Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÀN THỊ BÍCH DUYÊN

CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH TUYÊN QUANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÀN THỊ BÍCH DUYÊN

CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH TUYÊN QUANG

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS,TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN


HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bàn Thị Bích Duyên


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ........................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .............. 7
1.2. Pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ................................ 17
Chương 2: THỰC TRẠNG CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ TẠI TỈNH TUYÊN QUANG ............................................. 43
2.1. Tổng quan thực trạng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở tỉnh Tuyên
Quang....................................................................................................... 44
2.2. Đánh giá thực trạng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của hai
cấp Tòa án tại tỉnh Tuyên Quang ............................................................ 57
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHUẨN BỊ
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TỈNH TUYÊN
QUANG .................................................................................................. 69

3.1. Triển khai thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ..................................................................................................... 69
3.2. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ của đội ngũ thẩm phán và Hội thẩm nhân dân và thư ký
Tòa án ở tỉnh Tuyên Quang .................................................................... 71
3.3. Các giải pháp khác ................................................................................... 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

HĐXX

Hội đồng xét xử

HĐXXST


Hội đồng xét xử sơ thẩm

HTND

Hội thẩm nhân dân

TAND

Tòa án nhân dân

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 2.1. Số liệu thụ lý sơ thẩm vụ án hình sự của hai cấp TAND tỉnh Tuyên Quang. ..... 45
Bảng 2.2: Số liệu ra quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án hình sự của hai cấp
TAND tỉnh Tuyên Quang ................................................................................. 49
Bảng 2.3: Số liệu quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của hai cấp TAND tỉnh
Tuyên Quang được VKS chấp nhận và không chấp nhận. .............................. 50
Bảng 2.4. Số liệu căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung của hai cấp tỉnh
Tuyên Quang .................................................................................................. 51
Bảng 2.5. Số liệu quyết định tạm đình chỉ của hai cấp TAND tỉnh Tuyên Quang
bị kháng nghị. ................................................................................................... 53

Bảng 2.6: Số liệu quyết định đình chỉ của hai cấp TAND tỉnh Tuyên Quang bị
VKS kháng nghị ............................................................................................... 54
Bảng 2.7: Số liệu quyết định đưa vụ án ra xét xử của hai cấp TAND tỉnh
Tuyên Quang .................................................................................................. 55
Bảng 2.8: Số liệu ra quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án hình sự của hai cấp
TAND tỉnh Tuyên Quang ................................................................................. 58

DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............................20


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động tố tụng hình sự được
thực hiện trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Bất cứ một công việc gì đểu có sự
thành công đều cần phải được chuẩn bị, công việc xét xử cũng không ngoại lệ.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của giai đoạn chuẩn bị xét xử những năm gần đây Tòa
án nhân dân các cấp đã chú trọng đến khâu chuẩn bị xét xử nhằm đảm bảo việc xét
xử được hiệu quả, đảm bảo công bằng, dân chủ, xét xử đúng người, đúng tội và bảo
vệ tối cao quyền con người.
Chức năng xét xử của Tòa án là đảm bảo pháp lý quan trọng nhất trong việc
bảo vệ quyền con người, quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Để xét xử được hiệu
quả thì cần phải có giải đoạn chuẩn bị xét xử. Trong đó, giai đoạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi năm 2015 đã có những điểm mới được bổ
sung rõ ràng và chi tiết hơn so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Tuy nhiên,
một vài quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 còn một số bất cập, hạn chế
nhất định chưa được sửa đổi liên quan đến hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự cụ thể: Khái niệm về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hay bản chất

của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cần được hiểu như thế nào cũng chưa có
khái niệm thống nhất.
Hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự còn góp phần bảo đảm cho
việc thực hiện nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm hình sự, mà nội dung cơ
bản của nguyên tắc này là: Chỉ những người thực hiện hành vi phạm tội được quy
định tại Bộ luật Hình sự mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Mọi hành vi phạm tội
phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng và khách quan theo đúng pháp luật
với mục đích không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội.
Bên cạnh đó, trên thực tế Tòa án cấp sơ thẩm ở tỉnh Tuyên Quang còn những
vướng mắc, khó khăn trong quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hiện
hành về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự gây ảnh hưởng đến chất lượng xét

