Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Tổ chức và hoạt động của uỷ ban nhân dân phường từ thực tiễn thành phố thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.93 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ TỐ QUỲNH

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ THANH HÓA

Ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS VŨ HỒNG ANH

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các số
liệu, ví dụ trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG ........................................... 7


1.1. Cơ sở chính trị, pháp lý về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân ... 7
1.2.Cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Uỷ ban nhân dân phường. 9
1.3. Vị trí , vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban nhân dân phường .... 12
1.4. Mối quan hệ giữa Uỷ ban nhân dân phường với các cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị xã hội ........................................................................................ 14
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân
phường............................................................................................................. 23
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA UỶ
BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ THANH
HÓA ................................................................................................................ 27
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của thành phố Thanh Hóa . 27
2.2. Thực trạng về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân Phường
trên địa bàn thành phố Thanh Hóa .................................................................. 31
2.3. Kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động
của Uỷ ban nhân dân phường trên địa bàn thành phố Thanh Hóa .................. 39
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ THANH HÓA HIỆN NAY ................................ 54
3.1. Sự cần thiết của việc tăng cường tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân
dân phường trên địa bàn thành phố Thanh Hóa hiện nay ............................... 54
3.2. Quan điểm tăng cường tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân
phường ở thành phố Thanh Hóa hiện nay ....................................................... 56
3.3. Giải pháp tăng cường tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân phường
ở thành phố Thanh Hóa ................................................................................... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 71


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Kế thừa hiến pháp năm 1946, Hiến pháp 1959, Hiến Pháp 1980, 1992
và qua các lần sửa đổi thì ngày 1/1/2014 Hiến Pháp 2013 có hiệu lực.Với yêu
cầu phải cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, các chủ trương,
định hướng của Đảng về chính quyền địa phương, Luật Tổ chức chính quyền
địa phương số 77/2015/QH13 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày
19/6/2015, tại kỳ họp thứ 9 nhằm thay thế Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân năm 2003. Trên tinh thần khắc phục những hạn chế,
vướng mắc và kế thừa những ưu điểm trong 12 năm thực hiện Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 như: Quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân cơ bản giống nhau cả ở 3 cấp, chưa thể hiện
được tính gắn kết thống nhất giữa Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân
cùng cấp trong chỉnh thế chính quyền địa phương, chưa phân biệt theo đặc
điểm nông thôn, đô thị, hải đảo; Chưa quy định rõ các vấn đề do tập thể Uỷ
ban nhân dân thảo luận cũng như quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền
quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân… Đồng thời bên cạnh đó, việc
những quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương mà cụ thể là chính quyền địa phương ở cấp cơ sở, trong đó có Uỷ ban
nhân dân phường đã tác động một phần không nhỏ đến cơ cấu tổ chức và hoạt
động của Uỷ ban nhân dân phường, đặc biệt là các phường ở thành phố trực
thuộc trung ương, nơi mà có các mối quan hệ kinh tế - xã hội phát triển phức
tạp, đa dạng. Chúng ta đều nhận thức được rằng, hoạt động của Uỷ ban nhân
dân cấp cơ sở nói chung và Uỷ ban nhân dân phường nói riêng có ảnh hướng
rất lớn tới tính hiệu quả của các chính sách, chủ trương của Đảng và pháp luật

1


của Nhà nước, có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc củng cố sự phát triển bền
vững của xã hội, đảm bảo dân chủ và nâng cao đời sống nhân dân.

Vai trò của chính quyền địa phương ở nhà nước ta luôn được quan tâm
từ khi nước ta dành được độc lập, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành sắc
lệnh số 63 ngày 22/11/1945 và sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 quy định về
việc tổ chức chính quyền địa phương. Qua hơn 70 năm xây dựng và phát
triển, chính quyền địa phương các cấp đã phát huy vai trò của Uỷ ban nhân
dân phường ngày càng đóng góp tích cực vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng
Tổ Quốc. Là cấp thấp nhất trong hệ thống chính quyền, là cấp gần dân nhất,
nơi mọi người bày tỏ tâm tư, nguyện vọng và thực hiện nghĩa vụ công dân của
mình, trực tiếp giải quyết các công việc liên quan đến các nhu cầu cơ bản nhất
của nhân dân nhưng hiện nay tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân
phường đã bộc lộ một số bất hợp lý, chưa phù hợp với đặc điểm của các vùng
miền khác nhau. Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 ra đời đã
quy định cụ thể, phân biệt rõ ràng chính quyền địa phương ở nông thôn và đô
thị, tuy nhiên không quy định rõ chế độ làm việc cũng như hoạt động của Uỷ
ban nhân dân và chức năng của chủ tịch Uy ban nhân dân phường.
Thành phố Thanh Hóa là đô thị loại I, có diện tích tự nhiên là 147.77
km2 với dân số là 435.298 người; có 37 đơn vị hành chính trực thuộc bao
gồm 20 phường nội thành và 17 xã ngoại ô. Đây là trung tâm hành chính,
chính trị, văn hóa quan trọng của tỉnh Thanh Hóa. Vì vậy, học viên chọn đề
tài “Tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân phường từ thực tiễn
thành phố Thanh Hóa” làm luận văn thạc sĩ nhằm phân tích thực trạng và
đưa ra những giải pháp phù hợp góp phần hoàn thiện hệ thống Uỷ ban nhân
dân phường nói chung và Uỷ ban nhân dân phường trên địa bàn thành phố
Thanh Hóa nói riêng.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở trong nước, các công trình nghiên cứu về chính quyền địa phương trước

