Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Định tội danh các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (949.93 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐOÀN THỊ THU THÚY

ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
TỪ THỰC TIẾN TỈNH HẢI DƢƠNG
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS ĐỖ ĐỨC HỒNG HÀ

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực.Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

ĐOÀN THỊ THU THÚY


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BCA


Bộ Công an

BLHS

Bộ luật Hình sư

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

BQP

Bộ Quốc phòng

BTP

Bộ Tư pháp

CTTP

Cấu thành tội phạm

Nxb

Nhà xuất bản

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao


TNHS

Trách nhiệm hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MUC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY ... 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của định tội danh các tội phạm về ma túy .............................. 7
1.2. Phân loại và ý nghĩa của việc định tội danh các tội phạm về ma túy........................... 9
1.3. Cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của định tội danh các tội phạm về ma túy ............ 14
1.4. Các giai đoạn định tội danh các tội phạm về ma túy .................................................. 25
1.5. Định tội danh các tội phạm về ma túy trong một số trường hợp đặc biệt.................. 28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ MA
TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG TỪ NĂM 2013 ĐẾN NĂM 2017 ... 35
2.1. Khái quát tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 2013
đến năm 2017 ........................................................................................................................ 35
2.2. Kết quả đạt được trong định tội danh các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh
Hải Dương............................................................................................................................. 36
2.3. Hạn chế vướng mắc trong định tội danh các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh
Hải Dương và nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc........................................................ 42
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ĐỊNH TỘI DANH ĐÚNG CÁC TỘI VỀ

MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG TRONG THỜI GIAN TỚI .... 61
3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự và tố tụng hình sự liên quan đến định tội danh các
tội phạm về ma túy ............................................................................................................... 61
3.2.Giải pháp khác đảm bảo định đúng tội danh đối với các tội phạm về ma túy .............. 70
KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 81


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1. Tình hình xét xử chung và các tội phạm về ma túy của Tòa án nhân dân hai
cấp tỉnh Hải Dương trong giai đoạn 05 năm (2013 - 2017) .......................... 36
Bảng 2. Tỷ lệ tình hình xét xử chung và tội phạm về ma túy của Tòa án nhân dân
hai cấp tỉnh Hải Dương trong giai đoạn 05 năm (2013 - 2017) .................. 37
Bảng 3: Tình hình xét xử sơ thẩm các tội phạm về ma túy của Tòa án nhân dân hai
cấp tỉnh Hải Dương từ năm (2013 - 2017) .................................................. 37
Bảng 4: Tội danh do các cơ quan tiến hành tố tụng xác định đối vớicác vụ án về
ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 2013-2017 ............................. 39
Bảng 5: Số liệu về tình hình thụ lý, giải quyết sơ thẩmcác vụ án về ma túy của Tòa
án hai cấp tỉnh Hải Dương (2013-2017) ..................................................... 40
Bảng 6: Số liệu thống kê giải quyết phúc thẩm các vụ án về ma túy của Tòa án
tỉnh Hải Dương (2013-2017) ...................................................................... 41


MỞ ĐẦU
1. Tình cấp thiết của đề tài
Hiến pháp Việt Nam quy định:“Người bị buộc tội được coi là không có tội
cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật...”. Như vậy, một người trở thành “người có tội” nhất
định phải có một bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Để ra một bản
án công bằng và đúng pháp luật đòi hỏi việc định tội danh, quyết định hình

phạtphải chính xác. Định tội danh là nội dung cơ bản của việc áp dụng pháp luật
hình sự trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, là một trong những biện pháp
đưa các quy phạm pháp luật hình sự vào cuộc sống. Trên cơ sở xác định người
phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của Bộ
luật Hình sự, cơ quan có thẩm quyền (Tòa án) sẽ quyết định một hình phạt phù
hợp đối với hành vi phạm tội đó. Vì thế, định đúng tội danh không những để quyết
định hình phạt đúng, mà còn phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt
chính xác, qua đó bảo vệ các quyền của con người, của công dân. Ngược lại, định
tội danh sai sẽ dẫn đến những hậu quả tiêu cực như: không bảo đảm được tính
công minh, tính có căn cứ và đúng pháp luật của hình phạt, truy cứu trách nhiệm
hình sự người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, thậm chí xâm phạm danh dự và nhân
phẩm, các quyền và tự do của công dân…, làm giảm uy tín và hiệu lực của các cơ
quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và
chống tội phạm.
Các tội phạm về ma túy là một chế định tội phạm không có gì mới trong
pháp luật hình sự của nước ta. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay tình hình loại tội
phạm này đang gia tăng nhanh chóng cả về số lượng cũng như mức độ. Thực tiễn
xét xử các vụ án hình sự cho thấy, hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh các tội phạm về ma túy. Bộ
luật Hình sự quy định các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, tuy vậy
những quy định này chỉ nêu lên các dấu hiệu đặc trưng cơ bản nhất của một cấu
thành tội phạm, trong khi trên thực tế tội phạm xảy ra lại vô cùng phức tạp và đa
dạng. Có nhiều trường các dấu hiệu của cấu thành tội phạm có những dấu hiệu

1


giống nhau nên thường dễ bị lúng túng gây nhiều tranh cãi và dẫn đến định tội
danh thiếu chính xác.
Tỉnh Hải Dương có vị trí địa lý nằm ở giữa 3 thành phố lớn là Hà Nội - Hải