1


xử vụ án, hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Khi đề cập đến các vụ
án hình sự, quyết định của Tòa án bị sửa, hủy thì nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó
là do một số người tiến hành tố tụng còn thiếu kỹ năng nghiệp vụ, chuyên môn và
còn chủ quan trong hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nên dẫn đến tình
trạng hủy, sửa án. Như vậy, để tránh tình trạng sửa, hủy án thì những người tiến hành
tố tụng mà trong đó Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa là người chịu trách
nhiệm chủ đạo phải có kỹ năng và trình độ chuyên môn cao trong hoạt động chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng và xét xử vụ án hình sự nói chung.
Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp thể hiện qua các Nghị quyết 08-NQ/ TW
(năm 2002), và Nghị quyết số 49-NQ/TW (năm 2005) của Bộ Chính trị về Chiến
lược CCTP đến năm 2020, hoạt động xét xử được coi là khâu trung tâm vì ở đây
biểu hiện sự tập trung và thể hiện đầy đủ quyền tư pháp, là nơi mà trên cơ sở các kết
quả điều tra, truy tố và tranh tụng, Toà án nhân danh Nhà nước đưa ra phán xét một
người có tội hay không có tội và áp dụng hình phạt đối với tội phạm. Do vậy một
phán xét chính xác, khách quan và đúng pháp luật hay không, quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân có được bảo đảm hay không phụ thuộc vào quá trình điều tra,
truy tố và xét xử, tranh tụng từ phía cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng. Chính vì vậy cần chú trọng đến khâu chuẩn bị xét xử nhằm đảm bảo đúng tội
và bảo vệ tối cao quyền con người.
Từ thực trạng thực tiễn pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự nói chung đến thực tế hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang nên tác giả chọn đề tài "Chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang" với mong muốn đề tài
khoa học sẽ đóng góp phần nào hoàn thiện quy định của pháp luật và giúp hạn chế
được những vướng mắc khi áp dụng luật trong thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là vấn đề tương đối rộng và đã có
những tác giả nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau. Một số công trình nghiên cứu,
bài viết có liên quan đến chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bao gồm:
Lê Trần Hồng Hạnh (2016), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Bình, Luận văn Thạc sĩ.

2


Luận văn đã nêu khái niệm về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; phân
tích được mục đích, ý nghĩa của hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
nội dung của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS
năm 2003 như thời hạn chuẩn bị xét xử; hoạt động nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự;
quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định
đình chỉ và quyết định tạm đình chỉ vụ án;chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn
chế, bất cập trong quá trình thực hiện những quy định của BLTTHS về chuẩn bị xét
xử vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Thái Bình và nguyên nhân của những bất cập và
đưa ra được một số giải nâng cao chất lượng chuẩn bị xét xử vụ án hình sự trên cơ
sở những đặc điểm hoạt động này từ thực tiễn tỉnh Thái Bình [19].

Cao Văn Hiếu (2014), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ.
Trong công trình nghiên cứu khoa học của mình, tác giả đã làm sáng tỏ một số
vấn đề như: Phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với hoạt động chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; Phân tích trình tự, thủ tục trong các hoạt động chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự với mục đích: Xây dựng khái niệm, xác định, làm
rõ nội dung, tầm quan trọng và điều kiện áp dụng để đánh giá tổng hợp thế mạnh và
hạn chế của chế định này trên phương diện lý luận về lập pháp tố tụng hình sự;
Phân tích việc áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2003 đối với hoạt động
chuẩn bị xét xử vụ án hình sự trong thực tiễn hoạt động của Tòa án nhân dân thành
phố Đà Nẵng. Đồng thời cũng đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS năm 2003 từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng [21].
- Bùi Thị Hồng (2012), Chuẩn bị xét xử vụ án hình sự - Thực trạng và giải
pháp, Luận văn Thạc sĩ, Hà Nội.
Luận văn đã đưa ra khái niệm, phân tích đặc điểm cơ bản của hoạt động
chuẩn bị xét xử vụ án hình sự, đồng thời phân tích và đánh giá những quy định của
BLTTHS năm 2003 đối với hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự. Trên cơ sở
nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2003 đối với
hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự.

3


Từ việc nghiên cứu và phân tích trên, luận văn đã nêu được một số giải pháp nâng
cao chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự [26].
- Hoàng Thị Minh Sơn (2009), Một số quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự
về quyết định của Tòa án trong họat động chuẩn bị xét xử sơ thẩm và thực tiễn áp
dụng, Tạp chí Luật học số 7, Hà Nội.
Bài viết đã phân tích làm rõ các căn cứ, điều kiện và thủ tục ra quyết định trả hồ

sơ để điều tra bổ sung, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án và quyết định đưa vụ án ra
xét xử của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa trong chuản bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; chỉ
ra những điểm bất cập trong các quy định này và biện pháp khắc phục [43].
Ngoài ra còn một số các công trình khác có liên quan như: Dư Tuyết Lạnh
(2013), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Cần Thơ; Đinh Văn Quế (2011), "Phương hướng hoàn
thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự."
Tạp chí Tòa án nhân dân (số 17/T9- 2011)", tr 16-18;- Vũ Gia Lâm (2011), "Hoàn
thiện một số quy định về xét xử sơ thẩm hình sự nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên
tắc hai cấp xét xử". Tạp chí Tòa án nhân dân (số 21/T11- 2011), tr 1-7;
Các công trình khoa học và bài viết kể trên đều có giá trị to lớn về lý luận
và thực tiễn, nhưng mới chỉ nghiên cứu những vấn đề chung nhất về chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự mà chưa có công trình và bài viết nào nghiên cứu một cách
đầy đủ và toàn diện về hoạt động này từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ lý luận, quy định của pháp luật tố tụng hình sự và
thực tiễn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án hai cấp tại tỉnh Tuyên
Quang, tác giả đề xuất những giải pháp bảo đảm thực hiện đúng chế định này trong
hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ,
- Nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;

4


- Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;

