Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.95 KB, 117 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
™™™

THÁI THỊ LOAN

BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON
CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN
NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
™™™

THÁI THỊ LOAN

BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON
CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN
NAY

Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số:

60 14 01 14

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐINH VĂN HỌC



HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC

Trang
3

NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BỎ
VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Các khái niệm cơ bản
Thực trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại

13
13

Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, hệ lụy và nguyên nhân
Chương 2 NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, DỰ BÁO

25
52

1.1
1.2

TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC,


CÁC BIỆN PHÁP

CƠ BẢN NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN
MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ
2.1

HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Những yếu tố tác động và dự báo tình trạng bỏ việc của

2.2

giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh
Các biện pháp cơ bản ngăn ngừa và khắc phục tình

52

trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành
phố Hồ Chí Minh
2.3
Khảo nghiệm sự cần thiết, tính khả thi của các biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

57
82
89
92

96


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát biểu tại lớp học chính trị của các giáo viên vào ngày 13/9/1958
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “… Chúng ta phải đào tạo ra những công dân
tốt và những cán bộ tốt cho nước nhà. Nhân dân, Đảng, Chính phủ giao các
nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho các cô, các chú. Đó là một trách nhiệm
nặng nề, nhưng rất vẻ vang. Mong mọi người phải cố gắng làm tròn nhiệm
vụ…” [18, tr.168]. Từ những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quá
trình lãnh đạo sự nghiệp giáo dục đào tạo, Đảng ta luôn đề cao vai trò của đội
ngũ giáo viên. Vì thế Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã khẳng định:
“Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế giáo dục, phát triển đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”. [7, tr.41]
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên có vai trò đặc biệt quan trọng
với nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng đến sáu tuổi,
đặt nền móng cho sự phát triển thể chất, trí tuệ, ngôn ngữ, tình cảm, đạo đức,
là tiền đề cho việc tiếp thu kiến thức và nhất là sự phát triển nhân cách cho trẻ
sau này. Xuất phát từ vai trò đặc biệt quan trọng của giáo dục mầm non, việc
xây dựng đội ngũ giáo viên mầm non có đủ về số lượng, đáp ứng đủ mọi yêu
cầu về phẩm chất và năng lực là một yêu cầu cấp thiết.
Quán triệt quan điểm, chủ trương và quyết tâm phát triển sự nghiệp
giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước ta, trong những năm qua Thành phố
Hồ Chí Minh đã quan tâm, chăm lo, ưu tiên đầu tư mọi nguồn lực cho phát
triển các trường mầm non công lập, phát triển đội ngũ giáo viên mầm non
công lập và đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, trước sự

phát triển nhanh chóng về kinh tế, chính trị, xã hội tại Thành phố Hồ Chí


4
Minh, do cơ chế thị trường tác động và do nhiều nguyên nhân khác cùng với
sự bùng nổ dân số về mặt cơ học đã làm gia tăng áp lực lên giáo dục mầm
non. Số trường mầm non công lập hiện có đã không đáp ứng được nhu cầu
học tập của lứa tuổi này, đồng thời số giáo viên mầm non đang công tác trong
các trường mầm non công lập cũng không kịp gia tăng mà ngược lại còn có
nguy cơ sụt giảm vì hiện tượng bỏ việc của đội ngũ này ngày càng trở nên
trầm trọng hơn trước sự phát triển và thay đổi của xã hội.
Khi đất nước mở cửa, hội nhập kinh tế sâu rộng với quốc tế như hiện
nay đã tác động mạnh đến lực lượng giáo viên mầm non trẻ tuổi, đồng thời
tạo cho đội ngũ này nhiều cơ hội mới, nhiều lựa chọn mới để thay đổi cuộc
sống còn quá nhiều khó khăn nếu cứ bám trụ trong ngành mầm non. Những
yếu tố đầy thu hút của các ngành nghề khác đã khiến cho một số đông giáo
viên còn non trẻ này nhất quyết dứt áo sư phạm mầm non ra đi để tìm cho bản
thân mình một công việc có thu nhập tốt hơn với cuộc sống có chất lượng cao
được xã hội tôn vinh, trọng vọng, không quá tải liên tục, không nhọc nhằn cơ
cực và tránh được áp lực từ nhiều nguồn tác động khi công tác trong ngành
mầm non. Ngoài ra một số lượng giáo viên đã công tác lâu năm trong ngành
mầm non cũng bỏ nghề không ít, vì nhiều lý do khác nhau. Nhưng căn bản
nhất vẫn là bài toán thu nhập của giáo viên mầm non không tương xứng với
công sức đã bỏ ra, vì đồng lương không đủ sống, không đủ lo cho bản thân và
phụ giúp gia đình. Mặt khác, thời gian công tác trực tiếp tại trường lại luôn
luôn quá tải so với các ngành nghề khác từ 3-4 tiếng đồng hồ mỗi ngày.
Nghiêm trọng hơn, đối tượng rời bỏ vị trí công tác trong ngành mầm non hiện
nay không chỉ là những giáo viên mà còn lan rộng ra đội ngũ cán bộ quản lý
(ban giám hiệu) đang công tác trong các trường mầm non công lập trên khắp
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Việc cán bộ quản lý, giáo viên ngành mầm non tại Thành phố Hồ Chí
Minh bỏ việc hiện là một vấn đề nhức nhối của ngành giáo dục mầm non


