Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

BÀI TIỂU LUẬN “XÃ HỘI CẦN LÀM GÌ ĐỂ TRẺ EM VÙNG CAO, VÙNG ĐỒNG BÁO KHÓ KHĂN Ở HÀ GIANG CÓ THỂ TIẾP CẬN TỚI GIÁO DỤC HIỆU QUẢ NHẤT”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.01 KB, 19 trang )

Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

BÀI TIỂU LUẬN
“XÃ HỘI CẦN LÀM GÌ ĐỂ TRẺ EM VÙNG CAO, VÙNG ĐỒNG BÁO KHÓ
KHĂN Ở HÀ GIANG CÓ THỂ TIẾP CẬN TỚI GIÁO DỤC HIỆU QUẢ NHẤT”

Hà Giang là một tỉnh thuộc vùng núi phía Bắc Việt Nam. Tỉnh Hà
Giang phía đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào
Cai, phía nam giáp tỉnh Tuyên Quang. Về phía bắc, Hà Giang giáp châu
tự trị dân tộc Choang và Miêu Văn Sơn thuộc tỉnh Vân Nam và địa cấp
thị Bách Sắc thuộc tỉnh Quảng Tây của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Dân số tỉnh Hà Giang theo điều tra dân số năm 2016 là 820.427
người. Trong đó, dân số thành thị là 122.993 người các dân tộc: Mông
(chiếm 32%, Tày (23,3%), Dao (15,1%), Kinh (13,3%), Nùng (9,9%)...
Với địa bàn miền núi chủ yếu là dân tộc thiểu số công tác giáo dục
và tiếp cận giáo dục tại Hà Giang với trẻ em vùng cao và cùng đồng bào
dân tộc thiểu số là cả một khó khăn cụ thể như sau:
A.

ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KHẢ NĂNG TIẾP CẬN GIÁO DỤC

CHO TRẺ EM NGHÈO TẠI KHU VỰC MIỀN NÚI HÀ GIANG

1. Khả năng tiếp cận giáo dục
Khả năng tiếp cận giáo dục mầm non
Thực hiện kế hoạch hành động quốc gia Giáo dục cho mọi người,
Hà Giang đã xác định được mục tiêu của giáo dục mầm non tại nơi này
đó là:
 Cung cấp cơ hội tiếp cận với giáo dục mầm non cho trẻ em 0-5
tuổi, ưu tiên trẻ em nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số
 Đảm bảo cho tất cả trẻ em đều hoàn thành một năm giáo dục tiền


học đường có chất lượng để chuẩn bị cho bậc tiểu học
 Cải tiến liên tục các hoạt động và dịch vụ nhằm thúc đẩy sự phát
triển về trí tuệ, tình cảm, thể chất và xã hội của trẻ em 0-5 tuổi
 Tăng cường năng lực quản lý tại cấp địa phương
1


Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

- Tại Hà Giang trong những năm qua, những chính sách đối với
giáo dục mầm non đã thực sự phát huy tác dụng trong thực tiễn, tạo điều
kiện phát triển bình đẳng cho trẻ em giữa các vùng địa lý – kinh tế khác
nhau; đồng thời đảm bảo sự công bằng giới đáng khích lệ. Nhóm trẻ dân
tộc thiểu số đã nhận được sự quan tâm đặc biệt .
- Trong những năm qua, giáo dục mầm non đã thực hiện tốt hơn
công bằng trong giáo dục. Cụ thể là đặc điểm vùng, miền được chú ý hơn
trong giáo dục, càng ngày, Hà Giang càng được chú ý hơn trong việc phát
triển giáo dục mầm non. Chính phủ đã thành lập các Ban chỉ đạo phát
triển vùng Tây Bắc, tạo cơ chế mới để phát triển kinh tế, văn hóa giáo dục
ở các khu vực khó khăn.
- Các đối tượng thiệt thòi khác đang được quan tâm trong công tác
tiếp cận giáo dục mầm non, đặc biệt là nhóm trẻ em nghèo, trẻ em khuyết
tật vùng dân tộc thiểu số Hà Giang.
- Giáo dục mầm non đã thực hiện nhiều chuyên đề như làm quen
với chữ cái, giáo dục lễ giáo, âm nhạc, phòng chống suy dinh dưỡng...
góp phần quan trọng góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục
trẻ.
- Những nội dung an toàn cho trẻ, giáo dục vệ sinh, xây dựng môi
trường, luôn được đặt lên hàng đầu trong thực hiện chương trình chăm
sóc, giáo dục trẻ.

- Từ những thành tựu đáng kể đã được được ở trên, chúng ta có thể
hình dung được một bức tranh giáo dục mầm non tươi sáng đang ở phía
trước, bức tranh mà bây giờ chúng ta đang cố thực hiện nó thông qua
công tác tiếp cận giáo dục mầm non cho mảnh đất vùng cao này.
Khả năng tiếp cận giáo dục tiểu học
Trong những năm vừa qua, giáo dục tiểu học tại Hà Giang đã đạt
được những thành tựu không nhỏ. Giáo dục tiểu học đã đạt được nhiều
2


Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

chỉ tiêu quan trọng.
1.2.1. Về mục tiêu tiếp cận
- Về cơ bản, Hà Giang đã huy động được học sinh trong độ tuổi đến
trường với tỷ lệ nhập học khá cao
- Tỷ lệ trẻ em nam và trẻ em nữ nhập học là xấp xỉ bằng nhau. Bình
đẳng giới trong giáo dục tiểu học tại Hà Giang tuy còn nhiều vấn đề
nhưng về cơ bản đã đạt được.
- Tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số nhập học tăng dần hàng năm
1.2.2. Mục tiêu về chất lượng và sự phù hợp
- Tỷ lệ học sinh, giáo viên, trường lớp đều đạt và tăng vượt chỉ tiêu
- Nội dung chương trình và sách giáo khoa đã được đổi mới, phù
hợp với khả năng tiếp cận và thích nghi của học sinh, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ của giáo viên cũng được nâng lên một bước. Phương pháp
dạy học cũng được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực của học
sinh
- Giáo viên tiểu học tại Hà Giang cũng đã được bồi dưỡng theo
chương trình bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên tiểu học nhằm chuẩn
hóa đội ngũ giáo viên tại nơi đây.

- Cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học cũng từng bước được
nâng cao
- Các cơ quan chức năng và quản lý của các địa phương cũng nâng
cao hơn nhận thức về tầm quan trọng của công tác tiếp cận giáo dục cho
trẻ em Hà Giang, nhất là nhóm trẻ em nghèo dân tộc thiểu số.
- Năng lực quản lý, điều hành của cấp cơ sở cũng từng bước được
nâng cao, công tác chỉ đạo, quản lý đã đạt được hiệu quả và đi vào nề nếp
- Do đó, có thể khẳng định rằng công tác tiếp cận giáo dục tiểu học
cho trẻ em nghèo nơi đây sẽ sớm được hoàn thành và đạt được những kết
quả quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học tại Hà
3


Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

Giang. Việc cần làm hiện nay là cần phải nhanh chóng tiến hành và thực
hiện các mục tiêu mà công tác tiếp cận giáo dục tiểu học đã đề ra sao cho
phù hợp với những đặc điểm của Hà Giang, cả mặt thuận lợi lẫn mặt khó
khăn.
Khả năng tiếp cận giáo dục trung học cơ sở
Khái quát tình hình thực hiện các mục tiêu về giáo dục trung học cơ
sở tại Hà Giang, chúng ta có thể rút ra một số những thành tựu sau đây
1.3.1. Về mục tiêu tiếp cận
- Tỷ lệ nhập học cấp trung học cơ sở của học sinh vùng Hà Giang đã
tăng cao trong những năm vừa qua. Điều này chứng tỏ việc đi học đúng
độ tuổi ở trung học cơ sở đã được thừa hưởng kết quả của việc phổ cập
tiểu học đúng độ tuổi những năm vừa qua. Tuy nhiên vẫn còn một số trẻ
em chưa được đến trường trung học cơ sở sau khi bỏ dở tiểu học, hoặc
học hết tiểu học tại khu vực này vẫn còn cao hơn các vùng khác.
- Các vùng sâu, vùng xa khả năng nhập học của trẻ em tuy có tiến bộ

nhưng tỷ lệ huy động chưa cao, tình trạng này do nhiều nguyên nhân, do
dân trí còn thấp, điều kiện kinh tế có khó khăn, khoảng cách và thời gian
đi đến trường không thuận lợi do những khó khăn về địa lý. Nhưng vùng
Hà Giang thời gian gần đây cũng đã chủ trương xây dựng các điểm
trường trung học cơ sở sao cho gắn với các khu dân cư, xây dựng trường
nội trú nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc huy động các em đi
học
1.3.2. Về công bằng trong tiếp cận giáo dục trung học cơ sở
a. Nhóm trẻ em nghèo dân tộc thiểu số
- Do có những khó khăn về địa lý, về ngôn ngữ, về chậm phát triển
kinh tế xã hội nên việc học tập của trẻ em nghèo các dân tộc thiểu số
thường gặp nhiều khó khăn.
- Những năm vừa qua, nhà nước đã ban hành nhiều chính sách
4


Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

nhằm tạo cơ hội cho các em học sinh nghèo dân tộc thiếu số đến trường.
Và sự quan tâm của Nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của các địa phương đã
mang lại những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ.
- Tỷ lệ số học sinh dân tộc thiểu số tại Hà Giang nhập học đã tăng
dần hàng năm so với tổng số học sinh cấp trung học cơ sở. Tuy nhiên vẫn
có sự chênh lệch lớn so với các vùng miền khác trong việc huy động học
sinh dân tộc thiểu số đến trường. Đây là một trong những việc cần phải
nhanh chóng khắc phục để từng bước thu hẹp khoảng cách với các vùng
phát triển.
b. Nhóm trẻ em gái
- Tỷ lệ trẻ em nam và trẻ em nữ nhập học tại Hà Giang nhìn chung
đã có sự thay đổi qua các năm. Tỷ lệ học sinh nữ nhập học vào trung học

cơ sở tăng dần qua các năm, tuy vẫn còn thấp hơn so với tỷ lệ học sinh
nam nhưng có thể nói bình đẳng giới về cơ bản đã đạt được trong giáo
dục trung học cơ sở tại khu vực này.
- Việc tạo nên sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục trung học cơ sở
đã có những tiến bộ đáng kể, dần thu hẹp được sự khác biệt giữa nam và
nữ trong việc huy động các em tới trường. Tại Hà Giang mà cụ thể là
vùng Tây Bắc thì tỷ lệ này tuy có thấp hơn so với các vùng khác trong cả
nước, nhưng tỷ lệ này vẫn tăng và được ổn định qua các năm học.
c. Nhóm trẻ khuyết tật
- Để cho người tàn tật, khuyết tật được đến trường học tập, bên
cạnh việc thành lập một số trường chuyên biệt, ngành giáo dục đã chọn
hình thức giáo dục hòa nhập là một trong những giải pháp trong việc giáo
dục trẻ hòa nhập tại vùng Hà Giang.
- Nhờ sự nỗ lực của ngành giáo dục cũng như các cơ quan chức
năng tại Hà Giang mà tỷ lệ trẻ em khuyết tật được tham gia học trung học
cơ sở đã tăng lên qua các năm.
5


Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

- Các giáo viên trung học cơ sở đã được đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức và kỹ năng dạy trẻ khuyết tật và họ đã và đang phát huy vai trò của
mình trong giáo dục trẻ khuyết tật tại nơi đây
1.3.3. Mục tiêu về chất lượng và sự phù hợp
- Giáo dục trung học cơ sở tại nơi đây những năm vừa qua cũng đã
triển khai việc dạy và học cho học sinh theo nội dung của chương trình
mới và kết quả bước đầu rất đáng ghi nhận, học sinh được truyền thụ
những kiến thức mới, giáo viên cũng nâng cao hơn được trình độ chuyên
môn của mình.

- Đội ngũ giáo viên được chuẩn hóa đã góp phần không nhỏ trong
công tác tiếp cận và phổ cập giáo dục trung học cơ sở tại Hà Giang. Tỷ lệ
giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn đã tăng nhanh qua các năm, do đó đã
nâng cao được hiệu quả trong công tác giáo dục trung học cơ sở tại đây
- Tầm quan trọng của công tác tiếp cận và phổ cập giáo dục trung
học cơ sở tại Hà Giang cũng đang ngày một được nâng cao, từ đó làm
động lực phấn đấu và tăng cường được khả năng tiếp cận giáo dục trung
học cơ sở, tiến đến phổ cập và ngày càng nâng cao chất lượng của giáo
dục trung học cơ sở tại vùng Hà Giang.
- Hiện nay, số trường đạt chuẩn quốc gia tại Hà Giang còn ít, do đó
mục tiêu xây dựng trường chuẩn quốc gia cũng là mục tiêu quan trọng
nằm trong công tác tiếp cận và phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Xây
dựng trường chuẩn quốc gia là giải pháp tổng thể nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện ở trung học cơ sở. Việc cần thiết đối với Hà Giang
hiện nay là làm sao đẩy mạnh được phát triển kinh tế để rồi từ đó tiến đến
việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc học tập thật tốt thì mới có
thể tiến đến việc tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục trung học cơ sở
cho vùng một cách dễ dàng.
2. Những khó khăn còn tồn tại
6


Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

Tình hình giáo dục ở những vùng khó khăn tuy đã đạt được một số
kết quả, nhưng nhiều tỉnh vẫn còn trong tình trạng rất khó khăn trong việc
chỉ đạo và thực hiện các mục tiêu phát triển giáo dục. Một số chỉ tiêu về
Giáo dục và Đào tạo có nguy cơ khó thực hiện.
- Tỉ lệ các cháu 3-5 tuổi vào học mẫu giáo còn thấp, mạng lưới
trường lớp chưa phát triển, thiếu giáo viên, nhất là ở vùng sâu, vùng xa.

Tỷ lệ học sinh chuyển lớp còn thấp, tỷ lệ huy động học sinh ra lớp đạt
thấp, chất lượng và hiệu quả giáo dục còn nhiều hạn chế. Kết quả phổ cập
giáo dục tiểu học – xóa mù chữ chưa vững chắc, đặc biệt là các xã vùng
sâu, vùng xa.
- Vấn đề phổ cập giáo dụcđúng độ tuổi tiến hành chậm, việc xây
dựng trường chuẩn quốc gia còn nhiều khó khăn. Số xã đạt chuẩn phổ cập
giáo dục tiểu học đúng độ tuổi thấp, nhất là ở những xã vùng sâu, vùng
xa. Mật độ dân cư thấp, địa hình phức tạp, địa bàn sinh sống phân tán xa
xôi hẻo lánh, còn nhiều phong tục lạc hậu.
- Nguy cơ tái mù chữ đang có chiều hướng gia tăng, nhiều xã đã mất
chuẩn, kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học chưa vững chắc.
Một số tỉnh, mạng lưới các trường phổ thông cơ sở chưa phủ kín các xã,
một số nơi có nguy cơ không thực hiện được mục tiêu phổ cập trung học
cơ sở vào năm 2010.
- Đầu tư ngân sách từ nhà nước cho giáo dục còn nhiều bất cập, kinh
phí cấp cho giáo dục tính trên đầu học sinh thấp. Chủ trương xã hội hóa
giáo dục còn nhiều hạn chế vì người dân còn nghèo, tỷ lệ hộ nghèo cao,
kinh tế của dân chủ yếu là tự cung tự cấp, khó huy động cho giáo dục,
huy động từ ngân sách địa phương, trong dân gặp nhiều khó khăn.
- Cơ sở vật chất vừa thiếu vừa xuống cấp, trường phân tán, tản mạn,
thiếu quỹ đất để quy hoạch xây dựng trường chuẩn quốc gia. Trang thiết
bị dạy-học chưa đảm bảo, vì vậy nhiều nơi chưa đáp ứng được nhu cầu
7


Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

học tập của học sinh. Một bộ phận không ít học sinh ở các xã vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn sau khi đã tốt nghiệp tiểu học không có
điều kiện tiếp tục học lên hoặc theo học hết chương trình trung học cơ sở

