Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Chứng cứ trong điều tra vụ án về tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.18 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LẦM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THÙY DƯƠNG

CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN VỀ
TỘI CƯỚP TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
“•••“•

Mã số : 8 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS PHÙNG THẾ VẮC

HÀ NỘI, 2018


Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình khoa học nào khác
Tác giả luận văn
PHẠM THÙY DƯƠNG


Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THU THẬP, KIỂM TRA VÀ ĐÁNH GIÁ
CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI 56 DƯƠNG


1.1. Một số dự báo về các yếu tố tác động ảnh hưởng đến việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ
trong điều tra vụ án cướp tài sản

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, cũng như các BLHS trước đây, Tội cướp tài sản luôn là
một trong những tội nghiêm trọng nhất của Chương Các tội xâm phạm sở hữu và luôn được xếp ở vị trí đầu tiên
của Chương. Tội cướp tài sản là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng vì cùng một lúc xâm hại tới hai khách thể quan
trọng đó là tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự của con người và quyền sở hữu tài sản. Tính nguy hiểm của tội
phạm này còn được thể hiện ở việc các đối tượng phạm tội cướp tài sản có xu hướng phạm tội có tổ chức, manh
động, sử dụng các loại vũ khí và hoạt động gây án liên tục. Tội cướp tài sản đã và đang gây ra những thiệt hại
nghiêm trọng về người và tài sản, tác động xấu tới tình hình an ninh trật tự, tạo ra tâm lý hoang mang, lo sợ cho
cộng đồng dân cư, làm đảo lộn cuốc sống sinh hoạt và làm ăn của người dân.
Đấu tranh phòng, chống tội phạm cướp tài sản luôn là mối quan tâm lớn của cả hệ thống chính trị
và của toàn xã hội, đặc biệt là các cơ quan Tư pháp, gồm Cơ quan điều tra, VKS và Tòa án. Để đấu
tranh có hiệu quả với tội phạm này thì việc điều tra, khám phá, làm rõ hành vi phạm tội, người
thực hiện hành vi phạm tội và xử lý nghiêm minh, đúng tội, đúng pháp luật đối với người phạm tội
cướp tài sản có ý nghĩa vô cung to lớn. Tuy nhiên, để chứng minh một người phạm tội cướp tài sản
và buộc họ phải chịu hình phạt theo quy định tài Điều 168 BLHS năm 2015 sứa đổi, bổ sung năm
2017 thì việc dựa vào hệ thống chứng cứ để chứng minh có ý nghĩa quyết định. Điều 13 BLTTHS
năm 2015 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ


luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận
người bị buộc tội không có tội”. Điều đó có nghĩa là một người chỉ bị coi là có tội và
phải chịu hình phạt tương ứng khi đã có bản án kết tội có hiệu lực của Tòa án. Để có
được như vậy thì toàn bộ hoạt động của Cơ quan điều tra, VKS và Tòa án phải được
tiến hành đồng bộ mà thực chất là hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ.
Đây là nội dung cơ bản của việc áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự trong

giải quyết vụ án hay nói cách khác là một biện pháp đưa các quy phạm pháp luật vào
cuộc sống.
Nằm ở trung tâm các tỉnh đồng bằng sông Hồng, Hải Dương có một vị trí rất
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Là một đô thị
phát triển sớm ở đồng bằng Bắc bộ, Hải Dương là nơi có mật độ dân cư cao. Trên
địa bàn Tỉnh có nhiều trụ sở cơ quan Đảng, Nhà nước, các trường học của địa
phương và Trung ương. Hải Dương là một tỉnh khá năng động và có nhiều tiềm năng
nên có nhiều doanh nghiệp thuộc đủ mọi thành phần kinh tế đang hoạt động, đáng
chú ý là một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động trên địa bàn
tỉnh. Tình hình đó có quan hệ chặt chẽ tới diễn biến phức tạp về an ninh trật tự trên
địa bàn tỉnh. Đặc biệt, Hải Dương lại nằm trên trục giao thông quan trọng liên kết ba
trung tâm kinh tế - chính trị lớn là Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Điều này
càng cho thấy Hải Dương là một địa bàn phức tạp về an ninh trật tự, là một địa bàn
nhạy cảm đối với các băng nhóm tội phạm từ các tỉnh khác thâm nhập hoặc “lánh
nạn” mỗi khi có các chiến dịch truy quét tội phạm ở các địa phương lân cận. Hàng
năm trên địa bàn tỉnh Hải Dương xảy ra hàng trăm vụ phạm pháp hình sự [Bảng 2.1
- Phụ lục ] ; Trong số các vụ án hình sự được thống kê, tỉnh Hải Dương luôn có
thống kê riêng về các vụ án Cướp tài sản, điều đó thể hiện sự quan tâm đặc biệt của
Công an tỉnh Hải Dương với loại tội phạm này. Qua thống kê hàng năm, các tội
phạm Cướp tài sản chỉ chiếm tỉ lệ không lớn, trung bình chỉ khoảng 20 đến 30 vụ án
1 năm nhưng các vụ án Cướp tài sản luôn gây ra những hậu quả lớn cho địa phương,


các hành vi cướp thường làm cho người dân lo lắng, ảnh hưởng tới đời sống sinh
hoạt, học tập và làm việc của dân cứ trên địa bàn.
Theo báo cáo kết quả điều tra khám phá các vụ án hình sự của CQĐT Công
anh tỉnh Hải Dương, trong 5 năm từ năm 2013 đến năm 2017 đã phát hiện 3888 vụ
phạm pháp hình sự, đã điều tra làm rõ 3094 vụ đạt 80%. Đối với vụ án cướp tài sản,
có 143 được phát hiện, điều tra làm rõ 130 vụ với 255 bị can đạt tỉ lệ 91%. Trong
quá trình giải quyết các vụ án cướp tài sản, VKS đã trả lại 05 trường hợp để điều tra

