Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Quản lý nhà nước về đào tạo đại học từ thực tiễn trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ THỊ THANH TÂM

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC
TỪ THỰC TIỄN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
Ngành: Luật hiến pháp - Luật hành chính
Mã số: 8 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP - LUẬT HÀNH CHÍNH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ HỒNG VÂN

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực.Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGÔ THỊ THANH TÂM


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


QLNN:

Quản lý nhà nước

QPPL:

Quy phạm pháp luật

UBND:

Ủy ban nhân dân

ĐH:

Đại học

CĐ:

Cao đẳng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ......................................................................................................... 9
1.1. Quan niệm quản lý nhà nước về đào tạo đại học ....................................... 9
1.2. Đặc điểm và nội dung của quản lý nhà nước về đào tạo đại học ............. 14
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO ĐẠI
HỌC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI..................... 35

2.1. Một vài nét về đặc điểm của Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội ....... 35
2.2. Thực tiễn hoạt động quản lý đào tạo đại học tại trường Đại học Công
nghiệp Hà Nội ................................................................................................. 38
2.3. Đánh giá chung về hoạt động quản lý đào tạo đại học của trường Đại học
Công nghiệp Hà Nội........................................................................................ 58
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP
HÀ NỘI HIỆN NAY ..................................................................................... 66
3.1. Những quan điểm chỉ đạo ........................................................................ 66
3.2. Các giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về đào tạo đại học tại trường
Đại học Công nghiệp Hà Nội. ......................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 77


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hiện tại khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang gõ cửa,
thế giới đã chứng kiến sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin, truyền thông, tiếp tục tạo ra làn sóng toàn cầu hóa mạnh mẽ
trên toàn thế giới.
Để thích ứng với toàn cầu hóa, hệ thống giáo dục đại học phải được định
hướng lại về cấu trúc và chức năng đồng thời phải chú trọng nâng cao năng lực đào
tạo để đối mặt với thách thức của quá trình toàn cầu hóa. Yêu cầu hội nhập quốc tế
về giáo dục đại học là tất yếu và đang phát triển theo hai hướng. “Một là hợp tác
truyền thống: coi giáo dục đại học là lợi ích công. Hai là coi giáo dục đại học là dịch
vụ thương mại vì lợi nhuận. Nhìn chung các nước có xu hướng coi giáo dục đại học
vừa là lợi ích công, vừa là lợi ích tư” [13].
Sự thay đổi này khiến chính phủ các nước phải xem xét lại cơ chế quản lý
nhà nước về giáo dục đại học, bổ sung hệ thống pháp luật mới về giáo dục đại học

nhằm thích ứng với những điều kiện mới và yêu cầu mới của thực tế hoạt động giáo
dục đại học.
Tại Đại hội XII(2016), Đảng đã đề ra nhiệm vụ: “Đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” và tiếp tục khẳng định
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Đây là một trong ba lĩnh vực then chốt cần đột
phá để làm chuyển động tình hình kinh tế - xã hội, tạo bước chuyển mạnh về phát
triển nguồn nhân lực. Hơn nữa trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, cơ
cấu kinh tế của đất nước đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ giữa các ngành kinh tế và
ngay trong nội bộ từng ngành. Điều này tác động mạnh mẽ đến hoạt động của nền
giáo dục đại học, mà cốt yếu là hoạt động đào tạo, tác động đến cơ cấu đào tạo đại
học Việt Nam (cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền).
Tuy nhiên, giáo dục đại học Việt Nam đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế và
yếu kém. Điều này đã được chỉ rõ trong nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước cũng
như nhiều công trình nghiên cứu khoa học. Tại báo cáo của một nhóm giáo sư và
chuyên gia thuộc Đại học Harvard về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt

1


Nam giai đoạn 2010 - 2020 gửi Thủ tướng Chính phủ Việt Nam (năm 2008) đã viết:
“…Các trường đại học Việt Nam bị xem là kém nhất so với hầu hết các nước đang
phát triển ở khu vực Đông Nam Á chứ chưa cần so sánh với Đông Á” [14]. Hiện
nay với những sự nỗ lực của nhà nước, nền giáo dục nước nhà từng bước được cải
thiện nhưng giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục đại học nói riêng vẫn đang
loay hoay trong quá trình tìm đường chấn hưng, tìm đường cải cách. “Có nhiều
nguyên nhân của tình hình trên, nhưng nguyên nhân căn bản chính là sự yếu kém
trong quản lý Nhà nước về giáo dục đại học và sự yếu kém trong quản lý của bản
thân các trường đại học, cao đẳng” [8, tr1].
Như vậy trong tiến trình đổi mới giáo dục đại học, vai trò của cơ chế quản lý
nổi bật lên. Nó là yếu tố quyết định sự vận hành của cả hệ thống giáo dục đại học có

đi đến mục tiêu đã định hay không. Sự yếu kém của quản lý sẽ kéo theo sự yếu kém
khác của cả hệ thống giáo dục đại học.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước đề cập đến quản lý
nhà nước về giáo dục, đào tạo đại học và đã đặt nền tảng về lý luận và thực tiễn cho
vấn đề này. Các nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề ở cấp độ hệ thống hoặc ở các
trường đại học lớn, tại các thành phố lớn và các khu vực phát triển, nhưng chưa có
một nghiên cứu nào đề cập đến quản lý nhà nước về đào tạo đại học của một trường
đại học thuộc bộ ngành.
Trong hệ thống các trường đại học ở nước ta hiện nay, Đại học Công nghiệp
Hà Nội là một trong những trường kỹ thuật có quy mô và số lượng sinh viên lớn
nhất, là một trong 08 trường đại học công lập trực thuộc Bộ Công Thương. Mục tiêu
và nhiệm vụ của nhà trường là đào tạo nhân lực trình độ cao và nghiên cứu khoa
học đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội đất nước và của ngành.
Việc thực hiện tốt vai trò quản lý về đào tạo đại học là yếu tố tiên quyết quyết định
thành công của nhà trường trong nhiệm vụ giáo dục và đào tạo. Đó là lý do chính để
tác giả lựa chọn vấn đề “Quản lý nhà nước về đào tạo đại học từ thực tiễn trường
Đại học Công nghiệp Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Nghiên cứu về quản lý nhà nước
Trong thời gian qua ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý
giáo dục đại học ở dạng sách giáo khoa, tập bài giảng ở các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức như: Giáo trình Quản lý nhà nước của Học việc Chính trị
- Hành chính Quốc gia HCM (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007); giáo trình
Luật hành chính Việt Nam của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2010); giáo trình Luật Hành chính Việt Nam của trường Đại học
Luật Hà Nội (Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2005); giáo trình Quản lý hành chính