- Tỷ lệ lưu ban và bỏ học ở các cấp học cao hơn tỷ lệ chung của cả
nước, chất lượng học sinh kém, khoảng cách chênh lệch trình độ giữa
vùng thuận lợi và khó khăn ngày càng xa; việc triển khai việc đổi mới
chương trình, phương pháp giảng dạy và sách giáo khoa còn nhiều hạn
chế.
- Đội ngũ giáo viên không đồng bộ vừa thừa, vừa thiếu. Thiếu giáo
viên dạy ngoại ngữ, tin học, nhạc họa. Bên cạnh số lượng giáo viên đạt
danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp huyện, tỉnh ngày một tăng thì còn một
bộ phận giáo viên không đạt chuẩn, nhất là giáo viên tiểu học, mầm non,
trung học cơ sở. Thực tế đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc phổ cập và
nâng cao chất lượng giáo dục.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
chậm được đổi mới, chất lượng thấp. Các trường học đang phải đứng
trước mâu thuẫn giữa yêu cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào
tạo và một bên là năng lực hạn chế của hệ thống. Cơ chế tuyển dụng, bố
trí, đãi ngộ, đánh giá và chế độ chính sách đối với giáo viên và cán bộ
quản lý còn nhiều bất hợp lý, chưa tạo ra được động lực để giáo viên tự
rèn luyện về phẩm chất, nâng cao năng lực.
- Chất lượng học tập của học sinh giữa vùng thuận lợi và vùng khó
khăn, vùng dân tộc thiểu số có sự chênh lệch khá lớn. Nguyên nhân là do
vốn tiếng Việt của học sinh dân tộc có nhiều hạn chế, tâm lý còn rụt rè,
nhút nhát, các điều kiện hỗ trợ cho việc học tập thiếu thốn và hầu hết các
em không có thói quen tự học và thời gian học ở nhà
- Bộ phận nhân dân và đồng bào dân tộc thiểu số nhận thức về việc
học tập để nâng cao dân trí chưa cao, sự quan tâm đến việc học tập của
8


Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8


con em còn hạn chế. Không ít người dân còn tư tưởng ý lại, trông chờ vào
sự đầu tư của Nhà nước. Chưa tìm ra cách phối hợp phổ biến kiến thức
đến các gia đình có hiệu quả để cho các bậc cha mẹ được trang bị kiến
thức trong việc dạy dỗ con cái.
- Động cơ và ý thức học tập nhằm nâng cao trình độ văn hóa ở một
số thanh, thiếu niên là người dân tộc thiểu số chưa cao. Hiện còn thiếu
các biện pháp khả thi mang tính bắt buộc những người trong độ tuổi phải
đi học để hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
- Còn thiếu vắng những chương trình, dự án, chính sách mang tính
từ thiện hỗ trợ trẻ em nghèo các vùng dân tộc thiểu số Hà Giang. Do kinh
tế ngày càng phát triển, phân hóa xã hội mở rộng, tỷ lệ các trẻ em nghèo
bị thiệt thòi trong giáo dục ngày càng tăng lên, và dẫn đến các em phải
chịu điều kiện học tập khó khăn, thiếu thốn về mọi mặt, và từ đó lại quay
trở lại cái vòng luẩn quẩn về đói nghèo và giáo dục.
3. Nguyên nhân của những tồn tại
- còn nhiều khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, do đó dẫn đến có
sự chênh lệch lớn so với các vùng có điều kiện thuận lợi hơn, gây ra cản
trở công tác giáo dục cũng như tiếp cận giáo dục tại nơi đây
- Trong những năm qua chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến bậc học
mầm non, một số nơi còn thả nổi. Mặt khác, do chúng ta có chủ trương xã
hội hóa mạnh bậc mầm non, chủ yếu dựa vào sự đóng góp của dân, vì thế
các tỉnh khó khăn không có điều kiện phát triển bậc học này. Do đó chất
lượng học sinh ngay từ lớp 1 đã thấp, kéo theo chất lượng thấp ở các lớp sau
- Ở những xã đặc biệt khó khăn, trình độ dân trí còn thấp chủ yếu là
học tiểu học hoặc mới được xoa mù chữ, nên chưa đủ điều kiện để xây
dựng trường trung học cơ sở.
- Chúng ta chưa chú ý đến việc đầu tư phát triển bậc học mầm non ở
vùng dân tộc thiểu số, mà chủ yếu dựa vào sự đóng góp của dân và nguồn
9



Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

kinh phí của địa phương, vì không có kinh phí để xây dựng trường, lớp,
dân không có tiền để đóng góp, một số nơi dân đóng góp bằng hiện vật để
trả công cho giáo viên, đời sống của giáo viên ngoài biên chế rất khó
khăn, nhiều cô giáo phải bỏ việc, cơ sở vật chất ngày càng xuống cấp.
- Do thiếu kinh phí và nhu cầu về phòng học tăng, nên nhiều nơi đã phải
làm những phòng học tạm với bàn ghế đơn sơ, chỉ sau 1 đến 2 năm cơ sở vật
chất hỏng, nát phải làm lại, vì thế, cơ sở vật chất luôn trong tình trạng tạm bợ.
- Do hoàn cảnh kinh tế các tỉnh khó khăn, đời sống đồng bào các dân
tộc còn nghèo, bên cạnh đó lại hạn chế về chỉ tiêu tuyển sinh nên quy mô
phát triển các trường lớp cũng chưa phát triển mạnh, học sinh phải lao
động kiếm thêm thu nhập cho gia đình nên thời gian học tập rất ít.
- Nhiều xã chưa có trường trung học cơ sở, thiếu giáo viên, chất
lượng giáo viên chưa đảm bảo, trường cách xa nhà học sinh, địa bàn hiểm
trở, do đó dẫn đến trình trạng học sinh ngại đi học, bên cạnh đó hiệu quả
giáo dục thấp, tỷ lệ lưu ban, bỏ học cao.
- Giáo viên trung học phần lớn là từ nơi khác đến, khó thu hút giáo
viên về công tác những nơi khó khăn, bên cạnh đó nhiều giáo viên đã
công tác lâu năm muốn xin chuyển vùng nên đã gây ra tình trạng thiếu
giáo viên. Việc luân chuyển giáo viên cũng đang gặp khó khăn nên chưa
có điều kiện để thay thế, nâng cao tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn. Giáo viên
chưa đồng bộ về cơ cấu, thiếu giáo viên dạy các môn chuyên biệt là do
chúng ta chưa chú ý đào tạo loại hình giáo viên này.
- Một số địa phương trong khu vực thiếu đôn đốc, kiểm tra, thiếu
kinh phí hỗ trợ để phát triển giáo dục, không có môi trường để sử dụng
kiến thức đã học, sách báo cho trẻ em đọc, dẫn đến tình trạng tái mù chữ
- Công tác quản lý giáo dục – đào tạo chậm đổi mới, còn những bất
cập trên các mặt: Quy hoạch, kế hoạch, cơ chế chính sách, năng lực, trách

nhiệm quản lý.
10


Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

- Nhận thức của các cấp, các ngành còn có những mặt chưa thực sự
sâu sắc, toàn diện, chưa thấy được tính cấp bách và tầm quan trọng của
giáo dục`–đào tạo và trách nhiệm của cấp, ngành mình đối với sự phát
triển giáo dục – đào tạo, thậm chí còn có nơi coi sự nghiệp giáo dục – đào
tạo là trách nhiệm của riêng ngành giáo dục.
B. GIẢI PHÁP TIẾP CẬN GIÁO DỤC CHO TRẺ EM TẠI HÀ GIANG

1. Giải pháp tiếp cận giáo dục mầm non
Mở rộng mục tiêu tiếp cận
- Nhà nước có chính sách khuyến khích cho trẻ 5 tuổi ra lớp, chính
sách mở rộng các chương trình chăm sóc – giáo dục mầm non
- Nhà nước có chính sách phù hợp với Hà Giang, cam kết đảm bảo
phát triển mẫu giáo 5 tuổi, thu hút hầu hết trẻ em 5 tuổi đến lớp. Ở những
vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn tại Hà Giang, Nhà nước đầu tư cơ sở
vật chất, trả lương giáo viên, cá biệt quá khó khăn đầu tư học liệu học tập
cho trẻ hoặc hỗ trợ bữa ăn phụ. Ở nơi có điều kiện kinh tế không quá khó
khăn thì tổ chức mẫu giáo 5 tuổi theo mô hình công lập tự chủ về tài
chính một phần hoặc toàn phần theo Nghị định 43/2005/NQ-CP.
- Đối với lứa tuổi còn lại (3 tháng – 4 tuổi): Nhà nước có chính
sách đầu tư nhằm tạo ra bình đẳng trong hỗ trợ đối với tất cả các loại hình
giáo dục mầm non: công lập, dân lập, tư thục với phương thức hỗ trợ trên
đầu trẻ ra nhóm, lớp theo những tỷ lệ khác nhau, phù hợp với điều kiện
ngân sách cụ thể của Trung ương và địa phương
- Với các nhóm trẻ thiệt thòi, đó là cơ sở để cha mẹ có điều kiện gửi

trẻ và được chăm sóc giáo dục tốt hơn, đó cũng là cách để giúp đỡ giáo
viên và người trông trẻ duy trì, cải thiện điều kiện sống vốn rất khó khăn
của họ.
- Đối với trẻ 0-2 tuổi, do tỷ lệ trẻ đến các nhà trẻ thấp, nên cần có
một tỷ lệ nhất định từ nguồn đầu tư hỗ trợ của Nhà nước để duy trì hoạt
động của các cơ sở mầm non hiện có, đồng thời để xây dựng tài liệu, phổ
biến kiến thức chăm sóc trẻ nhỏ và được phân phối đến tận gia đình nhằm
11


Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

giảm bớt thiệt thòi cho trẻ không được đến trường. Việc này đòi hỏi có sự
phối hợp của các cơ quan, ban ngành, trong đó chủ yếu là Bộ Giáo dục và
Đào tạo và Ủy ban dân số , gia đình và trẻ em.
- Nhà nước cần có chính sách mở rộng hệ thống các cơ sở nuôi, dạy
trẻ mồ côi, tàn tật, trẻ em nghèo các dân tộc thiểu số Hà Giang khó có khả
năng hòa nhập. Các cơ sở này có thể do Nhà nước đầu tư hoàn toàn, có
thể do cá nhân, tổ chức NGOs làm từ thiện nhưng đều có sự quản lý, phối
hợp hỗ trợ của Nhà nước để đảm bảo cho việc chăm sóc giáo dục trẻ có
hiệu quả.
1.2 Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục mầm non
- Chính phủ xây dựng các chương trình, triển khai các mục tiêu với
các dự án để nhằm:
 Thực hiện chương trình giáo dục mầm non với cách tiếp cận và
chăm sóc giáo dục mầm non mới và phù hợp với địa bàn khu vực. Việc
thực hiện này đòi hỏi phải có tổng kết, đánh giá việc thực hiện chương
trình giáo dục mầm non thí điểm, đầu tư cơ sở vật chất và tập huấn đội
ngũ giáo viên
 Nâng cao chất lượng đào tạo của các khóa đào tạo mầm non thông