5
Thành phố cũng như của toàn xã hội. Lãnh đạo các cấp của Thành phố và
ngành giáo dục mầm non cũng đã có những biện pháp nhằm ngăn ngừa tình
trạng bỏ việc của giáo viên mầm non. Nhưng có lẽ sự vào cuộc của lãnh đạo
và của ngành giáo dục mầm non chưa thực sự quyết liệt, những biện pháp
ngăn ngừa tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non chưa thật hữu hiệu, vì
vậy chưa chặn đứng được tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập.
Số lượng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập năm sau vẫn cao hơn năm
trước. Năm 2012 có đến hơn 500 giáo viên mầm non bỏ việc. Đây thực sự là
vấn đề báo động, một yêu cầu cấp bách đòi hỏi phải được giải quyết để đảm
bảo cho giáo dục mầm non Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng được nhu cầu
gửi trẻ của người dân, góp phần phát triển kinh tế xã hội của Thành phố.
Đã có một số công trình nghiên cứu về giáo dục mầm non và phát triển
giáo viên mầm non nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu thấu đáo về
tình trạng bỏ việc và ngăn ngừa, khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên
mầm non, chỉ có một số bài báo đề cập đến vấn đề này nhưng mới dừng lại ở
chỗ đưa ra số liệu bỏ việc của giáo viên mầm non và những kiến nghị khắc
phục. Vì vậy, cần có sự xem xét, đánh giá đúng tình trạng bỏ việc của giáo
viên mầm non công lập, xác định rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng này cả về
mặt lý luận lẫn thực tiễn, đề xuất các biện pháp khả thi để góp phần chấm dứt
tình trạng này trong những năm về sau. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả
lựa chọn vấn đề “Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của
giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm đề
tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ sự thụ hưởng các quyền cơ bản

của người dân luôn ở mức cao như trong thời kỳ đổi mới và những thành tựu
của công cuộc đổi mới đã giúp nước ta thoát khỏi sự trì trệ của thời quan liêu


6
bao cấp mà nền giáo dục quốc dân cũng bị ảnh hưởng không ít. Nhờ định
hướng đúng đắn, sau 10 năm đổi mới, sự nghiệp giáo dục đã phát triển và đạt
kết quả đáng kể. Quy mô giáo dục ở tất cả các bậc học từ giáo dục mầm non,
giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp đến giáo dục đại học không ngừng
được mở rộng.
Trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay của đất nước, giáo dục mầm
non đã nhận được sự quan tâm nhiều của cộng đồng xã hội. Những chuyển
biến trong nhận thức, sự quan tâm và đầu tư của xã hội dù chưa ở mức độ cao
nhưng đã góp phần giúp cho giáo dục mầm non dần đi vào nề nếp với chất
lượng không ngừng được cải tiến và đã huy động được nhiều thành phần,
nhiều lực lượng kinh tế khác nhau trong xã hội tham gia.
Kết quả vấn đề nghiên cứu của tác giả Dương Thị Thanh Huyền về
“Thực trạng xã hội hóa giáo dục mầm non” đã chỉ rõ: Khi Nghị quyết
05/2005/NQ-CP ra đời với chủ trương xã hội hóa giáo dục mầm non. Các
trường mầm non tư thục, mầm non quốc tế, nhóm trẻ gia đình lần lượt ra đời
nhất là ở các thành phố lớn, các tỉnh có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất
đã tháo gỡ khó khăn và cung ứng chỗ học mầm non cho một bộ phận không
nhỏ người dân có nhu cầu gửi con để yên tâm lao động, công tác và tránh làm
xáo trộn mọi hoạt động trong xã hội [38, số 11/2000]. Ngoài ra nghiên cứu
còn đề cập đến kế hoạch phát triển giáo viên, tổ chức các phong trào có liên
quan trực tiếp đến giáo dục mầm non trong khi thực hiện xã hội hóa giáo dục.
Tuy nhiên trong bối cảnh xã hội hóa giáo dục mầm non, mức cung không kịp
đáp ứng nhu cầu đã làm phát sinh thêm những nhóm trẻ chui không phép khi
hoạt động, giáo viên không có chuyên môn nuôi dạy trẻ, không có cơ sở vật
chất đáp ứng tối thiểu nhu cầu cần có của một cơ sở nuôi dạy trẻ mầm non và

hậu quả xấu là khó tránh khỏi. Nhất là vào những năm 2007-2011 là thời điểm
mà hiện tượng làm tử vong trẻ, bạo hành trẻ gia tăng từ những cơ sở tư nhân


7
này; điển hình là chuyện bảo mẫu Quảng Thị Kim Hoa ngược đãi trẻ ở thành
phố Biên Hòa, Đồng Nai từng làm xôn xao dư luận khắp cả nước.
Những mâu thuẫn về phát triển ngành học mầm non nhằm đáp ứng với
nhu cầu phát triển của xã hội với hiện tượng thiếu hụt giáo viên mầm non về
mặt chất lượng và số lượng trong thời hội nhập đã khiến cho những người
quan tâm đến giáo dục mầm non phải giật mình bởi quy trình đào tạo giáo
viên ở bậc học này không kịp đổi mới so với thực tiễn tiến bộ của xã hội Việt
Nam và so với một số nền giáo dục các nước trong khu vực cũng như các
nước tiên tiến trên thế giới. Công trình của tác giả Cao Đức Tiến với vấn đề
“Về đổi mới phương pháp đào tạo bồi dưỡng giáo viên mầm non” [39, số
30/2002] đã làm nổi bật những vấn đề lý luận của việc đổi mới phương pháp
dạy học cho sinh viên sư phạm mầm non trong trường sư phạm và nêu ra
phương hướng đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm non.
Với nghiên cứu “Vấn đề đổi mới của giáo dục mầm non và yêu cầu với
giáo viên mầm non” tác giả Trần Thị Ngọc Trâm [39, số 182/2008] đã luận
giải những vấn đề như:
Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục trẻ trong các trường
mầm non gồm thiết kế tổ chức thực hiện các nội dung giáo dục, đổi mới tổ
chức môi trường, tạo sự khích lệ tích cực sáng tạo và phát triển của giáo viên
mầm non;
Đổi mới, xây dựng chương trình theo hướng tiếp cận tích cực, lấy trẻ
làm trung tâm, xem trọng việc bảo đảm an toàn, nuôi dưỡng hợp lý, chăm sóc
sức khỏe cả về vật chất lẫn tinh thần;
Đề xuất một số yêu cầu với giáo viên mầm non nhằm thích ứng với bậc
giáo dục mầm non… Đó là những yêu cầu về nắm vững sự phát triển của trẻ,

nắm vững chương trình giáo dục, chủ động lựa chọn những vấn đề phù hợp
với trẻ, biết xây dựng kế hoạch, thiết kế và tổ chức các hoạt động giáo dục,


