Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Thực trạng và phướng hoàn thiện hệ thống kiểm toán độc lập ở nước ta.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.02 KB, 37 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang dần dần từng bước chuyển nền kinh
tế nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với một nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, quan hệ sản xuất ngày càng trở nên phức tạp thì địi
hỏi vai trị quản lý của Nhà nước cũng phải đổi mới để điều khiển nền kinh tế vĩ
mô của đất nước sao cho hoạt động lành mạnh và không ngừng phát triển.
Qua các kỳ Đại Hội Đảng đã xác định phấn đấu dân giầu, nước mạnh, xã hội
công bằng văn minh. . . Đó là trách nhiệm và cần có sự cố gắng của toàn Đảng,
toàn dân. Trong khi cả nước đang chuyển dần vào guồng quay của kinh tế thị
trường, tìm mọi cách hạn chế tối đa những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường
nhằm đưa đất nước thốt khỏi cảnh đói nghèo, thì một số các cán bộ có chức có
quyền lạm dụng quyền chức để tham nhũng, chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa,
nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trong nhiều năm liền làm thiệt hại cho Nhà
nước đến hàng nghìn tỷ đồng mà các cơ quan chức năng không hề hay biết chỉ đến
khi mà các doanh nghiệp này phá sản thì mới hay. Hơn thế nữa chính những lỗ
hổng trong các văn bản đã quy định về chế độ kế tốn tài chính cũng là những
nguyên nhân để các “ con mọt ” tha hồ hoành hành, đục khoét của cải của nhân
dân. Như vậy phải chăng vai trò kiểm tra - kiểm sốt của Nhà nứơc đã khơng phát
huy hết hiệu lực, chính những thực trạng đó và nhu cầu phát triển của kinh tế thị
trường đã đặt ra đòi hỏi cấp bách đó là sự ra đời và phát triển của kiểm toán.
Kiểm toán ra đời và đặc biệt là sự ra đời của kiểm tốn độc lập có ý nghĩa rất quan
trọng đối với các doanh nghiệp, các Nhà đầu tư trong mọi thành phần kinh tế của
nền kinh tế quốc dân và đặc biệt là sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Với quy mô là đề án mơn học nghiên cứu về vấn đề kiểm tốn nói chung và
hoạt động kiểm tốn độc lập nói riêng, trong phạm vi bài viết này của em gồm có
3 phần chính.
Phần 1 : Những lý luận chung về kiểm tốn và kiểm tốn độc lập.
Phần 2 : Vai trị và ý nghĩa của kiểm toán độc lập ở Việt nam đối với các
doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
Phần 3 : Thực trạng và phướng hoàn thiện hệ thống kiểm toán độc lập ở nước


ta.
Đây là một đề tài nghiên cứu về một vấn đề còn khá mới mẻ và cịn có nhiều
tranh luận nên trong bài viết này của em chắc chắn sẽ cịn nhiều thiếu sót. Em


mong được sự giúp đỡ chỉ bảo của các thầy cơ để em có một cách hiểu và nhìn
nhận đúng hơn về lĩnh vực kiểm toán.

PHẦN I : NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG
I:ĐỊNH NGHĨA VÀ CHỨC NĂNG CỦA KIỂM TOÁN

1.Sự phát triển của kiểm tốn
Có thể nói tiền thân của kiểm toán ra đời từ rất lâu, ngay từ thời
nguyên thuỷ người cổ đại đã đánh dấu trên các thân cây, buộc nút trên
các dây thừng... . để theo dõi chi tiêu, kết quả, và để đối chiếu với các
Tài sản.. . . Đặc biệt với sự ra đời của hệ thống kế tốn kép và sự phát
triển ngày càng hồn thiện của hệ thống phương pháp kế toán (tk 17-20) .
Nên hầu hết các nhu cầu kiểm tra Tài chính đã được thoả mãn
Trong thế kỷ 20, xã hội -khoa học phát triển mạnh dẫn đến sản xuất
ngày càng phát triển, các mối quan hệ về Tài chính, sản xuất.. . ngày
càng đa dạng, địi hỏi cơng tác quản lý về mọi mặt cũng phải được nâng
cao . Nhưng thực tế cho thấy vào những năm 30 của thế kỷ 20 này bằng
sự phá sản của hàng loạt các tổ chức Tài chính tín dụng lớn ở Bắc Mỹ và
Tây Âu, chức năng tự kiểm tra của kế toán mới chịu bộc lộ những yếu
điểm của mình so với nhu cầu quản lý của các tổ chức Tài chính, các
doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ, các đơn vị sự nghiệp cơng cộng. Cũng
chính hậu quả đó đã dẫn đến những người quan tâm nghi nghờ hoặc chỉ tin
một phần vào kết quả thơng báo tình hình Tài chính của đơn vị.. . . Do
vậy việc xuất hiện một tổ chức kiểm tra ngồi kế tốn đó là một nhu cầu
tất yếu, thoả mãn được sự mong mỏi của các bên.

Ở những nước có nền kinh tế sớm phát triển thì cơng việc kiểm
tra ngồi kế tốn của một tổ chức độc lập cũng phát triển khá sớm chẳng
hạn : ở Pháp viêc kiểm tra bên ngoài một cách độc lập do những người
chuyên nghiệp đảm nhiệm đã được xác định trong đạo luật về các công ty
thương mại ngày 24/07/1966, và năm 1960 kiểm toán nội bộ ở Pháp chính
thức được thành lập nhằm mở rộng, tăng cường, ổn định và hiệu quả của
các xí nghiệp. Đến năm 1965 đã thành lập Hội kiểm soát viên nội bộ của


Pháp, sau này trở thành viện nghiên cứu kiểm toán và kiểm soát viên nội
bộ ( IFACI) vào năm 1973. Ơ Mỹ sau cuộc khủng hoảng về kinh tế thế
giới (1929-1933), năm 1934 uỷ ban bảo vệ và trao đổi tiền tệ (SEC) đã
được thành lập và quy chế kiểm tốn viên bên ngồi đã bắt đầu có hiệu
lực, đồng thời trường đào tạo kế tốn viên cơng chứng (AICPA) đã in ra
mẫu chuẩn đầu tiên về báo cáo kiểm tốn Tài khoản của các cơng ty và
đặc biệt là sự ra đời của văn phịng kế tốn trưởng (GAO). Ở Trung Quốc
việc cải cách mở cửa bên cạnh công tác kiểm tra kiểm soát mạnh mẽ nên
đã tạo ra đươc những thành tựu lớn, kiểm toán Nhà nước được xây dựng
từ năm 1983,kiểm toán Độc Lập được xây dựng từ năm 1981.. .
Như vậy có thể nói hầu hết ở các nước trên thế giới song song với
việc quản lý đều có một hệ thống kiểm tra kiểm sốt độc lập ở bên cạnh.
Còn đối với Việt nam chúng ta từ những năm 1945 Bác Hồ đã ký Sắc
lệnh tổ chức thanh tra đặc biệt (SL 64/SL ngày 23/11/1945) tiếp theo đó là
sắc lệnh 57 ngày 04/06/1946 quy định tổ chức bộ máy cán bộ trong đó
lập ra các nha thanh tra , sắc lệnh số 76/SL ngày 25/08/1946 về tổ chức bộ
máy Tài chính và nha thanh tra Tài chính thuộc Bộ. Giai đoạn này Đất
Nước đang đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội theo mơ hình kinh tế kế
hoạch hoá tập trung với các thành phần kinh tế trong đó kinh tế Quốc
Doanh là chủ yếu thì các biện pháp đó là phù hợp. Nhưng chuyển sang
cơ chế thị trường (1986) xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp dưới

