Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nông nghiệp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ý nghĩa và định hướng vận dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.7 KB, 27 trang )

A. MỞ ĐẦU
Đi lên từ một nền sản xuất nhỏ, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu nên sản xuất
nông nghiệp có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc phát triển kinh tế và cải thiện
đời sống nhân dân ta. Ngay trong ngày đầu cách mạng Tháng Tám mới thành công,
trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: "Việt Nam là một
nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công
cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông
nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì
nước ta thịnh".
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh cho
rằng vai trò của sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa đối với sự thành bại của kháng
chiến “thực túc binh cường”. Ngay khi cuộc kháng chiến bắt đầu nổ ra, năm 1949
Người đã chỉ rõ: “Mặt trận kinh tế gồm có công nghệ, buôn bán, nông nghiệp.
Ngành nào cũng quan trọng cả. Nhưng lúc này quan trọng nhất là nông nghiệp vì
“có thực mới vực được đạo”. Có đủ cơm ăn, áo mặc cho bộ đội và nhân dân thì
kháng chiến mới mau thắng lợi, thống nhất và độc lập mới thành công”. Năm 1967,
Chủ tịch Hồ Chí Minh lại viết: “Quân và dân ta phải ăn no để đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược. Vì vậy, sản xuất lương thực và thực phẩm là rất quan trọng”. Chính vì
thế, Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp là một bộ phận trong
hệ thống tư tưởng kinh tế của Người. Những tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về
phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện; ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, thực
hiện công nghiệp hóa; phát triển kinh tế tập thể, xã hội hóa nông nghiệp, xây dựng
quan hệ sản xuất trong nông nghiệp là mẫu mực của sự vận dụng sáng tạo những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và những quy luật kinh tế khách quan
vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, không những có ý nghĩa thực tiễn to
lớn, mà còn là cơ sở lý luận vô cùng quan trọng đã và đang được các cấp bộ Đảng
và chính quyền vận dụng để xây dựng phát triển nền kinh tế nông nghiệp nước ta đi
lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa “Phải lấy nông nghiệp làm chính, nhưng phải
toàn diện, phải chú ý các mặt công nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng,
giao thông, kiến trúc, văn hóa, giáo dục, y tế… các ngành này phải lấy phục vụ
nông nghiệp làm trung tâm”. Nông thôn tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm thì


1


ngày càng giàu có. Nông thôn giàu có sẽ mua nhiều hàng hóa của công nghiệp sản
xuất ra. Đồng thời sẽ cung cấp đầy đủ lương thực, nguyên liệu cho công nghiệp và
thành thị. Như thế là nông thôn giàu có giúp cho công nghiệp phát triển”.
Nhận thức rõ được vai trò quan trọng của nông nghiệp trong thời kỳ quá độ
tôi chọn đề tài: “tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nông nghiệp trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ý nghĩa và định hướng vận dụng” làm đề
tài tiểu luận của mình.

2


B. NỘI DUNG
Chương I: Tư tưởng của Hồ Chí Minh về vai trò của nông nghiệp trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển nông nghiệp trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Việt Nam với hơn 80% dân số là nông dân, với truyền thống lúa nước mấy
nghìn năm, lại có tiềm năng lớn về đất đai, lao động, ngành nghề ở nông thôn… Nó
đã được Chủ Tịch Hồ Chí Minh khẳng định từ năm 1960, khi đất nước bước vào
thời kỳ xây dựng, phát triển kinh tế, Người đã khẳng định rằng: “Nước ta là một
nước nông nghiệp…muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải
lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính”. Người giải thích rõ: “Vì nông
nghiệp là nguồn cung cấp lương thực và nguyên liệu, đồng thời là nguồn xuất khẩu
quan trọng, nông thôn là thị trường tiêu thụ to nhất hiện nay, cho nên cần phải cải
tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tế
khác.Phải cải tạo và phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho việc công nghiệp
hóa nước nhà. Phải có một nền công nghiệp phát triển thì công nghiệp mới có thể

phát triển mạnh”.
Theo Chủ Tịch Hồ Chí Minh, cơ sở khoa học của chủ trương lấy nông
nghiệp làm khởi điểm, làm gốc, làm chính là bắt nguồn từ bản thân nông nghiệp có
vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội thể hiện ở chỗ:
Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm nuôi sống toàn xã hội. Lao
động nông nghiệp được coi là lao động tất yếu của xã hội. An toàn lương thực là
điều kiện tiền đề và cơ bản cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vì,
chân lý giản đơn như C.Mác đã chỉ rõ: con người ta trước hết phải có ăn, mặc, ở …
rồi mới nói đến làm chính trị, văn học nghệ thật, tôn giáo… khi nước Nga chuyển
sang thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới V.I Lênin đã đặc biệt nhấn mạnh
rằng: “vần đề lương thực là vấn đề cơ bản của công cuộc kiến thiết CNXH” và “cần
phải lấy lương thực làm khởi điểm, vì gốc rễ của tất cả những khó khăn chính là
chỗ đó”. Kế thừa quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin và bắt
nguồn từ yêu cầu, đặc điểm nước nhà, Chủ Tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “muốn
3


nâng cao đời sống của nhân dân thì trước hết phải giải quyết tốt vấn đề ăn, mặc,
ở… phải làm thế nào cho có đầy đủ lương thực. Mà lương thực là do nông nghiệp
sản xuất ra. Vì vậy, phát triển nông nghiệp là cực kỳ quan trọng”. Người còn nhấn
mạnh: “sản xuất lương thực là việc cần thiết nhất cho đời sống của nhân dân, là bộ
phận cực kỳ quan trọng trong kế hoạch kinh tế của nhà nước”.
Nông nghiệp, nông thôn cung cấp nguồn nguyên liệu và lực lượng lao động
cho sự phát triển công nghiệp. Sản xuất công nghiệp là đặc trưng cơ bản và là điều
kiện tái sản xuất mở rộng, hình thành nền sản xuất hiện đại. Nó chỉ thực hiện được
dựa trên những cơ sở do nông nghiệp tạo ra, nhất là cơ sở về nguồn nguyên liệu và
lực lượng lao động “đầu vào” của sản xuất công nghiệp, công nghiệp nước ta hiện
nay, chủ yếu là công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp… nên sự hoạt động và
phát triển của nó càng tuỳ thuộc lớn vào sự phát triển nông nghiệp, trong việc cung
cấp nguyên liệu và giải phóng sức lao động chuyển sang sản xuất công nghiệp, bổ