Phòng - Quảng Ninh, mật độ dân cư đông. Bên cạnh sự phát triển về kinh tế xã hội
thì vấn đề tội phạm đặc biệt là tội phạm về ma túy cũng đang đang có chiều hướng
gia tăng, diễn biết phức tạp. Việc định tội danh các tội phạm về ma túy đang đặt ra
nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ những những đòi hỏi như vậy, học viên cho rằng, việc nghiên
cứu tình hình định tội danh của một nhóm tội phạm cụ thể, trên một địa bàn từ đó
khái quát những vấn đề có tính lý luận và đưa ra các kiến nghị khoa họcđối với
vấn đề nghiên cứu, là một trong những hướng đã được nhiều nhà khoa học và thực
tiễn áp dụng.
Với những lý do trên, học viên đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Định tội danh
các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” là đề tài luận văn thạc sỹ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc định tội danh các tội phạm về
ma túy đã được một số nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn tiến hành,
công bố trong nhiều công trình khoa học. Có một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc
sỹ, một số giáo trình giảng dạy, bài viết trên tạp chí và một số sách chuyên khảo
đã nghiên cứu về những vấn đề này. Cụ thể như sau:
- Nhóm thứ nhất - Hệ thống các giáo trình, sách chuyên khảo, sách tham
khảo liên quan đến vấn đề định tội danh các tội phạm về ma túy, có thể kể đến các
công trình sau: 1) GS.TS. Võ Khánh Vinh, Giáo trình Lý luận chung về Định tội
danh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2013; 2) GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Một số
vấn đề lý luận chung về định tội danh, Chương I - Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Phần các tội phạm), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003
và 2007; 3) GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Một số vấn đề lý luận chung về định tội
danh, Phần 2, Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; 4) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề lý
luận về định tội danh và hướng dẫn giải bài tập về định tội danh, Nxb. Đại học

2



Quốc gia Hà Nội, 1999; 5) ThS. Đoàn Tấn Minh, Phương pháp định tội danh và
hướng dẫn định tội danh đối với các tội phạm trong Bộ luật Hình sự hiện hành,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010; 6) PGS. TS. Lê Văn Đệ, Định tội danh và quyết
định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2005 v.v...
- Nhóm thứ hai - Hệ thống các luận văn, luận án tiến sĩ luật học: Luận án
tiến sĩ của Phạm Minh Tuyên: “Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma
túy trong Luật hình sự Việt Nam”, năm 2006; 2) Nguyễn Thanh Dung, Định tội
danh các tội phạm về ma túy, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2012; 3) Phan Thị Hồng Thắng, Định tội danh đối với tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2015.
- Nhóm thứ ba - Hệ thống các bài viết, đề tài khoa học, hiện nay, trên Tạp
chí Tòa án nhân dân và một số tạp chí khác cũng đăng nhưng chỉ mang tính chất
đơn lẻ và phân tích các dấu hiệu pháp lý giữa các tội phạm, cũng như định tội
danh đối với từng vụ án cụ thể, như: 1) Phan Anh Tuấn, Định tội danh trong
trường hợp một hành vi thỏa mãn dấu hiệu của nhiều cấu thành tội phạm, Tạp chí
Khoa học pháp lý, số 2/2001; 2) Nguyễn Thị Hợp, Pháp luật về xác định tội danh
và thực tiễn áp dụng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 15/2011; năm bài viết về “Định
tội danh - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Tạp
chí Tòa án nhân dân các số 3, 4, 5, 8 và 11/1999.
Các tài liệu trên đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong
định tội danh nói chung và định tội danh các tội phạm về ma túy nói riêng, nhưng
mới chỉ khái quát được một số vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động định tội
danh và thực tiễn định tội danh; phân tích, đánh giá một số nhận định liên quan
đến yếu tố định tội danh, đồng thời phân biệt với một số tội phạm trong Bộ luật
Hình sự năm 1999 hoặc nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý hình sự, trách nhiệm
hình sự đối với các tội phạm về ma túy; v.v… Hiện nay vẫn chưa có công trình

nào nghiên cứu về vấn đề định tội danh các tội phạm về ma túy trên một địa bàn
cụ thể là địa bàn tỉnh Hải Dương.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm bổ sung thêm những vấn đề lý luận về định tội danh các tội
phạm về ma túy; cung cấp thêm các thông tin về tình hình thực trạng trong việc
định tội danh các tội phạm về ma túy trên cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh
Hải Dương nói riêng. Những vấn đề bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
các quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sựtrong quá trình định tội
danh các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 2013-2017; Từ
đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về loại tội
phạm này, giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này
trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm đạt được những mục đích nghiên cứu của luận văn đề tài sẽ tập trung
làm rõ những vấn đề sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc định tội danh nói chung và định tội danh
các tội phạm về ma túy nói riêng; phân tích, bình luận quy định của BLHS,
BLTTHS các văn bản có liên quan để làm sáng tỏ cơ sở pháp lý, cơ sở khoa học
của việc định tội danh các tội phạm về ma túy.
- Đánh giá thực tiễn định tội danh các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh
Hải Dương trong thời gian qua, những bất cập vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
BLHS và các văn bản có liên quan và chỉ ra các nguyên nhân của bất cập, vướng
mắc này.
- Từ phân tích, đánh giá các căn cứ trong việc định tội danh các tội phạm
về ma túy trên địa bàn, đưa ra các kiến nghị nâng cao chất lượng định tội danh đối

với loại tội này.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những cơ sở khoa học về định tội
danh nói chung và định tội danh các tội phạm về ma túy nói riêng.
Những quy định của pháp luật về định tội danh các tội phạm về ma túy
cũng như các tội phạm khác.

