VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI PHƯƠNG DUNG
KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN MINH ĐỨC
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của TS. Lê Thị Dương.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính khoa học cũng như về nội dung trích
dẫn tài liệu của luận văn này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Học viên
BÙI PHƯƠNG DUNG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN
HÌNH SỰ .......................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm của kiểm sát thi hành án hình sự.............................. 7
1.2. Nội dung nhiệm vụ, phương pháp thực hiện công tác kiểm sát thi hành án
hình sự. ............................................................................................................ 14
1.3. Các điều kiện đảm bảo công tác kiểm sát thi hành án hình sự ................ 26
Chương 2. THỰC TIỄN CÔNG TÁC KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN HÌNH
SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI ..................................................... 31
2.1. Tình hình, đặc điểm kinh tế - xã hội và cơ cấu tổ chức tổ chức bộ máy các
cơ quan tư pháp có ảnh hưởng đến công tác kiểm sát thi hành án hình sự trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai ..................................................................................... 31
2.2. Thực trạng công tác kiểm sát thi hành án hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Đồng Nai ........................................................................................... 39
2.3. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong
công tác kiểm sát thi hành án hình sự của VKS nhân dân tỉnh Đồng Nai thời
gian qua ........................................................................................................... 51
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐỒNG NAI .......................................................................................... 59
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát thi
hành án hình sự ............................................................................................... 59
3.2. Phương hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát thi hành
án hình sự ........................................................................................................ 62
3.3. Giải pháp bảo đảm việc nâng cao chất lượng công tác kiểm sát thi hành
án hình sự ........................................................................................................ 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 84
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ANTT
An ninh trật tự
BLHS
Bộ luật Hình sự
BLTTHS
Bộ luật Tố tụng hình sự
TAND
Tòa án nhân dân
THAHS
Thi hành án hình sự
VKS
VKS
VKSND
VKS nhân dân
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Thống kê diện tích, dân cư các đơn vị hành chính trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai .......................................................................................... 84
Bảng 1.2: Tình hình thi hành án hình sự theo hình phạt trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai ................................................................................................. 85
Bảng 1.3: Kết quả kiểm sát việc ra quyết định THAHS trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai ................................................................................................. 86
Bảng 1.4: Kết quả kiểm sát việc thi hành quyết định THAHS trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai .......................................................................................... 87
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác THAHS là nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động tư pháp. Đây
là khâu cuối cùng với mục đích không chỉ để trừng trị người phạm tội mà còn
giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội, góp
phần tích cực trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mà còn nhằm đảm bảo
quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Tuy nhiên, để đạt được
mục đích này, không thể thiếu một công tác rất quan trọng thuộc chức năng,
nhiệm vụ của VKSND theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, đó là công
tác kiểm sát THAHS.
Kiểm sát THAHS là việc VKSND kiểm tra, giám sát việc tuân theo
pháp luật của Tòa án, cơ quan THAHS, cơ quan, tổ chức được giao một số
nhiệm vụ THAHS, người có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan trong việc THAHS. Công tác này có vị trí, tầm quan trọng đặc biệt trong
việc bảo đảm tính thống nhất, công bằng và nghiêm minh của pháp luật nhằm
phục vụ công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo vệ
quyền con người, bảo vệ quyền dân chủ của công dân góp phần thực hiện
những nhiệm vụ chung của ngành Kiểm sát.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,
chính sách cùng các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các mối quan
hệ trong công tác thi hành hình sự như Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” đã xác định
“Xây dựng Bộ luật thi hành án điều chỉnh tất cả các lĩnh vực thi hành án;
…từng bước xã hội hoá hoạt động thi hành án”; Luật THAHS được Quốc hội
thông qua ngày 17/6/2010, có hiệu lực từ ngày 01/7/2011 khi đi vào thực tiễn
đã phát huy tác dụng tích cực và có hiệu quả trong công tác THAHS.
1
Đồng Nai là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam bộ, có vị trí hết sức quan
trọng, là cửa ngõ phía đông thành phố Hồ Chí Minh - một trung tâm kinh tế
lớn của cả phía Nam, nối Nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên với toàn bộ vùng
Đông Nam Bộ bởi các tuyến giao thông huyết mạch như quốc lộ 1A, quốc lộ
51 và tuyến đường sắt Thống Nhất… Vì thế, Đồng Nai được coi như là “bản
lề chiến lược” giữa bốn vùng của các tỉnh phía Nam. Nó không chỉ có vai trò
trọng yếu trong phát triển kinh tế, mà còn có ý nghĩa đặc biệt về kinh tế kết
hợp an ninh quốc phòng và môi trường của vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam. Những điều kiện tự nhiên, dân cư đã tác động không nhỏ tới công tác
đấu trang, phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Số
lượng tội phạm tăng lên, số bị cáo bị kết án vì thế cũng ngày càng tăng, đòi
hỏi hoạt động thi hành án nói chung và kiểm sát THAHS nói riêng phải được
chú trọng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội.