nhà nước và quản lý ngành giáo dục và đào tạo, của Trường Đại học sư phạm Hà
Nội (Nxb Đại học Sư phạm, 2004)…
Các công trình nói trên đã khái quát những vấn đề cơ bản về quản lý nhà
nước, phân biệt quản lý nhà nước với các loại hình quản lý khác. Tuy nhiên, những
công trình này mới chỉ dừng ở việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản có tính lý luận
về quản lý, quản lý nhà nước và quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực mà chưa
có những nghiên cứu chuyên sâu giải quyết những vấn đề cụ thể trong quản lý. Do
vậy, các công trình có tính ‘giáo khoa” có tính tham khảo để nghiên cứu chuyên sâu
tiếp theo
2.2 . Nghiên cứu về giáo dục và quản lý giáo dục
Trong lĩnh vực này nhiều công trình đã được công bố:
- Quản lý giáo dục một số vấn đề lý luận và thực tiễn của trường Đại học
Quốc gia Hà Nội (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012),
- Quản lý giáo dục Việt Nam đổi mới và phát triển của Học viện Quản lý
Giáo dục, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2016.
- Đỗ Văn Chấn: Một số vấn đề phương pháp luận quản lý giáo dục, thành tự
và xu hướng kinh tế học giáo dục, Hà Nội năm 1996.
- Phạm Minh Hạc: Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI,
Nxb CTQG, Hà Nội, 1999.
- Đậu Hoàn Đô, Nguyễn Công Giáp, Đào Văn Vy: Phân cấp quản lý giáo
dục ở Việt Nam, thực trạng và xu hướng, Hà Nội, 2003.

3


- Đặng Xuân Hải: Một số cơ sở pháp lý của vấn đề quản lý nhà nước và quản
lý giáo dục, Hà Nội, 2004.
Ngoài ra còn có các bài đăng trên các báo, tạp chí như: Bài viết của Phạm
Thành Nghị “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực giáo dục - đào
tạo”, Tạp chí giáo dục số 11 năm 2004; GS Hoàng Tụy “Một số vấn đề khoa học và

giáo dục: góc nhìn cuộc sống” báo cáo tại hội thảo “Tiếp tục đổi mới để phát triển”,
Đà Nẵng, 7/2005 và “Chỗ nghẽn lớn nhất trong phát triển là giáo dục”, Báo Tuần
Việt Nam, 3/2011; Phạm Phụ “Nhận dạng một số khoảng cách và sự khác biệt giữa
thế giới và Việt Nam về giáo dục đại học trước xu thế toàn cầu hóa”, báo cáo tại
diễn đàn quốc tế về giáo dục Việt Nam “Đổi mới giáo dục đại học và hội nhập quốc
tế”, Hà Nội 6/2004.
Nhìn chung những công trình nghiên cứu nói trên về giáo dục, quản lý nhà
nước về giáo dục chủ yếu được nhìn nhận từ góc độ quản lý nhà nước hoặc từ góc
độ xã hội học của vấn đề giáo dục vào đào tạo. Do đó các công trình này mới chỉ đề
cập một cách chung nhất và khái quát nhất mà chưa xem xét vấn đề một cách hệ
thống, đặc biệt là ít phân tích về thể chế pháp luật từ góc nhìn của khoa học Luật.
2.3 Nghiên cứu về đào tạo và quản lý đào tạo đại học
Đã có một số công trình nghiên cứu phân tích thực trạng về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực đào tạo theo cấp độ khác nhau, và đưa ra nhiều đề xuất về hoàn thiện
quản lý đào tạo đại học.
- Nghiên cứu ở góc độ pháp lý, liên quan đến hoạt động xây dựng, thực hiện
và bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục đại học, Nguyễn Đức Cường trong đề
tài nghiên cứu: Hoàn thiện pháp luật về quản lý các trường đại học, cao đẳng đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học
năm 2009 đã phân tích, nhận định về quá trình phát triển cũng như những hạn chế
đáng lưu ý của pháp luật về quản lý các trường đại học, cao đẳng từ 1998 đến 2009
và thông qua kinh nghiệm quốc tế đã đưa ra các kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện
nội dung pháp luật về quản lý các trường đại học, cao đẳng. Luận án cũng rút ra các
quan điểm chỉ đạo việc hoàn thiện các quy định về pháp luật quản lý các trường đại
học, cao đẳng và tham khảo một số quy định của pháp luật nước ngoài nhằm hoàn
thiện pháp luật về quản lý các trường cao đẳng, đại học Việt Nam.