4


Thực tiễn định tội danh các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Hải
Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Luận văn đã lựa chọn địa bàn tỉnh Hải Dương làm không
gian nghiên cứu;
Về thời gian: Số liệu nghiên cứu đề tài được giới hạn từ số liệu xét xử về
các tội phạm về ma túy của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hải Dương, từ năm 2013
đến năm 2017.
Về cơ sở pháp lý: Luận văn nghiên cứu BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung
năm 2009 và những điểm mới của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của luận văn chủ yếu là những kiến thức của khoa học về
định tội danh, kết hợp với những kiến thức khoa học của luật học, khoa học hình sự...,
được học viên lựa chọn làm cơ sở lý luận trong việc nghiên cứu luận văn.
Ngoài ra các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, đường lối, chính sách
của Đảng về hoàn thiện nhà nước pháp quyền và pháp luận là những cơ sở lý luận
đáng tin cậy để học viên lựa chọn làm phương pháp nghiên cứu của luận văn.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là những kiến thức của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đề tài sử dụng một số phương pháp

nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, so sánh,
phương pháp hệ thống, lịch sử, phương pháp thống kê, khảo sát. Từ thực tiễn, trao
đổi chuyên gia, vụ việc điển hình đó, những vấn đề liên quan đến định tội danh
đối với tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương được xem xét đánh giá từ
nhiều góc độ khác nhau, đảm bảo đầy đủ, toàn diện, có hệ thống và xác thực của
những nội dung, vấn đề được trình bày trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Việc nghiên cứu thành công luận văn là cơ sở cho việc bổ sung các quan
điểm lý luận trong định tội danh, xác định rõ hơn các cơ sở khoa học trong định
tội danh các tội phạm về ma túy ở nước ta hiện nay;
Chỉ ra những thành công và hạn chế về định tội danh trong thực tiễn xét xử
đối với các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương;

5


Kết quả của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, giảng dạy trong các trường nghiệp vụ của ngành luật, trong thực tiễn điều tra,
truy tố, xét xử cũng như trong học tập, nghiên cứu về định tội danh, về pháp luật
hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình định tội danh các tội phạm về
ma túy ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Lý luận về định tội danh các tội phạm về ma túy.
Chương 2: Thực trạng định tội danh các tội phạm về ma túy trên địa bàn
tỉnh Hải Dương từ năm 2013 đến năm 2017.
Chương 3: Giải pháp đảm bảo định đúng tội danh các tội phạm về ma túy
trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.


6


Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
1.1. Khái niệm và đặc điểm của định tội danh các tội phạm về ma túy
1.1.1. Khái niệm định tội danh các tội phạm về ma túy
Tội phạm ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự,
được thực hiện bởi người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự, có l i, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về ma túy. Định tội
danh tối với các tội phạm về ma túy có ý nghĩa hết sức quan trọng, làm tiền đề cho
việc giải quyết các nhiệm vụ khác của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự.
Nghiên cứu về định tội danh các tội phạm về ma túy trước hết cần làm rõ một số
nội dung về mặt lý luận mà trước hết là khái niệm định tội danh.
Định tội danh là một khái niệm của khoa học luật hình sự Việt Nam, nó
không được quy định cụ thể trong luật thực định,Vì vậy, có rất nhiều quan điểm
khác nhau về khái niệm này:
Theo quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh thì định tội danh là hoạt động
nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan
trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được
thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu
thành tội phạm tương ứng và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp
và thông qua các giai đoạn nhất định [47, tr.27].
Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm thì định tội danh là một quá trình
nhận thức lý luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng
cứ tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự
phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi tương ứng do luật hình sự quy định nhằm
đạt được sự thật khách quan, tức đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt

pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân tích trách nhiệm hình sự
một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật [6, tr.33].

7


Theo quan điểm của TS Dương Tuyết Miên: “Định tội danh là hoạt động
của cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án) và một
số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định một
người có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều luật nào của
BLHS hay nói cách khác đây là quá trình xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm
đã thực hiện”[16, tr.9].
M i một tác giả đều thể hiện rõ quan điểm riêng của mình về khái niệm
định tội danh, tuy nhiên, đềuthống nhất một số khía cạnh sau:1, Định tội danh là
hoạt động nhận thức có tính loogic của con người về sự việc có sự phù hợp hay
không phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội, có l i, xẩy ra ngoài thực tiễn
khách quan với quy định của pháp luật về một tội phạm cụ thể;2, Định tội danh là
hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, nếu được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và người có thẩm quyền trong các cơ quan đó. Cũng có tác giả cho
rằng bao gồm cả hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự nếu hiểu theo nghĩa
rộng; 3, Định tội danh là cơ sở cho việc quyết định hình phạt và giải quyết các vấn
đề khác có liên quan TNHS của người phạm tội ( trong trường hợp định tội danh
chính thức)
Do đó dưới góc độ khoa học luật hình sự, theo học viên định tội danh có
thể được hiểu là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố
tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Tòa án), người tiến hành tố tụng và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình
tiết thực tế của vụ án nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi thực tế đã thực hiện
với các cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS, từ đó xác định một

người có phạm tội hay không, và phạm tội theo điều luật nào của BLHS.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu về định tội danh các tội phạm về ma
túy như sau: Định tội danh các tội phạm về ma túy là hoạt động thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng,
trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ
án, nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi phạm tội trên thực tế với các dấu hiệu
trong cấu thành tội phạm về ma túy, được quy định trong Chương XVIII từ Điều