sung cho giai cấp công nhân, phát triển thành thị… Chính ý nghĩa đó mà Chủ Tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: “phải có một nền nông nghiệp phát triển thì công nghiệp
mới có thể phát triển mạnh”.
Nông nghiệp cung cấp nguồn hàng xuất khẩu, góp phần tích luỹ cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự nghiệp công nghiệp hóa, đưa nền kinh tế sản
xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn hiện đại ở nước ta hiện nay, đòi hỏi phải đẩy mạnh
xuất khẩu, để tạo điều kiện nhập khẩu máy móc, công nghệ tiên tiến, trang bị cho
các ngành sản xuất. Thực hiện yêu cầu đó, chủ yếu là nhờ phát triển sản xuất: nông,
lâm, ngư nghiệp. Đúng như Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “nông nghiệp phải
phát triển mạnh để cung cấp đủ nông sản, để xuất khẩu”.
Nông nghiệp, nông thôn là thị trường rộng lớn tiêu thụ hàng công nghiệp.
Thật vậy, nông nghiệp phát triển tạo ra nhu cầu và khả năng thanh toán về tiêu thụ
hàng công nghiệp như máy móc, công cụ, phân bón, thuốc trừ sâu, hàng công
nghiệp tiêu dùng… Từ đó tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển và đồng thời lại
thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Vế mối quan hệ biện chứng của sự phát triển công
nghiệp và nông nghiệp, V.I Lênin đã từng chỉ giáo rằng: “không thiết lập việc trao
đổi hàng hóa hay sản phẩm một cách có hệ thống giữa công nghiệp và nông nghiệp
thì không thể có được những mối quan hệ đúng đắn giữa giai cấp vô sản và nông
4


dân và không thể tạo ra được một hình thức liên minh kinh tế hoàn toàn vững chắc
giữa hai giai cấp đó trong giai đoạn quá độ từ CNTB lên CNXH”. Trong nền kinh
tế hàng hóa, thị trường, thương nghiệp là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển
của các ngành sản xuất, nhất là quan hệ thị trường giữa hai ngành kinh tế cơ bản là
công nghiệp và nông nghiệp, được Chủ Tịch Hồ Chí Minh coi là hai chân của nền
kinh tế. Chúng phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi
khỏe, đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Sự giúp đỡ
lẫn nhau ấy tất yếu thông qua việc tiêu thụ, trao đổi sản phẩm của nhau bằng quan
hệ buôn bán, thương nghiệp được Chủ Tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng. Người

nói: “trong nền kinh tế quốc dân có ba mặt quan trọng: nông nghiệp, công nghiệp,
thương nghiệp. Ba mặt đó quan hệ mật thiết với nhau, thương nghiệp đưa hàng đến
nông nghiệp – nông thôn phục vụ nông dân; thương nghiệp lại đưa nông sản,
nguyên liệu cho thành thị tiêu dùng. Nếu khâu thương nghiệp bị đứt thì không liên
kết được nông nghiệp với công nghiệp, không củng cố được công nông liên minh,
công tác thương nghiệp không chạy thì hoạt động nông nghiệp, công nghiệp sẽ bị
rời rạc”.
Phát triển nông nghiệp toàn diện và mở rộng ngành nghề ở nông thôn, không
chỉ nhằm khai thác, tận dụng các yếu tố sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời
sống người lao động… mà còn có tác dụng góp phần bảo vệ, giữ gìn và cải tạo môi
trường sinh thái, cũng như ảnh hưởng tích cực đến trạng thái tâm lý và thái độ của
con người đối với thiên nhiên và xã hội. Chủ Tịch Hồ Chí Minh còn chỉ thị cụ thể
rằng: “phải phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, tuỳ điều kiện của mỗi địa
phương mà trồng nhiều lúa và nhiều hoa màu… phải đẩy mạnh ngành chăn nuôi,
nghề rừng và phát triển cây công nghiệp. Phải kết hợp chặt chẽ: công nghiệp địa
phương, thủ công nghiệp và nông nghiệp; sản xuất và chế biến, thương nghiệp và
giao thông”
Mặt khác, ưu tiên phát triển nông nghiệp còn có ý nghĩa về mặt chính trị - xã
hội, đó là thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, củng cố liên minh công nông,
tạo điều kiện nâng cao dân trí, văn hóa và đời sống chính trị, tinh thần trong xã hội.
Điều này đã được chủ tịch hồ chí minh giải thích rõ: “đa số dân ta là nông dân, mỗi
việc đều phải dựa vào nông dân, vai trò của nông dân là quân chủ lực của cách
5


mạng, là bạn đồng minh chủ yếu và tin cậy nhất của giai cấp công nhân, là lực
lượng cơ bản cùng với giai cấp công nhân xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế nông nghiệp
1.2.1. Phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp
Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn phát triển lực lượng sản xuất, nâng

cao năng suất lao động. Hồ Chí Minh đã nhiều lần đề cập đến việc sử dụng máy
móc trong sản xuất nông nghiệp. Để ứng dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông
nghiệp, công tác quy hoạch phải đi trước một bước. Chính vì thế Người đã đề cập
đến việc khoanh vùng nông nghiệp với đồng bào và cán bộ xã Đại Nghĩa (Hà
Đông): “nơi nào sản xuất lúa nhiều và tốt thì nơi đó sẽ thành vùng sản xuất lúa là
chính, nơi nào sản xuất chè nhiều và tốt thì nơi đó sẽ thành vùng sản xuất chè là
chính. Làm được như vậy thì sau này dùng máy móc cũng dễ và tiện”.
Về mặt chiến lược lâu dài phải phát triển công nghiệp để tạo ra máy móc,
phân hóa học, thuốc trừ sâu, hàng tiêu dùng thiết yếu để phục vụ nông nghiệp, nông
dân và nông thôn. Đời sống của nhân dân chỉ có thể thật dồi dào khi chúng ta dùng
máy móc để sản xuất một cách rộng rãi, cả trong nông nghiệp và trong công
nghiệp. Máy sẽ chắp thêm cánh tay cho con người, làm cho sức người tăng... Muốn
có nhiều máy móc thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, gang,
thép, dầu...
Phát triển nguồn nhân lực cho sản xuất nông nghiệp. Trong đào tạo nhân lực
cho nông thôn thì trước hết Người chú trọng tới đào tạo tri thức cho đội ngũ cán bộ.
Theo Người: Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Và để
đào tạo cán bộ nông thôn và hợp tác xã thì phải: đào tạo cán bộ tại chỗ; đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, xã viên hợp tác xã phải đáp ứng với những đòi hỏi của thực tế KT –
XH; thay đổi phương pháp dạy học; có nhiều loại trường lớp để đào tạo cán bộ xã
viên hợp tác xã; có hình thức hỗ trợ cho việc đào tạo cán bộ, xã viên hợp tác xã.
1.2.2. Xây dựng quan hệ sản xuất trong sản xuất nông nghiệp
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945-1954, do yêu cầu của
cách mạng cần phải đoàn kết rộng rãi các giai cấp, tầng lớp yêu nước, chưa thể thực
hiện việc xóa bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, Hồ Chủ Tịch chủ trương thực hiện
6


giảm tô, giảm tức để giảm bớt gánh nặng cho nông dân nghèo, tạo điều kiện xây
dựng và phát triển các hình thức sản xuất tập thể.