4



- Nghiên cứu ở góc độ chương trình môn học trong đào tạo đại học, Trần
Hữu Hoan trong đề tài nghiên cứu: Quản lý xây dựng và đánh giá chương trình môn
học trình độ đại học trong học chế tín chỉ (Luận án tiến sĩ Quản lý giáo dục năm
2011) đã xây dựng một cách hệ thống và chi tiết hoạt động quản lý xây dựng và
đánh giá chương trình môn học trình độ đại học theo học chế tín chỉ; giới thiệu một
số mô hình xây dựng chương trình đào tạo theo những tiêu chuẩn mới tiến bộ hiện
nay; đưa ra những giải pháp tổng thể để khắc phục những hạn chế trong xây dựng
và đánh giá chương trình môn học trình độ đại học hiện nay. Cao Thị Châu Thủy
trong đề tài nghiên cứu: Quản lý quá trình đào tạo theo tín chỉ ở Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh, Luận án Tiến sĩ Giáo dục, 2016 tiếp cận vấn đề quản lý
đào tạo ở góc độ chương trình đào tạo theo tín chỉ tại một trường đại học lớn.
- Nghiên cứu hoạt động kiểm tra, đánh giá trong đào tạo đại học, Cấn Thị
Thanh Hương trong đề tài nghiên cứu: Nghiên cứu quản lý kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập trong giáo dục đại học ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Quản lý Giáo dục
năm 2011) đã phân tích thực trạng của hoạt động quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập trong giáo dục đại học Việt Nam, tác giả đã đưa ra ba nhóm giải pháp mới
đó là: Hoàn thiện chính sách về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập; Thay đổi môi
trường kiểm tra, đánh giá trong trường đại học; Đổi mới mô hình quản lý kiểm tra,
đánh giá.
- Về vấn đề tự chủ đại học – một xu hướng tất yếu trong phát triển đại học
hiện nay, Lê Thanh Tâm trong đề tài nghiên cứu: Cơ sở khoa học về quản lý trường
Đại học thuộc Bộ Công thương theo hướng tự chủ và trách nhiệm xã hội, Luận án
tiến sĩ Khoa học Giáo dục năm 2014, tác giả đã đưa ra kinh nghiệm của một số
nước trên thế giới về thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội trong quản lý
giáo dục đại học; khái quát thực trạng của vấn đề này tại các trường đại học thuộc
Bộ Công thương. Tác giả khẳng định: “Tự chủ đại học bản thân nó đã là tâm điểm
của mối quan hệ giữa nhà nước, nhà trường và xã hội. Mức độ và năng lực thực
hiện tự chủ và trách nhiệm xã hội nói lên trình độ trưởng thành của mỗi trường đại
học và cả hệ thống đại học”. Do vậy, tự chủ đại học là một xu thế và yêu cầu cần
thiết trong đào tạo đại học. Để thực hiện điều này, tác giả đã đưa ra những giải pháp

cần thiết và đã khảo sát và thử nghiệm một số giải pháp cho kết quả tốt.

5


- Nghiên cứu về giáo dục và đào tạo tại trường ĐHCNHN, Vũ Thị Hồng Vân
trong đề tài nghiên cứu: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở trường Đại
học Công nghiệp Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, đề tài khoa học cấp trường năm
2017, tác giả tập trung nghiên cứu thực trạng việc thực hiện pháp luật về giáo dục
và đào tạo tại trường ĐHCNHN; đánh giá ưu điểm, hạn chế và đưa ra các giải pháp
bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo tại trường ĐHCNHN.
2.4. Nghiên cứu của học giả nước ngoài về giáo dục đại học Việt Nam
Trong những năm qua, nhiều học giả Mỹ đã công bố những nghiên cứu về
thực trạng và phương hướng đổi mới giáo dục đại học Việt Nam trong xu thế toàn
cầu hóa. Có thể kể tới các công trình sau đây:
- Thomas Valely và Ben Wilkinson (Trường đại học Kennedy thuộc đại học
Harvard): Giáo dục đại học Việt Nam: khủng hoảng và phản ứng, báo cáo trước Ủy
viên phía Hoa Kỳ thuộc Ủy ban song phương về giáo dục đại học, tháng 11/2008.
- Lựa chọn thành công, báo cáo của nhóm giáo sư và chuyên gia thuộc Đại
học Harvard về chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam 2010-2020 năm 2008.
Những công trình trên đã nghiên cứu một cách toàn diện và sâu rộng tình
hình kinh tế xã hội Việt Nam, thực trạng giáo dục đại học Việt Nam và đã đưa ra
nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy cải cách giáo dục đại học Việt Nam theo hướng giao
quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội cho các cơ sở giáo dục đại học. Những công
trình này có giá trị tham khảo quan trọng cho các cơ quan quản lý nhà nước về giáo
dục đại học và các nhà nghiên cứu.
Kết luận: Các công trình nghiên cứu quản lý nhà nước về giáo dục, trong đó
có giáo dục đại học đã được tiến hành trên những phạm vi rộng, hẹp khác nhau,
xuất phát từ những góc độ khác nhau và thông qua việc phân tích cơ sở lý luận, cơ
sở thực tiễn, các tác giả đã đề xuất nhiều giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về

đào tạo đại học góp phần chấn hưng giáo dục, phù hợp với yêu cầu của công cuộc
đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, chưa thấy công trình nào nghiên cứu có tính chất hệ thống quản
lý nhà nước về đào tạo đại học và đặc biệt là chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này
cho trường ĐHCNHN – trường đại học thuộc Bộ Công thương.

6


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là quản lý nhà nước về đào tạo đại
học tại trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Phạm vi nghiên cứu: Do điều kiện có
hạn, Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước về đào tạo đại học tại trường Đại học
Công nghiệp Hà Nội từ năm 2012 đến nay- thời điểm Luật Giáo dục đại học 2012
có hiệu lực.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Về mục đích: nghiên cứu quản lý nhà nước về đào tạo đại học từ thực tiễn
trường Đại học Công nghiệp Hà Nội và đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục
những hạn chế trong quản lý đào tạo của trường nói riêng và của các trường đại học
trong cả nước nói chung.
Về nhiệm vụ: Phù hợp với mục đích trên, luận văn giải quyết những vấn đề
sau:
- Xây dựng cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về đào tạo đại học
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo đại học của
trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
- Đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong quản lý đào tại
đại học tại trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và nhà nước

về giáo dục đại học, đặc biệt là các quan điểm và đường lối phát triển giáo dục đại
học thể hiện trong Đại hội XII, Luật Giáo dục 2005 và Luật Giáo dục đại học 2012.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã vận dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học như: phương pháp hệ thống hóa và khái quát hóa; phương pháp phân
tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh; phương pháp mô tả để nêu lên thực trạng quản lý
nhà nước về đào tạo đại học hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục những
hạn chế trong quản lý đào tạo đại học tại trường ĐHCNHN.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học: Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên đề cập một
cách toàn diện và có hệ thống về vấn đề quản lý nhà nước về đào tạo đại học từ thực