8


192 đến Điều 201 của BLHS năm 1999 (Chương XX từ Điều 247 đến 259 của
BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017), từ đó xác định một người có phạm
tội về ma túy hay không và phạm tội theo điều luật nào của Chương này.
1.1.2. Đặc điểm của định tội danh các tội phạm về ma túy
- Định tội danh các tội phạm về ma túy là định tội danh đối với một loại tội
phạm cụ thể, như vậy, ngoài đặc điểm chung của định tội danh với tư cách là hoạt
động nhận thức có tính logic của con người, thì định tội danh đối với tội phạm về
ma túy có đặc điểm riêng liên quan đến đặc điểm của hành vi khách quan của
nhóm tội phạm này xảy ra trong thực tế khách quan và quy định của BLHS.
- Định tội danh đối với tội phạm về ma túy là hoạt động áp dụng pháp luật;
nếu chủ thể định tội danh là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người có
thẩm quyền,do đó quá trình định tội danh phải tuân theo những thủ tục chặt chẽ về
mặt tố tụng theo quy định của BLTTHS. Mọi sự vi phạm pháp luật tố tụng đều có
nguy cơ dẫn đến oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Còn để tội định tội danh chính xác,
phù hợp với các tình tiết thực tế khách quan của vụ án, phải căn cứ vào các quy
định của BLHS
- Định tội danh đối với tội phạm về ma túy liên quan đến vấn đề chứng cứ
đã được thu thập, kiểm tra, đánh giá. Đối với hình thức định tội danh không chính
thức, các tình tiết của vụ án đã được mặc nhiên coi là đúng và đã được chứng

minh bằng các chứng cứ đãthu thập được. Nhưng đối với hình thức định tội danh
chính thức, xuất phát từ nguyên tắc trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về
các cơ quan tiến hành tố tụng nên chưa thể khẳng định ngay từ đầu bị can, bị cáo
có phải là người phạm tội hay không. Định tội danh đối với tội phạm về ma túy là
hoạt động được tiến hành song song với hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá và
sử dụng chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, định tội danh đối với
tội phạm về ma túy gắn liền với hoạt động chứng minh tội phạm và người phạm
tội của các cơ quan nói trên.
1.2. Phân loại và ý nghĩa của việc định tội danh các tội phạm về ma túy
1.2.1. Phân loại định tội danh các tội phạm về ma túy
“Trong lý luận về Luật Hình sự căn cứ vào chủ thể tiến hành định tội danh
và hậu quả của việc định tội danh, người ta phân biệt thành hai loại định tội danh:

9


định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức” [47, tr.27]. Như vậy,
theo cách tiếp cận này, có thể phân chia định tội danh các tội phạm về ma túy ma
túy làm hai dạng: định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức.
1.2.1.1.Định tội danh chính thức đối với các các tội phạm về ma túy
Định tội danh chính thức là hoạt động xác định tội danh trong một vụ án cụ
thể do cán bộ được nhà nước ủy quyền: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân tiến hành” [47, tr.27].Do đó, định tội danh chính thức đối với các
tội phạm về ma túy là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Cơ quan Điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án trong hoạt động đấu tranh với tội phạm về ma túy.Định tội
danh chính thức đối với các tội phạm về ma túy có đặc điểm cơ bản như sau:
- Về chủ thể: Định tội danh chính thức đối với tội phạm về ma túy là hoạt
động mang tính tổ chức - quyền lực Nhà nước, chủ thể tiến hành hình thức định tội
danh này được quy định trong BLTTHS, đó là các cơ quan tiến hành tố tụng và người
tiến hành tố tụng. Theo quy định của BLTTHS năm 2015, các cơ quan tiến hành tố

tụng gồm có: Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án. Người tiến hành tố tụng gồm
có: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra; Viện
trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; Chánh án, Phó
chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên.
- Về hình thức:Định tội danh chính thức đối với tội phạm về ma túy được
tiến hành trong tất cả các giai đoạn tố tụng, từ khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử,
các quyết định hoặc văn bản tố tụng trong các giai đoạn như quyết định khởi tố bị
can, kết luận điều tra, cáo trạng và bản án đều phải thể hiện chính thức quan điểm
của người tiến hành tố tụng về tội phạm về ma túy.
- Về hậu quả pháp lý:Hậu quả của hình thức định tội danh chính thức đối
với tội phạm về ma túy là việc xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội. Khi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có đầy đủ chứng cứ
chứng minh về tội phạm về ma túy thì người thực hiện hành vi đó phải gánh chịu
các biện pháp trách nhiệm hình sự như hình phạt, các biện pháp tư pháp.... Định
tội danh chính thức đối với tội phạm về ma túy do nhiều chủ thể có thẩm quyền
khác nhau tiến hành, song chỉ duy nhất một chủ thể là Tòa án, bằng phiên tòa xét
xử công khai mới có thẩm quyền đưa ra kết luận cuối cùng về việc bị cáo là người

10


phạm tội trong bản án có hiệu lực pháp luật. Nói một cách khác, bản án có hiệu
lực pháp luật của Tòa án là văn bản định tội danh cuối cùng, chính thức khẳng
định về tội danh đối với tội phạm về ma túy.
1.2.1.2. Định tội danh không chính thức đối với các tội phạm về ma túy
Theo quan điểm của GS. TS. Võ Khánh Vinh: Định tội danh không chính
thức là sự đánh giá pháp lý về hành vi phạm tội do các nhà nghiên cứu khoa học
pháp lý, tác giả bài báo, tạp chí, công trình khoa học, sinh viên, học viên hoặc bất
kỳ một người nào đó quan tâm nghiên cứu cụ thể vụ án này hay vụ án khác đưa ra
[47, tr.28].Như vậy định tội danh không chính thức đối với tội phạm về ma túy