khi Luật Tổ chức chính quyền địa phương có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng
01 năm 2016 thay thế Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân số
11/2003/QH11 khá phong phú với những công trình nghiên cứu như:
- Cuốn Cải cách nền hành chính Việt Nam, thực trạng và giải pháp của
NXB Chính trị Quốc gia, 2009. Cuốn sách này tập trung nghiên cứu về cải
cách hành chính cho thế kỷ XXI, Cải cách hệ thống công vụ, hành chính công
và phát triển kinh tế ở Việt Nam, cải cách hành chính và phát triển...
- Cuốn Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay,
của PGS.TS. Bùi Xuân Đức, Nhà xuất bản Tư pháp, 2004, gồm 458 trang.
Cuốn sách này chủ yếu đề cập đến những vấn đề chung về hoàn thiện, đổi
mới bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã
Hội Chủ Nghía Việt Nam.
- Cuốn Đổi mới nội dung hoạt động của các cấp chính quyền địa
phương trong kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, do TS. Nguyễn Hữu
Đức và ThS. Đinh Xuân Hà làm chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
2006, gồm 154 trang, với 4 chương cụ thể. Các tác giả đã trình bày khái quát về
quá trình hình thành các cấp hành chính và điều chỉnh quy mô các đơn vị hành
chính của địa phương; phân tích sự đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế đối với các cấp chính quyền địa phương; đề xuất các giải pháp và
đổi mới tổ chức hoạt động, cơ chế vận hành của chính quyền địa phương đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh đó, còn có một số bài viết liên quan đến đề tài luận văn của
các tác giả như:
- PGS.TS Vũ Thư: Về xu hướng phát triển của bộ máy chính quyền địa
phương nước ta, được đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, số 6, 2004.
Bài báo nêu ra một số vấn đề của bộ máy chính quyền địa phương truyền
3


thống ở Việt Nam. Đồng thời, bài báo đã đưa ra xu hướng phát triển của bộ

máy chính quyền địa phương theo tinh thần Hội nghị Trung ương lần thứ 7
(khóa VIII) của Đảng [37, tr.6] cũng như các quy định của pháp luật để tổ
chức mô hình chính quyền địa phương phù hợp và hoạt động hiệu quả hơn.
- TS. Hoàng Phước Hiệp: WTO và một số yêu cầu đối với chính quyền
địa phương được đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp Luật, số 9, 2007. Bài
báo khái quát tổng quan về những quy định trong hiệp định GATT 1947;
WTO và vấn đề chính quyền địa phương của các nước thành viên; một số vấn
đề pháp luật đặt ra đối với hoạt động của chính quyền địa phương khi Việt
Nam gia nhập WTO, trong đó yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước Việt Nam
từ trung ương đến địa phương [18, tr.4] phải có nghĩa vụ chấp hành luật lệ của
WTO và các cam kết của Việt Nam với WTO.
- TS. Nguyễn Minh Đoan: Cải cách tổ chức và hoạt động của chính
quyền cấp xã trong giai đoạn hiện nay được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 10, 2009. Tác giả đã tập trung phân tích, đánh giá vai trò, vị trí của
chính quyền cấp xã và những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà
nước ở địa phương của cấp cơ sở nơi gần dân nhất, cấp chính quyền trực tiếp
tổ chức thực hiện các quyết định, quy định của nhà nước trong thực tiễn đời
sống của nhân dân, trên mọi lĩnh vực quản lý của nhà nước. Trên cơ sở đó, bài
báo đã chỉ ra vấn đề cần đổi mới trong tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp xã;
cải cách Uỷ ban nhân dân cấp xã. Nhất là vấn đề nâng cao năng lực của đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã và cấp chính quyền cơ sở nơi thực thi pháp luật,
tiến hành hoạt động quản lý các ngành, lĩnh vực được thực hiện bởi đội ngũ
cán bộ, công chức nhưng không có các cơ quan chuyên môn như chính quyền
cấp huyện và cấp tỉnh như hiện nay.
Có thể thấy kết quả của các công trình nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận và thực tiễn tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương nói chung tại những giai đoạn, thời điểm nhất định. Tuy nhiên, kể từ
4



khi Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 ra đời đã khắc phục
những hạn chế trước đây đồng thời đã kế thừa được những thành tựu của Luật
Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 từ đó đã dẫn đến
những đổi mới trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính quyền địa
phương hiện nay. Mặt khác, do những thay đổi nhất định về điều kiện kinh tế xã hội trong nước, nhiệm vụ về hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ thì
những vấn đề phát sinh, đã làm xuất hiện các yêu cầu, đòi hỏi phải tiếp tục đẩy
mạnh cải cách bộ máy nhà nước, trong đó có chính quyền địa phương ở cấp cơ
sở, nhất là Uỷ ban nhân dân phường. Vì vậy, nghiên cứu đề tài: Tổ chức và hoạt
động của Ủy ban nhân dân phường từ thực tiễn thành phố Thanh Hóa, tỉnh
Thanh Hóa không chỉ là vấn đề cần phải nghiên cứu trong giai đoạn hiện nay mà
nó còn có ý nghĩa lâu dài đối với tổ chức bộ máy chính quyền địa phương nói
chung và tổ chức, hoạt động của Uỷ ban nhân dân phường nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn là nghiên cứu đề xuất quan điểm,
giải pháp tăng cường tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân phường ở
nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn: Luận văn có đối tượng nghiên cứu là
những vấn đề lý luận liên quan đến tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương ở phường mà cụ thể là Uỷ ban nhân dân phường; các chủ trương, chính
sách của Đảng, các quy định của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương phường; cách thức tổ chức và hoạt động của Uỷ ban
nhân dân phường trên địa bàn thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là thực tiễn tổ
chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân phường trên địa bàn thành phố Thanh
Hóa từ năm 2010 đến nay.