7


tiễn trường ĐHCNHN. Vì vậy về mặt khoa học, luận văn có những đóng góp mới
sau:
- Hệ thống hóa được những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về đào tạo
đại học
- Đưa ra được bức tranh thực trạng về quản lý nhà nước về đào tạo đại học
của trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
- Đề xuất được các giải pháp quản lý nhà nước về đào tạo đại học ở trường
Đại học Công nghiệp Hà Nội.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thế sử dụng để tham khảo, nghiên cứu học
tập, phục vụ công tác quản lý nhà nước về đào tạo đại học; đồng thời những giải
pháp, kết luận trong luận văn có thể được sử dụng vào thực tiễn quản lý đào tạo ở
một số trường đại học, đặc biệt là trường ĐHCNHN và trường đại học thuộc Bộ
Công thương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3
chương:

- Chương 1: Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về đào tạo đại học
- Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo đại học tại trường
ĐHCNHN
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo
đại học

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC
1.1. Quan niệm quản lý nhà nước về đào tạo đại học
1.1.1. Quan niệm về quản lý
Quản lý được thừa nhận như là hiện tượng lịch sử, luôn phản ánh quy luật
chung về tự nhiên và xã hội, tồn tại từ khi loài người xuất hiện như một tất yếu
khách quan của xã hội. Quản lý trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học tự nhiên và xã hội. Vì vậy, tùy thuộc vào cách tiếp cận mà người ta có
những định nghĩa khác nhau về quản lý.
Các định nghĩa về quản lý đều đề cập đến những nhân tố cơ bản của quản lý
như: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý và mục tiêu quản lý. Đối tượng tác động
của quản lý xã hội là hành vi của con người. Các hoạt động của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân luôn đa dạng, phức tạp nên bản thân quản lý xã hội cũng là một quá
trình phức tạp. Xã hội càng phát triển cao thì vai trò của quản lý càng lớn, phạm vi
càng rộng và nội dung càng phong phú, phức tạp. Theo nghĩa này, quản lý xã hội là
một khái niệm rộng bao gồm quản lý các công việc của nhà nước và quản lý các
công việc của xã hội.
Quản lý các công việc của xã hội được thực hiện bởi tất cả các tổ chức xã
hội, các cơ quan, gia đình, tổ chức tư nhân… và cơ sở của nó là quyền lực xã hội.
Trong khi đó, quản lý các công việc của nhà nước (hay còn gọi là quản lý nhà nước
theo nghĩa rộng) được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan nhà nước và trên cơ sở

quyền lực nhà nước, có nghĩa là được ghi nhận, củng cố bằng pháp luật và được bảo
đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế của nhà nước [34, tr8].
Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý
nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân
hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan.

9


Quản lý là yếu tố không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Xã hội phát
triển càng cao thì vai trò của quản lý càng lớn, phạm vi càng rộng và nội dung càng
phong phú, phức tạp.
1.1.2. Quản lý nhà nước
Trong khoa học luật và cả trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta
tồn tại quan niệm phổ biến “quản lý nhà nước” gồm các hoạt động ban hành chính
sách; ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật; tổ chức thực
hiện các chính sách, pháp luật; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản đó.
Quản lý nhà nước là một loại hình của quản lý xã hội. Nhà nước là chủ thể
quản lý xã hội quan trọng nhất, nhà nước là trung tâm của quản lý xã hội. Vì vậy,
Hiến pháp 2013 đã khẳng định “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”.
Quản lý nhà nước là sự chỉ huy điều hành xã hội để thực thi quyền lực nhà
nước, là tổng thể về thể chế, về tổ chức và cán bộ của bộ máy nhà nước có trách
nhiệm quản lý công việc hàng ngày của nhà nước, do các cơ quan nhà nước (lập
pháp, hành pháp và tư pháp) có tư cách pháp nhân công pháp (công quyền) tiến
hành bằng các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn mà nhà nước đã giao trong việc tổ chức và điều hành các quan hệ xã
hội và hành vi của công dân [37, tr40].
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành của
nhà nước (hoạt động quản lý hành chính nhà nước). Tính chất chấp hành thể hiện ở
mục đích của QLNN là đảm bảo thực hiện trên thực tế các văn bản pháp luật của

các cơ quan quyền lực nhà nước, mọi hoạt động quản lý hành chính nhà nước đều
được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thực hiện pháp luật.
Tính chất điều hành của QLNN thể hiện ở chỗ để bảo đảm cho các văn bản
pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước được thực hiện trên thực tế, các chủ
thể quản lý hành chính nhà nước phải tiến hành hoạt động tổ chức và chỉ đạo trực
tiếp đối với các đối tượng quản lý thuộc quyền.
Đặc trưng của hoạt động điều hành là ban hành văn bản dưới luật mang tính
pháp lý (còn gọi là hoạt động lập quy). Hoạt động chấp hành đồng thời bao hàm sự

10


điều hành bởi trong đa số trường hợp, thiếu hoạt động điều hành thì không thể chấp
hành pháp luật một cách nghiêm chỉnh được.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm khoa học về quản lý nhà nước
như sau: QLNN (hiểu theo nghĩa hẹp) là hoạt động chấp hành và điều hành do các
cơ quan hành chính nhà nước và bộ máy trực thuộc thực hiện (trong một số trường
hợp nhất định có thể được thực hiện bởi các chủ thể khác khi được nhà nước trao
quyền), đồng thời là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng pháp luật của các cơ
quan nhà nước đối với các quá trình xã hội, các hành vi hoạt động của con người để
duy trì, phát triển các mối quan hệ, cũng như trật tự pháp luật nhằm thực hiện các
chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước [34, tr11].
Quản lý nhà nước biểu thị một năng lực có ý thức điều chỉnh các quan hệ xã
hội một cách ý thức. Khả năng điều chỉnh xã hội một cách có ý thức được thực hiện
thông qua hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, người có thẩm quyền trong
cơ quan quản lý nhà nước.
Để quản lý nhà nước cần phải đặt ra các quy tắc hành vi, ứng xử của con
người (ban hành văn bản quy phạm và ban hành các quyết định quản lý), nhưng
không vì thế mà quan niệm quản lý nhà nước là ban hành văn bản QPPL và ban
hành các quyết định quản lý cá biệt cụ thể. Điều này là cần thiết trong quản lý nhà