Quán triệt các Nghị quyết của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật
như Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Luật
THAHS…thời gian qua ngành kiểm sát tỉnh Đồng Nai đã có nhiều cố gắng
trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát THAHS, phát hiện những vi
phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức và người có trách nhiệm trong việc
THAHS, kịp thời kiến nghị, kháng nghị khắc phục vi phạm trong công tác
THAHS. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế như
chất lượng kiểm sát THAHS chưa cao, hiệu quả thấp, chưa phát hiện vi phạm
hoặc phát hiện vi phạm nhưng chưa áp dụng biện pháp phù hợp để yêu cầu
chấm dứt, khắc phục vi phạm; Một số chỉ tiêu công tác kiểm sát và chương
trình công tác năm, nhiều đơn vị chưa hoàn thành, chưa bám sát theo Hệ
thống chỉ tiêu kiểm sát trong ngành KSND và Quy chế nghiệp vụ, Chỉ thị,
Hướng dẫn và yêu cầu của Nghị quyết 37/2012/QH13 của Quốc hội đặt ra…
2
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu phân tích thực trạng của
công tác kiểm sát THAHS, xác định những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
của nó, đề ra các giải pháp bảo đảm việc nâng cao chất lượng công tác kiểm
sát THAHS là rất cần thiết và có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác
giả lựa chọn đề tài “Kiểm sát thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng
Nai” làm luận văn thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài như:
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tạm giữ,
tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo yêu cầu cải
cách tư pháp hiện nay” của VKSND tối cao, do Ngô Quang Liễn chủ nhiệm,
nghiệm thu năm 2007, nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong
tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo yêu
cầu cải cách tư pháp [28].
- Chuyên đề “Tổng kết 50 năm công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù” của VKSND tối cao,
do Bùi Đức Long chủ biên, nghiệm thu năm 2010, khái quát quá trình hình
thành, phát triển cùng những thành tựu, hạn chế trong công tác kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù từ khi
VKSND thành lập năm 1960 đến năm 2010.[29]
Vấn đề liên quan tới kiểm sát THAHS còn có nhiều bài viết đăng trên
các tạp chí chuyên ngành như: Bài viết “Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tạm giữ, tạm giam và THAHS có cần ban hành “quyết định trực tiếp
kiểm sát” không?” của tác giả Nguyễn Hải Phùng, Tạp chí kiểm sát số 7/2012
[16]; Bài viết “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát THAHS của
VKSND” của tác giả Vũ Đức Chấp, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6/2010 [6];
3
Bài viết “Bàn về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND” tác giả Bùi Đức
Long, Tạp chí Kiểm sát, số 23/2010 [14].
Ngoài ra còn có một số luận văn nghiên cứu có liên quan tới đề tài như:
luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Thế Linh (năm 2014) “Kiểm sát tạm giữ, tạm
giam và THAHS trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn Thủ đô Hà Nội” [15];
Trần Thị Thục Anh (năm 2016) “Kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam
giữ theo quy định của pháp luật từ thực tiễn thành phố Hà Nội” [2]…
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến các góc độ khác nhau về
vấn đề có liên quan tới kiểm sát THAHS . Tuy nhiên, cho đến nay chưa có
công trình nào nghiên cứu về công tác kiểm sát THAHS trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về kiểm sát THAHS của VKSND; đánh
giá thực trạng công tác kiểm sát THAHS của VKSND ở tỉnh Đồng Nai, luận
văn đưa ra các giải pháp bảo đảm việc nâng cao chất lượng hiệu quả công tác
kiểm sát THAHS của VKSND ở tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới nhằm đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ:
- Phân tích khái niệm THAHS, khái niệm kiểm sát THAHS; phân tích
đặc điểm của kiểm sát THAHS, nội dung nhiệm vụ và phương thức thực hiện
của công tác kiểm sát THAHS; làm rõ các điều kiện bảo đảm công tác kiểm
sát THAHS
- Đánh giá thực trạng công tác kiểm sát THAHS trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai, tìm ra những nguyên nhân hạn chế của công tác này.
4
- Trên cơ sở phân tích đánh giá, luận văn đề xuất một số giải pháp bảo
đảm việc nâng cao chất lượng hiệu quả công tác kiểm sát THAHS của VKSND
ở tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác kiểm
sát THAHS của VKSND.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu những
vấn đề lý luận cơ bản về công tác kiểm sát THAHS
- Về không gian và thời gian: tác giả nghiên cứu trên cơ sở khảo sát
thực tế, thu thập số liệu, tài liệu thực tiễn của công tác kiểm sát THAHS của
VKSND hai cấp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2013 đến năm 2017
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; những quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, về đấu tranh phòng chống tội phạm. Sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của lĩnh vực
khoa học xã hội như: phương pháp hệ thống, thống kê, lịch sử, logic, phân
tích, tổng hợp, so sánh, dự báo phù hợp với từng nội dung nghiên cứu trong
luận văn, trên cơ sở đó rút ra được những kết luận có tính lý luận và thực tiễn.