sự quản lý của Nhà nước làm xuất hiện nhiều thành phần kinh tế mới với
các mối quan hệ đa dạng và phức tạp thì hệ thống thanh tra kiểm tra kiểm
soát cũng phải thay đổi để phù hợp trong điêù kiện mới và đặc biệt với sự
ra đời của các cơng ty kiểm tốn độc lập, cơ quan kiểm toán Nhà nước,
và gần đây đó là sự ra đời của kiểm tốn nội bộ đã chứng tỏ kiểm toán ở
Việt nam đang từng bước được nhìn nhận, xây dựng, đáp ứng được yêu
cầu của nền kinh tế.
Như vậy sự ra đời của kiểm toán là một tất yếu khách quan cùng
với sự phát triển kinh tế xã hội góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn
định chính trị, đó là một nhu cầu văn minh của xã hội.
2.Bản chất và chức năng của kiểm toán.
A.Kiểm tra,kiểm soát-một chức năng của quản lý


Nói một cách chung nhất, quản lý là một quá trình định hướng và tổ
chức thực hiện các định hướng đã định trên cơ sơ những nguồn lực xác
định nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Quá trình này bao gồm nhiều chức năng
và có thể chia thành nhiều giai đoạn, ở giai đoạn định hướng cần có những
dự báo về nguồn lực và mục tiêu cần và có thể đạt tới, kiểm tra lại các
thông tin về nguồn lực và mục tiêu, xây dựng các trương trình, kế
hoạch. . . Sau đó có thể đưa ra các quyết định cụ thể để tổ chức thực hiện.
Trong giai đoạn tổ chức thực hiện, cần kết hợp các nguồn lực theo các
phương án tối ưu, đồng thời thường xuyên kiểm tra diễn biến và kết quả
của các q trình để điều hồ các mối quan hệ, điều chỉnh các định mức
và mục tiêu trên quan điểm tối ưu hoá kết quả hoạt động. Nhưng kiểm tra
không phải là một giai đoạn của quản lý mà nó được thực hiện ở tất cả
các giai đoạn của quá trình này, bởi vậy cần phải quan niệm kiểm tra là
một chức năng của quản lý. Tuy nhiên chức năng này được thể hiện rất
khác nhau tuỳ thuộc vào cơ chế kinh tế và cấp quản lý, vào loại hình hoạt
động cụ thể, vào truyền thống văn hoá và những điều kiện kinh tế xã hội

trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể.
Về phân cấp quản lý, có nhiều mơ hình khác nhau nhưng thường là
phân thành quản lý vĩ mô của Nhà nước và quản lý vi mô của các đơn vị
cơ sở. Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra của mình hoặc trực tiếp
hoặc gián tiếp. Nhà nước trực tiếp kiểm tra mục tiêu chương trình, kế
hoạch, kiểm tra các nguồn lực, kiểm tra quá trình và kết quả thực hiện các
mục tiêu của các đơn vị, kiểm tra tính trung thực của các thơng tin và tính
pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ. Mặt khác Nhà nước có thể sử
dụng kết quả kiểm tra của các chuyên gia hoặc các tổ chức kiểm tra độc
lập để thực hiện điều tiết vĩ mơ qua các chính sách của mình hoặc tham
gia đầu tư hay với cương vị là khách hàng của đơn vị. Đối với các đơn vị
cơ sơ để đảm bảo hiệu quả hoạt động thì cơ sở đều phải tự kiểm tra mọi
hoạt động của mình trong tất cả các khâu: Rà soát các tiềm lực, xem xét
lại các dự báo, các mục tiêu và định mức, đối chiếu và truy tìm các thơng
số về sự kết hợp sốt xét lại các thông tin thực hiện để điều chỉnh kịp thời
trên quan điểm bảo đảm hiệu năng của mọi nguồn lực và hiệu quả kinh tế
cuối cùng cuả các hoạt động.
Như vậy :


- Kiểm tra gắn liền với quản lý, đồng thời gắn liền với mọi hoạt
động ở đâu có quản lý thì ở đó có kiểm tra
- Quản lý gắn với cơ chế kinh tế, với điều kiện xã hội cụ thể . . .
Khi các điều kiện tiền đề thay đổi thì hoạt động kiểm tra cũng thay đổi
theo
- Kiểm tra nảy sinh và phát triển từ chính nhu cầu quản lý. Khi
nhu cầu kiểm tra chưa nhiều, chưa phức tạp, kiểm tra được thực hiện
đồng thời với các chức năng quản lý khác trên cùng một bộ máy thống
nhất và khi nhu cầu thay đổi tới mức độ cao, kiểm tra cũng cần được tách
ra thành một hoạt động độc lập và được thực hiện bằng một hệ thống

chuyên mơn độc lập
B : Bản chất của kiểm tốn.
Kiểm tốn đó là một lĩnh vực cịn mới mẻ do vây việc nêu ra kiểm tốn
là gì cịn là một vấn đề phải bàn luận. Đã có nhiều quan điểm về kiểm
tốn chẳng hạn có 3 quan điểm sau:
Quan điểm 1: Quan điểm về kiểm toán của Vương Quốc Anh.
“ Kiểm tốn đó là một sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những
bản khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm tốn viên được bổ
nhiệm để thực hiện những cơng việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ
pháp định có liên quan ”
Với nội dung trên, định nghĩa đã nêu khá đầy đủ các mặt đặc trưng
cơ bản của kiểm toán. Tuy nhiên, quan niệm này chỉ phù hợp với kiểm
toán tài chính có đối tượng là bản khai tài chính, do kiểm toán viên độc
lập hoặc được bổ nhiệm tiến hành trên cơ sở các chuẩn mực chung.
Quan điểm 2: kiểm toán được đồng nghĩa với kiểm tra kế toán, một
chức năng của bản thân kế tốn, một thuộc tính cố hữu của kế toán, nội
dung của hoạt động này là rà sốt các thơng tin kế tốn từ chứng từ kế
tốn, định khoản và ghi sổ kế tốn, tính giá các đối tượng kế toán và tổng
hợp cân đối kế tốn.
Quan điểm này mang tính truyền thống trong điều kiện kiểm toán chưa
phát triển và trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Trong cơ chế này Nhà
nước vừa là chủ sở hữu, vừa lãnh đạo trực tiếp nền kinh tế. Do đó, chức
năng kiểm tra của Nhà nước được thực hiện trực tiếp với mọi thực thể
kinh tế xã hội thông qua nhiều khâu kể cả kiểm tra kế hoạch, kiểm tra tài
chính thường xuyên qua giám sát viên của Nhà nước đặt tại xí nghiệp, đó