qua việc nâng cấp trang thiết bị, cơ sở thực hành, bồi dưỡng chuẩn hóa
đội ngũ giáo viên sư phạm, cập nhật chương trình và phương pháp đào
tạo tiên tiến đạt trình độ khu vực và thế giới, thực thi dự án xây dựng một
số cơ sở đào tạo giáo viên mầm non trọng điểm có chất lượng cao tại khu
vực.
Đào tạo cán bộ quản lý có năng lực
- Hỗ trợ cán bộ quản lý mầm non tại Hà Giang, thực hiện sự chỉ
đạo tập trung nhằm thực hiện chương trình bồi dưỡng cán bộ quản lý cấp
Bộ, cấp Sở, cấp phòng giáo dục quận, huyện và cấp hiệu trưởng các
trường mầm non với những nội dung và kỹ năng quản lý giáo dục phù
12


Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội.
- Quán triệt các mục tiêu và chương trình hành động trong lĩnh vực
giáo dục mầm non thuộc Chương trình quốc gia giáo dục cho mọi người.
1.4 Cải thiện và nâng cao điều kiện học tập của học sinh mầm
non
- Nâng cao công tác vệ sinh tại vùng miền núi Hà Giang, đảm bảo
các trường mầm non phải sử dụng nước sạch để đảm bảo sức khỏe cho
các em.
-

Đề nghị tăng cường công tác y tế để chăm sóc, khám chữa bệnh

cho trẻ, cung cấp cho trẻ những dịch vụ y tế tốt nhất như tiêm chủng,
thuốc men, đảm bảo cho trẻ phát triển một cách toàn diện, không những
về giáo dục và còn về cả thể chất.

- Tăng cường huy động nguồn vốn từ ngân sách đầu tư cho giáo
dục mầm non tại Hà Giang, nhằm đảm bảo phát triển hệ thống giáo dục
mầm non, tăng cường cơ sở hạ tầng, nâng cao cơ sở vật chất phục vụ tốt
cho việc day – học tại các trường mầm non, nhằm đảm bảo thúc đẩy công
tác tiếp cận giáo dục mầm non và hiệu của của giáo dục mầm non ngày
càng được đẩy mạnh.
2. Giải pháp tiếp cận giáo dục cơ bản (tiểu học và trung học cơ
sở ) cho trẻ em nghèo tại Hà Giang.
2.1 Tăng cường cơ sở vật chất
-

Tiếp tục củng cố mạng lưới trường học với cơ sở trường lớp

được nâng cấp, tăng cường cơ sở vật chất trang thiết bị, đồ dùng giảng
dạy, học tập cho nhà trường cả tiểu học và trung học cơ sở tại Hà Giang
-

Cần xóa bỏ các phòng học tạm, phòng học 2 ca, xây dựng các

công trình vệ sinh để đảm bảo điều kiện tối thiểu cho các em học sinh
trong việc học tập cấp tiểu học cũng như trung học cơ sở.
-

Xây dựng cơ sở vật chất đầy đủ tại các trường học, chú ý đến
13


Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

việc phát triển mạng lưới trường học tập trung, gần dân, để đảm bảo việc

đi học thuận tiện, dễ dàng cho các em, nhất là đối với các em học sinh
nghèo sống ở những khu vực có khó khăn về điều kiện địa lý, đảm bảo
việc đi học đẩy đủ và đúng giờ của các em, tạo cho các em hứng thú mỗi
khi đi học, xóa bỏ sự ngại đi học do đường từ nhà đến trường quá vất vả.
-

Chú trọng xây dựng các trường chuẩn quốc gia, góp phần nâng

cao chất lượng giáo dục, đảm bảo về phương tiện dạy học một cách tốt
nhất. Xây dựng các phòng chức năng, sân chơi, bãi tập tại các trường.
2.2 Tăng cường đầu tư cho giáo dục
- Tăng cường chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục miền núi thông
qua một tỷ lệ thích đáng trong các chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội.
- Khai thác triệt để các nguồn vốn tài trợ quốc tế, vốn vay phục vụ
cho sự nghiệp phát triển giáo dục miền núi, nâng tỷ lệ vốn vay ODA cho
giáo dục dân tộc, tránh sự lãng phí và thất thoát
- Dành chủ yếu nguồn vốn của chương trình xóa mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học hiện nay cho giáo dục dân tộc và vùng đặc biệt khó
khăn tại Hà Giang để thực hiện được kế hoạch hoàn thành xóa mù chữ và
phổ cập trung học cơ sở.
- Có chính sách đầu tư đặc biệt cho một số dân tộc đặc biệt ít người
tại khu vực. Có chính sách hỗ trợ cho các vùng cao mở trường tiểu học
nội trú dân nuôi hoặc bán dân lập
- Cần xây dựng quy chế đóng góp từ nguồn lực nhân dân trong xây
dựng giáo dục địa phương, đồng thời xác định chế độ ưu tiên cho các đối
tượng đặc biệt
2.3 Phát triển đội ngũ quản lý giáo dục
- Các cán bộ quản lý giáo dục hầu hết trưởng thành từ giáo viên, vì
vậy họ có ít kinh nghiệm về quản lý, họ cần được bồi dưỡng, được hỗ trợ
14



Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

để phát triển năng lực, trong đó kỹ năng lập kế hoạch và chỉ đạo thực hiện
kế hoạch là một trong những kỹ năng cần phải có mà cụ thể ở đây là việc
thực hiện tốt công tác tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo Hà Giang tại
các cấp học tiểu học và trung học cơ sở.
- Do đó, trong những năm tới phải coi việc đổi mới công tác quản
lý giáo dục và đội ngũ giáo viên là một trong những nhân tố quan trọng
để nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, vì vậy phải
có biện pháp tích cực và bước đi cụ thể đối với công việc quan trọng này.
- Cần phải đổi mới đồng bộ về nội dung, sách giáo khoa, phương
pháp dạy học, về tư duy quản lý giáo dục, về công tác đánh giá, về công
tác thiết bị dạy học, chương trình giáo dục phổ thông tại Hà Giang theo
chương trình mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề ra.
- Cần lập cơ quan quản lý ở Bộ vừa có chức năng nghiên cứu giáo
dục dân tộc tại Hà Giang, vừa có chức năng tham mưu, chỉ đạo hoạt động
giáo dục tại khu vực.
- Đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên, chuyên gia giáo dục
là nhân tố quyết định sự thành công của công tác tiếp cận giáo dục cho trẻ
em nghèo tại nơi đây, do đó phải bồi dưỡng và đổi mới công tác quản lý
giáo dục như là một yêu cầu cấp thiết. Từ đó có những phương pháp thực
hiện tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục một cách có hiệu quả như
việc huy động trẻ em nghèo, có hoàn cảnh khó khăn ra lớp, số học sinh
bỏ học được huy động lại trường để tái hòa nhập, các giải pháp nâng cao
chất lượng công tác dạy – học, phát triển cơ sở vật chất phục vụ giáo
dục ...
2.4 Giải pháp thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ
sở

- Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý giáo dục và cán bộ chính
quyền các cấp bảo đảm quyền được tham gia học tập của tất cả trẻ nghèo
tại Hà Giang. Xoá bỏ những qui định bất cập về việc đi học theo đúng địa
15


Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

danh hành chính đối với trẻ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn vùng dân tộc.
- Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, bảo đảm chất lượng giáo dục.
Có kế hoạch sử dụng tối đa nguồn nhân lực đã được đào tạo, bồi dưỡng
và có kinh nghiệm về chăm sóc, giáo dục trẻ. Nhanh chóng biên soạn tài
liệu, sách hướng dẫn chăm sóc, giáo dục, dạy học cho học sinh theo tiêu
chuẩn của Bộ sao cho phù hợp với đặc điểm của vùng và đặc điểm của
mỗi học sinh
- Tổ chức các hình thức giáo dục phù hợp với điều kiện hiện có và
sự tham gia của phụ huynh học sinh và chính các em. Đưa giáo dục trực
tiếp tới trẻ em nghèo không có điều kiện để đến trường
- Huy động trẻ từ 5 tuổi ra lớp, chuẩn bị tâm thế cho tiểu học và
trung học cơ sở, sẵn sàng đón các em đến trường.
- Xây dựng các cơ sở tư vấn, dịch vụ về giáo dục. Vận động sự ủng
hộ (Sách, vở, đồ dùng dạy học, quần áo, kinh phí, nhân lực...) của cộng
đồng, các cá nhân, tổ chức kinh tế-xã hội cho giáo dục, để giúp đỡ các em
có điều kiện học tập một cách cơ bản nhất.
- Lên danh sách tổng thể về trẻ em nghèo tại vùng núi Hà Giang để
xây dựng chiến lược, kế hoạch chuẩn bị nguồn nhân lực, trang thiết bị và
những phương tiện cần thiết khác cho giáo dục các em..
- Xây dựng hệ thống văn bản chỉ đạo, quản lí, điều hành và các qui
định về chế độ, chính sách trong giáo dục tiểu học và trung học cơ sở sao
cho phù hợp nhất với điều kiện tại Hà Giang.

- Thường xuyên tuyên truyền nâng cao nhận thức của cộng đồng,
đặc biệt là phụ huynh học sinh - những người bảo lãnh về nhu cầu giáo
dục của trẻ em và trách nhiệm của gia đình, cộng đồng trong giáo dục trẻ
em. Kết hợp với các cá nhân, tổ chức kinh tế-xã hội để thực hiện xã hội
hoá giáo dục trẻ em Hà Giang nói chung và trẻ em nghèo tại khu vực nói
riêng
- Điều chỉnh chương trình phù hợp, xây dựng các điều kiện bảo đảm
cho việc học tập suốt đời của trẻ em tại nơi đây
16


Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

- Xây dựng chương trình định hướng nghề nghiệp, dạy nghề và tìm
kiếm nơi làm việc cho trẻ lớn tuổi.
- Để phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng cao
cho tất cả trẻ em trong độ tuổi tại Hà Giang tới 2015, thì cần thực hiện
đồng bộ các giải pháp nêu trên trong sự phối hợp chặt chẽ giữa các Ban,
Ngành, sự tham gia tích cực của toàn cộng đồng và tranh thủ sự ủng hộ của
các cá nhân, tổ chức trong nước cũng như quốc tế.
2.5 Đáp ứng nhu cầu học tập cho trẻ em Hà Giang
- Nhà nước cần có các chính sách để nhằm xóa đói giảm nghèo,
từng bước nâng cao đời sống của nhân dân để giảm tỷ lệ số trẻ em nghèo
đi học tại Hà Giang, từ đó giảm thiểu được chi phí cho giáo dục của Nhà
nước tại nơi đây. Khi đời sống kinh tế - xã hội phát triển thì mức sống của
người dân cũng tăng lên, số trẻ em nghèo giảm xuống và gánh nặng chi
phí cho công tác tăng cường tiếp cận giáo dục cho các em cũng được
giảm theo, từ đó có thể chuyên tâm vào công tác phổ cập giáo dục các
cấp, dần nâng cao được hiệu quả giáo dục, ngày một đáp ứng được nhu
cầu học tập của các em một cách tốt nhất.