bổ sung, chiếm 3,8% do chưa đủ chứng cứ chứng minh tội phạm. Có vụ án còn phải
gia hạn điều tra vì chưa thu thập đầy đủ chứng cứ. CQĐT đã đình chỉ điều tra 03 vụ
với 5 bị can. Những số liệu trên cho thấy cơ quan tiến hành tố tụng còn một số hạn
chế như không thu thập đầy đủ, kịp thời các loại chứng cứ, đôi khi còn vi phạm về
thủ tục thu thập chứng cứ, chưa đánh giá đúng giá trị của từng chứng cứ cũng như
mối liên hệ giữa các chứng cứ trong tổng thể các chứng cứ của vụ án cướp tài sản
xảy ra trên địa bàn. Những hạn chế này đã làm cho việc điều tra, khám phá các vụ án
cướp tài sản còn kéo dài, tỉ lệ điều tra phá án chưa cao. Như vậy việc nghiên cứu làm
sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ trong điều
tra các vụ án cướp tài sản trên địa bản tỉnh Hải Dương cũng như đánh giá thực trạng
hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án cướp tài sản
trên địa bàn tỉnh Hải Dương, từ đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng,
hiệu quả của hoạt động này trong tình hình hiện nay là một yêu cầu cấp thiết. Chính
vì vậy tội chọn đề tài: “Chứng cứ trong điều tra vụ án về tội cướp tài sản từ thực tiễn
tỉnh Hải Dương” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có các công trình khoa học nghiên cứu về việc thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ như sau: Luận án Tiến sĩ Luật học: “Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài
sản trên địa bàn Hà Nội” của tác giả Đỗ Kim Tuyến (2001); Luận án Tiến sĩ luật học:
“Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam


hiện nay” của tác giả Đỗ Văn Đương 2000 Luận văn Thạc sĩ Luật học “chứng cứ
trong các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ từ
thực tiễn tỉnh Cà Mau" của tác giả Huỳnh Minh Tính (2016) ; Luận văn Thạc sĩ Luật
học “Hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong điều tra tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác th o pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình hước” của tác giả Nguyễn Văn Chạm
(2017). Ngoài ra các nhà khoa học và một số tác giả cũng đã quan tâm đến một số
nội dung của quá trình chứng minh trong vụ án hình sự và đã đề cập đến trong một

số giáo trình, sách, tài liệu, tạp chí chuyên ngành như: Chứng cứ trong Luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội - 2005, do ThS. Nguyễn Văn Cừ chủ biên.
Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, Nsb Tư háp, Hà Nội - 2006, do TS.
Đỗ Văn Đương chủ biên. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Bộ môn Pháp
Luật - 2009, của Học viện An ninh nhân dân. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013, do P GS.TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ
biên. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2013, Trường Đại học Luật Hà Nội. Bình Luận khoa học BLHS tập 2, Nxb Lao
động, Hà Nội - 2012, do tác giả Đinh Văn Quế chủ biên. Bình luận khoa học
BLTTHS của nước CHXHCN Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Học viện Khoa học xã hội,
do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên. Các công trình nêu trên chủ yếu đi sâu nghiên
cứu về mặt lý luận quá trình chứng minh trong điều tra vụ án hình sự. Hiện nay chưa
có đề tài nào đi sâu nghiên cứu và đề xuất các giải pháp cụ thể về hoạt động thu
thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án cướp tài sản nói chung, từ
thực tiễn tỉnh Hải Dương nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của việc nghiên cứu là trên cơ sở sáng tỏ lý luận về chứng cứ và
hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án về tội cướp tài
sản, đánh giá hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều
tra vụ án cướp tài sản của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hải Dương, Luận văn đưa


ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh
giá chứng cứ trong điều tra vụ án cướp tài sản.
-

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: +
Nghiên cứu các vấn đề lý luận về Chứng cứ và hoạt động thu thập,

kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án về tội cướp tài sản;
+ Đánh giá thực tiễn thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án

về tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương
+ Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án về tội cướp tài sản trên địa bản tỉnh Hải
Dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng hoạt động thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án về tội cướp tài sản của Cơ quan Cảnh sát điều
tra Công an tỉnh Hải Dương trên cơ sở BLTTHS năm 2003, năm 2015 và những văn
bản pháp luật có liên quan.
- Phạm vi nghiên cứu: Về không gian là địa bàn tỉnh Hải Dương, về thời gian
từ năm 2013 đến 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về chính sách hình sự quan
điểm, đường lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội Cướp tài sản nói
riêng.
hương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể như:
hương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp, nghiên cứu thực tiễn, ví dụ
điển hình thông qua những hồ sơ vụ án, bản kết luận điều tra, bản án, quyết định,
báo cáo tổng kết của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hải Dương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa về khoa học cũng như thực
tiễn.


- Về khoa học: Luận văn góp tiếng nói khiêm tốn vào lý luận về thu thập,
kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án về tội cướp tài.
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu có thể được tham khảo trong hoạt động
lập pháp cũng như thực tiễn hoạt động điều tra các vụ án về tội cướp tài sản.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học
tập về tố tụng hình sự, điều tra tội phạm.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Nhận thức chung về chứng cứ trong điều tra vụ án về tội cướp tài
sản.
Chương 2: Thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án cướp
tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập, kiểm tra và đánh
giá chứng cứ trong điều tra vụ án cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA VỤ
ÁN VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
1.1.
Khái niệm, các thuộc tính của chứng cứ và phân loại chứng cứ
1.1.1.