- Nghiên cứu, làm rõ thực trạng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh
Tuyên Quang, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân
của nó làm cơ sở cho việc đưa ra giải pháp đảm bảo thực hiện đúng quy định của
pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án
nhân dân hai cấp tại tỉnh Tuyên Quang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và pháp luật về xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự. Do luận văn được thực hiện trong bối cảnh giao thoa giữa
BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015 nên tác giả phân tích những quy định về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong BLTTHS năm 2003 làm cơ sở cho việc
nghiên cứu thực tiễn áp dụng, có so sánh, đối chiếu với BLTTHS năm 2015;
Do BLTTHS năm 2015 mới chỉ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 nên
luận văn chỉ nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của BLTTHS năm 2003 về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Tuyên Quang trong thời gian từ năm 2013
đến năm 2017.
5. Phương pháp luật và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận Triết học
Mac – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn
đề cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, tác giả
còn sử dụng các phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Đây là công trình nghiên cứu khoa học tương đối toàn diện
những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

5



ở tỉnh Tuyên Quang theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Luận văn góp phần làm sáng
tỏ hơn nữa vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Ý nghĩa thực tiễn: Xác định đúng những điều kiện cụ thể của từng trường hợp
áp dụng quy định của pháp luật đối với hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Tuyên Quang. Đồng
thời cũng đề xuất một số giải pháp về việc đào tạo cán bộ, thêm mới và sửa đổi bổ
sung nhằm hoàn thiện các điều luật ở khía cạnh lập pháp với mục đích giúp việc chỉ
dẫn, áp dụng pháp luật trong thực tiễn ngày càng tốt hơn. Luận văn còn có thể là
nguồn tài liệu tham khảo đối với một số nhà nghiên cứu khoa học luật, những người
làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và áp dụng pháp luật, cán bộ hoạt động trong
lĩnh vực pháp luật, sinh viên, học viên cao học chuyên ngành tư pháp hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu thảm khảo, trang phụ bìa, danh
mục các bảng biểu, mục lục, luận văn có bố cục gồm 03 chương, 7 tiết:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự.
Chương 2: Thực trạng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Tuyên Quang.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự tại tỉnh Tuyên Quang.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm, điểm của hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

1.1.1.1. Khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Khi nói đến việc giải quyết một vụ án hình sự luôn bắt buộc có các cơ quan
tiến hành tố tụng đó là: cơ quan điều tra, cơ quan kiểm sát và cơ quan xét xử. Trong
đó chức năng xét xử một vụ án hình sự là thuộc về Tòa án.
Nói đến Tòa án là nói đến xét xử, đây cũng là nhiệm vụ quan trọng và chủ
yếu nhất của Tòa án. Tại Hiến pháp Việt Nam năm 2013 có quy định Tòa án nhân
dân là cơ quan xét xử của nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Yêu cầu của việc xét xử là phải xác định và làm
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, trên cơ sở đó, Tòa án được nhân danh Nhà
nước đưa ra các phán quyết bằng bản án hoặc các quyết định.
Để thực hiện đúng chức năng xét xử và đặt được hiệu quả cao nhất trong quá
trình xét xử, Tòa án cần phải xem xét vụ án hình sự một cách tỉ mỉ, chi tiết để hiểu
rõ vụ án rồi mới xử vụ án chính xác và đúng pháp luật được. Ngay từ khi nhận được
hồ sơ vụ án từ Viện kiểm sát chuyển sang, người nhận hồ sơ của Tòa án phải đối
chiếu bản kê tài liệu với danh mục tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kiểm tra việc bàn
giao bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã thực hiện theo quy định của pháp luật hay
chưa. Khi các tài liệu có trong hồ sơ đầy đủ so với bản kê tài liệu và Viện kiểm sát
cũng đã thực hiện việc giao cáo trạng cho bị can thì Tòa án nhận hồ sơ và tiến hành
thụ lý vụ án. Trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án Tòa án áp dụng, thay đổi hoặc hủy
bỏ biện pháp ngăn chặn đồng thời tiến hành giải quyết vụ án bằng việc Thẩm phán
được giao chủ tọa phiên tòa đưa vụ án hình sự ra xét xử sơ thẩm. Trường hợp không
đủ căn cứ để đưa vụ án ra xét xử thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả

7


hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Nếu vụ án được đưa ra
xét xử thì công việc chuẩn bị cho phiên tòa được tiến hành bao gồm: Lập lịch trình