8
biết phối hợp nhiều hình thức đánh giá, biết xây dựng môi trường giáo dục,
biết phối hợp giữa nhà trường với gia đình, cộng đồng, biết hợp tác chia sẻ
với đồng nghiệp…
Những nghiên cứu về giáo dục mầm non trong các tạp chí giáo dục của
một số tác giả nêu trên cùng với một số nghiên cứu khác đã cho thấy vai trò
của giáo viên mầm non rất quan trọng trong quá trình phát triển tâm, sinh lý
của trẻ. Nhưng cho đến nay giáo viên mầm non chưa bao giờ đáp ứng đủ cho
nhu cầu nuôi dạy trẻ trong cả nước nói chung và trong các trường mầm non
công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng: cho đến nay những chế độ
chính sách cho nền giáo dục quốc dân vẫn còn mang tính chất dàn trải, phân
bổ đều theo ngân sách Nhà nước là chính. Dù đã có những giải pháp đột phá
như cải tổ về mục tiêu, chương trình, phương pháp… để xây dựng nền giáo
dục nước nhà cho phù hợp với xu thế và thời đại, hội nhập với nền giáo dục
của một số nước trong khu vực như Singapore, Nhật Bản… và một số nước
có nền giáo dục đã phát triển tốt như Anh, Pháp, Hoa kỳ. Nhưng thực chất với
một nền giáo dục luôn bị chi phối bởi các chỉ tiêu theo từng hạng mục, từng
địa phương thì sự nghiệp giáo dục dù được xác định là quốc sách hàng đầu
vẫn chưa tạo được những thay đổi có tính chất bước ngoặt. Cuộc sống của
những người trong ngành giáo dục nói chung và giáo viên mầm non nói riêng
là lực lượng còn rất nhiều khó khăn. Mọi chính sách về chế độ ưu đãi, lương
tiền cho những người làm công tác giáo dục ở bậc học thấp nhất này vẫn phải
theo đúng lộ trình kết hợp của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ và Bộ Tài
chính ban hành. Chưa có những ưu đãi đặc thù nào nhằm thu hút người tài
vào lĩnh vực giáo dục mầm non công lập ngoài chế độ ưu tiên cho các sinh

viên thi vào ngành sư phạm được miễn học phí toàn phần cho đến khi ra
trường kèm theo yêu cầu phải phục vụ trong ngành một thời gian quy định
như ở Thành phố Hồ Chí Minh.


9
Trong khi ngành giáo dục đang loay hoay với tình trạng thiếu giáo viên
trầm trọng từ bậc trung học phổ thông trở xuống thì những làn gió mát thổi
vào nước ta từ cơ chế đổi mới đã bắt đầu tạo thêm nhiều cơ hội và nhiều sự
lựa chọn công việc mới với mức thu nhập tương xứng ở những ngành nghề
khác trong xã hội. Điều này đã làm lung lay tư tưởng bám trường, bám lớp
của những giáo viên có nhiều khả năng nổi trội khác về kiến thức, trình độ,
bằng cấp. Bản thân lực lượng này yêu nghề có năng lực sư phạm nhưng muốn
thoát nghèo trong thời kinh tế thị trường nên sẵn sàng bỏ việc ở những trường
lớp chính quy công lập để đầu quân cho những trường tư thục, trường quốc tế,
những trung tâm ngoại ngữ hay những cơ quan, đơn vị, những ngành nghề
mang lại lợi ích kinh tế cho bản thân họ. Những sự thật đắng lòng như vừa
nêu trên, tồn tại ở mọi nơi, trong mọi cấp học từ mầm non đến phổ thông, đại
học nhất là đối với lực lượng giáo viên mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tư tưởng nhảy việc, bỏ nghề đã tạo thành những cơn sốt với một tỷ lệ
không nhỏ theo quy luật cung - cầu nhân sự của xã hội trong thời kinh tế thị
trường, nhất là vào những năm 2008 - 2009 và kéo dài cho đến tận thời điểm
hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý giáo
viên mầm non công lập, đề xuất các biện pháp cơ bản ngăn ngừa và khắc
phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ
Chí Minh góp phần phát triển bậc học này trong sự nghiệp phát triển giáo dục
đào tạo của Thành phố.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý giáo viên mầm non công lập.
Đánh giá thực trạng và nguyên nhân tình trạng bỏ việc của giáo viên
mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.