Khái niệm chứng cứ

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có
thể ra các quyết định hoặc bản án dựa trên cơ sở các chứng cứ chứng minh về việc
phạm tội cũng như con người thực hiện tội phạm và những tình tiết có liên quan.
Việc tiến hành chứng minh làm rõ vụ án là quá trình nhận thức chân lý, sự việc phạm
tội đã xảy ra, bằng việc thu thập các tài liệu dùng làm căn cứ để khôi phục toàn bộ
diễn biến của vụ án đưa đến một nhận thức đúng đắn mang tính khách quan về sự
việc phạm tội và con người phạm tội.
Trên cơ sở lý luận về nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thì bất kỳ
tội phạm nào xảy ra chúng ta đều có thể phát hiện và chứng minh được. Vì vậy,
không thể có tội phạm không bị phát hiện, chỉ có điều chúng ta có chứng minh làm


rõ vụ án hay không. Về nguyên tắc, hoạt động của con người bao giờ cũng để lại dấu

vết trong thế giới khách quan, trong đó có hành động phạm tội. Những dấu vết của
hành vi phạm tội có thể được thể hiện dưới dạng vật chất như: dấu vết phạm tội, tồn
tại trên công cụ, phương tiện phạm tội, dấu vân tay của người phạm tội để lại trên
hiện trường, vết dao đâm của người phạm tội để lại trên nạn nhân... Hoặc được phản
ánh, ghi nhận trong trí nhớ của con người có thể là nạn nhân hay người khác. Thu
thập những dấu vết này một cách có hệ thống qua quá trình tiến hành tố tụng sẽ đưa
đến sự nhận thức đúng đắn bản chất của vụ án, dựng lại được toàn bộ diễn biến của
sự việc phạm tội.
Như vậy, chứng cứ là phương tiện duy nhất để chứng minh tội phạm, làm
rõ những tình tiết của vụ án. Chứng cứ được quy định trong Luật tố tụng
hình


sự, tùy vào bản chất giai cấp của mỗi nhà nước và trên cơ sở phương pháp luận nhận
thức khác nhau mà có những quy định khác nhau về chứng cứ.
Trên nền tảng của học thuyết duy vật biện chứng và thực tiễn cuộc đấu tranh
chống tội phạm ở Việt Nam, Điều 86 BLTTHS năm 2015 đã quy định về chứng cứ
như sau:
“Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ Luật
này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội,
người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải
quyết vụ án” [12. Tr.88, 89].
Khái niệm chứng cứ trong Luật TTHS Việt Nam phản ánh nội dung và hình
thức của chứng cứ. Về nội dung, chứng cứ là những gì có thật được dùng làm căn cứ
xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng
như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Về hình thức,
chứng cứ phải được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định. Chứng cứ
được phát hiện, thu thập nhằm mục đích chứng minh tội phạm và người thực hiện
hành vi phạm tội và làm rõ những tình tiết khác liên quan đến vụ án để giải quyết
đúng đắn vụ án hình sự.

1.1.2.

Các thuộc tính của chứng cứ

Chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự được sử dụng làm phương tiện duy nhất
để chứng minh tội phạm, làm rõ các tình tiết của vụ án. Cho nên, bất kỳ thông tin, tài
liệu nào chỉ được coi là chứng cứ trong vụ án hình sự khi đảm bảo đầy đủ ba thuộc
tính, đó là tính khách quan, tình liên quan và tính hợp pháp.
- Tính khách quan của chứng cứ
Thuộc tính khách quan của chứng cứ đòi hỏi chứng cứ phải là những gì có thật,
tồn tại khách quan độc lập với ý thức chủ quan của con người. Những gì có thật đó
phải phù hợp với các tình tiết của vụ án đã xảy ra. Trên cơ sở nhận thức đó những gì


là sản phẩm của sự suy đoán chủ quan, không xuất phát từ thực tế khách quan thì
không thể là căn cứ chứng minh đối với vụ án hình sự.
- Tính liên quan của chứng cứ
Tính liên quan của chứng cứ là sự thể hiện mối liên hệ khách quan của sự kiện
có thật với những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự, nghĩa là nó đòi
hỏi những gì có thật (sự việc, hiện tượng, dấu vết, tài liệu... ) phải liên quan đến
những vấn đề cần chứng minh đối với vụ án hình sự.
Như vậy, không phải bất kỳ cái gì có thật tồn tại trong thế giới khách quan đều
trở thành chứng cứ, mà chỉ những cái có thật, liên quan đến những vấn đề cần phải
chứng minh trong vụ án hình sự thì mới có thể trở thành chứng cứ.
Thuộc tính liên quan của chứng cứ không phải bao giờ cũng dễ nhận thấy, cũng
dễ xác định mà nhiều lúc rất khó xác định trong một khoảng thời gian nhất định. Do
đó trong công tác điều tra, truy tố, xét xử phải luôn luôn chủ ý thu thập các sự kiện
có thật một cách tỷ mỉ, rộng rãi để không bỏ sót mọi sự kiện có liên quan đến vụ án
nhưng cũng tránh tình trạng thu thập một cách tràn lan, tùy tiện, thu thập chứng cứ ở
một phạm vi quá rộng so với vụ án hoặc quá hẹp so với yêu cầu chứng minh của một

vụ án cụ thể.
- Tính hợp pháp của chứng cứ
Tính hợp pháp của chứng cứ được hiểu là những gì có thật, liên quan đến
những vấn đề cần chứng minh trong vụ án phải được ghi lại, phản ánh lại từ những
nguồn của chứng cứ và được thu thập bằng những biện pháp do BLTTHS quy định.
Nguồn chứng cứ là hình thức pháp lý mà trong đó chứa đựng những gì có thật,
có liên quan đến vụ án hình sự được dùng làm căn cứ để chứng minh tội phạm. Luật
tố tụng hình sự đã quy định những loại nguồn chứng cứ sau đây:
+ Vật chứng;
+ Lời khai, lời trình bày;
+ Dữ liệu điện tử;