Khi thắng lợi của cuộc kháng chiến đã đến gần Hồ Chủ Tịch đã chủ trương
thực hiện cải cách ruộng đất. Trong “Báo cáo trước Hội nghị lần thứ tư BCH TW
Đảng khóa 2” Bác nêu rõ: “Cải cách ruộng đất sẽ giúp ta giải quyết nhiều vấn đề:
Về quân sự, nông dân sẽ càng hăng hái tham gia bộ đội, để giữ làng giữ
nước, giữ ruộng đất của mình. Đồng thời cải cách ruộng đất sẽ có ảnh hưởng to lớn
giúp làm tan rã nguỵ quân.
Về kinh tế - tài chính, nông dân đủ ăn đủ mặc, tăng gia sản xuất được nhiều,
thì nông nghiệp sẽ phát triển. Họ có tiền mua hàng hoá, thì thủ công nghiệp, thương
nghiệp và công nghiệp của giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc, cũng như công
thương nghiệp quốc doanh sẽ được phát triển. Nông dân hăng hái đóng thuế nông
nghiệp thì tài chính của Nhà nước được dồi dào.
Về mặt sở hữu tư liệu sản xuất trong nông nghiệp: chủ yếu là sở hữu tập thể
của nông dân dưới hình thức hợp tác xã; một số ít là sở hữu riêng lẻ của nông dân.
Về mặt phân phối, Người khẳng định phải lấy phân phối theo lao động là chủ yếu,
đồng thời chú ý đến phúc lợi xã hội để bảo đảm sự công bằng, hợp lý, tránh hiện
tượng bình quân chủ nghĩa.
1.2.3. Hình thành, phát triển cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp
Đi lên từ một nền sản xuất nhỏ, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu nên sản xuất
nông nghiệp có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc phát triển kinh tế và cải thiện
đời sống nhân dân ta. Ngay trong ngày đầu cách mạng Tháng Tám mới thành công,
trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: "Việt Nam là một
nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công
cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông
nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì
nước ta thịnh".
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh cho
rằng vai trò của sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa đối với sự thành bại của kháng
chiến “thực túc binh cường”. Ngay khi cuộc kháng chiến bắt đầu nổ ra, năm 1949
7



Người đã chỉ rõ: “Mặt trận kinh tế gồm có công nghệ, buôn bán, nông nghiệp.
Ngành nào cũng quan trọng cả. Nhưng lúc này quan trọng nhất là nông nghiệp vì
“có thực mới vực được đạo”. Có đủ cơm ăn, áo mặc cho bộ đội và nhân dân thì
kháng chiến mới mau thắng lợi, thống nhất và độc lập mới thành công”.
Do đó, vấn đề hình thành, phát triển cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp là phải
phát triển một nền nông nghiệp toàn diện. Theo tư tưởng HCM, một nền nông
nghiệp toàn diện là:
- Đó là một nền nông nghiệp có ngành trồng trọt phát triển.
- Nền nông nghiệp toàn diện còn bao gồm ngành chăn nuôi phát triển.
- Nền nông nghiệp toàn diện còn có việc phát triển lâm nghiệp, trồng cây,
gây rừng, khai thác lâm thổ sản.
- Nền nông nghiệp toàn diện còn phải đặt trong mối quan hệ với phát triển
ngành ngư nghiệp và các ngành kinh tế gắn liền với biển.
- Nền nông nghiệp toàn diện ngoài nông lâm ngư nghiệp còn có nghề phụ gia đình.
1.2.4. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế –xã hội trong nông nghiệp
Trong nông nghiệp, khi bàn về xây dựng kết cấu hạ tầng, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh vào những điểm sau:
Đối với nền nông nghiệp lúa nước, muốn nông nghiệp phát triển phải đẩy
mạnh công tác thủy lợi. Người kiên trì nhắc nhở động viên nông dân làm thủy lợi
và vạch ra cách làm: Làm thủy lợi cần phải kết hợp công trình lớn với công trình
vừa và công trình nhỏ; cần phải kết hợp việc giữ nước với việc dẫn nước và tháo
nước và sử dụng tiết kiệm, không lãng phí, hợp lý. Người cũng hết sức quan tâm
đến việc chống hạn, chống bão lũ, củng cố đê điều.
Không chỉ chú trọng đến kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp, HCM còn đặc biệt
chú trọng đến kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội trong nông thôn mà mục đích là xây
dựng nông thôn mới: căn dặn nhân dân thực hiện nếp sống văn hóa mới; xây dựng
trường học, đào tạo cán bộ, đào tạo ngành nghề, xây dựng hệ thống đường giao thông
nông thôn, hệ thống chuyển tải và cung cấp điện cho nông nghiệp, nông dân...
8



1.2.5. Vai trò của Nhà nước và hợp tác xã đối với phát triển nông nghiệp
Vấn đề Hợp tác xã mà Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn đến rất nhiều, thực chất là
vấn đề cách mạng trong lĩnh vực tổ chức sản xuất của các tầng lớp nhân dân lao
động trong xã hội. Nó không chỉ là cách mạng ngay trong khi công cuộc giải phóng
dân tộc chưa hoàn thành, sau khi đã giành thắng lợi mà cả hiện nay trong sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế hiện nay.Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền
kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính
phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp phần lớn. Nông dân ta
giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh. Nông dân muốn giàu,
nông nghiệp muốn thịnh thì cần có hợp tác xã”.
Về mục đích của hợp tác xã, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hợp tác xã
trước là có lợi cho dân, sau là bớt sức bóp nặn của tụi tư bản và đế quốc chủ
nghĩa”. Sau này Người nhấn mạnh một lần nữa về mục đích của việc tổ chức hợp
tác xã: “Chúng ta nhất định phải nâng cao dần đời sống của đồng bào nông dân.
Nhưng nếu nông dân cứ làm ăn riêng lẻ thì đời sống không thể nâng cao. Muốn
nâng cao đời sống thì chỉ có một cách là tổ chức nông dân làm ăn tập thể tức là tổ
chức nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp. Tổ chức hợp tác xã tốt thì mới có thể
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, do đó mà nâng cao dần đời sống vật chất và
văn hóa của nông dân, và củng cố khối liên minh công nông”.
Về cơ sở lý luận cho sự cần thiết đối với hợp tác xã, xuất phát từ tình hình
dân trí và trình độ sản xuất khi ấy còn rất thấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra một
cách đơn giản, mộc mạc, ngắn gọn để mọi người cùng hiểu: “một cây làm chẳng
nên non, nhiều cây nhóm lại thành hòn núi cao”. Lý luận hợp tác xã đều ở trong
những điều ấy. Theo Người, hợp tác là tất yếu, là nhu cầu tự thân của mỗi người
trong công cuộc lao động sản xuất để nuôi sống chính mình, góp phần phát triển xã
hội một cách hiệu quả hơn và tránh được sự bòn rút của tư sản. Rõ ràng, hợp tác xã
là liên minh tạo nên sức mạnh để phát triển.