xét xử, ban hành và giao quyết định đưa vụ án ra xét xử, giao giấy triệu tập cho
những người tham gia tố tụng, mời người bào chữa, chuẩn bị các điều kiện cần thiết
khác. Đó là những công việc được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Việc xét xử sơ thẩm hiện nay được thực hiện tại Tòa án nhân dân
cấp huyện, tỉnh, Tòa án quân sự khu vực, Tòa án quân sự quân khu và tương đương.
Khi xét xử sơ thẩm Tòa án xem xét và giải quyết mọi vấn đề của vụ án bằng việc ra
bản án hoặc quyết định. Hội đồng xét xử sơ thẩm có hội thẩm nhân dân tham gia.
Xét trên phương diện ngôn ngữ học thì "chuẩn bị " là làm cho có sẵn cái cần
thiết để làm việc gì, "xét xử" là xem xét và xử các vụ án, "sơ thẩm" được hiểu xét
xử vụ án lần thứ nhất [56]. Không phải một vụ án nào sau quá trình chuẩn bị xét xử
cũng đều được đưa ra xử tại phiên tòa. Sau quá trình chuẩn bị xét xử thì Tòa án sẽ
đưa ra các quyết định: có thể đưa vụ án ra xét xử nhưng không có thể vụ án sẽ trả hồ
sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án tùy vào quá trình nghiên
cứu hồ sơ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử này.
Dưới góc độ pháp lý thì “ xét xử sơ thẩm” là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử
ở một tòa án có thẩm quyền. Bản án, quyết định của Tòa án có thể bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời
hạn do pháp luật quy định thì có hiệu lực thi hành [19, tr.9].
Trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, khái niệm chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự chưa được quy định cụ thể. Ngay cả trong Bộ luật tố tụng hình
sự cũng chỉ quy định về nội dung của giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm mà cũng
không đưa ra khái niệm chính xác thế nào là chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Vì vậy còn có
khá nhiều ý kiến khác nhau nêu quan điểm về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự. Theo tác giả Phạm Hồng Hải trong bài viết về "chuẩn bị xét xử vụ án hình sự"
cho rằng "chuẩn bị xét xử là khâu quan trọng, trong đó yêu cầu của Thẩm phán
được giao nhiệm vụ thụ lý hồ sơ vụ án và là chủ tọa phiên tòa phải giải quyết nhiều
việc theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự". Trong cuốn "Thủ tục xét xử sơ thẩm
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam" tác giả Đinh Văn Quế cho rằng, chuẩn bị xét

8



xử là việc tạo những điều kiện cần thiết để Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định
của pháp luật [39].
Có thể thấy việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm được thực hiện bởi cơ quan tiến
hành tố tụng là Tòa án và người tiến hành tố tụng là Thẩm phán được phân công
giải quyết vụ án. Tuy nhiên không chỉ có Thẩm phán mới được nghiên cứu hồ sơ vụ
án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì
Hội đồng xét xử bao gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Đối với vụ án có bị cáo
thực hiện hành vi có các dấu hiệu của tội mà BLHS quy định mức cao nhất của
khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì HĐXXST gồm hai Thẩm phán và ba
Hội thẩm [28, tr.450]. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật. Vì vậy trong quá trình chuẩn bị xét xử ngoài Thẩm phán thì còn có cả
Hội thẩm tham gia cùng. Sau khi nhận được hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân
công chủ tọa phiên tòa cùng các Hội thẩm có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án và
khi có những căn cứ do pháp luật quy định thì ra quyết định phù hợp, đảm bảo chỉ
tiến hành xét xử những vụ án điều tra đầy đủ và những vụ án có các chứng cứ hợp
pháp. Như vậy giai đoạn chuẩn bị xét xử khi đưa ra quyết định thì phải tuân thủ các
quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành. Xét về góc độ pháp luật thì chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một chế định của luật tố tụng hình sự được quy
định trong Bộ luật tố tụng hình sự, là hoạt động mang tính bắt buộc của thủ tục xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự [19, tr.10].
Theo tác giả Cao Xuân Hiếu thì, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là
hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện bởi những người tiến hành tố tụng có
thẩm quyền theo quy định của Bộ luật TTHS từ khi thụ lý vụ án hình sự sơ thẩm đến
khi mở phiên tòa hình sự sơ thẩm [21, tr.10]. Cũng tương tự như trên, tác giả Hoàng
Ngọc Chiệu cho rằng, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một hoạt động do
những người tiến hành tố tụng thực hiện theo thẩm quyền từ khi Tòa án thụ lý vụ án
cho đến khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự [14, tr.8]. Chúng tôi đồng
quan điểm với các tác giả khi cho rằng chuẩn bị xét xử sơ thẩm được tiến hành từ

khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa. Tuy nhiên, khái niệm trên chưa
chỉ rõ chủ thể tiến hành hoạt động tố tụng trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm mà mới chỉ

9


nói chung là được tiến hành bởi người tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Trong giai
đoạn này, ngoài Thẩm phán và Hội thẩm, Thư ký Tòa án cũng tiến hành một số hoat
động theo quy định của pháp luật và thực hiện nhiệm vụ hành chính, tư pháp...theo
sự phân công của Chánh án [28, tr.106].
Từ những phân tích trên đây có thể đưa ra khái niệm về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự như sau: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động
tố tụng mang tính chất quyền lực Nhà nước do Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký
tòa được phân công giải quyết vụ án thực hiện để chuẩn bị các điều kiện cần
thiết cho việc mở phiên tòa hoặc ra các quyết định tố tụng khác nhằm giải quyết
vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự từ khi thụ lý vụ án cho đến khi
mở phiên tòa.
1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chuẩn bị xét xử là một giai đoạn của tố tụng hình sự, được thực hiện bởi cơ
quan xét xử là Tòa án, cụ thể hơn là được tiến hành bởi người tiến hành tố tụng có
thẩm quyền được phân công giải quyết vụ án. Giai đoạn này người tiến hành tố tụng
sẽ đưa ra những quyết định đối với việc xử lý vụ án: Đưa vụ án ra xét xử, tạm đình
chỉ vụ án, đình chỉ vụ án, trả hồ sơ để điều tra bồ sung. Có thể thấy chuẩn bị xét xử
là một khâu rất quan trọng trong tố tụng hình sự, hoạt đồng này mang những đặc
thù riêng so với các hoạt động tố tụng khác, thể hiện ở một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, chủ thể tiến hành hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
là người tiến hành tố tụng. Theo quy định của luật tố tụng hình sự thì hoạt động tố
tụng hình sự được thực hiện bởi những người tiến hành tố tụng bao gồm: Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán,

Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án.
Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được đánh dấu bắt đầu từ
lúc Tòa án thụ lý vụ án hình sự do Viện kiểm sát chuyển hồ sơ đến khi mở phiên
tòa. Khi tiếp nhận hồ sơ thì cán bộ của Tòa án phải đối chiếu với bản kê tài liệu,
kiểm tra việc giao cáo trạng cho bị can đã được thực hiện hay chưa, nếu trong vụ án
có vật chứng kèm theo hồ sơ cần kiểm tra xem có đúng và đủ hay không, nếu tang

10


vật, vật chứng không kèm hồ sơ thì cần kiểm tra xem đã có biên bản bàn giao giữa
Cơ quan điều tra với Cơ quan thi hành án hoặc đã có các loại giấy tờ chứng minh có
liên quan đến vật chứng ấy không. Trường hợp chưa đầy đủ các điều kiện trên thì
hồ sơ được trả lại cho Viện kiểm sát hoàn thiện tiếp, trường hợp đã đủ thì tiến hành
thụ lý. Hồ sơ sau khi được thụ lý được chuyển cho Chánh án hoặc Phó Chánh án
phụ trách hình sự phân công Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa, Thẩm phán tham gia
Hội đồng xét xử (nếu Hội đồng có năm người), Hội thẩm nhân dân và Thư ký tiến
hành tố tụng đối với vụ án. Các thành viên của Hội đồng xét xử nghiên cứu hồ sơ
vụ án, trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có
thể áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị can. Trong thời hạn
chuẩn bị xét xử được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự Thẩm phán phải ra một
trong các quyết định như: Đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình
chỉ, tạm đình chỉ vụ án. Trong giai đoạn này Thẩm phán được phân công làm chủ
tọa phiên tòa còn có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, yêu cầu của người
tham gia tố tụng.
Trong các chế định của Bộ luật tố tụng hình sự thì người tham gia tố tụng ở
giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm bao gồm: Bị cáo, người bào chữa, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch. Theo quy định tại Điều 279 BLTTHS năm 2015 thì trước khi mở phiên

tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải giải quyết các yêu cầu, đề nghị của người
tham gia tố tụng về việc thay đổi, bổ sung chứng cứ, triệu tập người làm chứng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa,
về việc thay đổi thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án; Đề nghị của bị cáo
hoặc người đại diện của bị cáo,người bào chữa về việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; Đề nghị của người tham gia tố tụng về việc xét xử
theo thủ tục rút gọn, xét xử công khai hoặc xét xử kín, về việc vắng mặt tại phiên
tòa. Điều này cho thấy trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có chủ
thể tiến hành hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là người tiến hành tố
tụng thì còn có những chủ thể là người tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét

11


xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trong hoạt động chuẩn bị xét xử được thực hiện tại Tòa
án bởi người tiến hành tố tụng là Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa,
Hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử và Thư ký được phân công giúp việc cho
Thẩm phán, thực hiện các yêu cầu của Thẩm phán trong hoạt động này. Trong đó,
chủ thể chịu trách nhiệm chính trước pháp luật của hoạt động chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
Như vậy, qua những phân tích nêu trên nhận thấy chủ thể trong chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự chủ yếu thuộc về Thẩm phán được phân công giải quyết,
xét xử vụ án hình sự, Hội thẩm được phân công xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và
Thư ký được phân công giúp việc cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chuẩn bị các
điều kiện cần thiết cho việc mở phiên tòa hoặc ra các quyết định tố tụng khác nhằm
giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự từ khi thụ lý vụ án cho
đến khi mở phiên tòa.
Thứ hai, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là khâu quan trọng để kiểm
tra và chuẩn bị các điều kiện cho việc xét xử vụ án hình sự.
Trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ

án xác định được vụ án có thuộc thẩm quyền của Tòa án mình hay không, các thủ
tục tố tụng trong điều tra, truy tố đã đúng, đủ theo quy định của pháp luật chưa, dựa
trên nhân thân của bị can, tính chất của hành vi có cần phải áp dụng, thay đổi hoặc
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn không; hành vi của bị can có đủ dấu hiệu cấu thành tội
phạm hay không, nếu đủ thì cấu thành tội nào, tội danh và điều khoản mà Viện kiểm
sát đã truy tố có phù hợp hay chưa?... Dựa vào việc nghiên cứu hồ sơ trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán mới có căn cứ để đưa ra các quyết định phù hợp.
Một người có bị coi là có tội hay không có tội phụ thuộc rất lớn vào giai đoạn xét
xử bởi không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án [21,tr.17]. Để
một vụ án đưa ra xét xử thì cần phải kiểm tra các điều kiện cần thiết, xem xét vụ án
đó đủ điều kiện đưa ra xét xử tại phiên tòa hay phải trả hồ sơ điều tra bổ sung nếu
thấy chưa đủ các điều kiện cần thiết, hay phải tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án.
Bộ luật tố tụng hình sự không chia hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự thành từng giai đoạn riêng biệt. Nhưng dưới góc độ lý luận và thực tiễn có