5



5. Phương pháp lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về dân chủ xã hội chủ nghĩa và về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Luận văn được thực hiện bằng các
phương pháp nghiên cứu phổ biến và hiện đại của khoa học pháp lý như: phân
tích, tổng hợp, chứng minh, quy nạp. So sánh, xã hội học pháp luật, khảo
sát...Ngoài ra luận văn còn tham khảo một số luận văn và luận án nghiên cứu
về chính quyền địa phương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Một là, luận văn đã phân tích sự cần thiết phải đổi mới tổ chức và hoạt
động của Uỷ ban nhân dân phường nói chung và Uỷ ban nhân dân của thành
phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu của cải cách
hành chính ở nước ta hiện nay.
Hai là, luận văn phân tích thực trạng và đề xuất phương hướng cũng
như các giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân
phường trên địa bàn thành phố Thanh Hóa trong tiến trình cải cách bộ máy
nhà nước ở nước ta.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn sẽ được thiết kế làm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban
nhân dân phường.
Chương 2: Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân
phường trên địa bàn thành phố Thanh Hóa hiện nay.
Chương 3: Sự cần thiết, định hướng và giải pháp tăng cường tổ chức và
hoạt động của Uỷ ban nhân dân phường ở thành phố Thanh Hóa hiện nay.

6



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG
1.1. Cơ sở chính trị, pháp lý về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban
nhân dân
Uỷ ban nhân dân là một cơ quan hành chính nhà nước trong hệ thống
hành chính Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là cơ quan thực thi
pháp luật tại các cấp: tỉnh, huyện, xã. Các chức danh của Uỷ ban nhân dân
được Hội đồng nhân dân cấp tương ứng bầu ra và có nhiệm kỳ trùng với
nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân. Người đứng đầu Uỷ ban nhân dân là Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân, thường là Phó Bí thư Đảng ủy Đảng Cộng sản Việt
Nam cấp tương ứng. Quyền hạn của Uỷ ban nhân dân được quy định tại Hiến
pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và Luật Tổ chức
Chính quyền địa phương 2015. Uỷ ban nhân dân các cấp có các cơ quan giúp
việc như: Sở (cấp tỉnh), Phòng (cấp huyện), Ban (cấp xã).
Theo quy định của Điều 110 Hiến pháp năm 2013, các đơn vị hành
chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh;
Thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn
vị hành chính tương đương;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành
phường và xã; quận chia thành phường.
Như vậy, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa các Hiến pháp Việt
Nam xác định phường là đơn vị hành chính cơ sở ở đô thị. Trên cơ sở quy
định của Hiến pháp, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 xác định
phường được thành lập ở quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Theo đó:
7



- Thứ nhất, là phường thuộc quận ở các thành phố trực thuộc Trung
ương (phường ở các quận nội thành Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố
Hồ Chí Minh, Cần Thơ).
- Thứ hai, là phường thuộc thành phố trực thuộc tỉnh (phường ở thành
phố Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam, ở thành phố Quãng Ngãi thuộc tỉnh
Quảng Ngãi, thành phố Huế thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế,…).
- Thứ ba, là phường thuộc các thị xã ở các tỉnh, thành phố (như phường
thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, phường thuộc thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh
Yên Bái,…).
Chính quyền nhân dân ở phường là cấp chính quyền địa phương gồm
Hội đồng nhân dân phường và Uỷ ban nhân dân phường.
Căn cứ quy định của Hiến pháp, luật, chính quyền phường, theo nghĩa
rộng có thể hiểu, bao gồm tất cả các cơ quan nhà nước đóng trên địa bàn
phường và hoạt động của các cơ quan này giới hạn trong phạm vi địa giới
hành chính thuộc phường, trong từng đơn vị hành chính phường. Theo cách
hiểu này, có thể thấy khái niệm chính quyền phường đồng nghĩa với khái
niệm hệ thống các cơ quan nhà nước ở phường. Theo nghĩa hẹp, chính quyền
phường bao gồm cơ quan quyền lực nhà nước (Hội đồng nhân dân) do nhân
dân phường trực tiếp bầu ra và cơ quan hành chính nhà nước (Ủy ban nhân
dân) do Hội đồng nhân dân phường bầu ra. “Hội đồng nhân dân là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên” (Điều 113, Hiến pháp
2013). “Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân
dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệmtrước Hội đồng nhân dân và
cơ quan hành chính nhà nước cấp trên” (Điều 114, Hiến pháp 2013).

8



1.2. Cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Uỷ ban nhân
dân phường
1.2.1. Cơ cấu tổ chức của Uỷ ban nhân dân phường
Cơ cấu tổ chức của Uỷ ban nhân dân phường được quy định tại điều
62, Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015 với nội dung cụ thể như sau:
Uỷ ban nhân dân phường gồm Chủ tịch, Phó chủ tịch, Uỷ viên phụ
trách quân sự, Uỷ viên phụ trách công an.
Uỷ ban nhân dân phường loại I có không quá 02 Phó chủ tịch, phường
loại II và III có 01 Phó chủ tịch.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường là người đứng đầu, là cán bộ chuyên
trách lãnh đạo, điều hành hoạt động của Uỷ ban nhân dân và hoạt động quản
lý nhà nước trên địa bàn phường với các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh,
quốc phòng,...
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường được lựa chọn, giới thiệu, bãi nhiệm
hay miễn nhiệm thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân phường. Nguyên
tắc bầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường phải bình đẳng, phổ thông, trực
tiếp và bỏ phiếu kín.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn,
điều kiện, yêu cầu đối với cán bộ công chức theo quy định của Pháp lệnh cán
bộ công chức như tuổi tác, trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ.
-Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường
Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường là người được phân công trực
tiếp chỉ đạo các công việc do chủ tịch phường phân công, chịu trách nhiệm
trước Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch về những quyết định của mình.
Về nguyên tắc và điều kiệu bầu ra Phó chủ tịch tương đương với các
tiêu chí để bầu ra Chủ tịch phường.
-Uỷ viên Uỷ ban nhân dân phường