Các phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích, so sánh, bình luận, quy nạp,
diễn dịch ...được sử dụng trong chương 1 của luận văn nhằm tập trung làm rõ
5
lý luận chung về kiểm sát thi hành án hình sự. Các phương pháp nghiên cứu
lý luận, phân tích, bình luận, quy nạp, diễn dịch, suy luận logic, nghiên cứu
bản án...được sử dụng trong chương 2 của luận văn nhằm làm rõ thực tiễn
công tác kiểm sát THAHS trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Các phương pháp dự
báo, phân tích, suy luận logic, quy nạp, diễn dịch...được sử dụng trong
chương 3 nhằm đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm
sát THAHS trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận
về kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo
phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng công tác THAHS trong giai đoạn hiện
nay. Bên cạnh đó, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
giảng dạy, học tập và nghiên cứu liên quan đến hoạt động kiểm sát các hoạt
động tư pháp nói chung, kiểm sát THAHS nói riêng. Đặc biệt, luận văn góp
phần đưa công tác kiểm sát THAHS trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có chất lượng,
hiệu quả hơn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn được kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về kiểm sát thi hành án hình sự
Chương 2: Thực tiễn công tác kiểm sát thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát
thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của kiểm sát thi hành án hình sự
1.1.1. Thi hành án hình sự
Thi hành án hình sự là hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự. Điều này xuất phát từ yêu cầu mang tính Hiến
định của Hiến pháp năm 2013 đó là các bản án, quyết định của Tòa án nhân
dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng;
cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành [18, Điều
106]. Chính yêu cầu này đã khẳng định hiệu lực thi hành của tất cả các phán
quyết của Tòa án khi có hiệu lực pháp luật đồng thời khẳng định ý nghĩa rất
quan trọng của vấn đề thi hành án nói chung và THAHS nói riêng.
Thi hành án hình sự là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng hình
sự, là sự hiện thực hóa bản án kết tội của Tòa án vào trong thực tế và bản án
chính là căn cứ để tiến hành hoạt động THAHS. Mục đích của THAHS không
chỉ là trừng trị người phạm tội mà còn để cải tạo, giáo dục họ thành người có
ích cho xã hội khi họ tái hòa nhập với xã hội và không tiếp tục phạm tội mới.
Về mặt từ ngữ, “thi hành là thực hiện điều đã chính thức quyết định”
[37,tr.1497]. Như vậy, thi hành án có thể hiểu là thực hiện bản án, quyết định
của Tòa án trên thực tế; THAHS là thực hiện các bản án, quyết định hình sự
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế.
Thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính hành chính - tư pháp
hình sự vì nó có những đặc thù riêng khác với hoạt động tố tụng hình sự [36,
tr.22]. THAHS là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành theo đặc trưng
của quản lý hành chính, phương pháp trong quá trình thi hành án là phương
pháp thuyết phục, giáo dục và mệnh lệnh hành chính, việc thi hành án có liên
hệ với chính quyền địa phương, theo thủ tục hành chính như trường hợp thi
hành án treo, cải tạo không giam giữ thì người chấp hành án treo, cải tạo
không giam giữ được giao về UBND phường, xã nơi người chấp hành án cư
7
trú để theo dõi, giám sát, giáo dục. Nếu các hoạt động tố tụng hình sự khác
đều hướng đến một phán quyết đúng đắn của Tòa án thì THAHS lại nhằm
mục đích thực hiện các nội dung trong phán quyết đó của Tòa án. Tuy nhiên
thi hành án hình sự có mối quan hệ biện chứng với quá trình tố tụng hình sự,
không có tố tụng thì không có thi hành án và ngược lại không có thi hành án
thì tố tụng trở nên vô nghĩa [36,tr.24-26].
Phạm vi của THAHS bao gồm thi hành bản án, quyết định về hình phạt
tù, tử hình, cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, quản chế, trục xuất,
tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định, án treo, biện pháp tư pháp. Tại khoản 3 đến khoản
14 Điều 3 Luật THAHS năm 2010 đã giải thích:
Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy
định của Luật này buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý giam giữ, giáo dục,
cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội.
Thi hành án tử hình là việc cơ quan có thẩm quyền tước bỏ quyền sống
của người chấp hành án theo quy định của Luật này.
Thi hành án treo là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định
của Luật này giám sát, giáo dục người bị phạt tù được hưởng án treo trong
thời gian thử thách.
Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là việc cơ quan, người có
thẩm quyền theo quy định của Luật này giám sát, giáo dục người chấp hành
án tại xã, phường, thị trấn và khấu trừ thu nhập sung quỹ nhà nước theo bản
án đã có hiệu lực pháp luật.