9


Về chức năng của hợp tác xã, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ hai chức năng chính:
bảo đảm cho nông dân làm giàu và duy trì sự phát triển bền vững cho nông nghiệp.
Về loại hình hợp tác xã, căn cứ vào nhu cầu phát triển, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đưa ra một số loại hình hợp tác xã cơ bản: Hợp tác xã tín dụng, hợp tác xã
mua, hợp tác xã bán, hợp tác xã sản xuất. Ngày nay do tiến bộ của khoa học - công
nghệ, do nhu cầu cao của con người, do sự hội nhập ngày càng sâu của từng quốc
gia vào đời sống quốc tế trên nhiều lĩnh vực… nên nhu cầu liên doanh, liên kết ngày
càng cao. Do đó, loại hình hợp tác xã dưới nhiều dạng khác nhau đang được đặt ra một
cách khẩn thiết trong nội tại từng lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội. Các loại hình hợp tác xã, vì vậy sẽ ngày càng cần thiết và phong phú.
Về nguyên tắc tổ chức và quản lý hợp tác xã, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên
một hệ thống các nguyên tắc để bảo đảm cho quá trình xây dựng hợp tác xã diễn ra phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam và tuân thủ các quy luật vận động khách quan
trên mọi phương diện. Có thể nhắc lại 5 nguyên tắc cơ bản để xây dựng hợp tác xã mà
Người đã chỉ ra và cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị: tự nguyện, tuần tự, bình đẳng,
cùng có lợi, thiết thực, dân chủ, phải có sự lãnh đạo, tổ chức.

10


Chương II: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nông nghiệp
trong phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
2.1. Vai trò nền tảng của nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá đất nước
Tháng 9 nǎm 1960, khi nêu ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc đó có tên là Đảng
Lao động Việt Nam) khẳng định tính tất yếu khách quan công nghiệp hoá xã hội

chủ nghĩa ở nước ta. Đại hội nêu rõ: Muốn cải biến tình trạng nông nghiệp lạc hậu
hiện nay của nước ta, đưa nước ta từ chế độ sản xuất nhỏ là chủ yếu lên sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Đại hội III còn nhấn mạnh: "Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở nước ta"; mục đích của nhiệm vụ này" là nhằm
xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện cơ bản cho
chủ nghĩa xã hội thắng lợi".
Đại hội III cũng chỉ rõ rằng: "Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa không phải
chỉ là đơn thuần xây dựng công nghiệp hiện đại mà còn phải làm cho nông nghiệp
và các ngành kinh tế khác đều trở thành hiện đại. Trong nền kinh tế quốc dân, công
nghiệp và nông nghiệp là hai bộ phận chủ yếu có quan hệ mất thiết với nhau. Chỉ
có kết hợp chặt chẽ kinh tế công nghiệp và kinh tế nông nghiệp, giải quyết đúng
đắn quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, thì mới có thể xây dựng thành công
cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội".

11


Đại hội đã: Quyết định tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa,coi đó là
nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thấy rõ
quan hệ gắn bó giữa công nghiệp và nông nghiệp trong công nghiệp hoá, trong đó
nông nghiệp là cơ sở phát triển của công nghiệp. Quan niệm công nghiệp hoá
không chỉ là đơn thuần xây dựng công nghiệp hiện đại, mà còn là phải làm cho
nông nghiệp và các ngành kinh tế khác đều trở thành hiện đại.
Lần đầu tiên xây dựng đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trong khi trình
độ lý luận còn thấp,thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội chưa nhiều, kinh nghiệm
giải quyết quan hệ giữa phát triển công nghiệp và nông nghiệp chưa có, v.v.., đưa ra
được những điểm trong nội dung công nghiệp hoá như vậy là một thành công lớn
của Đảng ta ở Đại hội III.

Đất nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền nông
nghiệp lạc hậu; công nghiệp hết sức nhỏ bé, trong khi thành công và sức mạnh
công nghiệp hoá ở Liên Xô lúc bấy giờ đã được khẳng định; Trung Quốc cũng
tuyên bố tiến hành công nghiệp hoá ở Liên Xô lúc bấy giờ đã được khẳng định;
Trung Quốc cũng tuyên bố tiến hành công nghiệp hoá để cải tạo nền nông nghiệp
lạc hậu, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã trở thành hệ thống thế giới và đang ở vào
thời kỳ củng cố và phát triển mạnh mẽ với nhiều ưu việt có tính thuyết phục nhân
loại tiến bộ; v.v., trong điều kiện như vậy, chủ trương công nghiệp hoá của Đảng là
đúng đắn, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển tất yếu của nền kinh tế nước nhà, của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà, vừa phù hợp
với hoàn cảnh quốc tế lúc bầy giờ.
Nhưng do chúng ta quá nhấn mạnh phát triển công nghiệp nặng; chưa thấy
được cần ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp nặng quan trọng đáp ứng nhu
cầu bức thiết của sự phát triển kinh tế quốc dân và trực tiếp phục vụ nông nghiệp,
nên trong 20 nǎm sau đó, chẳng những công nghiệp đình đốn mà nông nghiệp cũng
phát triển rất chậm, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng.
Trên thực tế vai trò làm cơ sở cho sự phát triển công nghiệp của nông nghiệp không
được nhận thức đúng mức. Khắc phục tình trạng này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ V (3-1982) đưa ra chủ trương điều chỉnh việc xây dựng cơ cấu kinh tế, cơ cấu
đầu tư; kiên quyết đình hoãn những công trình chưa có điều kiện xây dựng hoặc
12


chưa cấp bách; tập trung phát triển nông nghiệp, coi phát triển nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp
nặng trong cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý. Sự điều chỉnh này về công nghiệp
hoá đã sửa chữa được sai lầm chủ quan, duy ý chí đã mắc phải; song rất tiếc mới
dừng lại ở nhận thức. Sau Đại hội V, việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư
đã không được thực hiện nghiêm chỉnh; công nghiệp hoá vẫn được tiến hành theo
hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng như đã làm trong hơn 20 nǎm trước, còn