là kế toán trưởng, đến việc quyết toán và thanh tra các nghiệp vụ cụ thể.
Tuy nhiên quan điểm này mâu thuẫn với việc cơng nhận kiểm tốn là một
hoạt động độc lập có phương pháp riêng và được thực hiện bởi một bộ

máy riêng biệt.
Quan điểm 3 : Quan điểm hiện đại.
Ta thấy trong quá trình phát triển kiểm tốn khơng chỉ giới hạn ở kiểm
tốn bảng khai tài chính hay tài liệu kế tốn mà cịn thâm nhập vào nhiều
lĩnh vực khác như hiệu quả của hoạt động kinh tế, hiệu năng quản lý,
hiệu lực của hệ thống pháp lý trong từng loại hoạt động. . .
Vì vậy,
theo quan điểm hiện đại thì phạm vi của kiểm tốn rất rộng gồm những
lĩnh vực chủ yếu sau :
Lĩnh vực 1: Kiểm tốn thơng tin hướng vào việc đánh giá tính trung
thực và hợp pháp của các tài liệu là cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các
mối quan hệ về kinh tế, tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tài
liệu đó.
Lĩnh vực 2: Kiểm tốn quy tắc hướng vào việc đánh giá tình hình thực
hiện các thể lệ, chế độ, luật pháp ở đơn vị được kiểm tốn trong q trình
hoạt động.
Lĩnh vực 3: Kiểm tốn hiệu quả có đối tượng trực tiếp là sự kết hợp
giữa các yếu tố, các nguồn lực trong từng loại nghiệp vụ kinh doanh :
mua, bán, sản xuất hay dịch vụ. . . Giúp ích trực tiếp cho việc hoạch định
chính sách và phương hướng, giải pháp cho việc hồn thiện hay cải tổ
hoạt động kinh doanh của đơn vị được kiểm toán.
Như vậy quan điểm hiện đại đã khắc phục được các yếu điểm của 2
quan điểm trên đó là không chỉ giới hạn ở các bản khai Tài chính, các
Tài liệu kế tốn mà cịn đi sâu vào các lĩnh vực khác
C. Chức năng của kiểm toán.
Kiểm toán có 2 chức năng cơ bản đó là chức năng xác minh và
chức năng bày tỏ ý kiến, đây là 2 chức năng quan trọng để đưa ra những
ý kiến thuyết phục, tạo niềm tin cho những người quan tâm vào những kết
luận của kiểm toán cho dù là kiểm toán hướng vào lĩnh vực nào trong 4
lĩnh vực chủ yếu trên.

Chức năng xác minh nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài

liệu và tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các bản


khai tài chính. . . xem có tn thủ theo chế độ tài chính hiện hành hay
khơng .
Theo thơng lệ Quốc tế thì chức năng xác minh được cụ thể hoá thành
các mục tiêu và tuỳ thuộc vào đối tượng hay loại hình kiểm tốn mà mục
tiêu có thể khác nhau : VD có 6 mục tiêu về kiểm tốn bản khai tài chính :
1. Xác minh tính hiệu lực
2. Xác minh tính trọn vẹn
3. Xác minh việc phân loại và trình bày
4. Xác minh về ngun tắc tính giá
5. Xác minh về quyền và nghĩa vụ
6. Xác minh về tính chính xác, máy móc.
Và 7 mục tiêu về kiển tốn nội bộ :
1. Xác minh tính hiệu lực
2. Xác minh tính trọn vẹn
3. Xác minh về việc phân loại
4. Xác minh về việc tính giá
5. Xác minh về tính cho phép hay được phép
6. Xác minh về việc ghi sổ và cộng sổ kịp thời so với thời gian quy
định
7. Xác minh về việc đảm bảo các nghiệp vụ đều hợp lý.
Chức năng bày tỏ ý kiến được thể hiện dưới 2 góc độ.
Góc độ tư vấn đưa ra các lời khuyên trong thư quản lý về vấn đề
thực hiện các quy tắc kế toán về hoạch định các chính sách, thực thi các
chế độ, pháp luật, về hiệu quả kinh tế và hiệu năng quản lý bày tỏ ý kiến
được thể hiện qua việc phán xử như một quan toà hoặc kết hợp với xử lý

tại chỗ như cơng việc của thanh tra.
Như vậy có thể nói : “ Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về
thực trạng hoạt động được kiểm toán bằng hệ thống các phương pháp kỹ
thuật của kiểm toán chứng từ và ngồi chứng từ do các kiểm tốn viên có
nghiệp vụ tương xứng trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực :
II.KIỂM TỐN ĐỘC LẬP

1. Định nghĩa
Kiểm tốn độc lập đó là loại kiểm tốn được phân chia từ kiểm tốn nói
chung theo chức năng và chủ thể kiểm tốn. Ra đời do u cầu cung cấp
thơng tin tin cậy của nền kinh tế thị trường đòi hỏi qua quá trình phát


triển của nền kinh tế nói chung, kiểm tốn độc lập được tách ra và phát
triển mạnh mẽ cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường. Nền kinh tế
thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế muốn
quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh cần phải có thơng tin chính xác,
kịp thời và tin cậy. Để đáp ứng được yêu cầu đó, địi hỏi phải có một bên
thứ 3 độc lập khách quan có trình độ chun mơn cao, dược pháp luật cho
phép, cung cấp thông tin tin cậy cho các đối tượng quan tâm. Vì vậy nó
đã hình thành nên loại kiểm toán độc lập này. Luật pháp nhiều Quốc gia
quy định chỉ có các báo cáo tài chính đã được kiểm tốn độc lập mới có
giá trị pháp lý và độ tin cậy.
Hơn thế nữa kiểm tốn độc lập đó là một hoạt động đặc trưng của kinh
tế thị trường đó là các tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán và tư vấn
theo yêu cầu của khách hàng, khi kinh tế thị trường phát triển thì các mối
quan hệ giữa các tổ chức kinh doanh ngày càng nhiều và tính cạnh tranh
ngày càng cao giữa các doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn tồn tại thì phải
quản lý tốt, để quản lý được tốt thì thơng tin trung thực cũng góp phần
quan trọng. . . Do vậy kiểm toán độc lập ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu của