10
Đề xuất các biện pháp cơ bản ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ
việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Khách thê, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu
Quản lý giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên
mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu các biện pháp cơ bản ngăn
ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại
Thành phố Hồ Chí Minh. Với đối tượng là giáo viên khác của các trường bán
công, tư thục, đề tài chỉ có tính chất tham khảo.
Về đối tượng khảo sát: Khảo sát đội ngũ giáo viên mầm non các trường
công lập tại các quận: Quận Tân Phú, Quận 1, Quận 3, Quận 10 ở Thành phố
Hồ Chí Minh.
Về thời gian: Các số liệu điều tra tính từ năm 2008 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non
công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh phụ thuộc vào nhiều vấn đề, là việc làm
khó khăn, phức tạp không thể giải quyết một sớm một chiều. Nhưng nếu thực
hiện có hiệu quả và đồng bộ các vấn đề như: phát huy sức mạnh tổng hợp của
cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị các cấp và của nhân dân trong ngăn

chặn tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập; nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần và vị thế xã hội cho giáo viên mầm non công lập; đổi mới
cơ chế quản lý của các cấp từ Thành phố đến quận (huyện), phường (xã);
nâng cao chất lượng tuyển chọn đào tạo và tuyển dụng giáo viên mầm non


11
công lập; tăng cường bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho giáo viên
mầm non công lập; kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm kịp thời trong việc
nắm bắt tình hình hoạt động của các trường mầm non và của giáo viên mầm
non về mọi mặt thì có thể ngăn ngừa và khắc phục có hiệu quả tình trạng bỏ
việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh, góp phần
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong tình hình mới
hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, quán triệt Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
Cộng sản Việt Nam về giáo dục và quản lý giáo dục; đồng thời đề tài còn vận
dụng các quan điểm hệ thống – cấu trúc, lô gic – lịch sử và quan điểm thực
tiễn để xem xét, đánh giá, phân tích các vấn đề có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành những công trình nghiên cứu, tác giả luận văn sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn của khoa học
giáo dục như:
Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái
quát hóa các tài liệu chuyên ngành về giáo dục mầm non và quản lý giáo viên
mầm non các trường công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh; các nghị quyết
lãnh đạo; các văn bản có liên quan đến giáo dục mầm non và quản lý giáo dục

mầm non; các tài liệu tổng kết, các báo cáo về giáo dục mầm non và quản lý
giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh…để xây dựng cơ sở
lý luận của các biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo
viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh.


12
Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, quản
lý của đội ngũ cán bộ các cấp, của các tổ chức, các cơ quan ở các quận tại
Thành phố Hồ Chí Minh trong quản lý giáo viên mầm non công lập.
Điều tra xã hội học đối với một số cán bộ quản lý, cán bộ ở một số tổ
chức đảng, chính quyền, các cơ quan quản lý giáo dục và giáo viên các trường
mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp phỏng vấn: Trao đổi với ban giám hiệu một số trường
mầm non và với cán bộ quản lý giáo viên mầm non công lập ở một số quận tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để rút ra những kinh
nghiệm trong quản lý giáo viên và trong việc khắc phục tình trạng bỏ việc của
giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu sau khảo sát.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đóng góp những vấn đề lý luận cho việc ngăn ngừa và khắc phục tình
trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập Thành phố Hồ Chí Minh.
Đề xuất các biện pháp cơ bản để ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ
việc của giáo viên mầm non công lập Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo cho cán bộ, cơ quan
quản lý giáo dục mầm non và giáo viên mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh
trong việc ngăn chặn tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập.
8. Cấu trúc của luận văn

Phần mở đầu, Phần nội dung (2 chương 5 tiết), Phần kết luận, kiến
nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGĂN NGỪA VÀ
KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN
MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1 Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm trường mầm non công lập
Theo Điều lệ Trường mầm non được ban hành kèm theo Quyết định số
14/2008/QĐ- BGDĐT ngày 07 tháng 4 năm 2008 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo: Trường mầm non công lập là trường do cơ quan Nhà nước thành lập,
đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên.
Chức năng, nhiệm vụ trường mầm non
Trường mầm non có chức năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ
03 tháng đến 06 tuổi theo quy chuẩn, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
Tổ chức đón, trả trẻ; chăm sóc, giáo dục vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi
trường; quản lý sức khỏe và an toàn cho trẻ.
Tổ chức thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba
tháng tuổi đến sáu tuổi theo chương trình giáo dục mầm non do Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Tổ chức các hoạt động vui chơi, học tập, lao động; hoạt động ăn nghỉ
của trẻ (đối với trường bán trú).
Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên để thực hiện nhiệm vụ nuôi
dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong độ tuổi mầm non.
Phối hợp với các cơ quan chức năng, tổ chức chính trị xã hội để thực
hiện tuyên truyền kiến thức khoa học về nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ
cho các bậc cha mẹ và cộng đồng; về huy động các nguồn lực của cộng đồng

chăm lo cho sự nghiệp giáo dục mầm non.


14
Kinh phí hoạt động
Trường mầm non công lập là loại hình trường học do Nhà nước đầu tư
toàn bộ kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất và trang bị các phương tiện cần
thiết cho mọi hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ.
Bậc học mầm non trực tiếp được giải ngân từ ngân sách tài chính cấp
quận. Việc duyệt và chi cho các trường mầm non theo dự toán hàng năm của
hiệu trưởng nhà trường gồm các phần sửa chữa cơ sở vật chất, mua sắm trang
thiết bị, tiền lương, phụ cấp, khen thưởng lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua…
có liên quan đến mọi hoạt động và nhân sự của toàn trường.
Cơ sở vật chất giáo dục
Cơ sở vật chất giáo dục của trường mầm non công lập do Nhà nước đầu
tư toàn bộ kinh phí xây dựng và quản lý thông qua giám sát của ngành dọc là
Phòng Giáo dục và Đào tạo các quận, huyện.
Các nhu cầu xây dựng, sửa chữa cơ sở vật chất có liên quan đến hoạt
động giáo dục, mua sắm các trang thiết bị, đồ dùng dạy học, đồ chơi … phục
vụ công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ sẽ được hiệu trưởng dự toán
vào quý 3 hằng năm cho năm học sau tùy theo nhu cầu thực tế của nhà trường.
1.1.2. Khái niệm giáo viên mầm non công lập
Giáo viên trường mầm non công lập là viên chức Nhà nước. Luật Viên
chức được ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2010 có quy định chặt chẽ, cụ thể
những vấn đề liên quan đến viên chức, trong đó có cả hệ thống giáo viên
trường công lập như các chính sách: tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, nâng bậc,
chế độ tiền lương của giáo viên, nghỉ hưu, khen thưởng, kỷ luật… Giáo viên
mầm non muốn được tuyển dụng vào các trường công lập để trở thành viên
chức Nhà nước phải được đào tạo từ bậc trung cấp đến cao đẳng và đại học.
Giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức

tuyển dụng chặt chẽ theo ngạch bậc qua các đợt thi viên chức hoặc tuyển dụng


15
tại Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh. Khi được chính thức
tuyển dụng vào làm việc trong các trường mầm non công lập, giáo viên mầm
non được giao một công việc với nhiệm vụ cụ thể và phải có nghĩa vụ hoàn
thành nhiệm vụ đó trong thời gian làm việc tại trường mầm non. Khi chưa có
quyết định rời khỏi trường mầm non thì người giáo viên đó vẫn phải thực hiện
công việc của mình trong thời gian làm việc được pháp luật quy định.
Có thể hiểu: Giáo viên mầm non là những người được đào tạo từ các
hệ trung cấp, cao đẳng và đại học trong các trường sư phạm trên phạm vi cả
nước và chính thức được tuyển dụng vào biên chế, trở thành viên chức Nhà
nước đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ ở các trường mầm
non công lập.
Chuẩn giáo viên mầm non trong các trường được quy định ở mức
trung cấp. Tuy nhiên trước tiến trình hội nhập hiện nay, nhiều giáo viên mầm
non đã tự nâng chuẩn đào tạo của mình lên các bậc cao đẳng, đại học và sau
đại học cho phù hợp với xu thế mới, việc tự nâng chuẩn đào tạo của mình lên
đồng nghĩa với việc bậc lương của giáo viên mầm non sẽ được điều chỉnh lên
theo sự thay đổi của hệ đào tạo. Đó cũng là một trong những hướng phấn đấu
của những giáo viên mầm non yêu nghề, bám trụ với nghề tại Thành phố Hồ
Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh được phân
công cụ thể công tác từ khi chính thức được tuyển dụng theo cấp độ quản lý
nhân sự từ trên xuống dưới gồm: Sở Giáo dục Thành phố, Phòng Giáo dục
(cấp quận/huyện), ban giám hiệu trường mầm non.
Chế độ làm việc của giáo viên mầm non công lập được quy định bởi
Thông tư số 48/2011của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 25 tháng 10
năm 2011. Thông tư quy định thời gian làm việc trong một năm của giáo viên

mầm non công lập là 42 tuần. Thời gian nghỉ hàng năm gồm:


16
Thời gian nghỉ hè 8 tuần được hưởng nguyên lương và các phụ cấp, trợ
cấp khác (nếu có);
Một số ngày nghỉ khác (lễ, tết,...) được thực hiện theo quy định của Bộ
Luật lao động và các quy định hiện hành.
Ngoài ra các quy định về giờ dạy, chế độ giảm giờ dạy và quy đổi một số
hoạt động chuyên môn khác ra giờ dạy cũng được quy định trong Thông tư.
Về chế độ đãi ngộ, giáo viên mầm non công lập là người chấp nhận làm
việc trong các trường mầm non công lập do Nhà nước quản lý theo chế độ
“thuận thì nhận”; tức là khi đã hội đủ các điều kiện, tiêu chuẩn theo đúng quy
định của pháp luật ban hành và qua đợt thi tuyển hoặc xét tuyển của ngành
dọc (Sở Giáo dục và Đào tạo) nếu giáo viên chấp thuận thì nhận quyết định
về nhiệm sở công tác. Mọi chế độ làm việc và đãi ngộ của giáo viên mầm non
không phải là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động
như trong Luật lao động quy định mà giáo viên mầm non là viên chức hưởng
lương từ ngân sách Nhà nước, đó là chế độ tiền lương do Nhà nước quy định
theo thang bậc và thâm niên công tác.
Nguồn ngân sách Nhà nước chính là tiền thuế của dân đóng góp, đây là
mấu chốt giúp phân biệt lương của giáo viên công lập khác với lương của
giáo viên ngoài công lập, giáo viên trường tư thục, giáo viên trường quốc tế,
giáo viên các trung tâm... Trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
hiện nay, tiền lương là thước đo giá trị sức lao động và hiệu quả công việc
theo quy trình cạnh tranh cùng mối quan hệ cung - cầu ở các cơ sở không
thuộc Nhà nước quản lý nói chung và trong các trường mầm non ngoài công
lập nói riêng.
Lương của giáo viên trường công lập được tính bởi 3 nguồn là: lương
tối thiểu theo quy định của Nhà nước, thang bảng lương, các chế độ phụ cấp