Thi hành án phạt cấm cư trú là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo
quy định của Luật này buộc người chấp hành án không được tạm trú, thường
trú ở một số địa phương nhất định theo bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Thi hành án phạt quản chế là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo
quy định của Luật này buộc người chấp hành án phải cư trú, làm ăn sinh sống
8
ở một địa phương nhất định dưới sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và
nhân dân địa phương theo bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Thi hành án phạt trục xuất là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo
quy định của Luật này buộc người chấp hành án phải rời khỏi lãnh thổ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Thi hành án phạt tước một số quyền công dân là việc cơ quan có thẩm
quyền theo quy định của Luật này tước bỏ một hoặc một số quyền công dân
của người chấp hành án theo bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Thi hành án phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định là việc cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Luật
này buộc người phải chấp hành án không được đảm nhiệm chức vụ, hành
nghề hoặc làm công việc nhất định theo bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Thi hành biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh là việc cơ quan, người
có thẩm quyền theo quy định của Luật này buộc người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội hoặc người đang chấp hành án bị bệnh tâm thần hoặc một
bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình phải điều trị tại cơ sở chữa bệnh bắt buộc theo bản án, quyết định của
Tòa án, VKS.
Thi hành biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là việc cơ
quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này buộc người chưa
thành niên phạm tội nhưng không phải chịu hình phạt phải chịu sự giám sát,
giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo bản án, quyết định của Tòa án.
Thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng là việc cơ
quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này đưa người chưa thành
niên phạm tội nhưng không phải chịu hình phạt vào trường giáo dưỡng để
giáo dục theo bản án, quyết định của Tòa án” [17].
Các bản án hoặc quyết định được thi hành bao gồm: bản án hoặc phần
bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự
phúc thẩm; bản án của Tòa án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc
9
tái thẩm của Tòa án; bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; quyết định của Tòa án Việt Nam
tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp
hành án và đã có quyết định thi hành; quyết định chuyển giao người đang
chấp hành án phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài; bản án, quyết định về áp
dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, giáo dục tại xã, phường,thị trấn,
đưa vào trường giáo dưỡng.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: Thi hành án hình sự
là việc thực hiện các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật do cơ quan có thẩm quyền tiến hành góp phần trừng trị người phạm
tội cũng như giáo dục, cải tạo họ và phòng ngừa tội phạm.
1.1.2. Kiểm sát thi hành án hình sự
Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp là
một chức năng hiến định. Điều 107 Hiến pháp năm 2013 đã quy định:
VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. VKSND gồm
VKSND tối cao và các VKS khác do luật định. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ
pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất [18]. Như vậy, ngoài chức năng thực hành quyền công tố thì chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp, bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật, thực thi
pháp luật trên thực tế được thống nhất, chính xác, kịp thời và công minh cũng
là một chức năng rất quan trọng của VKSND. Hoạt động kiểm tra, giám sát
việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực này là hết sức cần thiết và là một yêu
cầu khách quan trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Bên cạnh đó đây
cũng là một trong những hoạt động kiểm sát thực hiện chức năng của
VKSND. Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định cụ thể chức năng và
nhiệm vụ cụ thể đối với công tác kiểm sát thi hành án, cụ thể tại Điều 25 quy
định: VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, cơ quan THAHS,
10
cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ THAHS, người có thẩm quyền,
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc THAHS. Khi kiểm sát
THAHS, VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Yêu cầu Tòa án ra quyết
định THAHS; yêu cầu Tòa án, cơ quan THAHS, cơ quan, tổ chức được giao
một số nhiệm vụ THAHS tự kiểm tra việc THAHS và thông báo kết quả cho
VKSND; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc THAHS; Trực tiếp
kiểm sát việc THAHS; kiểm sát hồ sơ THAHS. VKSND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương trực tiếp kiểm sát việc thi hành án phạt tù của trại giam
đóng tại địa phương; Quyết định trả tự do ngay cho người đang chấp hành án
phạt tù không có căn cứ và trái pháp luật; Đề nghị miễn, hoãn, tạm đình chỉ,
đình chỉ chấp hành án; tham gia việc xét giảm, miễn thời hạn chấp hành án,
chấp hành biện pháp tư pháp, rút ngắn thời gian thử thách; Kháng nghị hành
vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong
việc THAHS; Kiến nghị, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chấm dứt, khắc
phục vi phạm pháp luật trong THAHS; xử lý nghiêm minh người vi phạm;
Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ
việc có dấu hiệu tội phạm trong THAHS theo quy định của pháp luật; Thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát THAHS theo quy định của
pháp luật về THAHS [17, Điều 25].
Theo Từ điển tiếng Việt “kiểm sát” có nghĩa là “kiểm tra và giám sát”.
Theo Từ điển Luật học năm 2006 kiểm sát các hoạt động tư pháp là kiểm tra,
xem xét theo dõi việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án, giam giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và giải
quyết các hành vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân bảo đảm cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [25].
Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm: kiểm sát THAHS là
hoạt động của VKSND trong việc áp dụng các quy định của pháp luật để kiểm
sát hoạt động của các đơn vị, tổ chức, người có trách nhiệm trong THAHS
11
nhằm đảm bảo việc THAHS phải được chấp hành nghiêm chỉnh, đúng quy
định của pháp luật.