+ Kết luận giám định, định giá tài sản;
+ Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;
+ Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác;
+ Các tài liệu, đồ vật khác.
Khoản 1, 2, 3 Điều 88 BLTTHS quy định:
“1. Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền
tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày
những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
2. Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào
chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ
trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân
cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
3. Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân
nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những
vấn đề có liên quan đến vụ án.” [12. Tr. 89,90].
Từ nội dung trên, thấy rằng chứng cứ ngoài việc phải được rút ra từ những loại

nguồn luật định mà còn phải được thu thập bằng những biện pháp được Luật tố tụng
hình sự quy định. Để thu thập chứng cứ, các cơ quan tiến hành Tố tụng có quyền áp
dụng các biện pháp thu thập sau đây:
+ Triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những
vấn đề liên quan đến vụ án;
+ Trưng cầu giám định;
+ Tiến hành khám xét (khám người, chỗ ở, nơi làm việc, khám đồ vật, thư tín,
bưu kiện, bưu phẩm th o quy định của pháp luật);
+ Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi;


+ Tiến hành các hoạt động điều tra khác (hỏi cung bị can, đối chất, nhận dạng,
thực nghiệm điều tra... theo quy định của pháp luật);
+ Yêu cầu các cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp tài liệu, trình bày những
tình tiết làm sáng tỏ vụ án;
Ngoài các cơ quan tiến hành Tố tụng có quyền áp dụng các biện pháp thu thập
chứng cứ thì những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá
nhân nào cũng đều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề có liên
quan đến vụ án. BLTTHS năm 2015 còn bổ sung quyền tự thu thập chứng cứ của
người bào chữa, cho phép người bào chữa có cơ sở pháp lý để tự mình thu thập
chứng cứ hoặc đề nghị các cơ quan khác thu thập chứng cứ.
Chứng cứ phải được phát hiện, thu thập bởi những người có thẩm quyền do
Luật tố tụng hình sự quy định. Để bảo đảm việc áp dụng các biện pháp thu thập
chứng cứ được tốt, tránh sai sót, BLTTHS đã quy định trình tự, thủ tục phải tiến hành
để đảm bảo tính khách quan và giá trị chứng minh của chứng cứ, cũng như cấm
những việc làm sai trái có thể ảnh hưởng đến giá trị chứng minh của chứng cứ đồng
thời nhằm hạn chế tối đa sự lạm quyền của người tiến hành tố tụng.
Mặt khác, để giúp cho việc kết luận bản chất vụ án được đúng đắn, khách quan
BLTTHS còn quy định chứng cứ phải được kiểm tra, đánh giá th o đúng quy định
của pháp luật nhằm kết luận về tính xác thực và giá trị chứng minh của chứng cứ.

Điều 108 BLTTHS quy định về kiểm tra, đánh giá chứng cứ:
“1. Môi chứng cứ phải được kiểm tra, đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác
thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định những chứng cứ thu thập được phải bảo
đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự.
2. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình phải kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ đã
thu thập được về vụ án.” [12. Tr. 100].


Đã là chứng cứ thì bao giờ cũng tồn tại trong nó các thuộc tính: tính khách
quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Những thuộc tính này không tách rời nhau mà
chúng có mối liên hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo
thành một chỉnh thể thống nhất, thiếu một trong những thuộc tính đó thì sẽ không có
chứng cứ. Song mỗi thuộc tính đều có một vị trí, vai trò của nó, có ảnh hưởng đến sự
hình thành của chứng cứ. Nếu một trong các thuộc tính của chứng cứ không tốt thì sẽ
ảnh hưởng đến giá trị của chứng cứ.
1.1.3.

Phân loại chứng cứ

Việc phân loại chứng cứ có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình chứng minh
vụ án; cho phép xác định đúng vị trí, hiệu lực và giá trị chứng minh của từng chứng
cứ trong toàn bộ hệ thống chứng cứ của vụ án. Dựa vào những căn cứ khác nhau,
Luật tố tụng hình sự phân chia thành nhiều loại chứng cứ, mỗi loại chứng cứ có
những đặc điểm riêng biệt.
- Chứng cứ gốc và chứng cứ sao lại, thuật lại
Căn cứ vào mối quan hệ giữa nguồn phản ánh và sự kiện có thật dùng làm căn
cứ để chứng minh mà chia thành chứng cứ gốc và chứng cứ sao lại, thuật lại.
Chứng cứ gốc là chứng cứ được ghi lại, phản ánh lại từ nguồn tài liệu gốc hoặc
từ một người trực tiếp biết sự việc mà không phải thông qua khâu trung gian. Chẳng

hạn: thu được khẩu súng kẻ phạm tội dùng để bắn nạn nhân ngay tại hiện trường xảy
ra vụ án; Hoặc công dân A nhìn thấy B dùng dao khống chế để cướp xe máy của một
người phụ nữ đi trên đường, A đã thuật lại sự việc mà mình biết với CQĐT, lời khai
của công dân A trước CQĐT tra là chứng cứ gốc.
Chứng cứ sao lại, thuật lại là những chứng cứ được ghi lại, phản ánh lại từ
nguồn tài liệu sao hoặc từ một người không trực tiếp chứng kiến sự việc xảy ra mà
nghe lời người khác kể lại. Chẳng hạn: A nhìn thấy B dùng dao đ dọa chị C để cướp
dây chuyền vàng, A kể lại chuyện đó cho D nghe và D đã đến trình bày với CQĐT về
sự việc mà A đã nhìn thấy, lời khai của D trong trường hợp này là chứng cứ thuật lại.