nước nhưng nếu đi theo logic này tất yếu dẫn đến tình trạng: quản lý tức là thông
qua các văn bản giấy tờ hoặc tổ chức triền miên các cuộc họp. Thật ra quản lý chính
là kết quả của các hoạt động ấy, nói cách khác, quản lý là tác động một cách có ý
thức lên quá trình phát triển xã hội, lên nhận thức của con người trong xã hội, quản
lý chỉ tồn tại khi có ý thức, ý chí, các biện pháp của người lãnh đạo được thể hiện
trong các hoạt động cải tạo cụ thể, trong đời sống của toàn xã hội, nó buộc mọi
người phải suy nghĩ và hành động theo cách mới… Trong thực tế chúng ta có thể
nhận thấy là có nhiều trường hợp khi thấy quản lý yếu kém là các nhà khoa học,
quản lý, chính trị… đều cho rằng do thiếu pháp luật, thế là hàng loạt văn bản QPPL
được ban hành nhưng không ít các văn bản đó chỉ tồn tại trong thời gian rất ngắn,
không thực hiện được hoặc chỉ được thực hiện một cách hình thức.

11


Bởi vậy, điều quan trọng nhất với các nhà quản lý là phải luôn ghi nhớ đó là
sự tác động mang lại hiệu quả nhất định. Cho nên quản lý với tư cách là sự tác động
phải được quán triệt trong bộ máy quản lý, trong từng cơ quan, trong ý thức của
từng người cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Chính sự tác động này phải tạo
ra những thay đổi thật sự trong đời sống của toàn xã hội, cải tạo được xã hội, nếu
không quản lý mất đi ý nghĩa xã hội của nó.
1.1.3. Quản lý nhà nước về đào tạo đại học
Đại học là cơ sở giáo dục đại học bao gồm tổ hợp các trường đại học, viện
nghiên cứu khoa học thành viên thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ chức
theo hai cấp, để đào tạo các trình độ của giáo dục đại học. Các trình độ đào tạo của
giáo dục đại học gồm trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ
tiến sĩ. Như vậy đào tạo đại học là một loại trình độ đào tạo nằm trong đó.
QLNN về đào tạo là hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành
pháp và tư pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của nhà nước trong
lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Nói cách khác QLNN về đào tạo là sự tác động của

chủ thể quản lý mang quyền lực nhà nước chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng
quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu đề ra.
QLNN về đào tạo đại học là quản lý hành chính chuyên ngành với những đặc
điểm riêng của nó và do đó có thể nói QLNN về đào tạo đại học chỉ là một nội dung
cụ thể của quản lý nhà nước về giáo dục đại học.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về quản lý nhà nước về đào tạo
như sau: QLNN về đào tạo đại học có nghĩa là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh
bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động đào tạo đại học do các cơ quan
quản lý của nhà nước tiến hành để thực hiện chức năng nhiệm vụ do nhà nước ủy
quyền nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục đại học, duy trì trật tự, kỷ cương, thực
hiện mục tiêu “đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học tạo được sự chuyển
biến cơ bản về chất lượng, hiệu quả và quy mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học tập của
nhân dân. Đến năm 2020 giáo dục đại học Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu

12


vực và tiếp cận trình độ tiên tiến trên thế giới; có năng lực cạnh tranh cao, thích ứng
với cơ chế thị trường định hướng XHCN” [7].
QLNN về đào tạo đại học là việc nhà nước thực hiện quyền lực công để điều
hành, điều chỉnh toàn bộ hoạt động đào tạo đại học trong phạm vi toàn xã hội để
thực hiện mục tiêu do nhà nước đề ra.
Trong khái niệm về QLNN về đào tạo đại học có 3 yếu tố cơ bản là: chủ thể,
đối tượng và mục tiêu QLNN về đào tạo đại học.
Chủ thể QLNN về đào tạo đại học là các cơ quan quản lý hành chính nhà
nước và các nhà quản lý (Chính phủ, Bộ Giáo dục đào tạo, Bộ và cơ quan ngang bộ,
UBND các địa phương). Với tư cách là chủ thể quản lý mang tính công quyền, nhà
nước có các chức năng quản lý cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động đào tạo đại học của

các cơ sở giáo dục đại học trong phạm vi cả nước.
Thứ hai, định hướng phát triển hoạt động đào tạo của các cơ sở giáo dục đại
học phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và xu thế hội nhập quốc
tế.
Thứ ba, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động giáo dục đại học và xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật về đào tạo đại học.
Đối tượng QLNN về đào tạo đại học là hệ thống các cơ sở đào tạo đại học, là
mọi hoạt động đào tạo đại học, là mọi người tham gia hoạt động đào tạo đại học.
Cần nhấn mạnh những người tham gia hoạt động đào tạo đại học là đội ngũ cán bộ
quản lý, giảng viên và sinh viên. Đó là những trí thức có trình độ cao của tất cả các
lĩnh vực khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội, luôn đề cao hiền tài, lòng tự
trọng và tự tôn dân tộc, lấy đạo đức và tài năng làm thước đo giá trị, luôn có nhu
cầu tự do trong học thuật và trong sáng tạo tri thức. Nhận thức đầy đủ đặc điểm này
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quản lý nhà nước.
Mục tiêu tổng quát của QLNN về đào tạo đại học là bảo đảm trật tự, kỷ
cương trong các hoạt động đào tạo đại học, thực hiện mục tiêu chung của đào tạo