ham xây dựng những công trình lớn; nông nghiệp chưa thực sự được coi là mặt trận
hàng đầu. Vì vậy, sản xuất nông nghiệp đang có bước phát triển đáng mừng nhờ tác
dụng tích cực của Chỉ thị 100 (Chỉ thị của BCH TƯ, 13-1-1981) đã chững lại rồi
giảm sút. Nông nghiệp lại rơi vào tình trạng khủng hoảng nặng hơn; tình tình lương
thực trở lại cǎng thẳng từ cuối nǎm 1984 đến nǎm 1988, kéo theo tình trạng sa sút
nghiêm trọng của công nghiệp, công nghiệp hoá đất nước không tiến triển được bao
nhiêu sau gần 30 nǎm tiến hành. Có trở lại quá trình nhận thức và thực hiện công
nghiệp hoá của Đảng ta trước đối mới, mới thấy hết được ý nghĩa sâu sắc quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò nền tảng của nông nghiệp trong quá
trình công nghiệp hoá đất nước. Cũng như toàn Đảng toàn dân ta, bước vào cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định tính tất yếu khách
quan của quá trình công nghiệp hoá trong cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm biến
nước ta thành một nước có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học và
kỹ thuật tiên tiến nhằm thực hiện mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống nhân
dân, trước hết là nhân dân lao động của chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đời
sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một
cách thật rộng rãi; dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong nông nghiệp ....
Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang,
thép, thay dầu... Đó là con đường phát triển của ta, con đường công nghiệp hoá
nước nhà".
Trên thực tế, khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã
hội, công nghiệp cũng như nông nghiệp đều rất nhỏ bé, lạc hậu. Nǎm 1960, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ tình trạng này: "Trong nông nghiệp thì sản xuất nhỏ chiếm đại bộ
phận, kỹ thuật canh tác vô cùng lạc hậu. Công nghiệp thì rất nhỏ bé và lẻ tẻ". Tình
13


trạng này sau 21 nǎm vẫn chưa cải thiện được bao nhiêu do miền Bắc phải tập
trung sức người sức của cho kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống
nhất nước nhà; còn miền Nam chỉ là nơi tiêu thụ hàng hoá của Mỹ, công nghiệp

không có gì đáng kể, nông nghiệp sản xuất nhỏ vẫn là chủ yếu. Do hậu quả của chế
độ cũ và của chiến tranh để lại, trong những nǎm đầu sống trong hoà bình, bao giờ
nhân dân lao động nước ta cũng phải đương đầu với những khó khǎn về cái ǎn,
thậm chí phải trải qua nạn đói không nhỏ như những nǎm 1955 - 1956. Vì vậy, coi
trọng phát triển công nghiệp, không thể không đồng thời coi trọng phát triển nông
nghiệp, tập trung giải quyết ván đề lương thực. Phát triển công nghiệp, sản xuất
lương thực đủ tiêu dùng, cả hai việc đó vừa là bức thiết, vừa là khách quan không
những đối với đời sống của nhân dân, mà còn đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Khẳng định công nghiệp và nông nghiệp quan hệ khǎng khít với nhau, hỗ trợ
cho nhau cùng phát triển, coi trọng phát triển công nghiệp, đồng thời phải coi trọng
phát triển cả nông nghiệp, v.v.; song, Hồ Chí Minh kiên trì nhắc nhở toàn Đảng
toàn dân rằng, nông nghiệp là cơ sở phát triển của công nghiệp hay nói cách khác,
nông nghiệp là nền tảng của quá trình công nghiệp hoá.
Ngay giữa nǎm 1955, khi miền Bắc mới hoàn toàn giải phóng, chuyển sang
giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đã khái quát vai trò của nông
nghiệp như sau: "Vì nước ta là nước nông nghiệp, mọi việc đều dựa vào nông
nghiệp". Ở đây có thể hiểu rằng, ở nước ta muốn phát triển các ngành kinh tế - xã
hội nói chung, tiến hành công nghiệp hoá nói riêng, thì trước hết phải dựa vào nông
nghiệp, nông thôn. Thực tiễn 3 nǎm khôi phục kinh tế và phát triển vǎn hoá 19551957 đã minh chứng tính đúng đắn của quan điểm Hồ Chí Minh. Trong 3 nǎm đầu
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Bắc vừa phải khắc phục hậu quả
chiến tranh, vừa phải xây dựng cơ sở bước đầu của chủ nghĩa xã hội. Kết quả là:
Nhờ xác định đúng khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp, nhất là sản xuất
lương thực, là nhiệm vụ trung tâm, quan trọng nhất nên cuối nǎm 1956 đã đẩy lùi
được nạn đói; cuối nǎm 1957 không những sản lượng lương thực và bình quân
lương thực đầu người đã vượt nǎm 1939 là nǎm kinh tế Việt Nam phát triển nhất
dưới thời thuộc Pháp, mà còn khôi phục nhanh chóng những cơ sở công nghiệp cũ
14



bị tàn phá trong chiến tranh và xây dựng mới nhiều công trình công nghiệp khác;
đồng thời giáo dục, y tế cũng phát triển mạnh mẽ chưa từng có so với trước đó. Thắng
lợi của sản xuất nông nghiệp cũng góp phần quan trọng vào việc ổn định tình hình chính
trị ở nông thôn do có những sai lầm khi tiến hành cải cách ruộng đất.
Về vai trò "cơ sở" hay nền tảng của nông nghiệp đối với quá trình công
nghiệp hoá, mà trực tiếp đối với sự phát triển của công nghiệp, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhiều lần nhấn mạnh để toàn Đảng, toàn dân hiểu rõ và quán triệt thực hiện.
Chẳng hạn, trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III ngày 19-7-1960, phát biểu
tại Đại hội đại biểu công đoàn tỉnh Thanh Hoá lần thứ 6, Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
"Nước ta là một nước nông nghiệp... Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh
tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính. Nếu không
phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở để phát triển công nghiệp vì nông nghiệp
cung cấp nguyên liệu, lương thực cho công nghiệp và tiêu thụ hàng hoá của công
nghiệp làm ra" 5. Trước đó, ngày 6 tháng 1 nǎm 1960, trong bài viết cho tạp chí
Những vấn đề hoà bình và chủ nghĩa xã hội (số ra tháng 2 nǎm 1960) nhân dịp kỷ
niệm 30 nǎm Ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Phải cải tạo và phát
triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hoá nước nhà. Phải có một
nền nước nông nghiệp phát triển thì công nghiệp mới có thể phát triển mạnh"61.
Đặc biệt, ngày 16-4-1962 phát biểu tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương khoá III Đảng Lao động Việt Nam - một Hội nghị quan trọng đối với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, công nghiệp hoá nói riêng, Hồ Chí
Minh đã vạch ra những luận điểm quan trọng nhưng rất cụ thể.
Trước hết, về những điều kiện để phát triển nông nghiệp, Hồ Chí Minh nói:
"Nước ta ở về xứ nóng, khí hậu tốt", cho phép chúng ta quanh nǎm trồng trọt, thu
hoạch bốn mùa, "như thế là thiên thời rất thuận lợi"; ruộng đất tuy ít, người lại
nhiều, nhưng có thể trồng xen, tǎng vụ, thì một mẫu đất có thể hoá hai; "như thế là
địa lợi rất tốt"; nông dân ta cần cù lao động, thực hiện tốt chính sách của Đảng và
Nhà nước, nếu được tổ chức chặt chẽ, đó là một lực lượng vô cùng to lớn; đào non
cũng trúc, lấp biển cũng bằng, "thế là điều kiện nhân hòa cũng rất thuận lợi". Người
coi đây là những điều kiện cơ bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chỉ