khác theo quy định của ngành dọc và tài chính kết hợp. Trong các lĩnh vực do


17
tư nhân quản lý, tiền lương và thu nhập của người lao động được điều chỉnh
theo nhu cầu về lợi nhuận của đôi bên cung và cầu cùng sự dao động của
nguồn nhân lực. Do đó trong thực tiễn, khi chỉ số giá sinh hoạt của xã hội
biến động theo cơ chế thị trường thì thu nhập của giáo viên trường công lập
thường thấp hơn rất nhiều so với thu nhập của giáo viên khu vực giáo dục tư
nhân. Đây chính là một trong những nguyên nhân dịch chuyển nguồn nhân
lực từ khu vực giáo dục công lập sang khu vực giáo dục tư nhân, đặc biệt là
những giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có năng lực thực sự
nhưng chưa được khu vực công đánh giá đúng về giá trị lao động của họ.
Ngoài ra căn cứ vào các quy định của Nhà nước, giáo viên mầm non công
lập còn được đãi ngộ về bảo đảm vĩnh viễn những phúc lợi xã hội tương ứng
như bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền lương hưu, tiền
lương trong những ngày nghỉ phép cố định 2 tháng/năm học (theo Thông tư số
48/2011của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 25 tháng 10 năm 2011).
Tuy nhiên nếu so sánh giữa hai lĩnh vực công - tư thì nguồn giáo viên
trong lĩnh vực giáo dục công lập vẫn được hưởng một số chế độ chăm lo cố
định do Nhà nước quy định, mà trong lĩnh vực tư nhân vẫn chưa được thực
hiện do nhu cầu lợi nhuận của chủ trường hoặc chủ doanh nghiệp như chế độ
nghỉ phép hè 2 tháng có hưởng lương, đó cũng là một đãi ngộ chỉ có trong hệ
thống giáo dục quốc dân và được duy trì trong các trường công lập. Bên cạnh
những đặc điểm về chế độ làm việc, chế độ đãi ngộ vừa nêu, công việc của
giáo viên mầm non công lập còn được điều chỉnh bởi những văn bản pháp
luật liên quan khác như các nghị định, thông tư, quy chế ngành mầm non,
chuẩn giáo viên mầm non,...
Môi trường làm việc của giáo viên mầm non công lập
Môi trường làm việc là mức độ thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của

con người từ thấp đến cao là: nhu cầu ăn, mặc, ở của riêng mỗi cá nhân; nhu


18
cầu an toàn của bản thân; nhu cầu giao tiếp; nhu cầu tôn trọng và được tôn
trọng với những người xung quanh trong khi làm việc; cuối cùng là nhu cầu
tự thể hiện để hoàn thiện bản thân. Trong các nhu cầu vừa nêu thì nhu cầu
cuối cùng là nhu cầu cao nhất của người lao động nhằm tự bộc lộ tài năng
phẩm giá, phát huy thế mạnh của cá nhân mình để phát triển nghề nghiệp
hoặc năng lực chuyên môn ở mức độ cao nhất.
Trước kia khi chưa đổi mới và cơ chế bao cấp đóng vai trò chủ lực thì làm
việc trong môi trường Nhà nước là lựa chọn hàng đầu của người lao động vì tính
ổn định và mức độ an toàn cao. Nhưng từ khi nước ta mở cửa cùng với việc phát
triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì cơ hội lựa chọn môi trường
làm việc của người lao động đã có nhiều thay đổi vì sự xuất hiện các khu vực
ngoài Nhà nước với những việc làm hấp dẫn và có thu nhập cao. Giáo dục cũng
không nằm ngoài những thay đổi có tính quy luật đó, tại Thành phố Hồ Chí
Minh, một bộ phận giáo viên mầm non công lập đang diễn ra hiện tượng “bỏ
việc” ở các trường công lập để đầu quân cho những trường ngoài công lập với
khối lượng công việc không còn là gánh nặng hằng ngày và mức thu nhập cao
hơn nhiều so với khi làm việc trong trường công lập do Nhà nước quản lý.
Năng lực của giáo viên mầm non công lập
Năng lực là khả năng làm việc của một người nhằm mang lại hiệu quả
cao nhất về mặt chất lượng công việc, thu được nhiều lợi nhuận sau khi hoàn
thành công việc và được đánh giá cao bởi những người quản lý trực tiếp.
Trong phạm vi giáo dục, ngoài những kiến thức cơ bản về ngành học được thu
thập trong suốt quá trình học tập ở các trường sư phạm, năng lực của giáo
viên sẽ được định hình khi trực tiếp giảng dạy trên lớp. Đó là khả năng bao
quát học sinh khi đứng lớp, kỹ năng truyền thụ kiến thức, biết cách lồng ghép
các kiến thức mang tính lý thuyết trong sách giáo khoa với kinh nghiệm thực

tế cuộc sống để làm học sinh hứng thú khi học tập. Riêng trong bậc học mầm


19
non năng lực của giáo viên mầm non chính là sự phong phú trong các hoạt
động nuôi dạy trẻ và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các giáo viên với nhau để
tạo hứng thú cho trẻ trong các hoạt động (theo hướng đổi mới của giáo dục
mầm non, hiện nay các giờ học, chơi, ăn, ngủ… của trẻ mầm non được gọi là
hoạt động chung, hoạt động ngoài trời…). Đây là vấn đề cơ bản quan trọng
nhất để làm cơ sở đánh giá trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người khai
tâm mở trí cho các thế hệ học sinh nhỏ nhất trong các bậc học đồng thời cũng
là nền tảng đánh giá chất lượng của người giáo viên mầm non nói riêng và
nền giáo dục theo xu thế mới hiện nay tại Thành phố Hồ Chí Minh nói chung.
Hiện nay những tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá năng lực của giáo viên
mầm non được thể hiện ở một số yêu cầu sau:
Có kiến thức về giáo dục mầm non, có năng lực sư phạm gồm khả năng
bao quát và xử lý tình huống trong khi đứng lớp.
Có kiến thức về tâm sinh lý của trẻ và kiến thức nuôi dạy trẻ.
Biết tổ chức các hoạt động vui chơi của trẻ, biết múa hát, kể chuyện, …
lôi cuốn trẻ.
Có sáng tạo trong các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
Bảng 1.1. Trình độ giáo viên mầm non công lập tại TP HCM
Tổng số
Chức danh
Cán bộ
quản lý
(Ban giám
hiệu)

