Tất cả các hành vi gây nguy hiểm đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an
ninh của quốc gia, chia rẽ quốc gia, phá hoại quyền lực chính trị của chuyên
chính dân chủ nhân dân và lật đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa, phá hoại trật tự
kinh tế và xã hội; xâm phạm tài sản sở hữu của Nhà nước hoặc của tập thể
quần chúng lao động, xâm phạm tài sản của công dân; xâm phạm quyền cá
nhân, quyền dân chủ và các quyền khác của công dân; và các hành vi khác
gây nguy hiểm cho xã hội đều là tội phạm nếu theo luật những hành vi này
15


cần phải xử lý bằng hình sự. Tuy nhiên, nếu trong những hoàn cảnh rõ ràng là
nhỏ và thiệt hại của các hành vi gây ra là không lớn, thì những hành vì này
không bị coi là tội phạm.
Hiện nay, Trung Quốc cũng như hầu hết các nước trên thế giới không
đưa ra khái niệm tội phạm truyền thống và tội phạm phi truyền thống trong
bối cảnh toàn cầu hóa. Trái lại, các nước này đã đưa khái niệm về các vấn đề
an ninh truyền thống và vấn đề an ninh phi truyền thống trên cơ sở xem xét
đánh giá về lợi ích quốc gia, sự nguy hại đối với xã hội và quyền con người

trong bối cảnh các quốc gia, dân tộc trên thế giới có mục tiêu và các bước
phát triển chung về hiện đại hóa nền kinh tế; có chung động cơ thúc đẩy hội
nhập quốc tế và khu vực; và những yêu cầu về giải quyết các mối đe dọa về
an ninh phi truyền thống nói chung hay an ninh xã hội, an ninh môi trường, an
ninh con người nói riêng.
Cũng như ở Việt Nam, thì vấn đề về xâm phạm quyền con người, quyền
công dân luôn được nhà nước bảo hộ. và trong BLHS của nước này cũng
dành hẳn chương IV: Những tội ác xâm phạm quyền của người và các quyền
dân chủ của người dân. Trong đó tội CYGTT được quy định tại Điều 234 của
bộ luật này quy định như sau: Người nào cố ý gây thương tích cho người khác
phải bị kết án tù không quá ba năm, giam giữ hoặc kiểm soát.
Ai vi phạm ở khoản trên và gây thương tích nghiêm trọng cho người đó
phải bị kết án không dưới ba năm và không quá 10 năm tù định định; nếu ông
gây ra cái chết của một người hoặc gây ra sự biến dạng nghiêm trọng của
một người bằng cách gây thương tích nặng nề với các biện pháp tàn nhẫn đặc
biệt thì ông ta sẽ bị kết án tù không thời hạn dưới 10 năm, tù chung thân hoặc
chết. Trường hợp Luật này có các quy định khác thì xử lý theo quy định.
Tại Điều 235 cũng quy định: Người nào gây ra thương tích nghiêm
trọng cho người khác và gây thương tật nghiêm trọng thì bị phạt tù không quá

16


ba năm hoặc có thể bị tạm giam. Trường hợp luật này có các quy định khác,
các vấn đề sẽ được giải quyết theo các quy định đó.
Như vậy, so với quy về tội CYGTT của luật hình sự Việt Nam thì tội phạm
về CYGTT ở nước Trung Quốc chỉ quy định một cách chung chung về hành vi
gây thương tích, không quy định rõ ràng về mức độ thương tật, về độ tuổi....
Kết luận chương 1
Trong chương 1, luận văn đã tập trung làm sáng tỏ những vấn đề cơ

bản về khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong BLHS và làm rõ những quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác. Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm tác giả đã phân tích ý nghĩa của việc
quy định tội này trong pháp luật hình sự Việt Nam. Dựa trên quy định của
Pháp luật hình sự Việt nam về loại tội này tác giả đã nêu lên quy định về tội
này của một số nước trên thế giới, trên kết quả đó sẽ tạo dựng những cơ sở
làm tiền đề cho việc xem xét, đánh giá công tác áp dụng pháp luật điều chỉnh
tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trên địa bàn thành phố Vinh, Nghệ An.