Cần phân biệt chứng cứ sao lại, thuật lại với việc sao chụp th o nghĩa cơ học, kỹ
thuật, chẳng hạn lời khai của người nhìn thất sự việc phạm tội trước CQĐT được ghi
vào biên bản. Cán bộ điều tra đã phô tô biên bản đó để lưu vào hồ sơ thì biên bản
được phô tô đó là chứng cứ gốc chứ không phải là chứng cứ sao lại.
- Chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp
Căn cứ vào mối quan hệ giữa chứng cứ với những vấn đề cần phải chứng minh
trong vụ án hình sự mà chia thành chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp.
Chứng cứ trực tiếp là những chứng cứ trực tiếp xác định được những tình tiết
thuộc đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự. Ví dụ: Một nhân chứng có mặt tại
nơi xảy ra vụ cướp tài sản của công dân, đã trình bày trước CQĐT diễn biến của vụ
cướp mà mình đã chứng kiến. Lời khai này của người làm chứng là chứng cứ trực
tiếp vì nó đã chứng minh có sự việc phạm tội đã xảy ra.
Chứng cứ gián tiếp là những chứng cứ không trực tiếp xác định được những
tình tiết thuộc đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự, nhưng khi kết hợp với các
sự kiện khác sẽ xác định được tình tiết nào đó thuộc đối tượng chứng minh. Ví dụ:
Khi khám nghiệm hiện trường vụ án giết người cướp tài sản, CQĐT thu được một
con dao dính máu. Một nhân chứng khai trước
CQĐT xác nhận con dao này là của X vì đã có lần mượn X con dao đó. Lời khai của
người làm chứng trong trường hợp này là chứng cứ gián tiếp.

- Chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội
Căn cứ vào kết quả chứng minh của chứng cứ mà chia thành chứng cứ buộc tội
và chứng cứ gỡ tội.
Chứng cứ buộc tội là những chứng cứ xác định có tội phạm xảy ra, một người
nào đó đã thực hiện tội phạm hoặc xác định những tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo.


Chứng cứ gỡ tội là những chứng cứ xác định không có sự việc phạm tội xảy ra,
một người nào đó không thực hiện tội phạm, hành vi không cấu thành tội phạm hoặc
xác định những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Hai loại chứng cứ này tuy đối lập nhau nhưng chúng đều xác định sự thật
khách quan của vụ án. Do vậy, trong quá trình chứng minh phải chú ý thu thập đầy
đủ cả hai loại chứng cứ này, nếu chỉ chú ý về một loại chứng cứ nào đó thì có thể dẫn
đến oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
1.2.

Đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản

1.2.1. Khái niệm, phân loại đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản
- Khái niệm: Đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản là tổng hợp
những sự kiện và tình tiết của vụ án phải được xác định, làm rõ bằng chứng cứ để
giải quyết đúng đắn vụ án cướp tài sản.
Điều 85 BLTTHS năm 2015 đã quy định về những sự kiện, tình tiết phải chứng
minh trong vụ án hình sự mà khi điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, các CQĐT,
VKS, Tòa án phải chứng minh được, bao gồm:
+ Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết
khác của hành vi phạm tội;
+ Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay
vô ý ; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;

+ Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và
đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
+ Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
+ Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
+ Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.


Những sự kiện, tình tiết trên là đối tượng chứng minh bắt buộc đối với tất cả
các vụ án hình sự nói chung và như vậy nó cũng chính là đối tượng chứng minh của
vụ án cướp tài sản mà cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh làm rõ.
Ngoài những tính tiết đó, tùy th o tính chất của từng vụ án cơ quan tiến hành tố
tụng phải chứng minh, làm rõ cả những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự. Chẳng hạn đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người
chưa thành niên, cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh một số vấn đề sau:
+ Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tâm thần, mức độ nhận thức về hành
vi phạm tội của người chưa thành niên
+ Điều kiện sinh sống và giáo dục;
+ Có hay không có người thành niên xúi giục.
- Phân loại đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản
Trong vụ án cướp tài sản có nhiều nội dung phải chứng minh khác nhau. Khoa
học pháp lý tố tụng hình sự phân loại đối tượng chứng minh thành ba nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất: Đối tượng chứng minh thuộc về bản chất của vụ án cướp tài
sản - Các yếu tố cấu thành tội Cướp tài sản. Muốn chứng minh được những vấn đề
thuộc về bản chất của vụ án cướp tài sản, chúng ta phải thu thập chứng cứ chứng
minh được những dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm Tội cướp tài sản được
quy định tại Điều 168 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), bao gồm: khách thể
của tội phạm; mặt khách quan của tội phạm; mặt chủ quan của tội phạm và chủ thể
của tội phạm.
Nhóm thứ hai: Đối tượng chứng minh có ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự và

hình phạt, bao gồm: Chứng minh những tình tiết dẫn đến miễn trách nhiệm hình sự,
quy định tại Điều 29 BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Chứng minh những
tình tiết dẫn đến miễn hình phạt, quy định tại Điều 59 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017 ) ; Chứng minh những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị
can, bị cáo quy định tại Điều 52 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 ) ;