1.1.3. Đặc điểm của kiểm sát thi hành án hình sự
Kiểm sát là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, đảm bảo việc
tuân theo pháp luật trong quá trình hoạt động tư pháp của các chủ thể. Khi
tiến hành kiểm sát, phát hiện có vi phạm VKSND ban hành kiến nghị hoặc
kháng nghị kịp thời để khắc phục vi phạm của các cơ quan, tổ chức có trách
nhiệm trong việc THAHS.
Về mục đích: việc kiểm sát THAHS nhằm phát hiện nhanh chóng, kịp
thời, chính xác những vi phạm pháp luật trong công tác THAHS, đảm bảo
việc THAHS có căn cứ, đúng pháp luật đồng thời kiến nghị, kháng nghị để
khắc phục kịp thời cũng như hạn chế những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
THAHS của cơ quan, đơn vị và những người có trách nhiệm trong việc
THAHS.
Về đối tượng của kiểm sát THAHS: Khoản 1 Điều 25 của Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 quy định: "VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
Tòa án, cơ quan THAHS, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ
THAHS, người có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong
việc THAHS”; Điều 3 Quy chế công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
(được ban hành kèm theo Quyết định số 501/QĐ-VKSTC ngày 12/12/2017
của Viện trưởng VKSND tối cao) quy định “Đối tượng của công tác kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam, THAHS là việc tuân theo pháp luật của Tòa án; cơ
quan quản lý tạm giữ, tạm giam; cơ quan thi hành tạm giữ, tạm giam; cơ
quan quản lý THAHS; cơ quan THAHS; cơ quan, tổ chức được giao một số
nhiệm vụ THAHS; người có thẩm quyền và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan trong hoạt động tư pháp thuộc phạm vi điều chỉnh quy định tại Điều 1
Quy chế này”.
Theo quy định trên, đối tượng kiểm sát của hoạt động kiểm sát THAHS
là việc tuân theo pháp luật của các chủ thể sau:
12
+ Tòa án nhân dân: Đây là một chủ thể quan trọng trong hoạt động
THAHS, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân trong THAHS được quy
định tại Điều 20 Luật THAHS năm 2010, theo đó, Tòa án có nhiệm vụ, quyền
hạn: ra Quyết định thi hành án, quyết định thành lập Hội đồng thi hành án tử
hình, quyết định hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp hành án phạt tù; miễn,
giảm thời hạn chấp hành án; kéo dài thời hạn trục xuất; rút ngắn thời gian thử
thách đối với người được hưởng án treo; xem xét, giải quyết việc cho nhận tử
thi của người chấp hành án tử hình; Gửi bản án, quyết định được thi hành và
quyết định, tài liệu có liên quan cho cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy
định…
+ Cơ quan quản lý THAHS: Theo khoản 1 Điều 10 Luật THAHS năm
2010 thì Cơ quan quản lý THAHS gồm Cơ quan quản lý THAHS Bộ Công an
và Cơ quan quản lý THAHS Bộ Quốc phòng; nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan này được quy định tại Điều 11, 12 Luật THAHS năm 2010.
+ Cơ quan THAHS: theo khoản 2 Điều 10 Luật THAHS năm 2010 thì
cơ quan THAHS bao gồm: Trại giam (gồm trại giam thuộc Bộ Công an, trại
giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân khu); cơ quan THAHS
Công an cấp tỉnh; cơ quan THAHS Công an cấp huyện; cơ quan THAHS cấp
quân khu.
+ Cơ quan được giao một số nhiệm vụ THAHS: Trại tạm giam (gồm
trại tạm giam thuộc Bộ Công an, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại tạm
giam thuộc Công an cấp tỉnh, trại tạm giam cấp quân khu) UBND cấp xã;
Đơn vị quân đội.
+ Người có trách nhiệm trong hoạt động THAHS: như Chánh án Tòa
án đã xét xử sơ thẩm, Chánh án Tòa án nơi bị án đang chấp hành án, Giám thị
trại giam….
Về phạm vi của công tác kiểm sát THAHS bắt đầu từ khi có bản án,
quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật THAHS và kết thúc
khi chấm dứt việc THAHS theo quy định của pháp luật [26, Điều 3]. Hoạt
13
động kiểm sát THAHS có thể tiến hành thường kỳ và đột xuất để đảm bảo
cho việc phát hiện những vi phạm và khắc phục kịp thời.
1.2. Nội dung nhiệm vụ, phương pháp thực hiện công tác kiểm sát
thi hành án hình sự.
1.2.1. Nội dung nhiệm vụ của công tác kiểm sát thi hành án hình sự
Căn cứ Điều 25, 26 Luật Tổ chức VKSND năm 2014; Điều 141, 142
Luật THAHS năm 2010 và Quy chế kiếm sát việc tạm giữ, tạm giam và
THAHS ban hành kèm theo Quyết định số 501/QĐ-VKSTC ngày 12/12/2017
của Viện trưởng VKSND tối cao, Hướng dẫn công tác Kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam và THAHS, nội dung nhiệm vụ của công tác kiểm sát THAHS bao
gồm: kiểm sát thi hành án phạt tù và kiểm sát THAHS ngoài hình phạt tù.