không phải là sự đánh giá chính thức về mặt nhà nước, không được thể hiện trong
các văn bản tố tụng và không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của đối tượng
bị định tội danh; khái niệm “chính thức” ở đây phải được hiểu là chính thức về
mặt Nhà nước.Sự khác biệt cơ bản giữa định tội danh chính thức và định tội danh
không chính thức đối với tội phạm về ma túy thể hiện:
- Về chủ thể tiến hành: Chủ thể tiến hành định tội danh không chính thức
đối với tội phạm về ma túy có thể là bất kỳ ai quan tâm đến vụ án hình sự và nắm
được các tình tiết của vụ án đó, tuy nhiên chủ thể phổ biến của hoạt động định tội
danh không chính thức đối với tội phạm về ma túy là các nhà khoa học, những
người đang nghiên cứu luật hình sự. Các chủ thể nói trên quan tâm đến việc định
tội danh vì việc đó thuộc nội dung chuyên môn mà họ theo đuổi. Chính vì vậy,
định tội danh không chính thức có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát
triển ngành khoa học pháp lý hình sự.
- Về hình thức thể hiện:Hình thức của định tội danh không chính thức đối
với tội phạm về ma túy chủ yếu là các công trình khoa học, các bài viết, bài báo...
Ngoài ra, định tội danh không chính thức có thể được thể hiện trong một số văn
bản khác như bản luận cứ bào chữa của luật sư. Các văn bản đó về thể thức không
được pháp luật điều chỉnh mà được viết theo ý chủ quan của chủ thể định tội danh
không chính thức.
- Về hậu quả pháp lý:Kết quả của định tội danh không chính thức đối với
tội phạm về ma túy không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của người bị
định tội danh vì không xuất phát từ quyền lực nhà nước và không đại diện cho

11


quyền lực nhà nước nên chủ thể của hoạt động định tội danh không chính thức
không có quyền áp đặt các biện pháp cưỡng chế cho kết quả định tội danh của
mình. Tuy nhiên, nếu hoạt động định tội danh không chính thức được dư luận xã
hộiquan tâm và phản ánh đúng yêu cầu của pháp luật hình sự thì có thể xuất hiện

khả năng có sự chuyển hóa từ định tội danh không chính thức thành định tội danh
chính thức.Trên thực tế không phải lúc nào việc định tội danh của các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng luôn đúng.
1.2.2. Ý nghĩa của việc định tội danh các tội phạm về ma túy
Định tội danh đối với tội phạm về ma túy là một giai đoạn cơ bản của việc
áp dụng pháp luật.Định tội danh đúng đối với các tội phạm về ma túy có ý nghĩa
chính trị - xã hội và pháp lý rất lớn.
1.2.2.1. Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội
- Định tội danh chính thức đối với tội phạm về ma túy được tiến hành bởi
cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người có thẩm quyền trong các cơ quan đó là
hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước, do đó, có thể khẳng định định tội danh
đối với tội phạm về ma túy là một hoạt động mang tính chính trị sâu sắc, thể hiện:
Định tội danh đối với tội phạm về ma túy nhằm mục đích bảo vệ quy định
của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, bảo vệ an ninh và trật tự xã hội;định tội
danh đối với tội phạm về ma túy góp phần đưa các quy định của pháp luật, nhất là
quy định của Bộ luật Hình sự vào thực tiễn cuộc sống. Như GS. TS Võ Khánh
Vinh đã viết:Đạo luật hình sự thể hiện ý chí về mặt Nhà nước của nhân dân ta đối
với vấn đề đấu tranh với tình hình tội phạm... Việc tuân thủ nghiêm chỉnh đạo luật
hình sự trong khi định tội danh là điều kiện cần thiết và quan trọng của việc thực
hiện chính sách của Nhà nước nhằm khắc phục tình trạng tội phạm ở nước ta. Và
theo Lênin: “Một đạo luật là một biện pháp chính trị, là chính trị”. Do vậy, định
đúng tội đanh là một biểu hiện của việc thực hiện đúng biện pháp chính trị, thực
thi đúng chính trị, thực thi đúng ý chí của nhân dân đã được thể hiện trong luật,
bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của xã hội, của Nhà nước và của con người, của
công dân [47, tr.29].

12


Định tội danh đối với tội phạm về ma túy là hoạt động của các cơ quan Nhà

nước có tính áp đặt một chiều đối với đối tượng bị áp dụng, đó là hoạt động thể
hiện quyền lực chính trị trong thực tiễn đời sống xã hội.
- Không chỉ có tính chất chính trị, định tội danh đối với tội phạm về ma túy
còn là hoạt động mang ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc, thể hiện qua một số khía
cạnh cụ thể sau đây:
Thông qua định tội danh đối với tội phạm về ma túy, Nhà nước ta thực hiện
nghiêm những cam kết quốc tế về quyền con người thông qua việc bảo đảm về an
toàn và an ninh, trật tự xã hội đấu tranh phòng chống lại hành vi phạm tội này.
Thông qua định tội danh, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện
việc bảo vệ sinh mạng chính trị cho người dân.Định tội danh đối với tội phạm về
ma túy xẩy ra theo hai hướng: khẳng định là có tội và hai là khẳng định không có
tội. Do đó, định đúng tội danh góp phần quan trọng trong việc phòng, chống oan,
sai, phòng, chống việc lạm dụng quyền lực của một số người có chức, có quyền
xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân; góp phần củng cố lòng tin của
người dân vào công lý và sự chí công, vô tư của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
1.2.2.2. Ý nghĩa về phương diện pháp lý
Về mặt pháp lý, có thể khẳng định rằng địnhđúngtội danh đối với tội phạm
về ma túy là tiền đề và cơ sở để áp dụng các quy định của pháp luật hình sự và
pháp luật tố tụng hình sự.
Đối với pháp luật hình sự: Định tội danh các tội phạm về ma túy là cơ sở để
áp dụng các chế tài hình sự được quy định tại Chương các tội phạm về ma túy
trongBLHS; là tiền đề để áp dụng các quy định khác như quy định về nguyên tắc
xử lý, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quyết định hình
phạt, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, án treo, miễn, giảm thời hạn chấp
hành hình phạt, xóa án tích; Định đúng tội danh các tội phạm về ma túy sẽ loại trừ
việc kết án không có căn cứ những người không có hành vi nguy hiểm cho xã hội
và tạo tiền đề cho việc quyết định hình phạt công bằng với người phạm tội.
Đối với pháp luật tố tụng hình sự: định tội danh đối với tội phạm về ma
túylà cơ sở để xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử đúng, xác định thời