15


rõ rằng, điều quan trọng mà toàn Đảng, toàn dân ta cần phải làm, là ra sức kết hợp
và vận dụng thật khéo những điều kiện đó vào công cuộc xây dựng kinh tế.
2.2. Những kết quả đạt được của nông nghiệp sau 30 năm đổi mới
Những năm qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã có
những bước tiến quan trọng. Bộ mặt nông thôn thay đổi, nông nghiệp phát triển
theo hướng bền vững, hệ thống chính trị cơ sở khu vực nông thôn từng bước được
củng cố.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, giai đoạn 2011 – 2015, tốc độ tăng
GDP khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt bình quân 3,1%/năm; giá trị
sản xuất tăng bình quân 3,6%/năm, giá trị sản xuất tăng bình quân 3,6%/năm. Chất
lượng tăng trưởng được cải thiện, năm 2010 đến 2014, tỷ lệ giá trị gia tăng/giá trị
sản xuất nông, lâm, thủy sản tăng từ 57% lên 65%; năng suất lao động xã hội ngành
tăng 1,75 lần, giá trị sản phẩm thu được trên 1 ha đất trồng trọt tăng 1,45 lần, trên 1
ha mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng 1,71 lần. Ngành trồng trọt thực hiện chủ
trương tái cơ cấu, áp dụng các tiến bộ về giống và biện pháp kỹ thuật canh tác tiên
tiến, bền vững, duy trì được tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất trên 3,15%/năm
vượt chỉ tiêu đề ra là 2,83%, an ninh lương thực được đảm bảo, các cây công
nghiệp, cây ăn quả có lợi thế cạnh tranh tiếp tục phát triển. Ngành chăn nuôi triển
khai Đề án Tái cơ cấu ngành, hướng chủ yếu vào nâng cao năng suất, chất lượng
đàn vật nuôi. Trong thủy sản, hoạt động khai thác đang chuyển dần ra xa bờ, sử
dụng các phương tiện, máy móc hiện đại; diện tích nuôi trồng thủy sản tăng nhanh,
chuyển mạnh theo hướng thâm canh, phát triển đa loài, đa loại hình, đa phương
thức theo hướng thân thiện với môi trường. Nông nghiệp công nghệ cao trở thành
làn sóng mới Nông nghiệp công nghệ cao đã trở thành “làn sóng mới” trong lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp. Với tiềm lực về vốn, kinh nghiệm thương trường, các
doanh nghiệp lớn tập trung đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao đang tạo ra
những sản phẩm chất lượng được kiểm soát an toàn thực phẩm theo chuỗi, bước

đầu cạnh tranh được với hàng ngoại và hướng tới xuất khẩu. Thị trường hàng nông
sản trong nước ổn định, không có những biến động lớn gây bất ổn trên thị trường.
Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu lớn với 10 loại nông sản xuất khẩu đạt trên 1
tỷ USD/năm, riêng năm 2014 kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 30,5 tỷ
16


USD là dấu ấn tăng trưởng ngoạn mục của ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn
trong điều kiện thời tiết diễn biến phức tạp, thị trường xuất khẩu nông sản khó
khăn, sức mua giảm.
Tuy nhiên, bên cạnh những phát triển tiến bộ, nông nghiệp, nông thôn nước
ta vẫn là khu vực chậm phát triển, phát triển thiếu bền vững; đang còn không ít khó
khăn, như đầu tư cho nông, lâm nghiệp, thủy sản chưa tương xứng với vị trí, vai trò
của các ngành kinh tế này; mô hình tổ chức, quản lý sản xuất chưa ổn định, cơ cấu
kinh tế còn thuần nông, công nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển chưa tương
xứng, nên sức ép về việc làm ở nông thôn vẫn rất lớn, thị trường nông thôn yếu
kém tác động tiêu cực đến “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất nông nghiệp, một số
chính sách của Nhà nước lại chưa đủ mạnh để kích thích sản xuất nông nghiệp phát
triển, do đó, năng suất lao động, sức cạnh tranh của hàng nông sản thấp... Tất cả
những điều đó làm cho nông nghiệp, nông thôn có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với
công nghiệp, dịch vụ ở thành thị. Vì vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn vừa là đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, vừa là con đường ngắn
nhất để đưa nông nghiệp, nông thôn nước ta thoát khỏi tình trạng khó khăn hiện
nay để phát triển sản xuất hàng hóa, tăng năng suất lao động, cải thiện đời sống của
cư dân nông thôn.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta phải bảo
đảm những yêu cầu cơ bản: theo định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn phát triển lực
lượng sản xuất với củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở nông thôn, xây
dựng nông thôn mới; đặt trong chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh
tế quốc dân nói chung, bảo đảm lợi ích toàn diện của đất nước cả về kinh tế, xã hội,

an ninh quốc phòng, môi trường sinh thái; đặt trong xu thế chung là quốc tế hóa và
khu vực hóa nền kinh tế nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh của đất nước; kết
hợp hài hòa kinh nghiệm truyền thống với công nghệ, kỹ thuật hiện đại, tiên tiến
theo những bước đi phù hợp. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn hiện nay phải củng cố mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân,
nông thôn theo hướng: nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông
thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo
quy hoạch là căn bản, phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.
17


Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn, bảo đảm sự
hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó
khăn, nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với trình độ nông dân
của các nước tiên tiến trong khu vực, đủ bản lĩnh chính trị, năng lực làm chủ nông
thôn mới; xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền
vững, sản xuất hàng hóa lớn có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh
tranh cao, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; xây dựng nông thôn mới có kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản
xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo
quy hoạch, xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, dân trí được
nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự
lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ tạo tiền đề vật chất - kỹ thuật và kinh tế xã hội để cải biến nền kinh tế nông nghiệp còn kém phát triển thành nền kinh tế có
cơ cấu ngày càng hợp lý trên cơ sở lao động sử dụng máy móc và kỹ thuật, công
nghệ ngày càng tiên tiến. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo nền tảng, cơ sở vật
chất kỹ thuật cho việc xác lập, củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ
nghĩa và củng cố hệ thống chính trị, tăng cường an ninh quốc phòng ở khu vực
nông thôn...