1.2.1.1. Kiểm sát thi hành án phạt tù
Nội dung nhiệm vụ của kiểm sát thi hành án phạt tù bao gồm các công
việc cụ thể sau:
- Kiểm sát việc ban hành quyết định thi hành án phạt tù của Tòa án.
Để bảo đảm việc thi hành án kịp thời, nghiêm minh, kiểm sát viên phải
nắm được ngày Tòa án ra quyết định thi hành án, gửi quyết định thi hành án.
Theo đó, VKS kiểm sát: Kiểm sát việc chấp hành thời hạn và thẩm quyền ra
quyết định thi hành án hoặc ủy thác ra quyết định thi hành án; Kiểm sát việc
chấp hành thời hạn gửi và nơi gửi quyết định thi hành án của Tòa án; Kiểm
sát quyết định thi hành án phạt tù.
Để kiểm sát vấn đề này, VKS cần theo dõi thời điểm bản án và quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Chủ động nắm bắt các bản án có hiệu
lực pháp luật và thông qua quan hệ phối hợp với công tác kiểm sát xét xử
hình sự. Mặt khác, cần chủ động nắm bắt các trường hợp Tòa án ủy thác thi
hành án để biết thời điểm bản án được ủy thác và thời điểm phải ra quyết định
thi hành án. Chủ động nắm bắt các quyết định thi hành án của Tòa án, yêu cầu
Tòa án cung cấp đầy đủ các quyết định đó hoặc thông qua việc áp dụng quyền
"yêu cầu" để kiểm sát việc Tòa án ra quyết định thi hành án. Ngoài ra, các
14
VKS cần có sổ theo dõi việc ra quyết định thi hành án để ghi chép, cập nhật
thường xuyên và đầy đủ các quyết định thi hành án của Tòa án. Thông qua
việc ghi chép sổ sách đầy đủ, Kiểm sát viên có thể phát hiện ra những bản án
chưa có quyết định thi hành án, thời hạn ra quyết định đã hết hay sắp hết để
có biện pháp kịp thời tác động.
- Kiểm sát việc hoãn chấp hành hình phạt tù: Kiểm sát việc áp dụng
các điều kiện cho hoãn chấp hành hình phạt tù; Kiểm sát việc chấp hành thời
hạn hoãn chấp hành hình phạt tù; Kiểm sát thủ tục đề nghị và quyết định hoãn
chấp hành hình phạt tù; Kiểm sát việc lập hồ sơ đề nghị hoãn chấp hành hình
phạt tù của Cơ quan, tổ chức, cá nhân đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù;
Kiểm sát việc thi hành quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù (bao gồm các
hoạt động: Kiểm sát việc ngừng làm thủ tục đưa người chấp hành án phạt tù
đi chấp hành án; Kiểm sát việc quản lý người được hoãn chấp hành án của
UBND cấp xã hoặc đơn vị quân đội được giao nhiệm vụ quản lý người được
hoãn chấp hành án); Kiểm sát việc chấp hành thủ tục đề nghị, quyết định hủy
bỏ quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù (bao gồm: Kiểm sát việc ra quyết
định đình chỉ thi hành án của Tòa án và giải quyết các thủ tục có liên quan
trong trường hợp người được hoãn chấp hành án chết; Kiểm sát việc ra thông
báo và gửi thông báo hết thời hạn hoãn chấp hành án phạt tù; Kiểm sát việc
cơ quan công an áp giải người bị kết án đi chấp hành hình phạt tù trong
trường hợp hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt mà người bị kết án không
có mặt tại Cơ quan Công an mà không có lý do chính đáng).
- Kiểm sát việc tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù: Kiểm sát việc áp
dụng các điều kiện để tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; Kiểm sát việc thực
hiện thẩm quyền, trách nhiệm lập hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù; Kiểm sát hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù; Kiểm sát
việc chấp hành thời hạn xem xét, quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt
tù: Kiểm sát việc thi hành quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù.
15
- Kiểm sát việc thi hành quyết định thi hành án phạt tù: Kiểm sát việc
tống đạt quyết định thi hành án cho người bị kết án đang bị tạm giam và việc
ra quyết định đưa người chấp hành án đi chấp hành án; Kiểm sát việc chấp
hành thời hạn có mặt của người bị kết án phạt tù đang tại ngoại để thi hành án
và việc áp giải trong trường hợp người đó không có mặt để thi hành án; Kiểm
sát việc thực hiện yêu cầu ra quyết định truy nã trong trường hợp người bị kết
án phạt tù đang tại ngoại bỏ trốn; Kiểm sát việc thực hiện nghĩa vụ để người
bị kết án đang bị tạm giam gặp người thân thích trước khi thi hành án và việc
thông báo cho gia đình người bị kết án đang bị tạm giam biết nơi người đó
chấp hành hình phạt;
- Kiểm sát việc đảm bảo các thủ tục pháp luật trong thi hành án phạt tù:
Kiểm sát việc lập hồ sơ đưa người bị kết án đến nơi chấp hành án phạt
tù theo quy định tại Điều 25 Luật THAHS và khoản 2 Điều 7 Nghị định
số 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 của Chính phủ.