nền kinh tế, cụ thể là các tổ chức các, đơn vị kinh doanh. ở các nước trên
thế giới, đặc biệt là các nước có nền kinh tế sớm phát triển thì kiểm toán
độc lập được ra đời sớm. Ngày nay trên thế giới quy mô và chất lượng
của các tổ chức kiểm tốn độc lập ngày càng lớn mạnh, điều đó được thể
hiện qua các tổ chức kiểm toán độc lập điển hình sau.
1.
Cơng ty kiểm tốn Deloitte Touche Tohmastu (DTTI)
2. Đây là một cơng ty trong 6 cơng ty kiểm tốn lớn nhất Thế giới, hiện có
khoảng 600 văn phịng trên thế giới, cung cấp các dịch vụ kế toán, kiểm
toán và tư vấn Tài chính, thuế, cổ phần hố, đầu tư, quản lý doanh
nghiệp.
Từ năm 1992, DTTI đã vào Việt nam từ văn phòng DTT quốc tế
khu vực Châu á - Thái Bình Dương. DTTI đã giúp Bộ tài chính và cơng ty
kiểm tốn VACO tổ chức các khố đào tạo kế toán, kiểm toán quốc tế tại
Việt nam, trợ giúp cho các chuyên gia của Việt nam tiếp cận với thị
trường thế giới và các nguyên tắc chuẩn mực kiểm tốn quốc tế, cung cấp
các thơng tin chun nghành cho Bộ tài chính nhằm truyền bá các kiến
thức quốc tế vào Việt nam. Cùng với công ty VACO triển khai các dịch vụ
tư vấn và kiểm toán ở Việt nam


Đến tháng 12/1993 DTT được phép đặt văn phòng đại diện tại Việt
nam và tháng 04/1995 DTT đã được phép thành lập cơng ty liên doanh
với cơng ty kiểm tốn Việt nam (VACO) tại Việt nam đây là một kết quả,
một lỗ lực quan trọng nhằm hiểu rõ các phong tục tập quán, các chính
sách pháp luật và nhiều các lĩnh vực khác để các cuộc kiểm toán đạt được
kết quả cao.
2.
Công ty Price Waterhouse (PW)
Đây cũng là 1 trong 6 cơng ty kiểm tốn quốc tế lớn nhất thế giới,

hiện cơng ty có khoảng trên 450 văn phịng nhằm cung cấp các dịch vụ kế
toán, kiểm toán và tư vấn trên khắp thế giới.
PW vào Việt nam từ chi nhánh Hồng Kơng năm 1992 đã giúp Bộ tài
chính và công ty VACO tổ chức hội thảo về thuế, kế toán, kiểm toán, trợ
giúp các chuyên gia Việt nam tiếp cận thị trường thế giới trong lĩnh vực
chuyên ngành, tổ chức các khoá đào tạo tại Việt nam cùng với công ty
VACO, PW đã cung cấp các dịch vụ nghề nghiệp cho các khách hàng ở
Việt nam.
Hiện nay PW đã có chi nhánh ở Hà nội và TPHCM với tên gọi : Công
ty trách nhiệm hữu hạn Price Waterhouse Việt nam.
3. Công ty Arthur Andersen (AA).
Cũng là 1 công ty trong 6 cơng ty kiểm tốn lớn nhất thế giới với khoảng
300 văn phòng trên thế giới. AA cung cấp các dịch vụ kế toán, kiểm toán,
tư vấn như mọi cơng ty kiểm tốn quốc tế lớn khác.
AA vào Việt nam từ tháng 05/1991 thông qua chi nhánh Philippin và
Thái lan, cơng ty giúp Việt nam đào tạo các khố về đào tạo kiểm toán
và kế toán. Kết hợp với thực hiện một số dịch vụ chuyên ngành ở Việt
nam. Tháng 08/1995 AA được phép thành lập chi nhánh ở Việt nam có tên
Cơng ty trách nhiệm hữu hạn Arthur Andersen Việt nam.
4. Liên đồn kế tốn quốc tế (IFAC).
IFAC được thành lập từ năm 1977 có khoảng 100 tổ chức thành viên
với mục tiêu là phát triển và tăng cường sự phối hợp nghiệp vụ kế toán và
kiểm toán độc lập trên phạm vi toàn thế giới với những nguyên tắc và
chuẩn mực phổ biến, tiến dần thành thông lệ của hầu hết các nước trên thế
giới, đáp ứng được yêu cầu của các chính phủ, các doanh nghiệp, các
Nhà tín dụng, các cổ đơng cũng như đáp ứng mối quan tâm của công
chúng trên thế giới. Mục tiêu của IFAC là thúc đẩy các nước trên thế giới


tiến dần đến sự thống nhất và hoà hợp với xu hướng phát triển của nền

kinh tế thế giới với các tập đoàn xuyên quốc gia, toàn cầu.
Qua trên ta thấy được hoạt động kiểm toán độc lập của các tổ chức
kiểm toán độc trên thế giới ngày càng lớn mạnh và phát triển không
ngừng với mục tiêu là kết hợp rộng rãi giữa các quốc gia trên thế giới để
trao đổi, bồi dưỡng kinh nghiệm về kế toán, kiểm tốn và tư vấn. Các tổ
chức trên cũng có các chi nhánh ở Việt nam. Còn ở Việt nam chúng ta
kiểm toán độc lập ra đời muộn so với các nước trên thế giới, băng sự ra
đời của các tổ chức kiểm tốn độc lập.
Ngày 13/05/1991 cơng ty kiểm tốn Việt nam (VACO) chính thức
được thành lập và một loạt các tổ chức kiểm toán độc lập khác như : Cơng
ty dịch vụ kế tốn, kiểm tốn và tư vấn Tài chính (AASC), cơng ty tư vấn
và kiểm tốn (A and C), cơng ty kiểm tốn đà nẵng (ĐAC), cơng ty kiểm
tốn và dịch vụ tin học (ATSC), cơng ty kiểm tốn Hạ long (HAACO).
Các cơng ty 100% vốn nước ngoài gồm :Cong ty Ernst and Young (E and
Y), KPMG Peat Marwick Việt nam, Price waterhouse Việt nam (PW),
Arthur Andersen Việt nam (AA), các công ty liên doanh như VACODTTI, và công ty Coopers and Lybrand AISE. Đã chứng tỏ sự hiện diện
chính thức của kiểm tốn độc lập ở Việt nam đánh dấu một bước ngoặt
lớn trong làng kiểm tốn chứng tỏ Việt nam đã hồ nhập vào xu hướng
phát triển của các nước trên thế giới.
Theo quan điểm của liên đồn kế tốn quốc tế (IFAC)thì kiểm tốn
độc lập đó là một q trình kiểm tốn viên độc lập tiến hành kiểm tra và
trình bày ý kiến của mình về báo cáo tài chính được kiểm tốn. Cịn quy
chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành kèm theo
nghị định số 07/cp ngày 29/01/1994 của chính phủ thì : “ Kiểm tốn độc
lập đó là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp
thuộc các tổ chức kiểm toán độc lập về tính đúng đắn và hợp lý của các
Tài liệu số liệu kế toán và các báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp,
các cơ quan, các tổ chức đồn thể, tổ chức xã hội khi có u cầu của đơn
vị này”.
3. Vai trị của kiểm tốn độc lập trong quản lý vĩ mô- vi mô.