2.3. Phương hướng, nhiệm vụ để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp theo tinh thần Văn kiện Đại hội XII
Đại hội VIII của Đảng (năm 1996), Đảng ta đã đề ra mục tiêu đến năm 2020
nước ta sẽ trở thành “Một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại”.
Tại Đại hội IX của Đảng (năm 2001), mục tiêu này được diễn đạt “mềm dẻo” hơn
là: “Đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại”. Đại hội X của Đảng (năm 2006), một lần nữa xác định: “Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức tạo nền tảng để đưa nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Đại hội XI
tiếp tục khẳng định “... tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
18


Tuy nhiên, như Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đánh giá: “Một số chỉ tiêu
kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu
để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
không đạt được.”. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có cả nguyên nhân khách
quan và chủ quan. Khách quan là do tác động của khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh; những diễn biến mới phức tạp của tình
hình thế giới và khu vực, tình hình căng thẳng do tranh chấp chủ quyền trên Biển
Đông; sự chống phá của các thế lực thù địch, v.v. Nguyên nhân chủ quan là cuối
nhiệm kỳ khóa X, kinh tế vẫn trên đà tăng trưởng, song một số khó khăn, hạn chế
và những yếu kém vốn có của nền kinh tế chưa được đánh giá và dự báo đầy đủ,
nên Đại hội XI đề ra một số chỉ tiêu, nhiệm vụ khá cao. Nhiều hạn chế, yếu kém
trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp và các
bộ, ngành chậm được khắc phục; chưa chú trọng đúng mức tháo gỡ khó khăn, hỗ
trợ doanh nghiệp; chưa quyết liệt trong việc tham mưu, chỉ đạo thực hiện một số
chủ trương, quan điểm phát triển đã được nêu trong Nghị quyết Đại hội XI; năng
lực dự báo còn hạn chế, cho nên một số chủ trương, chính sách, giải pháp đề ra

chưa phù hợp, v.v. Các nguyên nhân trên không thể khắc phục trong một sớm, một
chiều, nên vẫn đang là những vấn đề làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện các mục
tiêu kinh tế - xã hội trong nhiệm kỳ tới. Để khắc phục tình trạng đó, Báo cáo chính
trị tại Đại hội XII đã xác định, trong 5 năm tới, một trong những mục tiêu tổng quát
là phải “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh,
bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại”; với nhiệm vụ tổng quát là “…đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây
dựng nông thôn mới”
Và để thực hiện thành công mục tiêu, nhiệm vụ như vậy, phương hướng,
nhiệm vụ của phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn là xây dựng nền nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất
lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy
mạnh xuất khẩu.

19


Muốn vậy cần đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nông
nghiệp sinh thái phát triển toàn diện cả về nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng hiện
đại, bền vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy
ứng dụng sâu rộng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ
thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài;
nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân. Chú trọng đầu tư vùng trọng điểm sản
xuất nông nghiệp. Có chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất, thu hút
mạnh các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp; từng bước hình thành các tổ
hợp nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ công nghệ cao. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới và quá trình đô thị hóa một cách hợp lý,

nâng cao chất lượng dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thu hẹp khoảng
cách về phát triển giữa đô thị và nông thôn, tăng cường kết nối nông thôn - đô thị,
phối hợp các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn với phát triển công
nghiệp, dịch vụ và đô thị. Phát huy vai trò chủ thể của hộ nông dân và kinh tế hộ;
xác định vai trò hạt nhân của doanh nghiệp trong nông nghiệp, đẩy mạnh sắp xếp,
đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nông, lâm, ngư nghiệp
nhà nước; phát triển hợp tác xã kiểu mới và các hình thức hợp tác, liên kết đa dạng;
hình thành các vùng nguyên liệu gắn với chế biến và tiêu thụ.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng chỉ rõ: Quá trình phát triển nông nghiệp
và kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Đây là nhiệm vụ hết sức khó
khăn, bởi quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp những năm gần đây tuy đạt
những thành tựu đáng tự hào, nhưng kém bền vững, dễ bị tổn thương trước tác
động của thiên tai, dịch bệnh, diễn biến bất lợi của thị trường trong và ngoài nước.
Chất lượng, khả năng cạnh tranh, cũng như hiệu quả sản xuất của nhiều loại nông
sản còn thấp, hiệu quả chưa cao. Đổi mới mô hình tổ chức sản xuất còn nhiều bất
cập, chưa theo kịp yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa lớn; các hình thức hợp tác,
liên kết sản xuất phát triển chậm, hiệu quả chưa ổn định; kinh tế hộ nhỏ lẻ, ruộng
đất sản xuất manh mún, thậm chí ngày càng bộc lộ những hạn chế, yếu kém và trở
thành vật cản quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong khi cạnh
20


tranh quốc tế ngày càng gay gắt, nhất là trong bối cảnh ngành nông nghiệp đang hội
nhập ngày càng sâu, rộng với kinh tế thế giới; biến đổi khí hậu tác động ngày càng
rõ nét đang hằng ngày, hằng giờ ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và
đời sống dân sinh.
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai thực
hiện từ Đại hội XI của Đảng đạt thấp hơn mục tiêu đề ra. Hết năm 2015, cả nước
mới có khoảng 17% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong khi mục tiêu của Chương
trình là 20%. Mức độ thực hiện xây dựng nông thôn mới ở các địa phương, vùng

