Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện mê linh thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 120 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN THỊ PHONG LAN

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MÊ LINH
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014


2

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN THỊ PHONG LAN

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MÊ LINH
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CHUYÊN NGÀNH:
MÃ SỐ :

KINH TẾ CHÍNH TRỊ


60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HOÀNG THỊ BÍCH
LOAN

HÀ NỘI - 2014


3

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1 PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN MÊ LINH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI - CƠ SỞ
LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM
14
1.1 Những vấn đề lý luận chung về phát triển kinh tế tư nhân
14
1.2 Nội dung và vai trò phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn
huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
21
1.3 Khảo sát kinh nghiệm và bài học cho phát triển kinh tế tư
nhân trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
31
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MÊ LINH, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2009 - 2013
42

2.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội chi phối đến phát triển kinh tế
tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
42
2.2 Ưu điểm và hạn chế phát triển kinh tế tư nhân trên địa
bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội thời gian qua
47
2.3 Nguyên nhân ưu điểm, hạn chế và những vấn đề đặt ra
cho phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê
Linh, thành phố Hà Nội
63
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH
TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MÊ LINH,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
72
2.1 Quan điểm phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện
Mê Linh, thành phố Hà Nội
72
2.2 Giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn
huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
79
KẾT LUẬN
99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
101
PHỤ LỤC
106


4


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ
Ban chấp hành trung ương
Chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa tư bản
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Doanh nghiệp tư nhân
Giáo dục - đào tạo
Khoa học công nghệ
Kinh tế - xã hội
Kinh tế tư nhân
Kinh tế thị trường
Lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất
Sản xuất, kinh doanh
Thành phần kinh tế
Tư bản chủ nghĩa
Tư liệu sản xuất
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

Viết tắt
BCHTW
CNXH
CNTB
CNH, HĐH
DNTN
GDĐT
KHCN
KT-XH

KTTN
KTTT
LLSX
QHSX
SXKD
TPKT
TBCN
TLSX
UBND
XHCN


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, tất yếu tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần, trong đó có thành phần KTTN. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc
đổi mới đất nước, Đảng ta luôn quan tâm, trăn trở để tìm hướng đi thích hợp và
giải pháp hữu hiệu phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN. Cùng
với việc thừa nhận sự tồn tại tất yếu của KTTN; Đảng và nhà nước ta đã khuyến
khích, tạo điều kiện thuận lợi phát triển KTTN thông qua các chủ trương, nghị
quyết lãnh đạo của Đảng, cơ chế, chính sách, luật pháp của Nhà nước. Trên cơ sở
đó, KTTN đã có sự phát triển vượt bậc về số lượng, chất lượng, quy mô, cơ cấu
tổ chức và ngày càng khẳng định là một trong những động lực của nền kinh tế;
góp phần quan trọng trong thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Là một huyện ngoại thành, nằm ở phía Bắc của Thủ đô Hà Nội - trung tâm
kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục của cả nước, Mê Linh đã tích cực, chủ động
và có nhiều sáng tạo trong quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chủ

trương, chính sách của Đảng và cơ chế, luật pháp của Nhà nước về phát triển
KTTN. Qua đó đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế quan trọng. Vị trí, vai trò to
lớn của KTTN trên địa bàn ngày càng được khẳng định; bước đầu hoạt động có
hiệu quả trên một số lĩnh vực, tạo ra động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
đưa kinh tế địa phương vận động đúng quỹ đạo; góp phần xóa đói, giảm nghèo,
tạo công ăn việc làm cho người lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao
chất lượng đời sống nhân dân; thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH và chính sách an
sinh xã hội...
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển KTTN trên địa bàn Huyện, chưa có
được sự đồng thuận cao về mặt tâm lý xã hội và sự quan tâm đúng mức của
chính quyền, cơ quan quản lý Nhà nước về KTTN. Đặc biệt còn thiếu sự tương
thích của các cơ chế, chính sách với thực tiễn đặc thù của phát triển KTTN trên
địa bàn Huyện. Mặt khác, quá trình phát triển KTTN trên địa bàn huyện đang


6

dần bộc lộ những hạn chế, bất cập, cản trở quá trình phát triển của KTTN nói
riêng và KT-XH ở địa phương nói chung. Như, quy mô sản xuất kinh doanh còn
nhỏ, trình độ khoa học – kỹ thuật còn lạc hậu; đóng góp của KTTN vào phát
triển kinh tế của địa phương chưa tương xứng với vị thế, tiềm năng của nó hiện
nay; KTTN trên địa bàn chưa thật sự vững mạnh, còn nhiều lúng túng, chậm
phát triển, năng lực quản lý, phạm vi, phương thức hoạt động còn nghèo nàn,
khả năng cạnh tranh thấp. KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh đang rất cần sự
quan tâm của các cấp, các ngành và của toàn xã hội để có thể vươn lên và đứng
vững và phát huy tốt vai trò trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế nhiều
thành phần định hướng XHCN.
Bởi vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn phát
triển KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh, trên cơ sở đó đề xuất các phương hướng,
giải pháp chủ yếu để KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh phát triển mạnh mẽ, hiệu

quả hơn là vấn đề có tính cấp thiết. Do đó, tác giả chọn đề tài: “Phát triển kinh tế
tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cao học Kinh tế chính trị của mình, với mong muốn có một đóng góp nhỏ
vào sự phát triển kinh tế của địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Phát triển KTTN đã được nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu ở nhiều góc độ, mức độ và phạm vi tiếp cận khác nhau, đặc biệt là từ
khi Đảng, Nhà nước khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước đến nay. Kết quả
nghiên cứu được thể hiện dưới các hình thức như: Đề tài khoa học các cấp, sách
tham khảo và chuyên khảo, luận văn, luận án, bài báo được đăng tải trên các báo
và tạp chí.v.v...
Dưới góc độ tiếp cận của khoa học kinh tế chính trị, tác giả nhận thấy,
ngoài các văn kiện, nghị quyết của Đảng về KTTN và thành phần KTTN, có rất
nhiều công trình tiêu biểu nghiên cứu về KTTN đã được công bố, liên quan đến
đề tài luận văn như sau:


7

* Các công trình tiêu biểu nghiên cứu về kinh tế tư nhân và phát triển
kinh tế tư nhân ở Việt Nam nói chung
GS.TS Vũ Đình Bách (2006), "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [2]. Trong công trình này, tác
giả đề cập đến sự cần thiết xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Đồng thời cũng phân tích làm rõ tính tất yếu, bản chất,
đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Và các điều kiện đảm bảo cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trần Thị Hạnh (1994), “Về việc phát triển khu vực KTTN ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay”, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Kinh tế, Chuyên ngành Tổ

chức và quản lý sản xuất, Trường Đại học kinh tế quốc dân [21]. Luận án đã đề
cập đến một vấn đề có ý nghĩa to lớn về lý luận cũng như về thực tiễn trong quá
trình chuyển sang một nền kinh tế thị trường ở nước ta. Tác giả luận án đã làm
sáng tỏ vị trí và vai trò của khu vực KTTN trong nền kinh tế Việt Nam; quá trình
phát triển và đặc điểm của khu vực KTTN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay;
những hạn chế về môi trường kinh doanh của khu vực KTTN ở Việt Nam; trên có
sở đó tác giả đã đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân nói
riêng và toàn nền kinh tế nói chung. Bao gồm: Tạo môi trương chính sách ổn định
là điều kiện tăng quyết cho phát triển khu vực kinh tế tư nhân; các chính sách
khuyến khích trong nước đối với hoạt động kinh doanh tư nhân; hoàn thiện hệ
thống pháp luật và các công cụ điều tiết của Chính phủ; tăng cường các biện pháp
hỗ trợ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân mới bắt đầu hoạt động.
PGS, TS Hoàng Thị Bích Loan (2009), “Về giá cả sức lao động (tiền lương,
tiền công) trên thị trường sức lao động ở Việt Nam những năm qua”, Tạp chí
Ngân Hàng, Số 5/2009 [33]. Tác giả đã chỉ ra thực trạng chính sách tiền lương
(những thành công và hạn chế trong chính sách tiền lương), tiền công ở nước ta
trong thời gian qua, cả về chính sách tiền lương tối thiểu và tiền lương tối thiểu


8

trong doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế bất cập trong chính sách tiền lương,
tiền công. Đồng thời đề ra một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền
lương, tiền công, ý nghĩa của việc phát triển thị trường SLĐ ở nước ta hiện nay.
PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai (2005),“Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến
trình hội nhập”, NXB Thế giới, Hà Nội [38]. Trên cơ sở khái quát, nêu nên
nhiều cách hiểu khác nhau về kinh tế tư nhân hiện nay ở các quốc gia trên thế
gới cũng như ở Việt Nam, tác giả đã trình bày nhận thức của mình về kinh tế tư
nhân, những cơ hội và thách thức của kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình
hội nhập. Từ đó đề xuất những giải pháp mang tính định hướng cho kinh tế tư

nhân Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.
GS. TS. Hồ Văn Vĩnh (2007), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta" Tạp chí Lý luận Chính trị 5/2007 [60].
Là một cán bộ Viện Quản lý Kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, trong bài
viết, tác giả đã nêu lên nhiều vấn đề cần quan tâm trong công tác lý luận của
Đảng có liên quan đến kinh tế tư nhân: Một là, nhận dạng và đánh giá kinh tế
tư nhân nước ta; Hai là, phát triển kinh tế tư nhân với vấn đề bóc lột và bị bóc
lột; Ba là, vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân; Bốn là, làm giàu bằng phát
triển kinh tế tư nhân và vấn đề công bằng xã hội; Năm là, về mối quan hệ giữa
Nhà nước và kinh tế tư nhân; Sáu là, kinh tế tư nhân với việc xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó khẳng định: “Tiếp tục
đổi mới tư duy, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, kịp thời
làm sáng tỏ hơn những vấn đề bức xúc về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”. “phải tạo ra sự nhất trí trong Đảng, sự thông suốt trong đảng viên và
sự đồng thuận xã hội, nhằm tạo niềm tin và sự yên tâm thực sự đối với các
nhà đầu tư tư nhân và các doanh nhân có tiềm lực bỏ vốn ra kinh doanh nhằm
mục tiêu ích nước, lợi nhà, phục vụ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.