17


Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TỘI CỐ Ý
GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHOẺ
CỦA NGƯỜI KHÁC
2.1. Quá trình phát triển của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của người khác trong luật hình sự Việt Nam
2.1.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trước cách mạng tháng
8 năm 1945
Sự hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam gắn liền với
nhu cầu quản lý xã hội bằng luật và sự quan tâm của chính quyền phong kiến
đối với vấn đề này, cùng với đó song song tồn tại các bộ luật lớn được pháp
điển hoá như Bộ Hình thư thời lý, Quốc triều hình luật thời Lê, Bộ Hoàng việt
luật lệ nhà Nguyễn và các văn bản pháp luật hình sự như Chiếu, Lệnh...Cùng
với sự đô hộ của thực dân Pháp trên bán đảo Đông Dương gần một thế kỷ đã
làm thay đổi sâu sắc pháp luật của Việt Nam về cả tính chất, nội dung và hình

thức. Bằng sự ban hành ba Bộ luật hình sự ở ba miền Bắc - Trung - Nam: ở
Nam Kỳ là Bộ hình luật tu chính năm 1902, Ở Bắc kỳ và Trung Kỳ ban hành
bộ luật Hình sự Bắc kỳ năm 1922, Bộ luật hình sự Trung kỳ năm 1933, người
pháp đã xác định lại giới hạn Luật hình sự trong phạm vi điều chỉnh quan hệ
nhà nước bảo hộ với người mà Nhà nước coi là đã thực hiện hành vi phạm tội.
Lúc đó án lệ chính thức xuất hiện và được coi là nguồn của Luật hình sự Việt
Nam, theo đó chưa có quy định cụ thể nào về tội CYGTT, mà các hành vi chủ
yếu liên quan đến loại tội này chưa được xác định rõ ràng mà chỉ dùng án lệ
để áp dụng chung chung.

18


2.1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ năm 1945 đến nay
a. Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật Hình sự năm 1985 có
hiệu lực thi hành
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đã khai sinh ra nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Do hoàn cảnh và điều kiện lịch sử Nước ta vừa trải qua
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp hao tốn cả sức người, sức của, chính
quyền nhân dân vừa mới thành lập còn non trẻ nên Nhà nước ta đã phải đối
mặt với vô vàn khó khăn… trước tình hình đó nhân dân ta phải tập trung chủ
yếu cho việc tái thiết lập đất nước và củng cố chính quyền cách mạng nên
chưa kịp thời xây dựng Bộ luật hình sự đúng nghĩa của nó và cũng chưa có
các văn bản pháp luật cụ thể để xử lý các tội xâm phạm về tính mạng, sức
khoẻ của con người. Vì vậy, sau ngày Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc
lập, Nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật hình sự để tạo cơ
sở pháp lý cho việc trấn áp tội phạm. Các đạo luật hình sự là một trong những
đạo luật đầu tiên cùng với các sắc lệnh như Sắc lệnh số 6-SL ngày 15/1/1946;

Sắc lệnh số 26-SL ngày 25/2/1946; Sắc lệnh số 27-SL ngày 28/2/1946; Sắc
lệnh số 68-SL ngày 18/6/1949... trên các lĩnh vực như trừng trị phản động, âm
mưu hành động phản quốc, quy định về trốn tránh nghĩa vụ, về phòng, chống
các tội phạm cụ thể như hành vi trộm cắp, bắt cóc, tống tiền, ám sát… tạo cơ
sở pháp lí cho việc trấn áp tội phạm, bảo vệ nhà nước non trẻ. Tuy nhiên,
trong tình hình cấp bách, các văn bản pháp luật nói chung cũng như các văn
bản pháp luật Hình sự nói riêng mới ban hành không đủ để điều chỉnh các
quan hệ xã hội đa dạng. Vì thế ngày 10/10/1945, Nhà nước đã ban hành sắc
lệnh số 47/SL tạm thời giữ lại các luật lệ cũ không mâu thuẫn với chế độ mới,
không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong

19


đó có Luật hình An Nam, Hoàng Việt Hình luật và Hình luật pháp tư chính.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn được giải phóng, chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành sắc luật số 03/SL/76 ngày
15/3/1976 quy định về tội phạm và hình phạt với 7 loại tội phạm, trong đó có
quy định về tội CYGTT. Tại điểm b điều 5 sắc luật số 03/SL/76 quy định:
“Phạm tội cố ý gây thương tích thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm, trường
hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm” [8]. Ngày 02/7/1976 Quốc hội
chính thức đổi tên nước ta thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
pháp luật được áp dụng chung cho cả nước. Do vậy, để giải quyết các vụ án
CYGTT, chúng ta chủ yếu áp dụng điểm b Điều 5 Sắc luật số 03-SL/76 nói
trên cho đến trước khi BLHS 1985 ra đời và đã sớm đi vào cuộc sống và phát
huy vai trò, tác dụng tích cực là công cụ sắc bén, hữu hiệu trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Từ năm 1986, đất nước ta tiến hành nhiệm vụ
đổi mới toàn diện, đưa kinh tế và xã hội thoát khỏi khủng hoảng, với sự quan
tâm của Nhà nước, nhằm phát huy hơn nữa vai trò pháp luật với tư cách là công
cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; góp phần

bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân thì quá trình pháp điển hoá Luật Hình sự ở Việt Nam được
đẩy mạnh và được đánh dấu bởi việc ban hành bộ luật hình sự năm 1985. Đây
là bộ luật đầu tiên của Nhà nước ta và đây là thời điểm đánh dấu bước chuyển
biến mang tính chất lịch sử, đánh dấu thời điểm quan trọng trong lịch sử lập
pháp hình sự Việt Nam. Với những quy định tương đối có hệ thống, toàn
diện về các nguyên tắc xử lý, chế định chung của chính sách hình sự, về tội
phạm và hình phạt cũng như việc hình sự hóa khá nhiều hành vi nguy hiểm cao
cho xã hội, BLHS 1985 một mặt đã thể hiện được tinh thần chủ động phòng
ngừa, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm, mặt khác tạo cơ sở pháp
lý góp phần nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, đặc biệt là tội

20


xâm phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người;
qua đó góp phần kiểm soát và kìm chế tình hình tội phạm, bảo đảm ổn định an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Trong BLHS 1985, tội CYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe
của người khác được quy định tại Chương II, Điều 109 bao gồm 4 khung hình
phạt và trong mỗi khung thì có mức hình phạt tương ứng với tính chất và mức
độ nguy hiểm của từng hành vi phạm tội, trong đó, mức cao nhất của hình
phạt đối với tội này là 20 năm tù.
b. Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong Bộ luật Hình sự năm 1985
Nhằm tăng cường kỷ cương, pháp luật và thực hiện đầy đủ toàn diện
chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, tại kỳ họp thứ 9 ngày
27/6/1985, Quốc hội khoá VII đã thông qua toàn văn Bộ luật hình sự năm
1985 (có hiệu lực kể từ ngày 01/1/1986). Đây là một bước ngoặt rất quan
trọng trong lịch sử pháp luật hình sự của nước ta.

BLHS năm 1985 là sự kết tinh thành tựu 40 năm hoạt động lập pháp của
chính quyền cách mạng, là bản tổng kết sâu sắc thực tiễn phòng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm của nước ta từ năm 1945 đến thời điểm bộ luật ban
hành. Bộ luật hình sự năm 1985 là bộ luật đầu tiên của Nhà nước chúng ta
dựa trên sự kế thừa và phát triển những thành tựu của pháp luật hình sự Việt
Nam đồng thời tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm lập pháp hình sự tiên
tiến của các nước trên thế giới thể hiện được bản chất nhân văn, nhân đạo sâu
sắc của xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở pháp lý có hiệu quả cho cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm. BLHS Việt Nam 1985 bao gồm 02 phần: phần chung
gồm 8 chương với 71 điều; phần các tội phạm gồm 12 chương với 209 điều.
Trong đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác được quy định cụ thể tại Điều 109, Chương II về các tội xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân hẩm của con người như sau:.
21


×