Kiểm sát việc tiếp nhận người chấp hành án phạt tù đúng quy định của
pháp luật; phải có hồ sơ phạm nhân, trong hồ sơ phải đầy đủ theo Nghị định
số 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 của Chính phủ quy định về tổ chức
quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với
phạm nhân (sau đây gọi tắt là Nghị định số 117/2011/NĐ-CP) và các điều 25,
26 và 41 Luật THAHS. Việc lập hồ sơ phạm nhân theo đúng quy định tại
Thông tư số 63/2011/TT-BCA ngày 7/9/2011 của Bộ Công an quy định các
loại biểu mẫu, sổ sách về công tác THAHS.
Kiểm sát bảo đảm việc cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình
phạt tù cho phạm nhân theo đúng quy định của pháp luật, việc thông báo
trước 2 tháng khi phạm nhân chấp hành xong hình phạt tù (thông báo cho Cơ
quan THAHS Công an cấp huyện và UBND xã nơi phạm nhân về cư trú, cơ
quan, tổ chức nơi người chấp hành xong án phạt tù về cư trú, làm việc, cơ
quan nhận phạm nhân trích xuất theo Điều 40 Luật THAHS và Nghị định số
16
80/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 Quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa
nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù)
Kiểm sát bảo đảm các thủ tục khi phạm nhân chết; khi được tạm đình
chỉ chấp hành án phạt tù, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, miễn chấp
hành hình phạt tù, trích xuất... (Điều 49, 32, 33, 34, 35 Luật THAHS).
- Kiểm sát việc tổ chức giam giữ và thực hiện chế độ quản lý, giam giữ
phạm nhân; việc thực hiện chế độ ở, ăn, mặc và tư trang, chế độ sinh hoạt,
chế độ chăm sóc y tế của phạm nhân: kiểm sát việc thực hiện chế độ ở của
phạm nhân; kiểm sát sự tuân theo pháp luật về việc thực hiện chế độ ăn của
phạm nhân theo quy định tại Điều 42 và Điều 52 Luật THAHS; kiểm sát việc
thực hiện chế độ mặc và tư trang đối với phạm nhân theo quy định tại Điều 43
Luật THAHS và hướng dẫn tại Điều 10 Nghị định số 117/2011/NĐ-CP; kiểm
sát việc thực hiện chế độ sinh hoạt đối với phạm nhân theo các quy định tại
Điều 44 và khoản 3 Điều 52 Luật THAHS; kiểm sát việc thực hiện chế độ
chăm sóc y tế đối với phạm nhân theo quy định tại Điều 48 Luật THAHS.
- Kiểm sát việc thực hiện chế độ gặp thân nhân, nhận quà và chế độ
liên lạc của phạm nhân: kiểm sát việc thực hiện chế độ gặp thân nhân, nhận
quà, chế độ liên lạc của phạm nhân theo đúng quy định tại các điều 46, 47, 53
Luật THAHS, Thông tư số 46/2011/TT-BCA ngày 30/6/2011 của Bộ Công an
quy định việc phạm nhân gặp thân nhân; nhận, gửi thư, nhận tiền, quà và liên
lạc điện thoại với thân nhân và Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BCABQP-BNG ngày 13/2/2012 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và Bộ ngoại
giao hướng dẫn việc thăm, gặp, tiếp xúc lãnh sự đối với phạm nhân;
Kiểm sát việc thực hiện chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con
dưới 36 tháng tuổi: kiểm sát viên phải kiểm sát việc thực hiện chế độ đối với
phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi theo quy định tại Điều 45
Luật THAHS.
- Kiểm sát việc thực hiện chế độ học tập, học nghề và được thông tin
của phạm nhân: kiểm sát việc thực hiện chế độ học tập, học nghề và được
17
thông tin của phạm nhân theo quy định tại Điều 28 Luật THAHS. Thông tư số
11/TTLB ngày 20/12/1993 của Liên bộ: Nội vụ, Quốc phòng, Tài chính, Giáo
dục và Đào tạo, Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn việc giáo dục
pháp luật, giáo dục công dân, dạy văn hóa, nghề, chế độ sinh hoạt, giải trí cho
phạm nhân và Thông tư liên tịch số 02/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BGDĐT
ngày 6/2/2012 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ tư pháp, Bộ Giáo dục và
đào tạo hướng dẫn việc tổ chức dạy văn hóa, giáo dục pháp luật, giáo dục
công dân, phổ biến thông tin thời sự, chính sách và thực hiện chế độ sinh
hoạt, giải trí cho phạm nhân (thay thế các mục I, II, IV Thông tư liên bộ số
11TTLB).
- Kiểm sát việc thực hiện chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động
của phạm nhân.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thực hiện chế độ lao động
và sử dụng kết quả lao động của phạm nhân theo quy định tại Điều 29, Điều
30, khoản 3 Điều 51 Luật THAHS và Thông tư liên tịch số 04/2010/TTLTBTC-BCA-BQP ngày 12/1/2010 của Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng hướng dẫn thực hiện chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động, dạy
nghề phạm nhân trong các trại giam
- Kiểm sát việc trích xuất phạm nhân.