9


Uỷ viên Uỷ ban nhân dân phường là các bộ phận tham mưu và giúp Uỷ
ban nhân dân phường tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được Uỷ
ban nhân dân phường giao cho trên các lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã
hội trên địa bàn theo pháp luật.
Với cơ cấu tổ chức Uỷ ban nhân phường như trên thì bộ máy chính
quyền địa phương luôn bảo đảm được tính ổn định, khoogn làm xáo trộn mô
hình tổ chức chính quyền gần dân, sát dân và quyền làm chủ của nhân dân
luôn được pháp huy.
1.2.2. Phương thức hoạt động của Uỷ ban nhân dân phường
Uỷ ban nhân dân phường họp một tháng một lần và hoạt động theo
phương thức thảo luận tập thể và quyết định theo đa số các vấn đề thuộc thẩm
quyền của mình như: Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán- quyết toán
hằng năm của địa phương, đưa ra các kế hoạch đầu tư các công trình trọng
điểm,...Đây là phương thức hoạt động quan trọng nhất của Uỷ ban nhân dân
phường vì phần lớn các nhiệm vụ , quyền hạn cảu Uỷ ban nhân dân được thực
hiện tại phiên họp.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường là người lãnh đạo, điều hành, đôn
đốc các công việc, quy định các chương trình hoạt độngcủa Uỷ ban nhân dân
phường hàng tháng, hàng quý, phân công công việc cho các thành viên, đồng
thời kiểm tra giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ của các chủ thể đó và chịu
trách nhiệm cá nhân về các quyết định của mình.
Phó chủ tịch và các thành viên khác trong Uỷ ban nhân dân phường
được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường phân công, phụ trách góp phần đảm
bảo thống nhất quản lý từ trung ương đến địa phương và Phó chủ tịch phường
và các thành viên cũng sẽ chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
phường trong việc quản lý các lĩnh vựa được giao.
Tuy nhiên, hình thức hoạt đông của Uỷ ban nhân dân phường với Uỷ

ban nhân dân cấp trên tương đối khác biệt nhất là quyền ban hành quy phạm
10


pháp luật. Lý giải cho sự khác biệt đó là các văn bản quy phạm pháp luật
được các cơ quan trung ương ban hành để điều chỉnh những vấn đề mang tính
phổ biến trên cả nước. Một số trường hợp văn bản của trung ương có hiệu lực
trên phạm vi một số vùng lãnh thổ có yếu tố khác biệt nên những khu vực đó
cần có sự điều chỉnh riêng. Rất hiếm khi văn bản quy phạm pháp luật được
ban hành trên một tỉnh hay một thành phố trực thuộc trung ương nào đó trong
khi đó không phải tỉnh hay thành phố nào cũng giống nhau để ban hành ra
một loại văn bản quy phạm pháp luật nên khả năng thực hiện văn bản của
trung ương cũng không giống nhau. Mặt khác do có sự khác biệt giữa các địa
phương về vấn đề giải quyết có ở địa phương này mà không có ở địa phương
khác nên khó có thể được quy định trong các văn bản trung ương ban hành.
Như vậy, nhu cần ban hành các văn bản quy phạm pháp luật ở các tỉnh và
thành phố trực thuộc trung ương là rất rõ nhưng ngược lại đối với ủy ban nhân
dân phường lại hoàn toàn khác. Lý do là bởi xuất phát từ thực tế chất lượng
các văn bản của các cấp chính quyền phường không cao, đồng thời do phạm
vi địa giới phường khá nhỏ và sự khác biệt giữa các phường không lớn. Thêm
vào đó, để tránh sự tản mạn của pháp luật thì việc quy định thẩm quyền ban
hành văn bản quy phạm pháp luật là không cần thiết nên hình thức hoạt động
động của cấp chính quyền phường chủ yếu là hình thức áp dụng những biện
pháp tỏ chưc trực tiếp với mục đích tạo điều kiện để ban hành và tổ chức thực
hiện các quyết định quản lý.
Như vậy, phương thức hoạt động của Uỷ ban nhân dân phường dựa
trên nguyên tắc tập thể quyết định, cá nhân phụ trách, đảm bảo sự thống nhất
tỏng quá trình quản lý hành chính nhà nước ở địa phương.