Chứng minh những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo quy
định tại Điều 51 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Nhóm thứ ba: Đối tượng chứng minh là những tình tiết có ý nghĩa đối với việc
giải quyết đúng đắn vụ án cướp tài sản. Đây là nhóm đối tượng chứng minh không
thuộc yếu tố cấu thành tội phạm, không ảnh hưởng trực tiếp đến trách nhiệm hình sự
và hình phạt nhưng có ý nghĩa nhất định đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án. Đó
là những tình tiết có liên quan đến sự vô tư, khách quan của những người tiến hành
tố tụng và những người tham gia tố tụng, cũng như những tình tiết khác có ý nghĩa
đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án. Ví dụ như: mối quan hệ giữa người tiến hành
tố tụng với bị can, bị cáo hoặc giữa người làm chứng với người bị hại...
Đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản là hệ thống những vấn đề cần
phải chứng minh làm rõ, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Muốn xác định đúng đối
tượng chứng minh của vụ án này, cơ quan tiến hành tố tụng phải có cách tiếp cận
tổng thể đối với cả ba nhóm đối tượng chứng minh trên và vận dụng vào từng trường
hợp cụ thể cho phù hợp với quy định của pháp luật. Có xác định đúng đối tượng
chứng minh mới giúp cho công việc xác định hướng điều tra thu thập chứng cứ và từ
đó có cơ sở để kết luận đúng đắn về vụ án cướp tài sản.
1.2.2.

Các yếu tố cấu thành Tôi cướp tài sản (Điều 168 BLHS năm 2015 sủa

đổi, bổ sung năm 2017)
The o Điều 85 BLTTHS năm 2015 để làm rõ bản chất của vụ án cướp tài sản

thì cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập chứng cứ để chứng minh: Có hành vi
phạm tội cướp xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của
hành vi phạm tội Ai là người thực hiện hành vi phạm tội cướp; có lỗi hay không có
lỗi, do cố ý hay vô ý có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ
phạm tội. Đó là các dấu hiệu pháp lý trong cấu thành tội phạm Tội cướp tài sản được
quy định trong BLHS.
Khoản 1 Điều 168 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:


“Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi
khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm
chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm ”. [11. Tr. 125].
The o quy định của BLHS, Tội cướp tài sản có những dấu hiệu pháp lý sau:
- Khách thể của tội phạm
Hành vi cướp tài sản xâm phạm đồng thời hai quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ. Đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Bằng hành vi phạm tội của
mình, người phạm tội cướp tài sản xâm phạm trước hết đến thân thể, đến tự do của
con người để qua đó có thể xâm phạm được quan hệ sở hữu, nếu không xâm phạm
đến quan hệ nhân thân thì người phạm tội cướp tài sản không thể xâm phạm đến
quan hệ tài sản được. Nếu chỉ xâm hại một trong hai quan hệ xã hội này thì chưa
phản ánh đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi cướp tài sản. Do vậy, cả
hai quan hệ xã hội bị xâm hại đều được coi là khách thể trực tiếp của tội cướp tài
sản.
- Mặt khách quan của tội phạm
Th o quy định của điều luật, mặt khách quan của tội phạm gồm ba dạng hành vi
khách quan. Đó là: Hành vi dùng vũ lực ; Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc
Hành vi làm cho người bị tấn công lầm vào tình trạng không thể chống cự được.
+ Hành vi dùng vũ lực
Hành vi dùng vũ lực được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất (có hoặc
không có công cụ, phương tiện phạm tội tác động vào người khác nhằm đè bẹp hoặc

làm tê liệt sự chống cự của người này chống lại việc chiếm đoạt. Hành vi dùng vũ
lực trước hết phải là hành vi nhằm vào con người. Những hành vi không nhằm vào
con người đều không phải là hành vi dùng vũ lực theo quy định của điều luật. Người
bị tấn công ở đây có thể là chủ tài sản, người có trách nhiệm quản lý hay bảo vệ tài
sản nhưng cũng có thể là người bất kỳ mà người phạm tội cho rằng người này đã
hoặc có khả năng sẽ ngăn cản việc chiếm đoạt của mình. Hành vi dùng vũ lực trong


tội cướp tài sản phải ở mức độ có khả năng đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự,
nghĩa là có khả năng làm cho sự chống cự về mặt thực tế không xảy ra được hoặc
xảy ra nhưng không có kết quả hoặc làm cho người bị tấn công bị tê liệt về ý chí,
không dám kháng cự. Những hành vi dùng vũ lực có tính chất như vậy có thể là
đánh, chém, trói, nhốt...
Hành vi đ dọa dùng vũ lực ngay tức khắc
Đây là trường hợp người phạm tội bằng lời nói hoặc bằng cử chỉ (hoặc cả hai)
đe dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống cự lại việc chiếm đoạt. Vũ lực đ dọa
sẽ thực hiện có thể nhằm vào chính người bị đ dọa nhưng cũng có thể nhằm vào
người khác có quan hệ thân thuộc với người bị de dọa. Ở tội cướp tài sản, tính chất
của sự đe dọa, the o quy định của luật phải là đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc. Dấu
hiệu “ngay tức khắc” ở đây có ý nghĩa quan trọng để phân biệt hành vi đ dọa dùng
vũ lực ở tội cướp với hành vi đ dọa (sẽ ) dùng vũ lực ở tội cưỡng đoạt tài sản. Dấu
hiệu này vừa dùng để chỉ sự nhanh chóng về mặt thời gian (sẽ xảy ra ngay lập tức)
và vừa dùng để chỉ sự mãnh liệt của hành vi đ dọa. Hành vi đ dọa dùng vũ lực ở tội
cướp tài sản có tính chất mãnh liệt là làm cho người bị đ dọa thấy rằng vũ lực sẽ xảy
ra ngay, họ không hoặc khó có điều kiện tránh khỏi. Sự đe dọa đã làm ý chí của
người bị đe dọa tê liệt. Để đánh giá hành vi đe dọa dùng vũ lực có tính chất như vậy
hay không và qua đó khẳng định có phải là cướp tài sản hay không, cần dựa vào
những tình tiết sau: Nội dung và hình thức của hành vi đe dọa (dọa làm gì? Thái độ đ
dọa ra sao? Tương quan lực lượng giữa bên đ dọa và bên bị đ dọa; Hoàn cảnh không
gian và thời gian; Tình hình trật tự xã hội nơi và lúc xảy ra hành vi phạm tội ...