12


thể thấy hoạt động xét xử sơ thẩm gồm 3 giai đoạn: Hoạt động chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại phiên tòa và thủ tục tố tụng sau
khi phiên tòa sơ thẩm kết thúc. Trong đó để có hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự tại phiên tòa thì bắt buộc cần phải có hoạt động chuẩn bị xét xử sơ
thẩm. Đây là bước rất quan trọng trong tố tụng bởi vụ án có được đưa ra xét xử tại
phiên tòa hay không phụ thuộc hoàn toàn vào giai đoạn chuẩn bị xét xử này.
Thứ ba, hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phải tuân thủ chặt
chẽ theo quy định của Luật tố tụng hình sự.
Hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được quy định trong Bộ luật
tố tụng hình sự tại Chương XVII. Ngay từ khi nhận hồ sơ vụ án thì Thẩm phán được
phân công chủ tọa phiên tòa phải có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ trong một thời hạn
nhất định được quy định tại khoản 2 Điều 176 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

Trong thời hạn đó thì Thẩm phán phải ra một trong những quyết định sau: Đưa
vụ án ra xét xử, Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung; Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Việc đưa ra một trong các quyết định này Thẩm phán phải căn cứ vào các quy định
của Điều luật từ nội dung của quyết định cho đến lý do đưa ra quyết định đó.
Việc vi phạm một trong các quy định về thời hạn nghiên cứu hồ sơ trong
chuẩn bị xét xử sơ thẩm hay vi phạm về những điều kiện cần thiết để đưa ra các
quyết định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm có thể được coi là vi phạm quy
định của tố tụng hình sự.
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
- Mục đích của hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Mục đích của hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự chính là việc
Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa đưa ra một trong các quyết định:
Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án.
Toàn bộ quá trình từ lúc Tòa án nhận hồ sơ vụ án từ Viện kiểm sát chuyển
sang cho đến trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, Thẩm phán được phân công

13


chủ tọa phiên tòa sẽ phải nghiên cứu hồ sơ trong một thời hạn nhất định theo quy
định của pháp luật cuối cùng sẽ đưa ra quyết định của mình. Quyết định mà Thẩm
phán đưa ra có tính chất quyết định đối với vụ án có được đưa ra xét xử hay không.
Bên cạnh đó chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự còn nhằm tiếp tục xác
định sự thật, chứng minh tội phạm. Tòa án có trách nhiệm chứng minh tội phạm
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, vì vậy khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán
còn đánh giá các chứng cứ mà Cơ quan điều tra, truy tố đã thu thập. Nếu chứng cứ
đầy đủ thì Thẩm phán phải đưa vụ án ra xét xử, nếu chưa đầy đủ thì trả hồ sơ để
điều tra bổ sung.

Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự còn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là bị can. Trước khi bị kết tội công
khai tại Tòa án thì bị can, bị cáo có quyền khiếu nại đề nghị Tòa án xem xét quyết
định truy tố của Viện kiểm sát; đề nghị Tòa án cho phép được áp dụng biện pháp
ngăn chạn khác nhẹ hơn biện pháp ngăn chặn mà Viện kiểm sát đã áp dụng. Những
người tham gia tố tụng khác như người có nghĩa vụ liên quan có thể đề nghị Tòa án
xử lý vật chứng nếu vấn đề này chưa đươc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thực hiện.
Tòa án đảm bảo cho người bào chữa thực hiện quyền của mình một cách thỏa đáng
như nghiên cứu hồ sơ, trao đổi khi người bào chữa có quan điểm khác về vụ án.
Mặt khác, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự còn nhằm tạo điều kiện cần
thiết cho việc mở phiên tòa. Bằng các hoạt động chuẩn bị cho việc mở phiên tòa
như triệu tập bị cáo, người bị hại, người làm chứng hay các hoạt động chuẩn bị
mang tính chất hành chính như lên lịch xét xử tạo tiền đề cho việc xét xử tại phiên
tòa được thuận lợi và tiến hành nhanh chóng, tiết kiệm kinh phí.
- Ý nghĩa của hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Ý nghĩa chính trị: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một khâu quan
trọng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Hoạt động này góp
phần đáp ứng những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền đó là vấn đề dân chủ và tổ
chức quyền lực nhà nước. Một trong những hình thức thực hiện quyền lực nhà nước
quan trọng là đảm bảo được quyền con người, các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, tổ chức. Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước trong hoạt động của

14


mình phải bảo đảm cho các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vì trong hoạt
động của cơ quan nhà nước thì cơ quan xét xử phản ánh trực tiếp bản chất của Nhà
nước. Tòa án được phép nhân danh Nhà nước ra quyết định, bản án đối với người
phạm tội vì vậy việc Tòa án xét xử đúng hay không đúng thể hiện việc Nhà nước có
đảm bảo được quyền lợi cho công dân có hợp pháp hay không. Để việc xét xử của