13


đại học và mục tiêu riêng của mỗi trình độ đào tạo, hạn chế tác động tiêu cực của
quy luật thị trường.
1.2. Đặc điểm và nội dung của quản lý nhà nước về đào tạo đại học
1.2.1. Đặc điểm của quản lý nhà nước về đào tạo đại học
QLNN là việc thực thi ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp để điều
chỉnh mọi quan hệ xã hội và hành vi của công dân. Quản lý hành chính nhà nước là
thực thi quyền hành pháp để tổ chức, điều chỉnh mọi quan hệ xã hội, hành vi công
dân.
Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo đại học, một hoạt động mang tính xã
hội cao, quản lý đào tạo đại học ở cấp cơ sở thực chất là thực hiện chức năng, nhiệm

vụ, thẩm quyền do nhà nước phân cấp và thực tế là thực thi quản lý hành chính nhà
nước đối với các trường. Vì vậy ở cấp cơ sở, khái niệm quản lý nhà nước và quản lý
hành chính nhà nước đối với đào tạo đại học giao thoa với nhau. Trên cơ sở nhận
thức đó, quản lý nhà nước về đào tạo đại học có các đặc điểm sau:
- Đặc điểm kết hợp quản lý hành chính và quản lý chuyên môn trong các
hoạt động quản lý đào tạo đại học. Hoạt động quản lý nhà nước về đào tạo đại học ở
các trường là triển khai chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do nhà nước ủy quyền,
thay mặt nhà nước thực hiện nhiệm vụ đào tạo và điều hành, điều chỉnh các hoạt
động đào tạo nhằm đảm bảo các quy định, quy chế về đào tạo và thực hiện được
mục tiêu mà nhà nước quy định. Với vai trò trên, các hoạt động quản lý như bảo
đảm điều kiện đào tạo; thanh tra, kiểm tra để đảm bảo quá trình đào tạo theo đúng
quy định của nhà nước về mục tiêu, nội dung, quy chế… là hoạt động mang nhiều
tính quản lý hành chính, mặt khác các hoạt động quản lý quá trình sư phạm… lại
mang nhiều tính quản lý chuyên môn. Rõ ràng quản lý đào tạo đại học thực chất là
quản lý các hoạt động hành chính – sư phạm thâm nhập vào nhau, chúng là hai mặt
của một quá trình quản lý: quản lý nhà trường.
- Đặc điểm về tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lý đào tạo đại
học. Đây là đặc điểm nổi bật nhất của quản lý nhà nước không chỉ trong lĩnh vực

14


đào tạo đại học. Đặc điểm này biểu hiện ở ba vấn đề cơ bản là: tư cách pháp nhân
trong quản lý, công cụ và phương pháp quản lý và quan hệ thứ bậc trong quản lý.
Để triển khai hoạt động quản lý nhà nước về đào tạo đại học thì phải có tư
cách pháp nhân và yêu cầu về tính hợp pháp là yêu cầu trước hết. Điều này được
thực hiện thông qua hình thức bổ nhiệm. Người được bổ nhiệm phải thực hiện đúng
chức năng, thẩm quyền, không lạm quyền cũng như đùn đẩy trách nhiệm cho tập
thể và cấp trên. Tuy nhiên mỗi tư cách pháp nhân đều có trách nhiệm và quyền hạn
tương ứng. Vấn đề thẩm quyền cũng gắn với sự phân cấp và tuân thủ thứ bậc chặt

chẽ trong quản lý nhà nước.
Phương tiện quản lý nhà nước về đào tạo là các văn bản QPPL và pháp quy.
Phương pháp chủ yếu để quản lý nhà nước là phương pháp hành chính tổ chức. Văn
bản QPPL là hành lang pháp lý cho việc triển khai các hoạt động đào tạo, đảm bảo
tính quyền lực nhà nước trong quản lý. Việc không tuân thủ các hành lang pháp lý
trong các hoạt động quản lý đào tạo là vi phạm trật tự kỷ cương và bị xử lý theo quy
định của pháp luật.
Trong quản lý nhà nước phải tuân thủ thứ bậc chặt chẽ trong hoạt động quản
lý theo sự phân cấp rõ ràng và mệnh lệnh – phục tùng là biểu hiện rõ nhất của tính
quyền lực trong quản lý nhà nước. Tính quyền lực ở đây cũng chính là việc cán bộ
quản lý giáo dục cấp phòng cần nhận thức đầy đủ rằng cấp dưới phải phục tùng cấp
trên, địa phương phải phục tùng trung ương trong quá trình quản lý giáo dục.
- Kết hợp nhà nước – xã hội trong quá trình triển khai quản lý nhà nước về
đào tạo. Giáo dục và đào tạo là một hoạt động mang tính xã hội cao và Đảng ta
cũng nhấn mạnh tư tưởng giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của nhà nước và của
toàn xã hội. Do vậy, dân chủ hóa và xã hội hóa công tác giáo dục và đào tạo là một
tư tưởng có tính chiến lược và vai trò to lớn trong sự nghiệp giáo dục nói chung và
quản lý giáo dục và đào tạo nói riêng.
Tóm lại, QLNN về đào tạo là việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền do nhà nước quy định, phân cấp trong hoạt động quản lý đào tạo. Ở một cơ
sở giáo dục, QLNN về đào tạo thực chất là quản lý các hoạt động hành chính- giáo

15


dục, vì vậy nó mang hai mặt quản lý thâm nhập vào nhau, đó là quản lý hành chính
đào tạo và quản lý chuyên môn trong quá trình sư phạm.
1.2.2. Nội dung của quản lý nhà nước về đào tạo đại học
Điều 14 Luật Giáo dục năm 2005 quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý hệ
thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục,

tiêu chuẩn nhà giáo, quy chế thi cử, hệ thống văn bằng, chứng chỉ; tập trung quản lý
chất lượng giáo dục, thực hiện phân công, phân cấp quản lý giáo dục, tăng cường
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục”. Vấn đề này đã trở thành
nguyên tắc được thể hiện trong Hiến pháp 2013: “Phát triển giáo dục là quốc sách
hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục… phát
triển giáo dục đại học…”. Điều này đã thể hiện quan điểm, đường lối của Ðảng,
Nhà nước và ý nguyện của nhân dân về đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục.
Bối cảnh phát triển kinh tế xã hội của đất nước và xu thế hội nhập quốc tế của giáo
dục đại học đòi hỏi phải đổi mới tư duy trong quản lý và áp dụng các phương thức
quản lý mới nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại học.
Phương thức quản lý mới ở đây được hiểu là sự chuyển trách nhiệm và quyền hạn
cho phép các cơ sở giáo dục đại học có quyền tự chủ lớn hơn trong khuôn khổ quy
định của các cấp quản lý ở trung ương và địa phương, giảm bớt quyền lực của cơ
quan quản lý cấp trên. Ðây là cơ sở hiến định, là bảo đảm về mặt chính trị - pháp lý
để phát triển nền giáo dục quốc dân.
Mục tiêu của giáo dục được xác định tại Điều 2, Luật giáo dục 2005: “Đào tạo
con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và
nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Cụ thể hóa mục tiêu này, tại điểm b Khoản 2 Điều 5 Luật Giáo dục đại học
2012 xác định: “Đào tạo trình độ đại học để sinh viên có kiến thức chuyên môn toàn
diện, nắm vững nguyên lý, quy luật tự nhiên – xã hội, có kỹ năng thực hành cơ bản,

16


có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc ngành
được đào tạo”.