Dấu hiệu ngay tức khắc chỉ đòi hỏi người phạm tội đã có hành vi, cử chỉ, thái
độ thể hiện ra bên ngoài là sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc mà không đòi hỏi họ phải
thực sự có ý định sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc cũng như phải có đủ điều kiện để
dùng vũ lực ngay tức khắc. Như vậy, những trường hợp chỉ làm ra vẻ sẽ dùng vũ lực


ngay tức khắc nhưng không có ý định hoặc không có điều kiện dùng vũ lực ngay tức
khắc cũng bị coi là cướp tài sản. Ví dụ: Dùng súng giả dọa sẽ bắn chết ngay.
+ Hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được.
Hành vi ở dạng thứ ba này tuy không phải là vũ lực cũng như không phải là lời
đe dọa nhưng có khả năng như những hành vi đó - khả năng làm cho người bị tấn
công không thể ngăn cản được việc chiếm đoạt. Do vậy, những hành vi này được coi
là cùng tính chất như hành vi dùng vũ lực và hành vi đ dọa dùng vũ lực ngay tức
khắc. Chúng đều có khả năng đè bẹp hoặc làm tê liệt sự kháng cự. Hành vi đầu độc,
hành vi dùng thuốc gây mê là những ví dụ về dạng hành vi thứ ba này của tội cướp
tài sản.
+ Hậu quả của tội phạm
Đối với tội cướp tài sản, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành
tội phạm. Hậu quả của tội phạm chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt hoặc chỉ là tình
tiết để xem xét khi quyết định hình phạt.
- Mặt chủ quan của tội phạm
+ Lỗi của người phạm tội cướp tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành
vi phạm tội, người phạm tội biết mình có hành vi dùng vũ lực hoặc biết mình có
hành vi đ dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc biết mình có hành vi làm cho người bị
tấn công lâm vào tình trạng không thể kháng cự được. Người phạm tội mong muốn
hành vi đó đè bẹp hoặc làm tê liệt được sự chống cự của người bị tấn công, để có thể
thực hiện được mục đích chiếm đoạt tài sản.
+ Mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội cướp tài sản.
Việc thực hiện những hành vi khách quan trên chỉ trở thành hành vi phạm tội của tội

cướp tài sản nếu việc thực hiện những hành vi đó nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản.
Mục đích giữ tài sản vừa chiếm đoạt được cũng được coi là dạng đặc biệt của
mục đích chiếm đoạt. Như vậy, những hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, đ


dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hay hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình
trạng không thể chống cự được nhằm mục đích giữ tài sản vừa chiếm đoạt được cũng
bị coi là cấu thành tội cướp tài sản. Đây là trường hợp người phạm tội đã chiếm đoạt
được tài sản bằng thủ đoạn không phải là cướp như bằng thủ đoạn trộm cắp, cướp
giật... nhưng ngay sau đó đã bị phát hiện người phạm tội đã tấn công lại người ngăn
cản (bằng những thủ đoạn của tội cướp) nhằm giữ bằng được tài sản vừa chiếm đoạt
trước đó. Thực tiễn xét xử từ trước đến nay coi trường hợp này là trường hợp chuyển
hóa từ một số hình thức chiếm đoạt tài sản thành cướp tài sản.
- Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội cướp tài sản là chủ thể bình thường nên chỉ đòi hỏi có năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
Người phạm tội cướp tài sản phải là người từ đủ 14 tuổi trở lên và khi thực hiện
hành vi phạm tội không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình. Tội cướp tài
sản quy định tại Điều 168 BLHS là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng do cố ý nên th o quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội cướp tài sản.
1.3.

Thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án cướp tài sản

1.3.1. Khái niệm điều tra vụ án cướp tài sản
Điều tra vụ án hình sự nói chung và vụ án cướp tài sản nói riêng là quá trình áp
dụng pháp luật nhằm làm rõ sự thật khách quan toàn diện về vụ án cướp tài sản.

Trong giai đoạn điều tra, CQĐT tiến hành các hoạt động theo quy định của BLTTHS
để thu thập chứng cứ, bao gồm chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội,
chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng, chứng cứ xác định tình tiết giảm nhẹ trách


nhiệm hình sự của bị can cũng như những chứng cứ xác định các tình tiết khác của
vụ án.
Như vậy, điều tra vụ án cướp tài sản là quá trình CQĐT áp dụng các hoạt động
điều tra do BLTTHS quy định để thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ nhằm xác
định tội phạm và người phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết đúng đắn vụ án cướp
tài sản.
1.3.2.

Thu thập chứng cứ

Thu thập chứng cứ là tổng hợp các hoạt động phát hiện, ghi nhận, thu giữ và
bảo quản chứng cứ.
Để xác định tội phạm và người phạm tội là đối tượng chứng minh của vụ án
cướp tài sản cần phải thu thập chứng cứ, nghĩa là, trên cơ sở của pháp luật Tố tụng
hình sự, CQĐT phải vận dụng mọi biện pháp mà pháp luật quy định để phát hiện, ghi
nhận, thu giữ và bảo quản một hệ thống chứng cứ cần và đủ trong vụ án cướp tài sản.
Các hoạt động thu thập chứng cứ bao gồm: Phát hiện, ghi nhận, thu giữ bảo
quản chứng cứ.
- Phát hiện chứng cứ trong vụ án cướp tài sản là tìm ra những sự việc, hiện
tượng, dấu vết, tài liệu có ý nghĩa làm rõ đối tượng chứng minh của vụ án.
Để việc phát hiện chứng cứ được nhanh chóng và tập trung, tránh tràn lan, bỏ
sót trong hoạt động tố tụng phải luôn bám sát vào đối tượng chứng minh; phải căn cứ
vào tính chất và quy luật hoạt động của đối tượng đang điều tra và từ những dấu vết,
tài liệu đã thu thập được để nghiên cứu xem xét đề ra phương hướng, kế hoạch thu
thập chứng cứ. Quá trình thu thập chứng cứ có thể chia thành từng bước để tiến