11



1.3. Vị trí , vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban nhân dân
phường
1.3.1. Vị trí, vai trò của Uỷ ban nhân dân phường
Theo Hiến pháp 2013, vị trí, vai trò của Uỷ ban nhân dân được quy
định như sau:
-Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và
cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
- Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các
nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
Uỷ ban nhân dân phường là cấp thấp nhất và gần dân nhất nên chính vì
vậy Uỷ ban nhân dân phường có vị trí, vai trò rất quan trọng trong cơ cấu tổ
chức quyền lực nhà nước, đồng thời là nó là thiết chế chi phối đời sống kinh
tế - xã hội của các cộng đồng dân cư nói chung và cộng đồng dân cư trên địa
bàn nói riêng. Có thể nói Uỷ ban nhân dân phường là trụ cột của hệ thống
chính trị ở phường vì nó đại diện cho quyền lực của nhân dân trên địa bàn,
được Hội đồng nhân dân bầu ra và đồng thời thực hiện ý chí chung của nhân
dân trên địa bàn.
Uỷ ban nhân dân phường là cơ quan “chấp hành” của Hội đồng nhân
dân phường; Uỷ ban nhân dân phường có nghĩa vụ vừa phải chấp hành các
nghị quyết vừa phải chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân phường cũng
như phải chịu sự kiểm tra, đôn đốc của Thường trực Hội đồng nhân dân
phường. Là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có trách nhiệm chấp
hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, chịu trách
nhiệm trước cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trong phạm vi và mức độ


12


được phân cấp, phân quyền, điều hành các quá trình kinh tế - xã hội, hành
chính – chính trị ở địa phương dưới sự lãnh đạo chung của Chính phủ.
Uỷ ban nhân dân phường là một bộ phận trong hệ thống hành chính nhà
nước thống nhất do Chính phủ lãnh đạo và là cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương. Uỷ ban nhân dân phường có nhiệm vụ bảo đảm quan hệ quyền
lực và hành chính được thực thi thống nhất và thông suốt trong phạm vi toàn
quốc, theo nguyên tắc quyền uy và phục tùng: cấp dưới phục tùng cấp trên,
địa phương phục tùng trung ương đồng thời được tổ chức và hoạt động trong
một chỉnh thể thống nhất của bộ máy quản lý hành chính nhà nước.
Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chung, quản lý tất
cả các lĩnh vực của quản lý nhà nước (nhưng với nội dung và cấp độ khác nhau)
thì để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình Uỷ ban nhân dân ban hành các
quyết định, chỉ thị, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện văn bản đó.
1.3.2 Nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban nhân dân phường
Theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Uỷ
ban nhân dân phường thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Xây dựng, trình Hội đồng nhân dân phường quyết định các nội dung
về dự toán thu chi ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách
phường; điều chỉnh dự toán ngân sách phường trong trường hợp cần thiết;
quyết toán ngân sách phường; các chương trình, dự án trên địa phường.
- Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan nhà nước cấp trên phân
cấp, ủy quyền.
So với Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm
2003, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã có cách nhìn nhận
cũng như đã có sự tiếp cận mới về quan điểm, nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ
ban nhân dân phường; Đó là việc thay vì liệt kê một cách cứng nhắc các

nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban nhân dân phường trên các lĩnh vực kinh
13


tế, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ,
giao thông vận tải,... thì Luật đã quy định một cách khái quát hơn: “Uỷ ban
nhân dân xã, phường thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan nhà nước cấp
trên phân cấp, ủy quyền”. Quy định này nhằm mục đích bảo đảm nâng cao
tính tự chủ của Ủy ban nhân dân cấp cơ sở. Cách tiếp cận này được giải thích
cụ thể vì những lý do:
Thứ nhất, việc phân cấp quyền hạn nhiệm vụ từ trung ương đến địa
phương là thống nhất tuy nhiên phải phụ thuộc vào tình hình kinh tế - chính
trị - xã hội đặc thù của từng địa phương; Chính vì thế điều đầu tiên cần đến đó
là phải có sự phân loại và đánh giá để qua đó quy định nhiệm vụ và quyền hạn
sao cho hợp lý nhất;
Thứ hai, đó là vì sự thống nhất từ trung ương đến địa phương trong
hoạt động quản lý nhà nước nên việc ủy quyền của cấp trên đối với cấp dưới
được quy định cũng như được đảm bảo thực hiện;
Trên thực tế, cấp cơ sở là cấp gần sát với dân nhất, trực tiếp tiếp xúc và
tham gia quản lý các hoạt động thường nhật của Nhân dân, thường xuyên lắng
nghe ý kiến, kiến nghị và phản ánh của Nhân dân, hiểu rõ nhất tình hình đặc
thù của địa phương nên có thể nói đây là một bước tiến lớn trong việc đề cao
vị trí của cấp đơn vị hành chính cơ sở. Điều này khẳng định sẽ giúp hoạt động
quản lý của Ủy ban nhân dân phường đạt hiệu quả cao hơn so với trước đây.
1.4. Mối quan hệ giữa Uỷ ban nhân dân phường với các cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị xã hội

1.4.1. Mối quan hệ giữa Ủy ban nhân dân phường với Đảng ủy phường
Đảng ủy phường (Ban chấp hành Đảng bộ phường) do Đại hội Đảng bộ
phường bầu ra, hoạt động theo nhiệm kỳ và là cơ quan lãnh đạo cả hệ thống

chính trị ở phường, có vai trò và trách nhiệm lãnh đạo, kiểm tra, giám sát mọi
cơ quan chính quyền và đoàn thể ở phường và tất cả đảng viên thuộc Đảng bộ
chấp hành nghị quyết, chỉ thị của các tổ chức đảng cấp trên và chính sách
14