Sự ra đời và phát triển của các tổ chức kiểm toán độc lập trong nền
kinh tế quốc dân là xu hướng tất yếu khách quan và có tính quy luật. Kiểm


tốn độc lập là một cơng cụ quản lý tài chính đắc lực góp phần nâng cao
tính hiệu quả của nền kinh tế thị trường.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường đó là nhiều thành phần kinh tế, tự
do sản xuất, kinh doanh theo luật định và tự do cạnh tranh. Để tồn tại và
phát triển thì mỗi doanh nghiệp phải tự thân vận động, làm mọi cách để
hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường. Với đặc trưng về tư vấn
tài chính và kế tốn của mình kiểm tốn độc lập giúp cho các doanh
nghiệp tồn tại và phát triển trong cạnh tranh hay nói một cách khác các tổ
chức, các doanh nghiệp cần có kiểm tốn độc lập để giúp cho cơng việc
sản xuất kinh doanh của mình đạt hiệu quả cao.
Cịn ở tầm vĩ mơ kiểm tốn độc lập tạo được sự khách quan hết sức cần
thiết để tập trung phân bổ đồng vốn một cách phù hợp với quy luật và đạt
hiệu quả kinh tế cao nhất để lành mạnh hoá và ổn định thị trường. Hơn
thế nữa Nhà nước dưạ vào kết quả của kiểm tốn độc lập để đề ra các
chính sách vĩ mô điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đặc biệt trong thời gian gần
đây các doanh nghiệp trong nuớc làm ăn thua lỗ khơng phải là ít bên cạnh
đó là việc tham nhũng của các cán bộ có chức có quyền ,móc ngoặc với
nhau để chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa ,tài sản của nhân dân điển
hình là các vụ án như Nhà máy dệt Nam Định và gần đây là vụ án Minh
phụng –EFCO, Tân Trường Xanh. . . đã làm thiệt hại cho nhà nước hàng
nghìn tỷ đồng. Những vấn đề đó cũng là do các cỏ quan quản lý của nhà
nước lỏng lẻo trong kiểm tra kiểm soát ,do vậy hoạt động kiểm tốn cần
phải phát huy trách nhiệm của mình hơn nữa để giúp nhà nuớc ngăn chặn
những thiệt hại không đáng có.
Có thể nói kiểm tốn độc lập có một vai trò rất quan trọng trong nền
kinh tế thị trường, điều đó được thể hiện thơng qua các tổ chức kiểm toán

độc lập trên thế giới ngày một hùng mạnh cả về số lượng các cơng ty kiểm
tốn, các kiểm tốn viên độc lập, về chất lượng các cuộc kiểm toán, đặc
biệt phạm vi kiểm toán và tư vấn ngày càng được mở rộng trong mọi lĩnh
vực và mọi khía cạnh của nền kinh tế, việc kiểm toán độc lập ra đời là
một tổ chức trung gian độc lập khách quan với các bên có liên quan đó là
một tất yếu khách quan và thiết thực đối với sự phát triển kinh tế đất
nước.
Đối với các đơn vị có liên quan thì hoạt động kiểm tốn cũng góp
phần quan trọng cho việc quản lý và tổ chức thực hiện. Bởi vì các chủ


doanh nghiệp, người có nghĩa vụ và trách nhiệm lập báo cáo tài chính đều
muốn giấu các phần yếu kém và khuyếch chương kết quả của mình trên
bản báo cáo tài chính đó. Trái lại các cổ đơng những người quan tâm đến
kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp lại địi hỏi sự
trung thực chính xác của bản báo cáo tài chính, do đó họ cần những thơng
tin trung thực và chính xác thơng qua kiểm tốn độc lập
Bản báo cáo Tài chính của doanh nghiệp đă được kiểm toán viên độc
lập và xác nhận là trung thực và hợp lý sẽ là cơ sở pháp lý cho các cơ quan
Nhà nước quản lý điều hành doanh nghiệp và những người quan tâm xử lý
các quan hệ trong kinh doanh.
- Ngân hàng cần có thơng tin trung thực để cho vay vốn...
- Các cổ đông, những người lao động, cơng ty có vốn, đơn vị nước
ngồi. . . đều cần có thơng tin trung thực để xem xét kinh doanh của mình
một cách có hiệu quả.


PHẦN 2: VAI TRỊ VÀ Ý NGHĨA CỦA KIỂM TỐN ĐỘC LẬP ĐỐI
VỚI CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ QUỒC DÂN
I. Ý nghĩa, tác dụng của kiểm toán độc lập

1. Góp phần hướng dẫn ngiệp vụ, củng cố nề nếp hoạt động Tài chính

kế tốn nói riêng và hoạt động của các đơn vị nói chung
Hoạt động tài chính bao gồm các mối quan hệ đa dạng, luôn
biến đổi và được cấu thành bởi hàng loạt nghiệp vụ cụ thể. Để hướng các
nghiệp vụ này vào mục tiêu giải quyết tốt các quan hệ trên, mà cần thường
xuyên soát xét lại việc thực hiện để hướng các nhiệm vụ vào quỹ đạo
mong muốn. Trong đó hoạt động tài chính lại bao gồm nhiều mối quan hệ
về đầu tư, kinh doanh, phân phối và thanh tốn. Tính phức tạp của hoạt
động này càng tăng lên bởi mối quan hệ chặt chẽ giữa các quan hệ tài
chính với lợi ích của mỗi người. Trong khi đó thơng tin kế tốn là sự phản
ánh hoạt động của tài chính, là sản phẩm của q trình sử lý thơng tin
bằng các phương pháp kỹ thuật đặc thù. Do đó nhu cầu hướng dẫn nghiệp
vụ và củng cố nền nếp trong quản lý tài chính càng địi hỏi thường xun
và ở mức cao hơn.
Trong khi đó kiểm tốn độc lập có chức năng tư vấn về Tài
chính kế tốn sẽ giúp cho đơn vị tránh được những yếu điểm, khiếm
khuyết trong quá trình tổ chức thực hiện để có được hiệu quả về nền nếp
tài chính ngày càng cao .
2.Tạo niềm tin cho những người quan tâm đến kết quả hoạt động. Đặc
biệt trong kinh tế thị trường có nhiều ngươig cần quan tâm tới tình hình
Tài chính và sự phản ánh của nó trong Tài liệu kế tốn đó là:
- Các cơ quan Nhà nước cần có thơng tin trung thực để điều tiết vĩ
mô nền kinh tế... với mọi thành phần kinh tế, mọi hoạt động xã hội. Do
vậy Nhà nước phải giám sát chặt chẽ theo đúng pháp luật và có hiệu quả.
- Các Nhà đầu tư khơng chỉ có đầu tư trong nước mà cịn có đầu tư
từ nước ngồi cần có thơng tin tin cậy để có hướng đầu tư đúng đắn, để
điều hành sử dụng vốn đầu tư và sau đó là sự phân chia kết quả của hoạt
động đầu tư. Trong cơ chế thị trường do tính đa phương hoá đầu tư và đa