Tổng


Nữ

1.14

1.14

4

0

8.46

8.44

Trình độ chuyên môn

Trình độ
chính trị

Đạt
chuẩn

Cao
đẳng

Đại
học

Sau

đại
học

Trung
cấp

Cao
cấp

1.140

162

946

08

27

521

8.436 3.604 2.784
o
04
343
6
4
(Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố HC M, tháng 8/2012)

Giáo viên



20
Phẩm chất đạo đức
Đạo đức là phẩm chất tối cần thiết của bất kỳ người lao động chân
chính nào trong công việc, nhưng riêng đối với những người làm công tác
giáo dục thì yếu tố đạo đức luôn là tiêu chí quan trọng hàng đầu trong việc
đánh giá năng lực toàn diện của một nhà giáo. Nhà giáo phải là người có đạo
đức tốt thì mới có đầy đủ vị thế truyền đạt những kiến thức, những kỹ năng,
những kinh nghiệm sống đến học sinh, giúp học sinh hình thành và phát triển
nhân cách. Đặc trưng của giáo dục là nơi truyền đạt những tinh hoa của văn
hóa nhân loại, do đó yếu tố đạo đức phải là chuẩn đầu tiên của bất kỳ ai nếu
muốn đứng trong hàng ngũ những người làm công tác giáo dục, đồng thời
phải luôn duy trì, phát huy, rèn luyện phẩm chất tốt đẹp này để mãi là tấm
gương sáng cho học sinh noi theo.
Giáo dục mầm non cũng là một bậc học đòi hỏi khắc nghiệt phẩm chất
này ở các thầy, cô giáo. Khi chấp nhận vào ngành mầm non, các tố chất cần
thiết nhất cho người công tác ở bậc học này là lòng yêu nghề, yêu người, là sự
kiên trì nhẫn nại, giàu đức hy sinh, sẵn sàng bỏ thời gian, công sức, thậm chí
cả tiền bạc cho sự nghiệp giáo dục trẻ như lời Bác Hồ đã từng nói với lớp đào
tạo cán bộ mẫu giáo năm 1955 “…Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ.
Muốn làm được thế thì trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải
bền bỉ, chịu khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy trẻ cũng như trồng cây
non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau
này các cháu thành người tốt… Điều trước tiên là dạy các cháu về đạo đức.
Anh chị em giáo viên và mẫu giáo cần luôn luôn gương mẫu về đạo đức để
các cháu noi theo” [17, tr.263].
Đạo đức của người giáo viên mầm non được quy định trong “Chuẩn
nghề nghiệp giáo viên mầm non” Ban hành kèm Quyết định số 2/2008/QĐBGDĐT ngày 22 tháng 01 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo



21
và được đánh giá hàng năm sau khi có hiệu lực thi hành để giúp những người
làm công tác giáo dục ở cấp học này luôn phấn đấu vươn lên bằng những tiêu
chí sau:
Có đạo đức, nhân cách và lối sống lành mạnh, trong sáng của nhà giáo;
có ý thức phấn đấu vươn lên trong nghề nghiệp; sống trung thực, lành mạnh,
giản dị, gương mẫu, được đồng nghiệp, người dân tín nhiệm và trẻ yêu quý;
tự học, phấn đấu nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị, chuyên môn,
nghiệp vụ, khỏe mạnh và thường xuyên rèn luyện sức khỏe; không có biểu
hiện tiêu cực trong cuộc sống, trong chăm sóc, giáo dục trẻ; không vi phạm
các quy định về các hành vi nhà giáo không được làm.
Trung thực trong công tác, đoàn kết trong quan hệ với đồng nghiệp, tận
tình phục vụ nhân dân và trẻ; trung thực trong báo cáo kết quả chăm sóc, giáo
dục trẻ và trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được phân công; đoàn kết với
mọi thành viên trong trường; có tinh thần hợp tác với đồng nghiệp trong các
hoạt động chuyên môn nghiệp vụ; có thái độ đúng mực và đáp ứng nguyện
vọng chính đáng của cha mẹ trẻ em; chăm sóc giáo dục trẻ bằng tình thương
yêu, sự công bằng và trách nhiệm của một nhà giáo.
Ngoài những yêu cầu cơ bản trên trong quy định của chuẩn giáo viên
mầm non, phẩm chất đạo đức còn được quy định thêm bởi những nội quy, quy
chế riêng của từng địa phương, từng trường học tùy theo điều kiện và tình
hình thực tế ở mỗi nơi.
1.1.3. Khái niệm bỏ việc của giáo viên mầm non công lập
Bỏ việc là hiện tượng xảy ra đối với một cá nhân nào đó khi đang làm
công việc trong lĩnh vực này nhưng không còn quan tâm đến công việc đó
nữa, không giữ lại công việc đó cho bản thân mình, đồng thời không còn
chịu sự chi phối bởi những mối quan hệ về mặt quản lý đối với các cá nhân
khác có liên quan đến những công việc cũ đã làm của mình mà chuyển sang