2.6 Nâng cao chất lượng công tác quản lý giáo dục
- Ngay từ bây giờ, phải có các yêu cầu về điều tra, thống kê, bổ
sung số liệu hàng năm, nâng cao chất lượng quản lý, dự báo giáo dục tại
Hà Giang.
- Tiếp tục thu thập các số liệu và phân tích, đưa ra những kiến nghị
hợp lý về chế độ chính sách, về giải pháp của công tác tăng cường khả
năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo tại nơi đây.
- Do trình độ phát triển kinh tế xã hội và giáo dục tại Hà Giang còn
yếu kém, do đó phải xây dựng được phương án chỉ đạo thích hợp cho
vùng, mỗi nhóm dân tộc, khắc phục tình trạng chỉ đạo chung, tràn lan.
- Đối với các cơ quan quản lý giáo dục địa phương cần có cơ chế
quản lý thích hợp theo hướng giao thêm quyền độc lập và chủ động trong
công tác quản lý giáo dục tại vùng
17


Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

- Cần có sự phối hợp ngang giữa các chương trình, dự án kinh tế xã hội của các bộ, tổ chức quốc tế và chỉ đạo dọc của các cơ sở giáo dục
và đơn vị giáo dục địa phương như việc kết hợp lồng ghép chương trình
135 vào công tác tiếp cận và nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ em
nghèo tại khu vực, để phát huy tối đa hiệu quả nghiên cứu chỉ đạo giáo
dục dân tộc.
2.7 Giải pháp đối với giáo viên
- Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục trong giáo
dục tiểu học và trung học cơ sở. Trong những năm qua, mặc dù đã có cố
gắng trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, tỷ lệ giáo viên đạt
chuẩn và trên chuẩn tại Hà Giang đã tăng lên rõ rệt. Nhưng cho đến nay
một số địa phương trong khu vực vẫn còn chưa đảm bảo về số lượng, vẫn
còn thiếu giáo viên là người dân tộc, mặt khác lại chưa hợp lý về cơ cấu.

Hiện vẫn còn thiếu giáo viên dạy thể dục, mỹ thuật, hát nhạc và cũng
chưa chuẩn về chất lượng, nhất là ở những vùng miền khó khăn trong khu
vực. Những tồn tại này đã có ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển khai
nội dung, chương trình, sách giáo khoa mới. Vấn đề đặt ra là cần phải có
những chính sách tích cực nhằm phát triển đội ngũ giáo viên công tác tại
đây cả về số lượng và chất lượng.
- Thực hiện chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần đối với
giáo viên, khuyến khích người giỏi làm nghề dạy học.
- Có chính sách thu hút giáo viên lên công tác tại vùng cao song
song với nó là cần phải đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên
là người dân tộc.
- Tập trung nghiên cứu để có chính sách đào tạo và bồi dưỡng giáo
viên phù hợp với đặc điểm của Hà Giang nói chung và giáo dục tại miền
núi Hà Giang nói riêng.
- Giáo viên công tác tại vùng sâu, vùng xa, vùng cao của Hà Giang
phải được được ưu tiên trong tuyển dụng.
- Tạo điều kiện giúp cho giáo viên yên tâm công tác và thực hiện tốt
18


Lý Thị Bích Liên lớp KT5-K8

nhiệm vụ, đem lại hiệu quả cao trong giáo dục. Có chính sách đãi ngộ đặc
biệt về lương và phụ cấp, nghỉ phép, tạo điều kiện cho giáo viên về nhà ở.
2.8 Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục
- Tiếp tục nghiên cứu, thực nghiệm, tổng kết và phổ biến kinh
nghiệm về việc dạy song ngữ. Biên soạn chương trình, sách giáo khoa
dạy chữ dân tộc cho một số dân tộc để có thể dạy rộng rãi ở các khu vực
thích hợp, có nhu cầu và có đủ điều kiện về cơ sở vật chất cũng như giáo
viên.

- Biên soạn chương trình giáo trình đào tạo giáo viên dạy song ngữ,
dạy chữ dân tộc, dạy lớp ghép và chương trình bồi dưỡng thường xuyên
hàng năm cho các giáo viên hiện đang đứng lớp.
- Xây dựng chương trình, nội dung phần mềm mang tính đặc thù địa
phương để đưa vào giảng dạy như địa lý, lịch sử địa phương.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy và
học ở bậc tiểu học và trung học cơ sở với các hình thức dạy lớp ghép, lớp
xóa mù chữ, lớp linh hoạt, lớp trẻ em gái.
- Về lớp ghép, cần coi đây là một loại hình giảng dạy theo phương
pháp mới phù hợp với Hà Giang vùng dân tộc về nhiều mặt. Do vậy cần
có kế hoạch mở rộng qui mô, tăng cường chỉ đạo, tích cực đầu tư và đúc
rút kinh nghiệm, đào tạo giáo viên.

19



×