miền chưa đồng đều. Thu nhập và đời sống của nông dân mặc dù đã được cải thiện
nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với thu nhập của người dân ở đô thị; nhiều nơi tỷ lệ
nghèo vẫn còn cao; môi trường nhiều vùng nông thôn bị suy giảm. Mục tiêu của
Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020, là đến năm 2020, số xã
đạt chuẩn nông thôn mới phải là 50%; mỗi tỉnh, thành phố có ít nhất một huyện đạt
chuẩn nông thôn mới; tiêu chí mỗi xã trên cả nước bình quân đạt 15 tiêu chí, không
còn xã dưới năm tiêu chí; cơ bản hoàn thành các công trình thiết yếu đáp ứng yêu
cầu phát triển sản xuất và đời sống của dân cư nông thôn như giao thông, điện, nước
sinh hoạt, trường học, trạm y tế xã...
Vì vậy nhiệm vụ và giải pháp cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông
thôn mới trong giai đoạn 2016-2020 đã được chỉ rõ trong Văn kiện Đại hội XII, là
tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững,
xây dựng nông thôn mới và cải thiện đời sống của nông dân. Đẩy mạnh cơ cấu lại
nông nghiệp theo hướng xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao, hàng hóa lớn;
tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nâng cao chất lượng, hiệu quả và
sức cạnh tranh; bảo đảm phát triển bền vững, an ninh lương thực quốc gia và vệ sinh
an toàn thực phẩm. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng khu vực nông
nghiệp bình quân từ 2,5% đến 3,0%/năm.
Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, tập trung phát triển sản phẩm
có lợi thế so sánh, giá trị gia tăng cao, bảo đảm các tiêu chuẩn theo yêu cầu xuất
khẩu, có khả năng tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu. Bảo vệ và sử dụng
linh hoạt, hiệu quả đất trồng lúa. Khuyến khích tích tụ, tập trung ruộng đất, phát triển
các vùng sản xuất quy mô lớn với hình thức đa dạng, phù hợp quy hoạch và điều
21


kiện từng vùng, đặc điểm của từng sản phẩm. Coi bảo vệ và phát triển rừng là một
giải pháp quan trọng tạo việc làm và nâng cao thu nhập.
Tổ chức lại sản xuất, tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị. Gắn sản xuất với
chế biến, tiêu thụ nông sản trên cơ sở phát triển các hình thức hợp tác, liên kết đa

dạng giữa hộ gia đình với các tổ chức hợp tác và doanh nghiệp để nâng cao hiệu
quả sản xuất, kinh doanh, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia.
Khuyến khích liên kết giữa hộ nông dân sản xuất với tổ chức tín dụng, tổ chức khoa
học, công nghệ và doanh nghiệp. Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt
động của các công ty và các nông, lâm trường quốc doanh, góp phần thúc đẩy phát triển
nông, lâm nghiệp và hỗ trợ nông dân ở các vùng nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là hội nông dân và
các hiệp hội ngành hàng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Có cơ chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công
nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất và quản lý. Áp
dụng rộng rãi các loại giống mới và kỹ thuật nuôi trồng có năng suất, chất lượng, hiệu
quả cao và thích ứng biến đổi khí hậu. Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu sản
phẩm, nông dân ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.
Tập trung thực hiện hiệu quả Chương trình xây dựng nông thôn mới. Phấn
đấu đến năm 2020 có từ 40% đến 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Rà soát,
hoàn thiện cơ chế, chính sách và tiêu chí xây dựng nông thôn mới phù hợp đặc thù
từng vùng. Quy hoạch lại các điểm dân cư phân tán tại địa bàn miền núi, đồng bào
dân tộc thiểu số. Ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước, tín dụng ưu đãi và huy động
các nguồn lực ngoài nhà nước để đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội. Có chính
sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại và thu hút mạnh
doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, công nghiệp,
dịch vụ tại địa bàn nông thôn. Đồng thời, đẩy mạnh đào tạo nghề với các hình thức
đa dạng, phù hợp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn. Tập trung giải quyết tình
trạng du canh, du cư, di cư tự do.
Thực hiện tốt các chính sách phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội và nâng cao đời sống của người dân trên địa bàn nông thôn. Tập trung nâng
22



cao dân trí, chăm sóc sức khỏe, giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững, bảo đảm
an sinh xã hội, an ninh, trật tự và bảo vệ môi trường. Xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Giữ gìn và phát huy
truyền thống, tập quán tốt đẹp của làng quê Việt Nam.
Để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ được Đại hội XII của Đảng
đề ra, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn xác định mục tiêu chính trong
những năm tới là phát triển bền vững theo ba trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường:
Thực hiện tái cơ cấu, xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, giá trị gia tăng và hiệu
quả cao; xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sống của
dân cư nông thôn; Phát triển kết cấu hạ tầng, nâng cao năng lực phòng, chống,
giảm nhẹ thiên tai; bảo vệ và sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên và môi
trường bền vững.

23


C. KẾT LUẬN

Với vai trò đặc biệt quan trọng của nông nghiệp đối với đời sống cũng như
sự phát triển của công nghiệp, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Việt Nam có câu tục
ngữ "có thực mới vực được đạo", Trung Quốc cũng câu tục ngữ" dân dĩ thực vi
thiên" (dân lấy ǎn làm trời). Hai câu ấy rất đơn giản nhưng đúng lẽ. Vì vậy,
muốn nâng cao đời sống nhân dân thì trước hết phải giải quyết tốt vấn đề ǎn (rồi
đến vấn đề mặc và các vấn đề khác). Muốn giải quyết tốt vấn đề ǎn thì phải làm
thế nào cho có đủ lương thực, mà lương thực do nông nghiệp sản xuất ra. Bác
kết luận, "Vì vậy, phát triển nông nghiệp là việc cực kỳ quan trọng" xây dựng
chủ nghĩa xã hội phải xuất phát từ đặc điểm, từ hoàn cảnh cụ thể từ tiềm nǎng
thế mạnh sẵn có trong nền kinh tế truyền thống, chủ yếu và quan trọng nhất là
nền nông nghiệp, và từ lực lượng lao động hùng hậu, cần cù lao động là nông
dân. Điều đó hoàn toàn phù hợp với mục đích của chủ nghĩa xã hội là từng bước

nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động mà nông dân
chiếm tuyệt đại đa số, trong đó cơm no áo ấm luôn là yêu cầu hàng đầu, quan
trọng nhất .
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới. Trong những năm gần
đây, mặt trận nông nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhưng muốn
hoàn thành cơ bản sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta
cần phải cố gắng rất nhiều. Riêng về lĩnh vực nông nghiệp thì những tư tưởng
về kinh tế nói chung, tư tưởng về phát triển nông nghiệp và hợp tác xã nói riêng
24


mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dạy cách đây hơn bốn thập kỷ vẫn là những
bài học quý giá cho chúng ta tiếp tục nghiên cứu, vận dụng một cách thiết thực
và sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước ta hiện nay.

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng Lao động Việt Nam. Vǎn kiện
Đại hội, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam xuất bản, H, 1960.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1996.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Vǎn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành trung
ương khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 1998.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết của Bộ chính trị về một số vấn đề phát
triển nông nghiệp và nông thôn, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 1998.
5. Hồ Chí Minh: Bàn về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, H, 1962.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự
thật, H, 1987.
7. Đảng Cộng sản Việt nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị Quốc gia, H.2001.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung

ương khóa IX, NXB Chính trị Quốc gia, H.2002.
9. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb
Chính trị Quốc gia, H. 2016.

25


×