9

Phạm Văn Sơn (2008), Phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN
và tác động của nó đến củng cố quốc phòng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sỹ
kinh tế, Học viện Chính trị, Hà Nội [45]. Tác giả đã luận giải, làm rõ tính tất yếu
tồn tại và phát triển của KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN, những tác
động của KTTN đến sự nghiệp củng cố quốc phòng, trên cơ sở đó tác giả đề xuất
những quan điểm, giải pháp phát triển KTTN trong nền KTTT định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay để phát huy những tác động tích cực, hạn chế những

tác động tiêu cực của KTTN đến sự nghiệp củng cố quốc phòng.
Ngoài ra, còn rất nhiều bài báo khoa học, đề tài nghiên cứu khoa học và luận
văn thạc sĩ nghiên cứu về kinh tế tư nhân và phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
nói chung. Như: “Kinh tế tư nhân và xu hướng phát triển của nó trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” của PGS,TS Nguyễn Đình Kháng,
đăng trên tạp chí Lý luận số 4/2002 [24]; “Mấy vấn đề lý luận từ thực tiễn phát
triển kinh tế tư nhân phi nông nghiệp” của giáo sư Đào Xuân Sâm đăng trên tạp
chí Nghiên cứu kinh tế số 292, tháng 9/2002 [44]; "Vai trò của kinh tế tư nhân đối
với quá trình phát triển kinh tế của nước ta hiện nay", của PGS.TS Phạm Ngọc
Kiểm, đăng trên tạp chí Kinh tế và phát triển số 3/2002 [25]...
Tuy có sự khác nhau về mục đích, nhiệm vụ, nội dung và phạm vi nghiên
cứu, nhưng các công trình trên đã trực tiếp hoặc gián tiếp giải quyết các vấn đề
liên quan sau:
Thứ nhất, trên cơ sở quan điểm của Đảng về KTTN và thành phần KTTN,
các tác giả đã phân tích làm rõ hơn về nội hàm khái niệm KTTN. Các công trình
nghiên cứu đã đưa ra quan niệm của mình về KTTN với những tiêu chí về quan hệ
sở hữu, hình thức tổ chức kinh tế, cơ cấu tổ chức, vai trò và xu hướng phát triển...
Thứ hai, các công trình đã khẳng định, làm rõ vị trí, vai trò của KTTN trong
sự phát triển KT-XH đất nước, trên cơ sở đó khẳng định sự cần thiết phát triển
KTTN ở Việt Nam. Các tác giả đã đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định
việc phát triển KTTN ở nước ta hiện nay là một tất yếu khách quan.


10

Về lý luận, các tác giả phân tích, luận giải quan điểm của C.Mác và
Ăngghen, V.I. Lênin và Đảng ta về đặc điểm, tính chất và tính tất yếu khách quan
của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ đi lên CNXH; về qui luật
QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX...
Về thực tiễn, thông qua phân tích đặc điểm của nền kinh tế nước ta hiện nay

cũng như thực tiễn phát triển KTTN đáp ứng yêu cầu xây dựng nền KTTN định
hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Các tác giả đã chỉ ra vai trò của KTTN
trong giải phóng, phát triển LLSX; tạo và giải quyết việc làm; khả năng huy động
các nguồn lực cho phát triển; sức sống mãnh liệt và tính năng động trong nền
KTTT; hiệu quả sử dụng vốn; động lực thúc đẩy... để khẳng định tính tất yếu
khách quan phát triển KTTN ở nước ta và ở từng địa phương.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu đều đề cập đến thực trạng phát triển
của KTTN ở Việt Nam một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào mục đích,
phạm vi nghiên cứu. Các tác giả đã phân tích, khái quát, làm rõ sự phát triển về
số lượng, qui mô, trình độ KHCN; sự gia tăng giá trị, tỉ trọng của KTTN trong
nền kinh tế; sự hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và trình độ quản lý; nâng cao năng
lực cạnh tranh và hiệu quả sử dụng vốn; tham gia thực hiện các chuỗi giá trị xã
hội như; văn hóa xã hội, xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, khuyến học...
qua đó khẳng định vai trò tích cực của KTTN trong phát triển KT-XH. Đồng thời
chỉ ra những hạn chế, yếu kém cần được khắc phục cũng như những vấn đề bức
xúc, tiêu cực cản trở đến sự phát triển của KTTN.
Thứ tư, các công trình đã đưa ra nhiều quan điểm, những luận giải về nội
dung và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy KTTN phát triển nhanh, hiệu quả
và bền vững. Trên cơ sở đánh giá thực trạng cũng như phân tích vai trò, khuyết
điểm của KTTN và các nhân tố tác động đến sự phát triển KTTN, các tác giả đã
đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển KTTN dưới dạng phương hướng, mục
tiêu phát triển hoặc quan điểm giải pháp cụ thể bao gồm: các quan điểm, giải
pháp nhằm định hướng nhận thức và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện phát


11

triển KTTN trên thực tế; xây dựng sự đồng thuận về tâm lý, thể chế xã hội; tạo
bước đột phá về cơ chế, chính sách để thúc đẩy KTTN phát triển mạnh mẽ cả
chiều rộng lẫn chiều sâu; nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý Nhà nước cũng

như vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển của KTTN... Cùng với đó là
những kiến nghị, đề xuất nhằm giải quyết những vấn đề rào cản, mâu thuẫn cụ
thể với những điều kiện hoàn cảnh nhất định để huy động và phát huy tối đa mọi
nguồn lực cho phát triển KTTN.
* Các công trình nghiên cứu lên quan đến phát triển
kinh tế tư nhân trên từng địa bàn huyện, tỉnh nói chung và
huyện Mê Linh và thành phố Hà Nội nói riêng
Nguyễn Thanh Bình (2003), Vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh
tế và củng cố quốc phòng ở địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay, Luận văn cao học
kinh tế, Học viện chính trị, Hà Nội [3]. Trong đó, tác giả đã luận giải vai trò của
kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc hiện nay; đề xuất những giải pháp khuyến khích kinh tế tư nhân phát
triển, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng của tỉnh trong
thời gian tới. Bao gồm: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của chính
quyền địa phương đối với kinh tế tư nhân; hướng sự phát triển của kinh tế tư nhân
vào thực hiện đồng thời hai mục tiêu phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng;
Tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng trong Tỉnh; Thực hiện
đồng bộ các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân trong Tỉnh.
Thái Doãn Tước (2011), Phát triển KTTN ở Nghệ An, Luận văn cao học kinh
tế, Học viện chính trị, Hà Nội [53]. Trong đó, tác giả đã Nghiên cứu, luận giải
những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển KTTN ở Nghệ An. Như: Khái niệm,
nội dung, sự cần thiết khách quan phát triển KTTN ở Nghệ An. Trên cơ sở đó, đề
xuất 3 quan điểm và 4 giải pháp để tiếp tục phát triển KTTN ở Nghệ An trong thời
gian tới. Các giải pháp bao gồm: Xây dựng môi trường và thể chế xã hội; Tập trung


12

mọi nguồn lực xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH và hệ thống thị trường

tiêu thụ sản phẩm; Đẩy mạnh cải cách hành chính, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ
chế, chính sách và tổ chức thực hiện; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Nguyễn Minh Phong (2004), Phát triển KTTN ở Hà Nội” [40]; Ngô Duy
Chính, “Chi nhánh ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Thành mở rộng cho vay
vốn thành phần KTTN”; Đề án phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Mê Linh,
Hà Nội; Đề án sơ kết bốn năm thực hiện Nghị quyết hội nghị BCHTW đảng lần
thứ 5 khoá IX về phát triển KTTN ở Mê Linh, Hà Nội... Nội dung nghiên cứu
của các công trình trên đã cung cấp cho tác giả nhiều căn cứ và số liệu khoa học
góp phần giải quyết mục đích, nhiệm vụ luận văn thuận lợi và đạt hiệu quả cao.
Tổng quan về các nội dung đó được biểu hiện trên các vấn đề cụ thể sau:
Thứ nhất, các công trình đã khái quát, chỉ ra những nhân tố tác động và
đánh giá thực trạng quá trình phát triển KTTN ở thủ đô Hà Nội và huyện Mê
Linh. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới, khu
vực, trong nước và thực tiễn đặc thù phát triển KT-XH ở thủ đô Hà Nội và huyện
Mê Linh, các tác giả đã khái quát những điều kiện thuận lợi, khó khăn, chỉ ra
những nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động đến quá trình phát triển
KTTN. Đồng thời, thông qua công tác điều tra, khảo sát, thống kê để phân tích
đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách phát triển của một
loại tổ chức KTTN, được chứng minh bằng các số liệu trong từng thời điểm,
phạm vi và lĩnh vực cụ thể của từng công trình nghiên cứu. Qua đó chỉ ra những
ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân trong phát triển các tổ chức KTTN là cơ sở
cho việc hoạch định kế hoạch, qui hoạch và ban hành các chủ trương, chính
sách, xây dựng cơ chế hoạt động... của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với
KTTN ở thủ đô Hà Nội và huyện Mê Linh.
Thứ hai, các công trình đã nêu lên những vấn đề về cơ chế, chính sách liên
quan đến phát triển KTTN ở Mê Linh. Các công trình trên đã giới thiệu, trích dẫn
những nghị quyết, chủ trương, chính sách, văn bản, hướng dẫn... của Đảng bộ,


13


chính quyền, cơ quan quản lý đối với từng loại tổ chức KTTN. Qua đó phân tích
làm rõ quyền lợi, lợi ích của các tổ chức KTTN khi tham gia vào quá trình thực
hiện nghị quyết chủ trương chính sách đó. Đồng thời chỉ ra những bất cập, xung
đột, thiếu đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật và các điều kiện bảo đảm để
triển khai thực hiện các chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển KTTN.
Thứ ba, các công trình cũng đã nêu lên nhiều kiến nghị, đề xuất quan điểm,
giải pháp phát triển KTTN ở Mê Linh. Trên cơ sở phân tích những yếu tố tác
động mang tính đặc thù của Mê Linh đến quá trình phát triển của một loại tổ
chức KTTN cụ thể như: vị trí địa kinh tế, môi trường tâm lý, thể chế xã hội,
phong tục tập quán, tiềm năng, lợi thế... các tác giả đã đề xuất quan điểm và giải
pháp nhằm phát triển KTTN theo định hướng nhanh, hiệu quả, bền vững. Đồng
thời kiến nghị với các cơ quan quản lý các cấp theo thẩm quyền tiến hành sửa
đổi, bổ sung, ban hành mới các cơ chế, chính sách, văn bản hướng dẫn, xây dựng
cơ chế hoạt động... nhằm tạo điều kiện thuận lợi về môi trường tâm lý và thể chế
xã hội cho sự tồn tại, hoạt động và phát triển của các tổ chức KTTN.
Khi nghiên cứu những vấn đề có liên quan KTTN nói chung và KTTN ở Mê
Linh nói riêng, còn nhiều khía cạnh chưa có tác giả nào đề cập đến như: xác định sự
chuyển biến về nhận thức xã hội đối với KTTN là một nội dung của phát triển
KTTN; chỉ ra đặc điểm, nội dung KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh; đánh giá thực
trạng, tìm ra nguyên nhân, mâu thuẫn của phát triển KTTN trên địa bàn huyện Mê
Linh; quan điểm và giải pháp phát triển KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh, thành
phố Hà Nội với tư cách là một TPKT. Tuy nhiên, các kiến giải trong những công
trình nêu trên rất quan trọng, cung cấp cơ sở về lý luận và thực tiễn để tác giả thực
hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu


14


Luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn về KTTN trên địa bàn huyện Mê
Linh, thành phố Hà Nội, trên cơ sở đó, đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển
KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội đến năm 2020.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về KTTN và KTTN trên địa bàn huyện
Mê Linh, thành phố Hà Nội.
- Phân tích thực trạng KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà
Nội thời gian qua nhằm chỉ ra ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển KTTN trên địa bàn huyện Mê
Linh, thành phố Hà Nội đến năm 2020.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội, dưới góc độ kinh
tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh với những
loại hình, hình thức hoạt động cơ bản của kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư
bản tư nhân trên địa bàn Huyện.
- Về thời gian: Nghiên cứu KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh trong quá
trình đổi mới, trọng tâm là giai đoạn 2008 - 2013. Các số liệu khảo sát, thống kê,
minh chứng tính từ năm 2009 đến 2013 (sau khi Hà Nội mở rộng địa giới hành
chính, tháng 8 năm 2008).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên các quan điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong những năm đổi mới về phát triển KTTN và Nghị quyết của Đảng bộ huyện
Mê Linh, Đảng bộ thành phố Hà Nội về phát triển KT-XH.



15

Tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu về phát triển kinh tế tư nhân
của các tác giả trong nước, để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của huyện Mê
Linh. Đồng thời, dựa vào các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê kinh tế của
UBND, của phòng, Cục Thống kê huyện Mê Linh và Thành phố Hà Nội đã được
công bố từ năm 2009 đến nay.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, luận văn sử dụng phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị Mác – Lênin
(trừu tượng hoá khoa học) làm phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Kết hợp với
các phương pháp khác như: lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, thống kê, so
sánh, khảo sát thực tiễn và chuyên gia để giải quyết nhiệm vụ đặt ra.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn đã làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn về KTTN
trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội, góp phần nâng cao hiệu quả quán
triệt và thực thi đường lối phát triển KTTN của Đảng trên địa bàn huyện Mê Linh
trong thời gian tới.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập môn kinh
tế chính trị ở các học viện, nhà trường trong và ngoài Quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


16

Chương 1
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MÊ LINH THÀNH PHỐ HÀ NỘI –
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM
1.1. Những vấn đề lý luận chung về kinh tế tư nhân
1.1.1. Quan niệm và bản chất của kinh tế tư nhân
* Quan niệm về kinh tế tư nhân
Trong di sản lý luận của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin
đã nghiên cứu rất sâu sắc nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về TLSX nhưng chưa
đưa ra thuật ngữ "KTTN" mà chỉ đề cập đến sở hữu tư nhân, khẳng định: sở hữu tư
nhân về TLSX là cơ sở nảy sinh và tồn tại của các hình thức kinh tế tư hữu.
Hiện nay, khái niệm KTTN còn có nhiều ý kiến chưa đồng nhất. Theo
nghĩa rộng, KTTN được sử dụng để phân biệt với kinh tế Nhà nước. Theo nghĩa
hẹp hơn, KTTN là TPKT được hình thành và phát triển dựa trên sở hữu tư nhân
về TLSX và lợi ích cá nhân.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, “KTTN là một loại hình kinh tế; dựa
trên chế độ sở hữu tư nhân về TLSX, có thể là kinh tế tự nhiên hoặc kinh tế hàng
hoá và phát triển cao trong kinh tế tư bản chủ nghĩa. Ở Việt Nam trong thời kỳ
quá độ, KTTN còn tồn tại lâu dài trong nền kinh tế nhiều thành phần, được
khuyến khích phát triển dưới sự kiểm soát của Nhà nước theo định hướng
XHCN”[52; tr.599].
Trên cơ sở chính thức thừa nhận và khẳng định phát triển KTTN là vấn đề
mang tính chiến lược trong quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở
nước ta, các Nghị quyết của Đảng trong thời kỳ đổi mới đã tiếp tục làm rõ quan
niệm của Đảng ta về KTTN, vai trò, vị trí của KTTN trong nền KTTT định hướng
XHCN và những chủ trương giải pháp tháo gỡ cơ chế, chính sách nhằm khuyến
khích KTTN phát triển. Trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX, Đảng ta nêu lên
quan niệm về KTTN với những bộ phận cấu thành, hình thức biểu hiện và phạm