pháp luật của nhà nước trên địa bàn; đồng thời phát huy quyền làm chủ của
nhân dân ở phường tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Đảng ủy phường có chức năng lãnh đạo chính quyền phường bằng nghị
quyết; các định hướng về chủ trương, chính sách; bằng công tác tuyên truyền,
vận động, giáo dục, thuyết phục; bằng công tác kiểm tra; bằng hành động
gương mẫu của các đảng viên và Đảng ủy phường chịu trách nhiệm về công
tác cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú của Đảng tham gia giữ các chức
vụ chủ chốt trong bộ máy Uỷ ban nhân dân phường.
Uỷ ban nhân dân phường có trách nhiệm chấp hành các nghị quyết
của Ban chấp hành Đảng bộ phường đưa ra và thể chế các nghị quyết đó
thành các nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định và chỉ thị của Uỷ
ban nhân dân phường.
Mối quan hệ giữa Đảng ủy phường với chính quyền phường nói chung
và Uỷ ban nhân dân phường nói riêng là mối quan hệ hết sức cơ bản trong hệ
thống chính trị, bởi vì hai tổ chức này là những tổ chức nòng cốt thực thi
quyền lực nhà nước và quyền lực chính trị trên địa bàn phường; lãnh đạo hoặc
trụ cột có vững thì hệ thống chính trị mới chắc bền và phát triển. Để mối quan
hệ giữa Đảng uỷ phường và Uỷ ban nhân dân phường được xuyên suốt và
thống nhất thì chính quyền phường luôn đặt vị trí của mình dưới sự lãnh đạo
của Đảng uỷ phường.
Đối với cấp Đảng uỷ, công tác nhân sự là một trong những công tác hết
sức quan trọng góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức.Qua đó,
Đảng ủy phường giới thiệu và lựa chọn ra những đảng viên ưu tú cũng như đáng
tin cậy để bầu vào những vị trí chủ chốt trong bộ máy chính quyền phường cụ

thể là Uỷ ban nhân dân phường; Đặc biệt, luôn luôn là vấn đề hàng đầu được đặt
ra đó là phải đảm bảo đúng quy chế dân chủ và khách quan vì đây là khâu quyết
định cực lớn đến chất lượng, hiệu quả, hiệu lực quản lý của Uỷ ban nhân dân
phường đồng thời nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở phường.
15


1.4.2. Mối quan hệ giữa Ủy ban nhân dân phường với Hội đồng
nhân dân phường
Ủy ban nhân dân phường là cơ quan do Hội đồng nhân dân bầu ra và là
cơ quan “chấp hành” Hội đồng nhân dân, được Hội đồng nhân dân giao thực
hiện các công việc cũng như các nhiệm vụ quản lý hành chính Nhà nước ở
phường. Cả hai cơ quan này đều nằm trong cơ cấu chính quyền địa phương và
hoạt động một cách thống nhất, đều có chức năng quản lý địa phương theo
quy định của pháp luật. Theo quy định của Điều 5 Luật tổ chức chính quyền
địa phương 2015, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, hiện đại, minh bạch vừa phục vụ
cũng như chịu sự giám sát của Nhân dân. Hội đồng nhân dân hoạt động theo
cơ chế hội nghị và quyết định theo đa số, còn Ủy ban nhân dân hoạt động theo
cơ chế tập thể Ủy ban nhân dân đồng thời kết hợp với trách nhiệm của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân... Như vậy mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân là mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước ở địa phương được tổ
chức và hoạt động theo những nguyên tắc dân chủ,minh bạch, thống nhất
nhằm đạt được những mục tiêu đã được phân cấp phân quyền cũng như
những mục tiêu đã được đề ra trước cơ quan nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân phường có mối liên quan đặc
biệt trong cách thức thành lập nên hoạt động của hai cơ quan này cũng có mối
quan hệ mật thiết với nhau, như: Hội đồng nhân dân phường có quyền giám
sát đối với hoạt động của Ủy ban nhân dân phường (Điều 87 Luật tổ chức
chính quyền địa phương 2015); Hội đồng nhân dân giám sát thông qua các

hoạt đông như xem xét trả lời chất vấn của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các
thành viên khác của Ủy ban nhân dân; xem xét báo cáo công tác, các văn bản
quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân phường....
Ủy ban nhân dân phường chịu trách nhiệm cũng như báo công tác trước
Hội đồng nhân dân phường và trước Ủy ban nhân dân thành phố, và phải
16


cung cấp được các tài liệu có liên quan đến hoạt động giám sát khi có yêu cầu
của Hội đồng nhân dân, đồng thời Ủy ban nhân dân phải chịu trách nhiệm
trước Hội đồng nhân dân phường nhiều vấn đề khác, cụ thể đó là trong việc
triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân, căn cứ
vào các nghị quyết đó Uỷ ban nhân dân tiến hành họp, bàn bạc, xem xét và ra
quyết định, chỉ thị, tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó để
các chủ trương, đề xuất, ý kiến của Hội đồng nhân dân đi vào thực tế cuộc
sống.Tuy nhiên các văn bản của Ủy ban nhân dân ban hành không được trái
với Nghị quyết của Hội đồng nhân dân phường và các văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên ...
Ủy ban nhân dân phường còn phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân
dân và các ban của Hội đồng nhân dân phường chuẩn bị những nội dung của các
kỳ họp Hội đồng nhân dân, xây dựng đề án trình Hội đồng nhân dân xem xét
quyết định. Quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân phường là quan
hệ giữa hai cơ quan của chính quyền địa phương ở cùng cấp.Chính vì vậy, hiệu
quả quản lý các mặt đời sống xã hội ở phường luôn đượcc hú trọng và phát triển.
Trong những năm qua, sau một thời gian thí điểm không tổ chức Hội
đồng nhân dân theo Nghị quyết của Quốc hội tại 10 tỉnh thành; Thành phố
trực thuộc trung ương thì ngày 01/01/2016 khi Luật tổ chức chính quyền địa
phương 2015 có hiệu lực thì tại Khoản 2, điều 142 đã quy định chấm dứt việc
thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân ở các cấp huyện, quận,
phường;Việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân cũng đã đặt ra nhiều