Tòa án được đúng và chính xác theo quy định của pháp luật thì đòi hỏi quá trình
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên
tòa phải xem xét, giải quyết các yêu cầu, khiếu nại của những người tham gia tố
tụng về điều tra, truy tố, đảm bảo cho người tham gia tố tụng được thực hiện các
quyền mà pháp luật quy định cho họ được hưởng theo nguyên tắc tôn trọng và bảo
vệ các quyền cơ bản của công dân, đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật và đảm bảo quyền bào chữa của bị can.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Tòa án kiểm tra các
điều kiện đảm bảo cho vụ án được xét xử đúng quy định của pháp luật. Trong
trường hợp nếu có phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm
ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án, ảnh hưởng đến quyền lợi của những
người tham gia tố tụng thì Tòa án có quyền trả hồ sơ cho Viện kiểm sát yêu cầu
khắc phục những vi phạm pháp luật đó hoặc tự mình khắc phục những sai lầm đó
trong quyền hạn của Tòa án.
Mọi hoạt động tố tụng hình sự trong đó có chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự phải được tiến hành theo đúng quy định của BLTTHS. Người tiến hành tố
tụng phải chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình, nếu làm trái các
quy định của pháp luật thì phải chịu trách nhiệm kỷ luật, thậm chí bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Ý nghĩa pháp lý: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là khâu đảm bảo các
điều kiện cần thiết để đưa vụ án ra xét xử. Trong quá trình chuẩn bị xét xử Tòa án
sẽ ra những quyết định của mình dựa trên các quyết định của các cơ quan tiến hành
tố tụng khác. Trong trường hợp Tòa án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
thì Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát phải kiểm tra lại tính có căn cứ và chính xác
của các quyết định mà cơ bản mình đã ban hành trước đó để đảm bảo không làm

15


oan người vô tội, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội là đúng pháp

luật, không bỏ lọt tội phạm. Tòa án cũng được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung nếu
phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, tạo điều kiện cho Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát sửa chữa vi phạm, khắc phục hậu quả do vi phạm gây ra.
Bằng việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm thông qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm
phán được phân công chủ tọa phiên tòa nắm bắt được nội dung vụ án để đưa ra
những quyết định chính xác và phù hợp, bảo đảm được quyền và lợi ích của người
bị buộc tội nói riêng và của những người tham gia tố tụng nói chung.
Mặt khác, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cũng giúp cho Thẩm phán
xác định đúng quyền xét xử của Tòa án mình, tránh tình trạng xét xử sai thẩm quyền
của Tòa án dẫn đến tranh chấp. Khi vụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa mình
thì bắt buộc Tòa án đã thụ lý phải chuyển cho Tòa án có thẩm quyền để giải quyết,
chỉ được chuyển cho Tòa án khác khi vụ án chưa được xét xử. Chuẩn bị xét xử còn
giúp Thẩm phán hiểu và nắm rõ bản chất, diễn biến của vụ án từ đó xác định sự thật
của vụ án, đánh giá việc truy tố của Viện kiểm sát có chính xác và có căn cứ hay
không. Hơn thế nữa, công tác chuẩn bị xét xử tốt còn đảm bảo cho việc chỉ đưa ra
xét xử những vụ án bị truy tố một cách có căn cứ, không đưa ra xét xử những vụ án
mà việc điều tra truy tố chưa đầy đủ hoặc không chính xác.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử, Thẩm phán đưa ra quyết định là căn cứ
pháp lý để tạm dừng, dừng việc giải quyết vụ án hay đưa vụ án ra xét xử. Khi quyết
định đưa vụ án ra xét xử thì thời gian nghiên cứu hồ sơ là thời gian giúp Thẩm phán
có thể chuẩn bị thật tốt cho việc xét xử, đưa ra những dự liệu cần thiết giúp Thẩm
phán chủ động hơn trong phiên tòa xét xử. Ngoài ra, việc nghiên cứu hồ sơ còn giúp
Thẩm phán có định hướng trong vấn đề giải quyết vật chứng, xử lý về vấn đề bồi
thường. Bằng cách đó chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự góp phần thực hiện
các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự: Bảo đảm pháp chế trong tố tụng
hình sự, tôn trọng và bảo đảm các quyền cơ bản của công dân, nguyên tắc xác định
sự thật của vụ án....
Như vậy có thể thấy chuẩn bị xét xử sơ thẩm có ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng giải quyết vụ án hình sự. Việc chuẩn bị xét xử được tiến hành càng cẩn thận,


16


chu đáo và đầy đủ thì chất lượng xét xử càng cao. Điều này sẽ có ý nghĩa trong việc
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giáo dục được nhân dân ý thức tuân thủ
pháp luật và có ý thức đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật. Ngược lại
nếu việc chuẩn bị xét xử không thận trọng, sơ sài có thể dẫn đến việc Thẩm phán ra
những quyết định không chính xác, ảnh hướng lớn đến chất lượng xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự. Thực tiễn cũng cho thấy tình trạng xét xử oan người vô tội hay để lọt
tội phạm gây ảnh hưởng xấu đến việc chấp hành pháp luật của người dân, làm giảm
lòng tin của nhân dân vào các cơ quan tố tụng khi giải quyết các vụ án hình sự.
Tóm lại, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có ý nghĩa rất lớn trong việc
mang lại hiệu quả của xét xử sơ thẩm. Nếu chuẩn bị xét xử có làm tốt sẽ là tiền đề
cho hoạt động xét xử sơ thẩm có chất lượng cao và ngược lại. Chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự là khâu quan trọng ảnh hưởng quyết định đến chất lượng xét xử
sơ thẩm của vụ án hình sự.
1.2. Pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.2.1. Những quy định của pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.2.1.1. Quy định về nhận hồ sơ vụ án, bản cáo trạng và thụ lý vụ án
Tại chương XVII của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS năm
2003) quy định về chuẩn bị xét xử từ Điều 176 đến Điều 199 (gồm 24 điều) nhưng
không có quy định rõ ràng về việc nhận hồ sơ vụ án, bản cáo trạng và thụ lý vụ án.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có riêng 01 điều quy định về việc nhận hồ sơ vụ
án, bản cáo trạng và thụ lý vụ án, đây chính là điểm mới của BLTTHS năm 2015.
Quy định tại Điều 276 BLTTHS năm 2015, khi VKS giao bản cáo trạng, hồ
sơ vụ án và vật chứng kèm theo (nếu có), Tòa án phải kiểm tra và xử lý. Trường
hợp tài liệu trong hồ sơ vụ án, vật chứng kèm theo (nếu có) đã đầy đủ so với bảng
kê tài liệu, vật chứng hoặc bản cáo trạng đã được giao cho bị can hoặc người đại
diện của bị can thì nhận hồ sơ vụ án; Trường hợp tài liệu trong hồ sơ vụ án, vật
chứng kèm theo (nếu có) không đủ so với bản kê tài liệu, vật chứng hoặc bản cáo