13


hạn điều tra, truy tố, xét xử cũng như thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn
phù hợp với quy định của BLTTHS hiện hành đối với người phạm tội nói chung
Đối lập với định đúng tội danh là trường hợp có sự sai lầm trong định tội
danh đối với tội phạm về ma túy.Định tội danh sai không chỉ làm choviệc quyết
định hình phạt không đúng, không công bằng, xâm phạm đến quyền con người,
quyền công dân mà còn dẫn đến việc áp dụng pháp luật hình sự không có căn cứ,
trái pháp luật. Trường hợp hành vi của người có l i cấu thành tội phạm nhưng lại
xác định không phạm tội hoặc xác định theo tội nhẹ hơn sẽ làm giảm hiệu quả của
công tác đấu tranh với tình hình tội phạm, gây ra sự phẫn nộ, mất niềm tin vào
công lý, làm nảy sinh những quan niệm không đúng về thực trạng và các biện
pháp đấu tranh với tội phạm, làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp.
1.3. Cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của định tội danh các tội phạm về ma túy
Định tội danh các tội phạm về ma túy, dù là chính thức hay không chính
thức cũng đều phải dựa trên những cơ sở nhất định; Do định tội danh là sự đánh
giá về mặt pháp lý nên nó có cơ sở pháp lý; Mặt khác, định tội danh lại là hoạt
động nhận thức mang tính logic nên nó đồng thời cũng có cơ sở khoa học.Như
vậy, có hai cơ sở - cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của định tội danh các tội phạm
về ma túy.
1.3.1. Cơ sở pháp lý của định tội danh các tội phạm về ma túy
Có nhiều quan điểm của các nhà luật học về các căn cứ pháp lý của định tội
danh: Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm thì những căn cứ pháp lý của định
tội danh được hiểu dưới hai khía cạnh rộng và hẹp: “Ở khía cạnh rộng thì những
căn cứ pháp lý của việc định tội danh là hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự
với tính chất là cơ sở duy nhất (trực tiếp), cũng như hệ thống các quy phạm pháp
luật tố tụng hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý bổ trợ (gián tiếp) cho toàn bộ
quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện
là tội phạm. Ở khía cạnh hẹp thì căn cứ pháp lý của việc định tội danh là chỉ có hệ

thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất (trực
tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
được thực hiện là tội phạm” [6, tr.38].Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì căn cứ

14


pháp lý của định tội danh chỉ bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự
[47 - Chương III].
1.3.1.1.Cơ sở pháp lý về nội dung của định tội danh các tội phạm về ma túy
Cơ sở pháp lý về nội dung của định tội danh đối với tội phạm về ma túy là
các văn bản pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự, mà trước hết và chủ yếu là
BLHS và các văn bản hướng dẫn thi hành.BLHS là cơ sở pháp lý duy nhất có ý
nghĩa quyết định và quan trọng nhất trong việc định tội danh.Trong thực tiễn định
tội danh, các điều luật của BLHS là căn cứ pháp lý duy nhất các cơ quan tiến hành
tố tụng viện dẫn trong các quyết định và văn bản tố tụng khác khi quy kết trách
nhiệm hình sự cho người phạm tội.
- Bộ luật Hình sự Việt Nam được cấu trúc thành hai phần là Phần chung và
Phần các tội phạm và cả hai phần này đều là cơ sở pháp lý của việc định tội danh.
Khi định tội danh đối với tội phạm về ma túy, chủ thể định tội danh phải căn cứ
vào quy định của tại Chương XVIII các tội phạm về ma túy của BLHS năm 1999
được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Chương XVIII BLHS năm 1999 quy định về các
tội phạm về ma túy cụ thể như sau:
Điều 192. Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma túy;
Điều 193. Tội sản xuất trái phép chất ma túy;
Điều 194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy;
Điều 195. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền dùng
vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma tuy;
Điều 196. Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện

dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy;
Điều 197. Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuy;
Điều 198. Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy;
Điều 200. Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy;
Điều 201. Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc
các chất ma túy khác [19]
Những điều luật nêu trên là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác xác định hành vi xảy ra