hành, trong mỗi bước phải xuất phát từ thực tiễn để điều chỉnh phương hướng thu
thập cho sát; Phải biết chọn những vấn đề mấu chốt trọng tâm để tập trung lực lượng
thu thập. Việc phát hiện, thu thập chứng cứ phải được tiến hành khẩn trương, tỉ mỉ,
sâu sắc, phải chú ý đến mọi khía cạnh của vụ án.


- Ghi nhận, thu giữ chứng cứ là làm cho chứng cứ có đầy đủ các thuộc tính của
nó nhằm đảm bảo giá trị chứng minh và hiệu lực chứng minh.
CQĐT có quyền áp dụng các biện pháp của BLTTHS để phát hiện, ghi nhận,
thu giữ chứng cứ. Thông thường việc ghi nhận, thu giữ chứng cứ đi liền với việc phát
hiện chứng cứ, vì có phát hiện được thì mới tiến hành ghi nhận, thu giữ. Tuy nhiên
trong một số trường hợp thu thập chứng cứ chỉ là ghi nhận, thu giữ như những tài
liệu chứng cứ do các cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp... Việc ghi nhận chứng cứ
phải được thực hiện theo những thủ tục và dưới những hình thức nhất định do pháp
luật tố tụng hình sự quy định như: Lập biên bản khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, chụp ảnh, vẽ sơ
đồ hiện trường. Còn thu giữ chứng cứ nhằm mục đích sử dụng chúng vào việc chứng
minh trong vụ án cướp tài sản và được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu
nhằm bảo quản chứng cứ phục vụ cho công tác điều tra.
Khi tiến hành ghi nhận, thu giữ chứng cứ phải ghi chép đầy đủ, tỉ mỉ, chính xác
và phản ánh một cách trung thực những sự việc, hiện tượng, tình tiết, dấu vết, số liệu,
tài liệu...và cách thức thu thập nó vào biên bản hoặc vào các tài liệu khác, tránh việc
thất lạc, sai sự thật và giữ gìn lâu dài phục vụ cho công tác điều tra.
+ Đối với sự việc, hiện tượng phải ghi rõ đó là sự việc, hiện tượng gì, xảy ra ở
đâu, lúc nào, nguyên nhân của việc phát hiện sự việc, hiện tượng đó, diễn biến, hậu
quả tác hại xảy ra, ai biết việc đó, vì sao họ biết.
+ Đối với dấu vết phải ghi rõ dấu vết gì, thu ở đâu, hình dáng, kích thước, vị trí,
khoảng cách của dấu vết, ai là người phát hiện thu thập.
+ Đối với vật chứng phải ghi rõ vật gì, công cụ, phương tiện phạm tội hay đối
tượng của tội phạm, tiền bạc... đặc điểm của vật (hình dạng, số lượng, kích thước,

trọng lượng, màu sắc, mùi vị.) dấu vết lưu trên vật chứng, thời gian, địa điểm phát
hiện, thu giữ, ai là người phát hiện.


Ngoài những nội dung trên, cần ghi rõ cách phát hiện, thu thập, thời gian phát
hiện, người phát hiện. để khi nghiên cứu sử dụng dễ kiểm tra tính xác thực của
chứng cứ.
- Bảo quản chứng cứ là đảm bảo cho chứng cứ được nguyên vẹn như khi thu
giữ, không làm mất, làm hỏng, làm biến dạng hay sai lệch sự thật. Bảo quản chứng
cứ là bảo vệ các thuộc tính của chứng cứ, bảo vệ giá trị chứng minh, hiệu lực chứng
minh của chứng cứ. Vì vậy bảo quản chứng cứ là khâu quan trọng, tùy thuộc vào đặc
điểm của chứng cứ mà có cách bảo quản khác nhau cho phù hợp.
1.3.3.

Kiểm tra xác minh chứng cứ

Việc kiểm tra xác minh chứng cứ trước khi sử dụng là một nguyên tắc trong
hoạt động tố tụng hình sự.
- Ý nghĩa của việc kiểm trá xác minh chứng cứ:
Chứng cứ là phương tiện để chứng minh tội phạm và người phạm tội. Việc
chứng minh đó liên quan đến các quyền cơ bản của con người như: tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản. được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Do vậy,
chứng cứ được sử dụng để chứng minh phải đảm bảo tính chính xác, khách quan,
phản ánh trung thực các tình tiết diễn biến của vụ án đã xảy ra trong thực tế.
Chứng cứ là sự phản ánh thực tế khách quan thông qua ý thức chủ quan của
con người, mà con người không phải bao giờ cũng nhận thức đầy đủ về thực tế khách
quan. Do vậy nếu không kiểm tra, xác minh có thể mắc những sai lầm.
Tính chất của cuộc đấu tranh chống tội phạm rất phức tạp. Người phạm tội luôn
tìm mọi cách để trốn tránh pháp luật, dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để che
giấu hành vi phạm tội, đánh lạc hướng CQĐT như: làm giả hiện trường, giả chứng

cứ, tạo ra chứng cứ ngoại phạm... Vì vậy nếu không kiểm tra, xác minh thì rất dễ dẫn
đến sai lầm, để lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội.


×