dạng của các thành phần kinh tế nên các Nhà đầu tư cũng phong phú và đa
dạng gồm: Nhà nước, tư nhân, các đơn vị nước ngồi, các cổ đơng,xã
viên. .. Do vậy để thu hút vốn và các Nhà đầu tư nhằm tạo cơ hội thuận
lợi cho họ, xây dựng hợp lý mọi nguồn vốn đầu tư, cần có những thơng tin
trung thực, khách quan về tình hình tài chính mà chủ yếu là các bản khai
về tài chính, tài sản thu nhập, các bản thuyết trình kèm theo.
- Các Nhà quản trị doanh nghiệp và các Nhà quản lý khác vì cơng
việc kinh doanh mà khơng thể kiểm sốt hết hàng ngàn, hàng vạn nghiệp
vụ tài chính, kế toán đã xảy ra trong doanh nghiệp. Các chủ doanh nghiệp
thường uỷ quyền việc kiểm soát các nghiệp vụ tài chính, kế tốn cho
người phụ tá hoặc một trong những cổ đơng phụ trách, vì thế để biết đuợc
một cách chính xác, trung thực tình hình tài chính, kế tốn của mình vào
thời hạn nào đó, các chủ doanh nghiệp đã mời các kiểm tốn viên chun
nghiệp độc lập có uy tín thực hiện việc kiểm tra và nhận xét bản báo cáo
tài chính của doanh nghiệp mình do người phụ trách kế toán lập.
Những nhận xét của kiểm toán viên sẽ giúp cho các chủ doanh
nghiệp kịp thời phát hiện ra những sai sót, lãng phí, vi phạm pháp luật do
cố tình hay vơ ý để xử lý kịp thời ngăn ngừa các tổn thất. Điều đó giúp
doanh nghiệp hạn chế được những rủi ro, biết phát hiện ra những thế
mạnh, tiềm năng tài chính nội tại đang có trong doanh nghiệp mà chỉ có
những kiểm tốn viên với bề dày kinh nghiệm thực tế mới có thể phát hiện
ra.
-Bên cạnh đó những chủ doanh nghiệp làm ăn chính đáng có hiệu
quả nhưng vì lý do nào đó bị tai tiếng thì kiểm tốn viên sẽ là người xác
nhận, bảo vệ cho họ. Nhận xét của những kiểm toán viên có uy tín sẽ làm
tăng thêm tính pháp lý của bản báo cáo tài chính và danh tiếng của doanh
nghiệp giúp cho doanh nghiệp càng có lợi thế hơn trong sản xuất kinh
doanh và thuận lợi trong quan hệ tài chính với các đơn vị tài chính bên
ngồi. Hơn thế nữa các Nhà quản trị doanh nghiệp, các Nhà quản lý khác

cần những thông tin trung thực không chỉ trên bảng khai tài chính mà cịn
những thơng tin cụ thể về tài chính về hiệu quả và hiệu năng của mỗi bộ
phận để có những quyết định trong mọi giai đoạn quản lý kể cả tiếp nhận
vốn liếng, chỉ đạo và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh và hoạt động
quản lý.


-Người lao động, khách hàng, các Nhà cung cấp và những người
quan tâm khác cũng cần hiểu rõ thực chất về kinh doanh, tình hình tài
chính của các đơn vị như số lượng, chất lượng sản phẩm hàng hoá,cơ cấu
sản xuất và khả năng thanh tốn..
Như vậy để có thơng tin trung thực thì chỉ có qua kiểm tốn mới
có được. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì vai trị của kiểm tốn
độc lập là hết sức quan trọng.
II.Vai trị của kiểm tốn độc lập đối với khách thể của kiểm tốn độc
lập ở Việt nam
Theo thơng tư số 22 TC/CĐKT (29/01/94) đã nêu rõ đối tượng của
kiểm toán độc lập chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế. Ngoài các doanh nghiệp đối tượng của kiểm tốn độc lập có thể là các
đơn vị hành chính sự nghiệp, các đồn thể quần chúng các tổ chức xã
hộivà các tổ chức quốc tế. Khi các tổ chức này có nhu cầu hoặc cơ quan
quản ký cấp trên, cơ quan thuế hoặc cơ quan Nhà nước yêu cầu. Như vậy
có thể nói đối tượng (khách thể) của kiểm toán độc lập rộng hơn so với
kiểm toán Nhà nước. Khi nền kinh tế thị trường phát triển, các thành phần
kinh tế các tổ chức kinh tế đa dạng và phức tạp, bên cạnh đó mối quan hệ
giữa các doanh nghiệp, sự quan tâm đến tình hình tài chính của nhau ngày
càng tăng hay nói cách khác ngày càng có nhiều đối tượng quan tâm đến
tin tức tài chính của doanh nghiệp. Nhưng khơng phải tất cả mọi người đều
tin ngay vào bản tự báo cáo của doanh nghiệp mà phải có sự kiểm tra độ
tin cậy của bản báo cáo đó. Điều đó dẫn đến nhu cầu về kiểm toán độc lập

ngày càng cao và khách thể của kiểm toán độc lập ngày càng mở rộng. Ở
Trung Quốc thì đối tượng bắt buộc phải được kiểm tốn độc lập xác nhận
gồm:
- Tất cả các cơng ty có vốn đầu tư nước ngồi(Cơng ty 100% vốn
nước ngồi, liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh).
- Tất cả các cơng ty có phát hành cổ phiếu(tham gia thị trường
chứng khoán) đều phải được kiểm toán độc lập xác nhận trên báo cáo tài
chính hai năm liềnvà phải có lãi.
- Các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện tư nhân hoá..
Riêng ngân hàng Thượng Hải quy định: “Tất cả khách hàng muốn
vay tiền của ngân hàng Thượng Hải đều phải nộp báo cáo tài chính đã


được kiểm toán viên xác nhận”. Nhưng ở Việt nam ta, thơng tư số 22 quy
định khách thể kiểm tốn độc lập gồm:
- Các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- Các doanh nghiệp liên doanh giữa các tổ chức trong và ngoài
nước.
- Các hợp tác xã và doanh nghiệp cổ phần.
- Các doanh nghiệp và xí nghiệp tư (kể cả các cơng ty trách nhiệm
hữu hạn).
- Các cơng trình dự án có nguồn ngân sách từ bên ngồi ngân sách
Nhà nước.
1.Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
(Gồm các doanh nghiệp giữa các tổ chức trong và ngoài nước và các
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài)
Đại hội Đảng 8 đã đề ra là đưa đất nước phát triển theo hướng cơng
nghiệp hố và hiện đại hố đất nước nhằm tiến nhanh, tiến mạnh, vững
chắc lên Chủ nghĩa xã hội . Do đó để thực hiện được những mục tiêu trên
thì cơ chế quản lý kinh tế cũng phải được hồn thiện cho phù hợp đặc biệt