15


trong thực tế có cấu thành tội phạm về ma túy đã nêu trên hay không; nếu phạm
tội thì phạm tội gì và thuộc vào điều khoản cụ thể nào. Ngoài các điều luật tại
Chương XVIII Bộ luật Hình sự năm 1999, các chủ thể định tội danh đối với tội
phạm về ma túy còn phải căn cứ vào các quy định trong Phần chung của Bộ luật
Hình sự, nhất là các quy định liên quan đến việc xác định tội phạm như Khái niệm
về tội phạm (Điều 8); tuổi chịu trách nhiệm hình sự(Điều 12); Những trường hợp
loại trừ trách nhiệm hình sự (Điều 15, 16…); Chuẩn bị phạm tội (Điều 17); Phạm
tội chưa đạt (Điều 18); Đồng phạm (Điều 20); Tái phạm, tái phạm nguy hiểm
(Điều 49); v.v...
- Cùng với quy định của BLHS, quy định trong các văn bản hướng dẫn thi
hành Bộ luật Hình sự cũng có ý nghĩa quan trọng trong định tội danh. Liên quan
đến hoạt động định tội danh đối với tội phạm về ma túy, cần phải kể đến Thông tư
liên tịch số 17/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ
Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp
hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII - Các tội phạm về ma túy
của Bộ luật Hình sự năm 1999. Theo đó, Thông tư liên tịch này hướng dẫn áp
dụng một số tình tiết quan trọng của các tội phạm về ma túy như một số khái niệm
và một số tình tiết là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt như việc làm rõ

các khái niệm “Chất ma túy” “tiền chất dùng vào việc việc sản xuất trái phép chất
ma túy” “Phương tiện dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng hoặc sử dụng
trái phép chất ma túy” “tàng trữ trái phép chất ma túy”, các tình tiết “Phạm tội
nhiều lần” “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” “lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức”,
“’ Phạm tội đối với nhiều người”; các tình tiết “có từ hai chất ma túy trở nên….”
- BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (có hiệu lực từ ngày
01/01/2018) quy định về các tội phạm về ma túy tại Chương XX gồm 13 điều, từ
Điều 247-259. Về cơ bản BLHS năm 2015 kế thừa các quy định về tội phạm về
ma túy của BLHS năm 1999, tuy nhiên có một số điểm mới cơ bản có liên quan
đến định tội danh các tội phạm về ma túy như sau:
BLHS năm 2015 đã tách Điều 194 BLHS 1999 thành 04 tội riêng biệt quy
định tại các Điều: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249); Tội vận chuyển

16


trái phép chất ma túy (Điều 250); Tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251);
Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252)
Quy định rõ ràng, cụ thể về định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự
trong từng tội phạm. Ví dụ: tại khoản 1 các Điều 249, 250, 252 BLHS năm 2015
quy định cụ thể về định lượng, xác định mức tối thiểu đến mức tối đa các chất ma
túy để cấu thành tội phạm: … Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc côca có khối
lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam; Hêroin, côcain, Methamphetamine,
Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam…[20];.
Thay đổi đơn vị tính:tại BLHS 2015 đãquy định“Khối lượng” thay cho
“Trọng lượng” trong BLHS năm 1999 vì từ trước đến nay trong BLHS đều quy
định đơn vị tính là gam, kg… và đây là những đơn vị tính khối lượng chứ không
phải trọng lượng.
Quy định cụ thể thêm các chất ma túy nằm trong Danh mục chất ma túy
ban hành kèm theo Nghị Định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ

như: Methamphetamine, Amphetamine, MDMA.
Tóm lại: Căn cứ pháp lý của việc định tội danh các tội phạm về ma túy là
những quy phạm pháp luật hình sự được quy định trong Chương XVIII của BLHS
năm 1999 (Chương XX BLHS năm 2015) với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất
(trực tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã
hội được thực hiện là tội phạm về ma túy.Các văn bản pháp luật hình sự khác chỉ
là văn bản dưới luật làm nhiệm vụ hướng dẫn, giải thích Chương XVIII của BLHS
năm 1999để đảm bảo cho việc áp dụng quy định pháp luật được đúng đắn, chính
xác và hiệu quả trong thực tiễn.
1.3.1.2. Cở sở pháp lý về hình thức của định tội danh các tội phạm về ma túy
Có những quan điểm khác nhau về cơ sở pháp lý của định tội danh, có quan
điểm cho rằng cơ sở pháp lý chỉ bao gồm pháp luật hình sự, cũng có quan điểm
cho rằng ngoài cơ sở pháp lý trực tiếp là pháp luật hình sự thì BLTTHS - cơ sở
pháp lý gián tiếp của việc định tội danh. Trong trường hợp định tội danh chính
thức đối với tội phạm về ma túy học viên đồng ý với quan điểm: khi hiểu theo
nghĩa rộng, nếu các quy phạm BLHS đóng vai trò là cơ sở pháp lý duy nhất trực
tiếp (về nội dung) thì các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự là cơ sở pháp lý gián

17


tiếp không kém quan trọng [6, tr.30]. Cơ sở pháp lý về hình thức được hiểu là các
băn bản pháp luật quy định về thủ tục tố tụng làm cơ sở cho việc định tội danh và
giải quyết vụ án hình sự.
Pháp luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục tố tụng đối với vụ án
hình sự nói chung. Đó là khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, trong m i một giai đoạn
đều có trình tự tiến hành và theo một thủ tục tố tụng nhất định. Nếu không thực
hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định thì việc định tội danh đối với tội
phạm về ma túy không có giá trị.
Pháp luật tố tụng hình sự quy định về chứng cứ, về trình tự, thủ tục thu