17


vi hoạt động của KTTN. Đảng ta khẳng định: "KTTN bao gồm kinh tế cá thể tiểu
chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và
các loại hình DNTN đã phát triển rộng khắp trong cả nước" [10, tr. 24].
Theo đó, khái niệm KTTN được sử dụng với tư cách là một khu vực kinh tế
dựa trên sở hữu tư nhân về TLSX, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư
bản tư nhân. KTTN hoạt động dưới các hình thức tổ chức kinh doanh như: hộ kinh
doanh cá thể và các loại hình DNTN (DNTN, công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần, công ty hợp danh), ngoài ra gồm cả phần đầu tư của tư nhân vào khu
vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Phạm vi,
lĩnh vực sản xuất kinh doanh, của KTTN bao gồm những hộ gia đình, DNTN
tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh như nông nghiệp, công nghiệp,
giao thông vận tải, xây dựng, chế biến nông lâm sản, đánh bắt và chế biến thuỷ
sản, thương mại và dịch vụ du lịch... trong cả nước.
Đây là quan điểm mang tính đột phá, thể hiện sự phát triển trong tư duy lý
luận của Đảng ta về KTTN; lần đầu tiên Đảng ta đã xác định nội hàm của khái niệm
KTTN, làm cơ sở phương pháp luận tạo sự thống nhất nhận thức cũng như trong
chỉ đạo hoạt động thực tiễn của Đảng và của toàn xã hội về KTTN. Đại hội X của
Đảng đã sử dụng thuật ngữ "thành phần KTTN" để chỉ các lực lượng, bộ phận kinh
tế trong xã hội đang tồn tại dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về TLSX. Quan điểm về
“thành phần KTTN” tiếp tục được khẳng định ở Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Văn kiện Đại
hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI. Đồng thời khẳng định rõ “KTTN có vai trò
quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế” [12, tr.74].
Trên cở sở quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin và
của Đảng ta, có nhiều nghiên cứu của các học giả, các nhà lý luận tiếp tục đầu
tư phân tích làm rõ sự giống và khác biệt của KTTN ở những nền kinh tế khác
nhau, trong những chế độ chính trị khác nhau.
KTTN trong các nền kinh tế khác nhau có điểm giống và khác nhau nhất
định. Điểm giống nhau là chúng đều tồn tại và phát triển dựa trên “quy luật QHSX



18

phải phù hợp với trình độ của LLSX”. Đặc điểm này chỉ ra rằng các hình thức sở
hữu, nói rộng ra là QHSX ra đời, phát triển và tiêu vong có tính khách quan và
mang tính lịch sử, chúng tồn tại trong những điều kiện nhất định của LLSX. Tuy
nhiên, chúng khác nhau ở chỗ, KTTN trong nền KTTT dựa trên LLSX xã hội hóa,
do đó nó tồn tại và phát triển không thể tách rời các hình thức sở hữu và các TPKT
khác. Đặc điểm này đưa đến mâu thuẫn nội tại trong KTTN của KTTT, đó là mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hóa hoạt động sản xuất kinh doanh với tính chất tư
nhân hóa về chiếm hữu, mâu thuẫn này không có trong nền kinh tế tự cung tự cấp.
KTTN trong nền KTTT sẽ vận động, phát triển theo hướng xã hội hóa ngày càng
cao dưới các hình thức công ty cổ phần, công ty hợp danh. KTTN trong nền
KTTT ra đời là kết quả xóa bỏ sở hữu tư nhân, KTTN trong nền kinh tế tự cung,
tự cấp. Chỉ có KTTN trong nền KTTT mới có khả năng phát triển dẫn đến sở hữu
xã hội thông qua sự biến đổi và phát triển của LLSX.
KTTN trong các chế độ chính trị khác nhau thì bản chất có khác nhau.
Trong nền KTTT tư bản chủ nghĩa, KTTN giữ vai trò thống trị, nó phù hợp với
trình độ xã hội hóa của LLSX. Trong nền KTTT định hướng XHCN do Đảng
cộng sản lãnh đạo thì KTTN là một bộ phận trong cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần. Nó chịu tác động qua lại giữa các thành phần khác và sự định hướng của
Nhà nước do Đảng cộng sản lãnh đạo. Ở đây KTTN vẫn còn bóc lột, nhưng mức
độ bóc lột đã được điều chỉnh phù hợp với lợi ích của xã hội, vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là một bộ phận trong
nền KTTT định hướng XHCN, nó chịu sự tác động; phát triển trong khuôn khổ
chiến lược phát triển KT-XH của đất nước và theo định hướng các chính sách của
Nhà nước. KTTN của nước ta đại bộ phận mới được tái lập và xây dựng từ khi có
đường lối đổi mới của Đảng, chủ yếu từ 1990 trở lại đây. Phần lớn các doanh
nghiệp thuộc khu vực KTTN ở nước ta có quy mô vừa và nhỏ, trình độ công nghệ

còn lạc hậu, khả năng đầu tư mở rộng và đầu tư chiều sâu còn hạn chế.


19

Với những đặc điểm trên đây KTTN của nước ta không còn thuần túy là
KTTN như ở các nước tư bản mà đã có những thay đổi trong bản chất của nó. Tuy
nhiên đó không phải là thay đổi căn bản. Đồng thời những đặc điểm trên cũng cho
thấy KTTN ở nước ta mới được tái lập trở lại chưa lâu nên thời gian qua mới là
thời kỳ tích lũy nguyên thủy, nên cần tạo điều kiện để nó có thể đạt tới đỉnh cao
trong phát triển, phát huy tối đa vai trò với sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước, bắt kịp với trình độ các nước trong khu vực và trên thế giới.
Từ những phân tích trên có thể quan niệm, KTTN là một TPKT trong cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần, dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về TLSX (hoặc
vốn), với nhiều quy mô tổ chức kinh tế khác nhau tương ứng với từng cấp độ phát
triển của các hình thức sở hữu được pháp luật quy định, thừa nhận.
* Bản chất của kinh tế tư nhân:
Về quan hệ sở hữu: Quan hệ sở hữu của KTTN là quan hệ chiếm hữu tư
nhân về TLSX (hoặc vốn) cũng như phần của cải vật chất được tạo ra từ những
TLSX (hoặc vốn) đó. Đây là đặc trưng, tiêu chí cơ bản để phân biệt KTTN với
các TPKT khác. Có hai loại sở hữu tư nhân, đó là sở hữu tư nhân nhỏ và sở hữu
tư nhân lớn.
Về quan hệ quản lý. Quan hệ quản lý trong các tổ chức KTTN cũng được
chia thành hai loại phù hợp với hai cấp độ phát triển của quan hệ sở hữu đó là:
quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ và quan hệ quản lý dựa trên sở hữu
tư nhân lớn.
Chủ doanh nghiệp hoặc chủ sở hữu sản xuất kinh doanh chịu trách nhiệm
toàn bộ về hoạt động sản xuất kinh doanh và toàn quyền quyết định phương thức
phân phối lợi nhuận sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế mà không chịu sự chi
phối nào từ các quy định của cơ quan Nhà nước hoặc từ cơ quan quản lý, do vậy họ