Những quy định này có vai trò định hướng cho việc xây dựng những quy định
về nội dung của hoạt động đào tạo đại học.
1.2.2.1. Về chương trình đào tạo
* Về nội dung chương trình đào tạo
Điều 6, Luật giáo dục 2005 chỉ rõ : “Chương trình giáo dục thể hiện mục tiêu
giáo dục; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo
dục, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết
quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp học hoặc trình độ đào tạo”.
Đối với chương trình đào tạo đại học, điều 36 Luật Giáo dục đại học quy
định cụ thể: “Chương trình đào tạo trình độ cao đẳng, đại học gồm: mục tiêu,
chuẩn kiến thức, kỹ năng của người học sau khi tốt nghiệp; nội dung đào tạo,
phương pháp đánh giá đối với mỗi môn học và ngành học, trình độ đào tạo; bảo
đảm yêu cầu liên thông giữa các trình độ và với các chương trình đào tạo khác”.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chương trình khung, quy định việc
biên soạn, lựa chọn, thẩm định, duyệt và sử dụng tài liệu giảng dạy, giáo trình giáo
dục đại học. Trên cơ sở đó các trường tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc xây
dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo.
Yêu cầu về năng lực tối thiểu của người học sau khi tốt nghiệp đại học được
cụ thể hóa trong Thông tư 07/2015/TT-BGDĐT ngày 16/04/2015, đó là những yêu
cầu về kiến thức, về kỹ năng và về năng lực tự chủ và trách nhiệm. Khối lượng kiến
thức tối thiểu đối với trình độ đại học là 120 tín chỉ. Đối với những ngành có thời
gian đào tạo 5 năm hoặc 6 năm thì khối lượng kiến thức tích lũy tối thiểu tương ứng
là 150 hoặc 180 tín chỉ.
Như vậy đối với chương trình giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ
chức xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình khung cho các ngành đào tạo.
Trên cơ sở chương trình khung, hiệu trưởng các trường đại học có nhiệm vụ tổ chức

17



xây dựng, đánh giá thẩm định, ban hành chương trình đào tạo cho các ngành đào tạo
của trường.
Bộ GD&ĐT

Chương trình khung

Cơ sở giáo dục đại học/Trường đại
học

Chương trình giáo dục đại học

Hình 1.1. Tổ chức xây dựng và quản lý chương trình đào tạo đại học
Về chương trình môn học. Đây là nội dung do Khoa/Bộ môn quản lý, bao
gồm các nội dung: mục tiêu môn học, nội dung chi tiết môn học, cấu trúc đề thi,
ngân hàng câu hỏi, học liệu, hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học, hình
thức thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn học. Tuy nhiên đối với các môn
học thuộc khối kiến thức lý luận chính trị, giáo dục thể chất, quốc phòng, Bộ Giáo
dục và Đào tạo tổ chức xây dựng và quản lý môn học này về nội dung và thời
lượng.
Về việc biên soạn giáo trình. Theo khoản 2 Điều 41 Luật Giáo dục 2005
quy định: "Giáo trình giáo dục đại học cụ thể hóa yêu cầu về nội dung kiến thức,
kỹ năng quy định trong chương trình giáo dục đối với mỗi môn học, ngành học,
trình độ đào tạo của giáo dục đại học, đáp ứng yêu cầu về phương pháp giáo
dục đại học. Hiệu trưởng Trường Đại học chịu trách nhiệm tổ chức biên soạn
hoặc tổ chức lựa chọn; duyệt giáo trình các môn học để sử dụng làm tài liệu
giảng dạy, học tập chính thức trong trường trên cơ sở thẩm định của hội đồng
thẩm định giáo trình do Hiệu trưởng thành lập, bảo đảm có đủ giáo trình phục
vụ giảng dạy, học tập".
Như vậy việc biên soạn giáo trình đã được quy định linh hoạt hơn nên các
giáo trình phục vụ cho việc giảng dạy trong trường phần lớn đều do nhà trường

biên soạn. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo và phối hợp với 24
trường đại học đưa hơn 1000 giáo trình lên Website của Bộ. Giáo trình do các
trường tổ chức biên soạn và quản lý chất lượng trên cơ sở các chương trình đào

18


tạo được phê duyệt từ đó mà phát huy được các sắc thái riêng về mặt học thuật
của đội ngũ giảng viên trong từng trường.
* Về phương pháp đào tạo
Theo quy định của Luật giáo dục đại học 2012, việc tổ chức và quản lý đào
tạo được thực hiện theo niên chế hoặc tín chỉ. Tại quyết định số 17/VBHN-BGDĐT
ngày 15/5/2014 về ban hành quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo
hệ thống tín chỉ quy định: “Tín chỉ được sử dụng để tính khối lượng học tập của
sinh viên. Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết; 30 - 45 tiết thực
hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 - 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 - 60 giờ làm tiểu
luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá luận tốt nghiệp. Đối với những học phần lý
thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được một tín chỉ sinh viên phải dành
ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân. Hiệu trưởng các trường quy định cụ thể số tiết, số
giờ đối với từng học phần cho phù hợp với đặc điểm của trường”.
Các trường tổ chức đào tạo theo khoá học, năm học và học kỳ. Đào tạo trình
độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy theo ngành nghề đào tạo đối
với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp;
từ hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng
ngành đào tạo; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp
cao đẳng cùng ngành đào tạo.
Một năm học có hai học kỳ chính, mỗi học kỳ chính có ít nhất 15 tuần thực
học và 3 tuần thi. Ngoài hai học kỳ chính, Hiệu trưởng xem xét quyết định tổ chức
thêm một kỳ học phụ để sinh viên có điều kiện được học lại; học bù hoặc học vượt.
Mỗi học kỳ phụ có ít nhất 5 tuần thực học và 1 tuần thi.