đó là nguồn vốn lớn lao phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hố và hiện
đại hoá đất nước. Việt nam ta đã phải trải qua nhiều cuộc khánh chiến
trường kỳ đi lên xây dựng đất nước từ một nền kinh tế nhỏ bé, lạc hậu,
công nghiệp nhỏ là chủ yếu với một cơ sở hạ tầng bị chiến tranh tàn phá
nặng nề đặc biệt trải qua một thời gian dài với cơ chế quản lý tập trung
quan liêu bao cấp cho nên nền kinh tế vốn đã yếu kém càng trở lên khó
khăn hơn trước, từ những thực tế đó Đại Hội Đảng 6 (12/86) đã quyết định
chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nuớc cùng với chinh sách mở cửa “Việt nam sẵn
sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” để nhằm thu hút sự đầu tư
giúp đỡ của nước ngoài, để đưa đất nước đi lên hồ nhập với nền kinh tế
thế giới thơng qua thực hiện phân công lao động quốc tế. Chủ trương của
Nhà nước là tăng tốc độ phát triển kinh tế, đạt bình quân 400usd/1 người
một năm vào cuối thế kỉ 20,muốn đạt mục tiêu này thì tốc độ phát triển
bình quân hàng năm phải đảm bảo đạt là 7% trở lên và nhu cầu về vốn đầu
tư phải có từ 4,2 tỷ usd trở lên cho mỗi năm tức là tích luỹ phải đạt trên
22% thu nhập quốc dân hàng năm. Đây là con số tích luỹ vượt quá khả


năng nền kinh tế nước ta cho nên nhu cầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài là
nguồn bổ xung quan trọng để nước ta có thể đạt được 26,3 tỷ usd tổng sản
phẩm thu nhập năm 2000 đảm bảo gấp đơi thu nhập quốc dân năm 1990.
Vì nếu có vốn đầu tư nước ngồi có thể mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh và dịch vụ, không những thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn giúp
ta giải quyết tình trạng thất nghiệp đang đè nặng nên nền kinh tế của đất
nước. Hơn thế nữa thông qua đầu tư của các nước phát triển chúng ta có
điều kiện tiếp nhận những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế
giới nhờ đó có thể giảm bớt được khoảng cách tăng trưởng cuả ta so với
các nước .
Chỉ có dựa vào sự thu hút vốn đầu tư quốc tế chúng ta mới đủ khả

năng khai thác có hệu quả những tiềm năng của đất nước mà bao năm qua
không có vốn chúng ta khơng thể đưa vào khai thác như dầu mỏ, khống
sản. . . Bên cạnh đó thơng qua hợp tác liên doanh với nước ngồi chúng ta
cịn học được kinh ngiệm quản lý kinh doanh, học tập cách làm thương
mại và phong cách làm việc trong điều kiện kinh tế thị trường của các
doanh nghiệp nước ngoài.
Thực trạng hơn 10 năm qua chúng ta đã đạt được những thành tựu
hết sức to lớn đó là khơng ngừng tăng trưởng kinh tế đưa đất nước dần
thoát ra khỏi đói nghèo, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện.. .
Mặc dù trong năm qua khu vực có những biến động, khủng khoảng lớn về
kinh tế nhưng tốc độ tăng trưởng của Việt nam vẫn đạt 5.6%(năm 1998)
cao nhất trong khu vực Đơng Nam Á. Có được thành tựu đó là nhờ sự lỗ
lực của tồn Đảng, tồn dân ta trong đó cũng có sự đóng góp của các
doanh nghiệp Việt nam có vốn đầu tư nước ngồi. Đặc biệt là nguồn vốn
FDI trong 10 năm qua không chỉ thay đổi về số lượng dự án mà tổng số
vốn đầu tư và chất lượng đầu tư cũng thay đổi đáng kể. Từ 1988-1990
FDI chỉ dừng lại ở những dự án vừa và nhỏ với quy mơ trung bình 8,5
triệu USD /1dự án. Cuối năm 1990 có khoảng 203 dự án với tổng số vốn
1726 triệu USD. Đến giai đoạn 91-95 tỷ lệ tăng trung bình là 50 % tuy
nhiên do ảnh hưởng của khủng khoảng kinh tế khu vực lên đầu tư trực tiếp
vào Việt nam bị ảnh hưởng và chững lại có suy giảm nên 1996 tổng FDI là
8,5 tỷ USD tăng 30% so với năm 95 với độ lớn trung bình của dự án là
26,1 triệu USD thì đến năm 1997 tổng FDI chỉ cịn khoảng 4,4 tỷ với trung
bình 13,1 triệu USD/dự án. Năm 1998 có khoảng 260 dự án với tổng số


vốn là 4827,6 triệu USD. Cũng theo số liệu thống kê năm 1997 các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nuớc ngồi đã tạo ra 7,8 % GDP chưa kể xí nghiệp
liên doanh dầu khí Việt-Xơ Petro. Tính đến hết ngày 30/9/1998 có 1052
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi ở Việt nam.

Những con số trên cho thấy FDI ở Việt nam ngày càng có xu
hướng gia tăng nhưng để cho việc đầu tư vào nền kinh tế trong nước đảm
bảo và đạt hiệu quả cao, đơi bên cùng có lợi thì Đảng và Nhà nước ta cũng
đã quy định về việc áp dụng chế độ kế tốn Tài chính vào các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi địi hỏi cấp bách đặc biệt là kiểm toán
độc lập trong lĩnh vực này cũng được nâng cao không chỉ đối với Việt nam
mà còn đối với cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư vào Việt nam.
Điều 98 NĐ 18-CP ngày 16/3/1993 của chính phủ quy định chi tiết
luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam đã quy định: “Báo cáo kế tốn của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nuớc ngồi phải được cơng ty kiểm tốn xác
nhận trước khi gửi cho Uỷ Ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư và cơ quan
thuế trong vòng 3 tháng kể từ ngày khố sổ năm tài chính của doanh
nghiệp”.
Điều 2 quy chế kiểm toán độc lập (ban hành kèm theo nghị định 07/
cp ra ngày 29/01/94 của chính phủ cũng đã quy định: “Báo cáo quyết tốn
của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, các cơng ty trách nhiệm hữu hạn,
cơng ty cổ phần, xí nghệp tư doanh hoạt động theo lụât công ty, luật
doanh nghiệp tư nhân phải có xác nhận của kiểm tốn độc lập mới có giá
trị pháp lý”.
Thông tư 27 TC/CĐKT quy định : “Các xí nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi hoạt động theo luật đầu tư nước ngồi tại Việt nam thì cơng
việc kiểm toán được thực hiện hàng năm. Báo cáo quyết toán gửi cho các
cơ quan quản lý Nhà nước phải kèm theo báo cáo kiểm toán của tổ chức
kiểm toán độc lập hoạt động hợp pháp tại Việt nam hoặc một tổ chức
kiểm toán độc lập khác được Bộ tài chính chấp nhận”.
Đảng và chính phủ ta khuyến khích các xí nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi áp dụng chế độ kế toán thống kê quy định tại pháp lệnh thống
kê ngày 10/5/1988. Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi có thể thực hiện
chế độ kế tốn và thống kê theo những tiêu chuẩn và quy tắc phổ biến
được Bộ tài chính và Tổng cục thống kê chấp thuận và chịu sự kiểm tra

của cơ quan tài chính và thống kê Việt nam.