luôn tìm mọi cách để có thể đạt được lợi nhuận cao nhất, kể cả việc trốn lậu thuế.
Về quan hệ phân phối. Đối với sở hữu tư nhân nhỏ thì quan hệ phân phối
là tự phân phối trong nội bộ tổ chức kinh tế của họ; mang tính tự nguyện dựa


20

vào thỏa thuận của các thành viên, ít bị ràng buộc bởi các quan hệ pháp lý. Còn
đối với sở hữu tư nhân lớn thì quan hệ phân phối căn cứ vào sở hữu số lượng
TLSX (hoặc vốn) và giá trị, hiệu quả sức lao động dưới sự tác động của quy
luật KTTT và những định hướng của pháp luật hiện hành.
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân
- Một là, về quy mô tổ chức kinh tế, KTTN dựa trên trình độ phát triển nhất
định của LLSX, mỗi loại hình tổ chức KTTN được tổ chức một cách phù hợp. Với sở
hữu tư nhân nhỏ thì có hình thức tổ chức KTTN chủ yếu là hộ sản xuất kinh doanh và
trang trại. Với sở hữu tư nhân lớn thì có hình thức tổ chức KTTN là các loại hình
DNTN. Nhưng nhìn chung, số lượng các cơ sở kinh doanh của KTTN rất lớn,nhưng
quy mô sản xuất kinh doanh trong các đơn vị thường nhỏ.
- Hai là, về lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, KTTN bao gồm những hộ gia
đình, DNTN tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh ở tất cả mọi lĩnh vực
của nền kinh tế như nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ, du lịch; từ
sản xuất, gia công, chế biến nông - lâm - thủy - hải sản, xây dựng, giao thông, vận
tải... (trừ an ninh quốc phòng), được trải rộng trên khắp các địa bàn trong cả nước.
Tuy nhiên các chủ doanh nghiệp hoặc chủ sở hữu sản xuất kinh doanh chủ yếu lựa
chọn, đầu tư hoạt động ở các ngành có tính năng động cao, dễ dàng chuyển hướng
kinh doanh, dễ thích nghi với hoàn cảnh và yêu cầu của nền kinh tế.
- Ba là, về loại hình tổ chức kinh doanh của KTTN rất đa dạng:
Kinh tế hộ cá thể: Loại hình hộ cá thể thực chất là KTTN có quy mô nhỏ,
là đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh, không thuê mướn lao động. Hộ cá thể
tồn tại như một tất yếu và mang tính đặc thù của nền kinh tế nhỏ lẻ, đang phát

triển ở trình độ thấp bắt nguồn từ nông nghiệp như nước ta. Loại hình hộ cá thể
đang tồn tại phổ biến ở nước ta hiện nay như các trang trại, thầu xây dựng nhỏ,
cửa hàng, xưởng sản xuất gia đình...
Kinh tế tiểu chủ: Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu
nhỏ về TLSX nhưng có thuê mướn lao động nhưng chưa thành lập doanh nghiệp


21

theo Luật Doanh nghiệp, thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của
bản thân và gia đình. Kinh tế tiểu chủ đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều
ngành, nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả
tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động.
DNTN: một loại hình doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Theo Luật doanh nghiệp, chủ DNTN là người đại diện của doanh nghiệp có toàn
quyền quyết định đối với tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, sử
dụng lợi nhuận sau khi nộp thuế và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác theo
pháp luật quy định; có thể trực tiếp hoặc giao cho người khác quản lý điều hành
hoạt động kinh doanh. Nếugiao cho người khác quản lýphải khai báo với cơ
quan đăng kí kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
DNTN có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh [42].
Công ty trách nhiệm hữu hạn: Là doanh nghiệp trong đó thành viên chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong
phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Thành viên của công ty có thể là
tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên tối thiểu là hai và tối đa không vượt quá năm
mươi người. Công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, công ty trách nhiệm hữu hạn

không được phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên phải có Hội
đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc. Công ty trách nhiệm
hữu hạn có trên mười một thành viên phải có ban kiểm soát.
Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất ở
Việt Nam hiện nay. Hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn đem lại cho nhà đầu tư nhiều lợi thế [42].