vấn đề cũng như những quan điểm trái chiều nhau. Cụ thể:
Thứ nhất, đó là những quan điểm về việc nếu không có Hội đồng nhân
dân thì cơ quan nào là có quan quyền lực phát huy quyền làm chủ của nhân
dân ở địa phương bởi vì Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện cho ý chí của
nhân dân, và nếu không có Hội đồng nhân dân thì ý chí của nhân dân địa
phương sẽ được thực hiện tại cơ quan nào và có đảm bảo được tính trung
17


thực, dân chủ hay không?.Và có hay không nếu một cơ quan nào đó kế thừa
nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng nhân dân thì có hay không tình trngj làm
quyền sẽ diễn ra.
Thứ hai, đó là những quan điểm đồng ý về việc không tổ chức Hội
đồng nhân dân bởi trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, toàn diện đất nước
xây dựng và phát triển nền kinh tế theo định hướng chủ nghĩa xã hội thì Hội
đồng nhan dân chưa phát huy được hết vai trò và trách nhiệm của mình đồng
thời giảm sự cồng kềnh của bộ máy chính quyền địa phương và tinh giản ngân
sachs cho Nhà nước.
Sau thời gian thí điểm Nhà nước ta cũng đã nhận ra điểm ưu và điểm
nhược trong việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân, qua đó sẽ có
những chính sách phù hợp để làm sao bộ máy chính quyền được hoạt động
một cách hiệu quả nhất.
1.4.3 Mối quan hệ giữa Uỷ ban nhân dân phường với Uỷ ban nhân
dân cấp trên
Uỷ ban nhân dân phường là cơ quan có vị trí và vai trò hết sức quan
trọng trong hệ thống hoạt động của Uỷ ban nhân dân các cấp, có mối liên hệ
chặt chẽ và mật thiết với Uỷ ban nhân dân cấp trên, mà trực tiếp là Uỷ ban
nhân dân quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và thành phố thuộc thành phố trực
thuộc trung ương(sau đây gọi là Uỷ ban nhân dân cấp quận). Điều này được
thể hiện cả về phương diện quan hệ tổ chức và cả về phương diện hoạt động

của Uỷ ban nhân dân phường.
Về tổ chức, tuy Uỷ ban nhân dân phường do Hội đồng nhân dân
phường bầu ra nhưng kết quả bầu Uỷ ban nhân dân phường thì phụ thuộc vào
quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận trực tiếp phê chuẩn. Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân quận có quyền, miễn nhiệm, buộc thôi chức và điều động
Chủ tịch, Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường.

18


Về phương diện hoạt động, với vị trí là cơ quan hành chính nhà nước ở
cấp cơ sở cụ thể là phường, Uỷ ban nhân dân phường có trách nhiệm vừa phải
chấp hành Hiến pháp, pháp luật và các nghị quyết của Hội đồng nhân dân
phường mà đồng thời vừa phải có trách nhiệm chấp hành các văn bản của các
cơ quan nhà nước cấp trên, cụ thể đó là các quyết định, chỉ thị, mệnh lệnh của
Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên. Với trách nhiệm tổ
chức, chỉ đạo, đôn đốc các công chức chuyên môn thuộc quyền của mình thì
Uỷ ban nhân dân phường phải thực hiện các văn bản và các quyết định của
các cơ quan quản lý nhà nước cấp trên nhằm quản lý thống nhất đối với các
lĩnh vực của đời sống xã hội của nhân dân ở địa phương. Uỷ ban nhân dân
phường phải có trách nhiệm trong toàn bộ hoạt động của mình đó là báo cáo
hoạt động công tác trước Uỷ ban nhân dân cấp trên cũng như phải chịu trách
nhiệm, chịu sự kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân cấp trên. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên có quyền đình
chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ các văn bản trái pháp luật của Uỷ ban nhân dân
và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường.
Uỷ ban nhân dân phường và Ủy ban nhân dân cấp trên là mối quan hệ
chỉ huy, ra lệnh, phục tùng. Uỷ ban nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo, quản
lý, điều hành của Uỷ ban nhân dân cấp trên.Ddây cũng là nguyên tắc thứ bậc
trong bộ máy hành chính nhà nước.

Khi được Uỷ ban nhân dân cấp trên giao nhiệm vụ thì Uỷ ban nhân dân
phường phải thực hiện chế độ báo cáo thường xuyên hoặc đột xuất theo yêu
cầu về tình hình và kết quả triển khai thực hiện nhiệm vụ đã được giao.
Ngoài ra, còn có mối quan hệ giữ Uỷ ban nhân dân cấp dưới với các
phòng ban thuộc Uỷ ban nhân dân cấp trên. Đây là mối quan hệ giữa quản lý
ngành và quan lý lãnh thổ mà qua đó Uỷ ban nhân dân cấp dưới chịu sự
hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của các phòng ban cấp trên.Tuy nhiên,
các phòng ban chuyên môn không phải là cơ quan cấp trên của Uỷ ban nhân
19