Qua đó thực trạng đã diễn ra một số vấn đề sau:
1. Một số các xí nghiệp đã coi nhẹ cơng tác thống kê kế tốn đặc
biệt là cơng tác thống kê, hơn thế nữa có những xí nghiệp trong một thời
gian dài khơng có một báo cáo nào gửi tới các cơ quan chức năng.
2. Do có đối tác nước ngồi thuộc nhiều nước khác nhau nên một số
xí nghiệp áp dụng một số chế độ kiểm toán và thống kê khác nhau điều đó
đã gây ra nhiều khó khăn cho các cán bộ Việt nam dẫn đến báo cáo gửi
các cơ quan quản lý không đúng như thời gian quy định gây khó khăn cho
các Nhà quản lý.
3.Chất lượng các báo cáo không đạt yêu cầu như thu chi, phân bổ
không phù hợp với quy định hiện hành của Bộ tài chính. Đặc biệt nhiều
khoản thu chi do vơ tình hay cố ý khơng được phản ánh trong báo cáo kế
toán nhằm giảm các khoản phải nộp cho ngân sách Nhà nước điển hình
như bảo hiểm xã hội, thuế thu nhập cá nhân. . .
Những tồn tại trên đã gây khó khăn đến việc tổng hợp số liệu các cơ
quan chức năng Nhà nước, thiếu cơ sở dữ liệu để đánh giá chính xác đặc
biệt là hoạt động hợp tác đầu tư nước ngồi từ đó có những đánh giá sai
lệch về vai trị của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh
tế chung của đất nước.
Điều đó địi hỏi các báo cáo kế tốn phải được cơng ty kiểm tốn
độc lập kiểm tra trước khi gửi nó đến cơ quan cấp trên. Hơn nữa sự ra đời
của kiểm toán độc lập đã tạo ra sức hút mạnh mẽ với các nhà đầu tư nước
ngoài. Kể từ khi có luật đầu tư nước ngồi các danh nghiệp nước ngồi
liên tục tìm kiếm cơ hội để xâm nhập vào thị trường Việt nam bởi vì Việt
nam là một nước đang phát triển nhiều tài nguyên thiên nhiên và nhân
công dồi dào. . . Tuy nhiên nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài
chưa quyết định đầu tư vào Việt nam hoặc đã có giấy phép nhưng chưa

thực hiện hoặc đã thực hiện nhưng không thực hiện triệt để dự án.Một
trong những nguyên nhân chủ yếu giữa các doanh nghiệp trong nước và
nước ngoài là chưa có đủ tổ chức tư vấn về tài chính, kế tốn và kiểm
tốn có uy tín theo tập qn quốc tế. Người nước ngồi đã quen với cách
thu thập thơng tin qua người trung gian bằng cách thuê các kiểm tốn viên
kiểm tra khả năng tài chính của đối tác trước khi xác định đầu tư. Hay
ngay trong quá trình kinh doanh cũng phải có người tư vấn kiểm tốn xác
nhận báo cáo tài chính. Hoạt động kiểm tốn độc lập ở Việt nam còn nhỏ


bé đã làm cho nhiều người nước ngoài e ngại bỏ vốn đầu tư vào Việt nam.
Một cố vấn của Ngân hàng thế giới nói “Chỉ khi nào kiểm tốn Việt nam
có thể kiểm tra bảo đảm rằng vốn của Ngân hàng thế giới đưa vào Việt
nam được sử dụng đúng mục đích và có khả năng hồn trả thì Ngân hàng
thế giới mới yên tâm bỏ vốn vào Việt nam ”. Nhiều chuyên gia trên thế
giới nhận định kiểm tốn Việt nam phát triển phù hợp với thơng lệ quốc tế
sẽ tạo ra môi trường thu hút các nhà đầu tư nước ngồi tăng thêm lịng tin,
khuyến khích các doanh nghiệp có tiềm năng vào Việt nam hoạt động.
Như vậy kiểm toán Việt nam phải phát triển cả chiều rộng và chiều
sâu mới có đủ khả năng thực hiện đúng được yêu cầu cấp bách của các cá
nhân và tổ chức nước ngồi. Có thể nói họ n tâm vào các kết quả được
kiểm toán và sẽ lựa chọn những lĩnh vực, phạm vi, khía cạnh để đầu tư
vào Việt nam với mục đích thu được hiệu quả và lợi nhuận lớn nhất. Do
vậy nhà nước cũng phải có những biện pháp thích hợp tạo điều kiện thuận
lợi cho cơng việc đầu tư nước ngồi vào Việt nam để có thể cải tiến nền
kinh tế đất nước cho một tương lai tốt đẹp.
2.Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn
a. Công ty cổ phần
Nền kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, với sự bung ra cuả các thành

phần kinh tế các doanh nghiệp có nhiều hình thức khác nhau: các tổ chức,
đơn vị, hợp tác xã... tất cả cùng vận động trong cơ chế thị truờng. Sự tiếp
cận đuợc lý thuyết về kinh tế thị trường đã là một vấn đề nhưng cịn khó
hơn để làm sao vận hành lý thuyết đó vào thực tế nhằm đưa hoạt động sản
xuất kinh doanh đó có hiệu quả, giảm thiểu những khiếm khuyết vốn có
của nền kinh tế thị trường... Đó là mối quan tâm của Nhà nước và chính
các đơn vị kinh doanh do đó đơn vị kinh doanh cũng không thể lơ là bỏ
mặc trách nhiệm cho Nhà nước như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
Như vậy trong suốt thời gian chuyển sang cơ chế thị trường. Một số các
doanh nghiệp làm ăn có lãi vì lý do nào đó như biết cách quản lý, biết cách
sử dụng vốn có hiệu quả... bên cạnh đó cịn có các đơn vị làm ăn bị thua
lỗ, như vậy biện pháp để đưa các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trở lại sản
xuất có lãi thì Nhà nước ta đã đề ra cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà



×