trạng chưa được giao cho bị can hoặc người đại diện của bị can thì chưa nhận hồ sơ
vụ án và yêu cầu VKS bổ sung tài liệu, vật chứng; yêu cầu giao bản cáo trạng cho bị
can hoặc người đại diện cho bị can. Việc giao, nhận hồ sơ vụ án và bản cáo trạng

17


được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của BLTTHS năm 2015 và đưa vào
hồ sơ vụ án.
Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng thì Tòa án phải
thụ lý vụ án. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án phải
phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án.
1.2.1.2. Quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử
Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bắt đầu kể từ ngày Tòa án nhận hồ sơ
do VKS chuyển sang. Để có thể đưa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc ra các
quyết định tố tụng khác phù hợp với yêu cầu của pháp luật phải có một khoảng thời
gian nhất định để chuẩn bị, tức là nghiên cứu hồ sơ và giải quyết yêu cầu của những
người tham gia tố tụng đồng thời tiến hành những việc cần thiết cho việc mở phiên
tòa sơ thẩm.
*Thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định của BLTTHS năm 2003:
Theo quy định tại Điều 176 BLTTHS năm 2003 thì thời hạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự là khoảng thời gian theo quy đinh của pháp luật để những
người tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự trước khi xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự và các công việc khác chuẩn bị cho việc mở phiên tòa sơ thẩm
đạt chất lượng và hiệu quả cao. Thời điểm bắt đầu được tính thời hạn chuẩn bị xét
xử là từ khi thụ lý vụ án, trường hợp tạm đình chỉ vụ án thì khi lý do tạm đình chỉ
không còn nữa được tính lại kể từ ngày Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án. Thời điểm
kết thúc thời hạn xét xử trong trường hợp đặc biệt như: Thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên tòa ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, vụ án bị tạm đình chỉ,
đình chỉ thì ngày ra quyết định là ngày kết thúc thời hạn chuẩn bị xét xử. Trong thời

hạn này, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ nghiên cứu hồ
sơ, giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người tham gia tố tụng và tiến
hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên tòa.
Thời hạn chuẩn bị xét xử bảo gồm thời hạn để Thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên tòa ra các quyết định tố tụng hình sự theo luật định với thời hạn để
mở phiên tòa theo quyết định đưa vụ án ra xét xử.

18


Quy định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS năm 2003, trong thời hạn ba mươi
ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi ngày đối với tội phạm nghiêm
trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tòa phải ra một trong những quyết định sau đây: Đưa vụ án ra xét xử, Trả hồ
sơ để điều tra bổ sung, Đình chỉ hoặc Tạm đình chỉ vụ án.
Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể gia hạn thời hạn
chuẩn bị xét xử, nhưng không quá mười lăm ngày đối với tội ít nghiêm trọng và tội
nghiêm trọng, không quá ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phải được thông
báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Thời hạn để Thẩm phán ra các quyết định tố tụng hình sự phụ thuộc vào loại
tội phạm và tội danh mà Viện kiểm sát truy tố đối với người bị đưa ra xét xử.
Thời điểm kết thúc thời hạn chuẩn bị xét xử là thời điểm Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và Thư ký phiên tòa làm các thủ tục mở
phiên tòa xét xử công khai, xét xử kín hoặc xét xử lưu động tùy theo tính chất vụ án.
Thời điểm kết thúc thời hạn chuẩn bị xét xử trong hợp khác nhau: Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, vụ án bị tạm đình chỉ, đình chỉ
thì ngày ra quyết định là ngày kết thúc thời hạn chuẩn bị xét xử.
Thời hạn mở phiên tòa kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử là mười

lăm ngày, trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là ba mươi ngày.
Như vậy, thời hạn chuẩn bị xét xử tối đa với tội ít nghiệm trong là hai tháng
mười lăm ngày (30+15+30 ngày), đối với tội phạm nghiêm trọng là ba tháng
(45+15+30 ngày), tội rất nghiêm trọng là bốn tháng (60+30+30 ngày), tội đặc biệt
nghiêm trọng là năm tháng (90+30+30 ngày).
Điều này được thể hiện rõ hơn ở sơ đồ sau:

19


×