Kiểm sát việc trích xuất phạm nhân theo quy định tại Điều 35
Luật THAHS và Thông tư liên tịch số 04/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTCVKSNDTC ngày 30/05/2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân
dân tối cao, VKSND tối cao hướng dẫn thực hiện trích xuất phạm nhân để
phục vụ điều tra, truy tố, xét xử.
- Kiểm sát việc giải quyết trường hợp phạm nhân bỏ trốn và xử lý phạm
nhân vi phạm: kiểm sát việc giải quyết trường hợp phạm nhân bỏ trốn theo
quy định tại Điều 37 Luật THAHS; kiểm sát việc xử lý phạm nhân vi phạm
theo quy định tại Điều 38 Luật THAHS.
18
- Kiểm sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về thông báo tình
hình chấp hành án và việc trả tự do cho phạm nhân: kiểm sát việc thông báo
tình hình chấp hành án theo khoản 1 Điều 39 Luật THAHS; kiểm sát việc
chấp hành thời hạn thông báo các thông tin liên quan đến việc chấp hành án
phạt tù của phạm nhân và việc chấp hành các thủ tục trả tự do cho phạm nhân
theo quy định tại Điều 40 Luật THAHS
- Kiểm sát thi hành quyết định tiếp nhận, chuyển giao đối với người
đang chấp hành án phạt tù từ nước ngoài về Việt Nam để chấp hành án và
việc thi hành quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại
Việt Nam cho nước ngoài
- Kiểm sát việc xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù: kiểm sát việc
quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù; kiểm sát việc lập hồ sơ đề
nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù; kiểm sát việc chấp hành thời hạn
mở phiên họp xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù và trực tiếp tham gia
phiên họp giải quyết việc xét giảm; kiểm sát việc gửi quyết định giảm thời
hạn chấp hành hình phạt tù.
Để thực hiện chức năng kiểm sát việc xét giảm, Kiểm sát viên phải lập
hồ sơ theo dõi, quản lý đối với mỗi trường hợp được xét giảm chấp hành án
phạt tù. Trong hồ sơ cần phải có các thông tin, tài liệu sau: Họ tên bị án được
xét giảm, thời gian chấp hành án, thời điểm xét giảm hình phạt, số thời gian
được giảm; Các tài liệu liên quan đến việc xét giảm (văn bản đề nghị xét giảm
của cơ quan có thẩm quyền; văn bản, tài liệu khác liên quan đến việc xác định
điều kiện được xét giảm…).
1.2.1.1. Kiểm sát thi hành án hình sự ngoài hình phạt tù
Nội dung nhiệm vụ của kiểm sát THAHS ngoài hình phạt tù bao gồm
các công tác cụ thể sau:
Thứ nhất, kiểm sát thi hành án tử hình:
- Kiểm sát việc Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định thi
hành án tử hình, quyết định thành lập Hội đồng thi hành án tử hình theo quy
19
định tại điểm đ, điểm e khoản 1, khoản 2 Điều 367 Bộ luật Tố tụng hình sự và
Điều 54, Điều 55 Luật THAHS;
- Kiểm sát việc hưởng thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 60
và Điều 61 Bộ luật Hình sự;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật về trình tự, quy trình thi hành án tử
hình, việc giải quyết xin nhận tử thi, hài cốt của người bị thi hành án tử hình
theo quy định tại Điều 59, Điều 60 Luật THAHS và các quy định của pháp
luật khác có liên quan.
- Kiểm sát việc xem xét chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân
cho người bị kết án theo đúng quy định tại khoản 4 Điều 40 Bộ luật Hình sự,
khoản 2 Điều 367 Bộ luật Tố tụng hình sự và các quy định của pháp luật khác
có liên quan.
Thứ hai, kiểm sát việc thi hành án treo, án phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ:
- Kiểm sát việc cơ quan THAHS có thẩm quyền nơi người chấp hành
án cư trú, làm việc hoặc học tập trong thực hiện quyết định thi hành án, lập,
bổ sung hồ sơ thi hành án, cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời gian
thử thách của án treo, án phạt cải tạo không giam giữ, đề nghị rút ngắn thời
gian thử thách của án treo, giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không
giam giữ, theo dõi, thống kê việc thi hành án phạt cảnh cáo;
- Kiểm sát việc UBND cấp xã, đơn vị quân đội nơi người chấp hành án
cư trú, làm việc hoặc học tập trong thực hiện nhiệm vụ giám sát, giáo dục
người được hưởng án treo và người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ
theo quy định tại Chương V Luật THAHS và các quy định của pháp luật khác
có liên quan;
- Kiểm sát việc cơ quan THAHS, cơ quan được giao một số nhiệm vụ
THAHS trong lập hồ sơ, đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét quyết định
buộc người chấp hành án phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho
hưởng án treo nếu trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi
20