22
làm việc ở một ngành, một lĩnh vực khác, với một công việc mới so với
công việc cũ.
Bỏ việc của giáo viên mầm non
Trong lĩnh vực giáo dục mầm non, giáo viên là người trực tiếp đứng
lớp, trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục học sinh mầm non.
Có thể hiểu: giáo viên mầm non công lập bỏ việc là hiện tượng những
người đang trực tiếp giảng dạy tại các trường mầm non công lập của Thành
phố nhưng không tiếp tục công việc đó nữa mà chuyển sang làm những công
việc khác.
Như vậy có thể hiểu, giáo viên mầm non bỏ việc xảy ra trong những
trường hợp sau:
Tự ý bỏ việc hoặc xin thôi việc để chuyển sang làm việc ở các ngành
nghề khác.
Tự ý bỏ việc hoặc xin thôi việc để chuyển sang làm việc ở các trường
mầm non ngoài công lập.
Xin thôi đứng lớp, không trực tiếp làm việc nuôi dạy trẻ mà chuyển
sang làm những công việc khác trong ngành giáo dục mầm non nói riêng hoặc
trong ngành giáo dục nói chung.
Bỏ việc của giáo viên mầm non được nghiên cứu như là một hiện
tượng xã hội, có nguyên nhân chính và trực tiếp từ những tác động của xã
hội. Còn những hiện tượng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập có
nguyên nhân từ gia đình hoặc nhu cầu, nguyện vọng của cá nhân chỉ được
nghiên cứu để tham khảo.
Do áp lực công việc hoặc do không thích hợp với việc nuôi dạy trẻ, một
số giáo viên mầm non công lập đã lợi dụng các mối quan hệ hoặc chạy chọt
để chuyển sang những vị trí khác như làm cán bộ quản lý giáo dục ở trường, ở
các quận, huyện. Một số giáo viên mầm non công lập cũng xin chuyển sang



23
các trường mầm non công lập ở những địa phương khác - những nơi có cơ sở
vật chất tốt hơn, có những ưu đãi tốt hơn. Sự dịch chuyển này, tuy số giáo
viên đó vẫn công tác trong ngành giáo dục mầm non nhưng vẫn tạo nên hiện
tượng thiếu ảo (nơi cần thì thiếu, nơi tạm đủ thì thừa)
Để dạy trẻ tốt thì phải có một đội ngũ giáo viên mầm non thật đầy đủ
về chất lượng và ổn định về số lượng nhưng trong tình hình thực tế hiện nay,
đội ngũ giáo viên mầm non ngày càng bị giảm về số lượng và từ sự thiếu hụt
đó chất lượng của giáo viên mầm non trong chăm sóc nuôi dạy trẻ cũng bị
ảnh hưởng nhiều. Tìm lời giải cho vấn đề này để đưa vị thế của giáo viên
mầm non trở lại đúng thiên chức của người mẹ thứ hai như Bác Hồ đã răn dạy
là một vấn đề cấp thiết.
1.1.4. Khái niệm biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ
việc của giáo viên mầm non công lập
Theo Từ điển Tiếng Việt thì ngăn ngừa là “phòng trước để cản lại một
việc xấu”[40, tr.589]; khắc phục là “thắng những khó khăn để đạt mục đích
của mình” [40, tr.450]. Như vậy có thể hiểu: ngăn ngừa và khắc phục tình
trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập là tìm ra những cách thức để
giáo viên mầm non công lập yên tâm với nghề nghiệp, công việc nuôi dạy trẻ.
Tạo những điều kiện vật chất và tinh thần tốt hơn cho cuộc sống của họ để họ
không thôi việc chuyển sang những ngành nghề, công việc khác.
Theo Từ điển Tiếng Việt, biện pháp là “cách hành động, lựa chọn sao cho
phù hợp với mục đích” [40, tr.70] còn theo Đại Từ điển Tiếng Việt “biện pháp là
cách làm, cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể” [24, tr.161].
Từ các khái niệm trên, có thể thấy nghĩa chung nhất của biện pháp là
cách làm để thực hiện một công việc nào đó nhằm đạt mục đích đặt ra.
Theo các cách tiếp cận trên, có thể quan niệm: Biện pháp ngăn ngừa và
khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập là tổng hợp các



24
cách thức tác động đến giáo viên mầm non một cách có mục đích, có tổ chức
và có kế hoạch nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và vị thế xã hội
của giáo viên mầm non công lập, giúp họ tổ chức tốt cuộc sống cá nhân, rèn
luyện phẩm chất, năng lực sư phạm, yên tâm gắn bó lâu dài với nghề nghiệp
và công việc nuôi dạy trẻ ở các trường mầm non công lập.
Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên
mầm non công lập là tổng hợp các cách thức, thủ pháp, thao tác và cả những
chế độ chính sách, cơ chế quản lý tác động đến giáo viên mầm non và tập thể
giáo viên mầm non.
Mục đích của biện pháp: khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên
mầm non công lập là tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách như: cải
thiện đời sống cho giáo viên trường mầm non công lập, bồi dưỡng cho họ
những phẩm chất, lòng yêu nghề, yêu trẻ và những kỹ năng nuôi dạy trẻ. Trên
cơ sở đó giúp cho người giáo viên mầm non công lập có điều kiện chăm sóc
gia đình và bản thân, đồng thời nâng cao vị thế xã hội của họ để họ sống được
bằng nghề, gắn bó với nghề nuôi dạy trẻ.
Chủ thể của những tác động là: cấp ủy chính quyền các cấp; các đoàn thể
chính trị xã hội; các cơ quan chức năng; các cơ quan quản lý giáo dục các cấp;
cộng đồng xã hội và chính bản thân đội ngũ giáo viên các trường mầm non.
Giáo viên các trường mầm non công lập vừa là đối tượng tác động lại
vừa là chủ thể của những tác động. Bởi vì bỏ việc đối với một cá nhân nói
chung và những người làm công tác giáo dục mầm non nói riêng không đơn
giản là một hành động nhất thời mà là cả một quá trình đấu tranh, giằng co
nội tâm. Đặc biệt đối với giáo viên yêu nghề, yêu trẻ thì bỏ việc nuôi dạy trẻ
là một việc làm hết sức khó khăn đối với họ. Nhưng có thể do họ quá khó
khăn về cuộc sống, bị áp lực của công việc, thậm chí bị cám dỗ bởi danh
vọng, bởi vật chất nên đã bỏ nghề. Bỏ việc của giáo viên mầm non công lập ở



×