dân phường mà là khi được cử xuống công tác tại phường thì Uỷ ban nhân
dân cấp phường tạo điều kiện cho các phòng ban hoàn thành nhiệm vụ được
giao.Vì vậy, đây được xem là mối quan hệ phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau, để cả
hai bên hoàn thành nhiệm vụ được giao.
1.4.4. Mối quan hệ giữa Uỷ ban nhân dân phường với các tổ chức
chính trị-xã hội
Hiện nay, trong mô hình tổ chức chính trị ở đơn vị hành chính cấp
phường, các tổ chức nằm trong hệ thống chính trị ở phường ở nước ta gồm:
Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban mặt trận Tổ quốc,
Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh,
Hội nông dân.
Hệ thống chính trị phường hoạt động theo cơ chế Đảng ủy phường là
cơ quan lãnh đạo và nắm quyền điều hành các tổ chức chính quyền địa
phương ở phường, đây là cơ quan trụ cột của cả hệ thống thực hiện quyền lực
nhà nước và nhân dân làm chủ chủ yếu thông qua cơ chế giám sát của Hội
đồng nhân dân và các đoàn thể chính trị ở phường. Cụ thể:
- Mối quan hệ giữa Uỷ ban nhân dân phường với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
+ Mặt trận Tổ quốc là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị đồng
thời là liên minh chính trị - tổ chức liên hiệp tự nguyện của các đoàn thể Nhân

dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các tôn
giáo, các dân tộc; đại diện cho ý chí đại đoàn kết và nguyện vọng chân chính
của nhân dân; thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên, phối hợp với
chính quyền địa phương thực hiện nền dân chủ, chăm lo bảo vệ lợi ích chính
đáng của các tầng lớp Nhân dân; giám sát, bảo vệ, tham gia xây dựng nhà
nước và quản lý xã hội. Mặt trận Tổ quốc có chức năng tham chính, tham
nghị và giám sát; đoàn kết Nhân dân, chăm lo đời sống, lợi ích của các thành
viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ công
dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
20


+ Ngoài vấn đề phải dựa vào các quy định của pháp luật thì Uỷ ban
nhân dân phường nếu muốn thưc hiện tốt nhiện vụ của mình thì còn phải dựa
vào Mặt trận Tổ quốc phường và các thành viên để tổ chức tuyên truyền sâu
rộng, vận động Nhân dân ở các khu dân cư tạo ra sự tương tác cũng như đồng
thuận cao trong cộng đồng qua đó phát huy được tính dân chủ cao trong Nhân
dân, đồng thời củng cố được lòng tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước.
- Mối quan hệ giữa Uỷ ban nhân dân phường với Hội liên hiệp phụ
nữ phường
Hội Liên hiệp phụ nữ phường là tổ chức đại diện cho quyền bình đẳng,
dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, trẻ em tham gia quản lý
nhà nước, tham gia xây dựng Đảng. Nâng cao tính đoàn kết, vận động, tổ
chức và hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước, góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
Mối quan hệ giữu Uỷ ban nhân dân phường và Hội liên hiệp phụ nữ
phường là mối quan hệ hỗ trợ phối hợp trong việc thực hiện các chương trình,
đề án, dự án liên quan đến quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. Cụ thể công việc
như: Phối hợp để tuyên truyền các chương trình phát triển kinh tế-xã hội cũng

như các quyền và lợi ích liên quan đến quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, quyền
bình đẳng giới theo quy định của Pháp luật.
- Mối quan hệ giữa Uỷ ban nhân dân phường với Đoàn Thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh phường
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội
tập hợp tầng lớp thanh niên, là đoàn thể của các thanh niên ưu tú trên địa bàn
phường, đội hậu bị của Đảng. Tổ chức Đoàn được thành lập trên phạm vi cả
nước, có mặt ở hầu hết các cơ quan, đơn vị, tổ chức từ trung ương đến cơ sở
nhằm thu hút thế hệ trẻ vào những hoạt động xã hội bổ ích, lành mạnh, qua đó
giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật cho đoàn viên thanh niên.
21


Mối quan hệ giữa Uỷ ban nhân dân phường với Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh phường là moosiq uan hệ phối hợp nhằm tạo điều kiện để mỗi bên
thực hiện, hoàn thành tốt các chức năng, nhiệm vụ, nâng cao hiệu quả thực hiện
các công việc đã được đề ra như: Chỉ đạo các ban ngành cùng với Đoàn thanh
niên tổ chức các phong trào thi đua trong lao động, sản xuất, trienr khai các
chương trình cũng như các dự án hỗ trợ thanh niên lập nghiệp,...
- Mối quan hệ giữa Uỷ ban nhân dân phường với Hội Cựu chiến binh
phường
Hội Cựu chiến binh phường là đoàn thể chính trị - xã hội, thành viên
của Mặt trận Tổ quốc, là cơ sở chính trị của chính quyền Nhân dân, một tổ
chức trong hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, hoạt động theo đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và Điều
lệ của hội. Mục đích là tập hợp, đoàn kết, tổ chức, động viên các thế hệ cựu
chiến binh giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thông “Bộ đội cụ hồ”, tích cực
tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng
và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp
pháp của cựu chiến binh, chăm lo giúp đỡ nhau về tinh thần và vật chất trong

cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.
Uỷ ban nhân dân phường tạo điều kiện để Hội Cự chiến binh phường
tham gia và hoạt động các lĩnh vực chính trị, thời sự, để góp ý kiến vào việc
xây dựng Đảng, chính quyền, chính sách và pháp luật tạo sự đồng thuận cao
trong xã hội, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Mối quan hệ giữa Uỷ ban nhân dân phường với Hội Nông dân phường
Hội nông dân phường là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông
dân do Đảng lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc. Hội nông dân
vận động giáo dục hội viên, nông dân phát huy quyền làm chủ, tích cực học
tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt; đại diện giai cấp nông dân tham

22


×