Căn cứ vào khối lượng và nội dung kiến thức tối thiểu quy định cho các
chương trình, Hiệu trưởng dự kiến phân bổ số học phần cho từng năm học, từng học
kỳ. Thời gian tối đa hoàn thành chương trình bao gồm: thời gian thiết kế cho
chương trình cộng với 2 học kỳ đối với các khoá học dưới 3 năm; 4 học kỳ đối với
các khoá học từ 3 đến dưới 5 năm; 6 học kỳ đối với các khoá học từ 5 đến 6 năm.
Tùy theo điều kiện đào tạo của nhà trường, Hiệu trưởng quy định thời gian tối đa

19


cho mỗi chương trình, nhưng không được vượt quá hai lần so với thời gian thiết kế
cho chương trình đó.
Như vậy, nhà nước đã giao quyền tự chủ cho trường đại học trong việc xây
dựng chương trình đào tạo, chương trình môn học, tổ chức thực hiện và quản lý đào
tạo trên cơ sở những quy định khung. Điều này giúp cho các Trường được chủ
động, linh hoạt hơn trong việc tổ chức thực hiện hoạt động đào tạo phù hợp với đặc
thù riêng. Tuy nhiên, vai trò quản lý nhà nước trong hoạt động này không vì thế mà
giảm đi. Bởi tại Điều 3, Thông tư 24/2015/TT - BGDĐT ngày 23/9/2015 về quy
định chuẩn quốc gia đối với cơ sở giáo dục đại học, đã xác định tiêu chuẩn để đánh
giá chương trình đào tạo và hoạt động đào tạo của các trường đạt chuẩn quốc gia
với những tiêu chí rất cụ thể về quy mô, ngành nghề, các trình độ đào tạo, chương
trình đào tạo, công khai chuẩn đầu ra, đảm bảo chất lượng… Nếu không đạt yêu cầu
về kiểm định trong nội dung này thì các trường không được công nhận đạt tiêu
chuẩn kiểm định, bị hạn chế quyền tự chủ hoặc có thể đình chỉ tuyển sinh.
Cho đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành được 207 chương trình
khung trình độ đại học. Mặt khác, để góp phần hiện đại hóa chương trình Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã chỉ đạo triển khai 23 chương trình đào tạo tiên tiến ở 17 trường
đại học ở các ngành khoa học công nghệ mũi nhọn chọn lọc. Các quy định về
chương trình đào tạo hiện hành ở nước ta đã khẳng định được vai trò của Nhà nước
trong việc quản lý chương trình đào tạo. Theo đánh giá chung, các chương trình

khung do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành đã đáp ứng được những yêu
cầu căn bản như chuẩn kiến thức và kĩ năng rõ ràng, phân bố thời gian đào tạo lý
thuyết và thực hành tương đối hợp lý, có tính cập nhật và bảo đảm được yêu cầu
liên thông. [38, tr49]
1.2.2.2. Về công tác tuyển sinh đại học
* Về xác định chỉ tiêu tuyển sinh.
Điều 34, Luật giáo dục đại học 2012 quy định chỉ tiêu tuyển sinh được xác
định trên cơ sở nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch phát triển nguồn
nhân lực, phù hợp với các điều kiện về số lượng và chất lượng đội ngũ giảng viên,

20


cơ sở vật chất và thiết bị; Cơ sở giáo dục đại học tự chủ xác định chỉ tiêu tuyển sinh,
chịu trách nhiệm công bố công khai chỉ tiêu tuyển sinh, chất lượng đào tạo và các
điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo của cơ sở giáo dục đại học;
Tiêu chí xác định chỉ tiêu tuyển sinh xác định dựa vào số lượng giáo viên,
giảng viên và điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường: “Tiêu chí 1: Số học sinh, sinh
viên chính quy/01 giáo viên, giảng viên quy đổi của cơ sở đào tạo. Tiêu chí 2: Diện
tích sàn xây dựng trực tiếp phục vụ đào tạo thuộc sở hữu của cơ sở đào tạo/01 sinh
viên. Số sinh viên chính quy/01 giảng viên quy đổi theo nhóm trường được quy
định không vượt quá các định mức như sau:
Số
TT

Số sinh viên chính quy /
Nhóm trường

01 giảng viên quy đổi
Đại học


Cao đẳng

1

Nhóm trường Y – dược

15

20

2

Nhóm trường Nghệ thuật, Thể dục thể thao

10

15

3

Các trường khác

25

30
Nguồn: [28]

* Về tổ chức tuyển sinh và xét tuyển
Luật giáo dục đại học 2012 quy định: Phương thức tuyển sinh gồm: thi

tuyển, xét tuyển hoặc kết hợp giữa thi tuyển và xét tuyển; Cơ sở giáo dục đại học tự
chủ quyết định phương thức tuyển sinh và chịu trách nhiệm về công tác tuyển sinh.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh và
ban hành quy chế tuyển sinh.
Về cách thức tổ chức tuyển sinh. Trong các đợt tuyển sinh năm 2012, 2013
và 2014 quy chế tuyển sinh ĐH không có những thay đổi lớn, theo đó các trường có
chỉ tiêu tuyển sinh ĐH, CĐ hệ chính quy tổ chức một lần tuyển sinh; Bộ GD&ĐT tổ
chức biên soạn đề thi tuyển sinh dùng chung cho các trường; Hiệu trưởng các
trường sử dụng đề thi chung của Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm tổ chức sao in, đóng
gói đề thi (nếu được Bộ GD&ĐT giao nhiệm vụ), bảo quản, phân phối, sử dụng đề
thi; tổ chức kỳ thi; chấm thi và phúc khảo; xét tuyển và triệu tập thí sinh trúng

21


×