thập, kiểm tra, đánh giá, sử dụng chứng cứ chứng minh đối với tội phạm trong đó
có tội phạm về ma túy. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến
hành tố tụng phải bằng các biện pháp hợp pháp thu thập và phản ánh chứng cứ thu
thập được trong những nguồn mà BLTTHS quy định. Đây là vấn đề có ý nghĩa
quan trọng bởi nếu không chứng minh được sự tồn tại tội phạm về ma túy và
người thực hiện hành vi đó thì không thể định tội danh đối với tội phạm này.
Ngoài ra, pháp luật tố tụng hình sự còn quy định các vấn đề khác liên quan
đến việc thay đổi tội danh, việc tách hoặc nhập vụ án hình sự, các vấn đề khác
phục vụ cho định tội danh định tội danh các tội phạm về ma túy.
1.3.2. Cơ sở khoa học của định tội danh các tội phạm về ma túy
Định tội danh đối với tội phạm về ma túy là hoạt động nhận thức mang tính
logic, để hoạt động nhận thức này được tiến hành một cách hiệu quả, chủ thể nhận
thức không chỉ đơn giản là căn cứ vào các điều luật của Bộ luật Hình sự mà còn
cần phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học về mô hình pháp lý của tội phạm cụ thể
mà hoạt động định tội danh hướng tới. Mô hình pháp lý về tội phạm cụ thể mà chủ
thể định tội danh dựa vào được gọi là cơ sở lý luận của việc định tội danh và cấu
thành tội phạm chính là mô hình pháp lý của định tội danh.
Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc
trưng, điển hình cho một loại tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS, đồng
thời giúp cho việc phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. Theo GS.TS Võ
Khánh Vinh thì Cấu thành tội phạm là mô hình pháp lý của các tội phạm thuộc một
loại tội nhất định, vì nó bao gồm những dẫu hiệu cần thiết điển hình và cơ bản nhất

18


của tội phạm… Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý duy nhất của việc định tội
danh, là mô hình pháp lý có các dấu hiệu cần và đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự
[47- tr64];Theo GS - TSKH Lê Cảm thì cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu
hiệu pháp lý (khách quan và chủ quan) do luật hình sự quy định thể hiện một hành

vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội phạm [18, tr35].
Cấu thành tội phạm được hình thành trên cơ sở tổng hòa các dấu hiệu thuộc
bốn yếu tố của cấu thành tội phạm bao gồm: khách thể, chủ thể, mặt khách quan,
mặt chủ quan của tội phạm. Khách thể của tội phạm: là quan hệ xã hội được pháp
luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội phạm
xâm hại đến và gây nên (hoặc có thể gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định. Mặt
khách quan của tội phạm: là mặt bên ngoài của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho
xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng PLHS, tức là sự thể hiện cách xử sự có
tính chất tội phạm trong thực tế khách quan. Chủ thể của tội phạm: đó là người đã
có l i (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật
hình sự cấm, có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS theo luật định. Mặt chủ
quan của tội phạm: đó là mặt bên trong của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã
hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là thái độ tâm lý của
chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó.
Từ yếu tố cấu thành chung của tội phạm trên, chúng ta xác định được dấu
hiệu pháp lý của các tội phạm về ma túy như sau:
1.3.2.1.Khách thể của các tội phạm về ma táy
Ma tuý là loại độc dược gây nghiện nên Nhà nước độc quyền quản lý.
Nghiêm cấm việc trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chất ma tuý,
các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, chiếm đoạt các chất ma tuý
cũng như tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý. Để ngăn chặn ma
tuý và tội phạm ma tuý, từ trước đến nay Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật, trong Hiến pháp 1992 quy định “Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển,
buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Tại
Điều 2 Quyết định số 113/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng
Chính phủ) về việc quản lý thống nhất xuất, nhập thuốc và các nguyên liệu làm

19



thuốc chữa cho người bệnh, quy định “...Việc xuất, nhập khẩu thuốc và nguyên
liệu làm thuốc có chất độc, có chất gây nghiện, thuốc gây mê và thuốc tâm thần do
Bộ Y tế chọn đơn vịtổ chức để giao nhiệm vụ”. Nghị quyết 06/CP ngày 29 tháng 1
năm 1993 của Chính phủ quy định “Bộ y tế có trách nhiệm xác định các loại thuốc
phiện và các chất ma tuý khác vào sản xuất dược phẩm và nghiên cứu khoa học
theo quy định của Nhà nước”.Điều 3 Luật phòng chống ma tuý cũng quy định cấm
8 nhóm hành vi có liên quan đến ma tuý.Vì vậy, khách thể mà các tội phạm về ma
túy xâm phạm tới chính là chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma
tuý; xâm phạm trật tự, an toàn xã hội và xâm phạm sức khoẻ, sự phát triển giống
nòi...
1.3.2.2. Mặt khách quan của các tội phạm về ma tuý
Mặt khách quan của tội phạm được hiểu là mặt bên ngoài của tội phạm, bao
gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại bên ngoài thế giới khách
quan. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm các yếu tố: Hành vi khách quan nguy
hiểm cho xã hội; Hậu quả nguy hiểm cho xã hội; Mối quan hệ nhân quả giữa hành
vi và hậu quả; Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công
cụ, phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội…).
- Trong mặt khách quan của tội phạm, hành vi khách quan là biểu hiện cơ
bản, những biểu hiện của mặt khách quan chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách
quan, không có hành vi khách quan thì không có tội phạm.
Hành vi khách quan của các tội phạm về ma túy tuy cũng có khác nhau về
các hình thức thể hiện cụ thể như về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội.
Song các hành vi này giống nhau ở ch đều là những hành vi vi phạm các quy
định của nhà nước về chế độ độc quyền quản lý chất ma túy. Đó là những hành vi
thực hiện điều mà Nhà nước cấm các cá nhân làm hoặc có thể là hành vi của
người có trách nhiệm được nhà nước giao đã không thực hiện, thực hiện không
đầy đủ. Căn cứ vào hành vi thực hiện của các tội phạm về ma túy thì có thể khái
quát thành sáu nhóm hành vi sau:
Hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma

tuý(Điều 192);

20


×