22

Công ty cổ phần: những công ty được hình thành trên cơ sở liên hợp
nhiều tư bản cá nhân bằng cách phát hành và bán cổ phiếu, lợi nhuận của công ty
được phân phối giữa các cổ đông theo số lượng cổ phần. Tuỳ theo luật pháp của
từng nước mà công ty cổ phần được tổ chức dưới các hình thức khác nhau. Ở
Anh, có hai loại công ty cổ phần: công ty công cộng và công ty riêng. Công ty
công cộng là công ty cổ phần mà cổ phiếu được phát hành rộng rãi trong công
chúng; các cổ phiếu có thể được tự do chuyển nhượng hay được mua bán trên thị
trường chứng khoán; số cổ đông sáng lập ít nhất là bảy người. Công ty riêng là
công ty mà số cổ đông bị hạn chế (không quá 50 người và cổ đông sáng lập
không dưới hai người), số cổ phiếu không được bán cho công chúng và không
được chuyển nhượng.ở Pháp, tương đương với công ty công cộng là công ty vô
danh, trong đó ban quản trị có quyền hạn rất lớn; tương đương với công ty riêng
là công ty trách nhiệm hữu hạn.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam: Công ty cổ phần là doanh nghiệp
có vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cổ đông
chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các khoản nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; Cổ đông có quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ
phần ưu đãi biểu quyết; Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối

thiểu là ba và không hạn chế tối đa.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh. Được phát hành cổ phiếu để huy động vốn [42].
- Về nhân lực: Chi phí lao động thường là điểm mấu chốt dẫn đến sự khác
nhau giữa KTTN và kinh tế Nhà nước. Hoạt động của kinh tế Nhà nước dễ bị sức
ép làm tăng chi phí lao động, nhưng có thể thoả thuận với người cấp kinh phí trả
lương còn DNTN không làm được như vậy, vì giá cả phải cạnh tranh. Đặc trưng
cho DNTN là các hoạt động lao động, cho phép sử dụng lao động linh hoạt về mặt
thời gian và tay nghề. Những người tiêu thụ sản phẩm do tư nhân sản xuất sẽ


23

không chấp nhận giá cao, do đó các xí nghiệp tư nhân phải hạ lương để giảm giá.
Còn trong kinh tế Nhà nước, đối với nhiều loại mặt hàng (nhất là mặt hàng Nhà
nước độc quyền) người tiêu dùng không có quyền lựa chọn.
- Về xu hướng phát triển: Các quan điểm đều khẳng định KTTN tồn tại
lâu dài và phát triển mạnh mẽ, là bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế nhiều
thành phần trong thời kì quá độ lên CNXH, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với
các TPKT khác trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật Nhà nước; là một trong
những động lực của nền kinh tế, đồng thời còn là phương tiện để xây dựng thành
công mô hình nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Những đặc điểm trên của KTTN có tác động rất lớn đến công tác quản lý,
định hướng phát triển, phát huy vai trò của KTTN trong phát triển KT-XH ở mỗi
địa phương cũng như trong phạm vi cả nước. Đặc biệt, do sự đa dạng về ngành
nghề, quy mô kinh doanh, địa bàn hoạt động KTTN và xu hướng đặt mục tiêu lợi
nhuận bằng mọi giá làm cho việc quản lý cũng như định hướng, phát triển
KTTN thực sự khó khăn, phức tạp.
1.2. Quan niệm, nội dung và vai trò phát triển kinh tế tư nhân trên
địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội

1.2.1. Quan niệm phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê
Linh, thành phố Hà Nội
KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh: Bao gồm các hộ kinh doanh cá thể và
các loại hình DNTN đang sản xuất, kinh doanh trên địa bàn huyện Mê Linh,
thành phố Hà Nội.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “Phát triển kinh tế là quá trình biến đổi
nền kinh tế quốc dân bằng một sự gia tăng sản xuất và nâng cao mức sống dân cư.
Đối với các nước đang phát triển thì phát triển kinh tế là quá trình đưa nền kinh tế
chậm phát triển thoát khỏi lạc hậu, đói nghèo thực hiện CNH, HĐH; là sự tăng
trưởng kinh tế gắn liền với sự thay đổi cơ cấu kinh tế, thể chế kinh tế, văn hóa, pháp
luật, thậm chí về kỹ năng quản lý, phong cách và tập tục...” [52, tr.425]. Tăng


24

trưởng kinh tế là tiền đề và điều kiện tất yếu của phát triển kinh tế, nhưng không
đồng nghĩa với phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là tăng thu nhập và sản phẩm
bình quân đầu người. phát triển kinh tế bao hàm ý nghĩa rộng hơn tăng trưởng kinh
tế, vì trong tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người chỉ là thước đo về số
lượng, chưa biểu thị được chất lượng. Về khía cạnh chất lượng, phát triển kinh tế có
ý nghĩa rộng lớn hơn tổng sản phẩm thực tế của nền kinh tế, nó bao gồm hầu như
tất cả các khía cạnh văn hoá, xã hội, chính trị. Cho nên, phát triển kinh tế không
phải chỉ là sự tăng trưởng, vì nó có những mục tiêu khác với sự tăng trưởng đơn
giản của tổng sản phẩm quốc dân. Sự phát triển là quá trình một xã hội đạt đến trình
độ thoả mãn các nhu cầu mà xã hội ấy coi là cơ bản.
Quan niệm của Đại học Kinh tế quốc dân, “Phát triển kinh tế có thể hiểu
là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một
thời kỳ nhất định. Trong đó, bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản xuất (tăng
trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế” [Trích theo 45, tr.20].
Tiến sĩ Phạm Văn Sơn đã đưa ra quan niệm về phát triển KTTN trong nền

KTTT định hướng XHCN tương đối hoàn chỉnh: “Phát triển KTTN trong nền
KTTT định hướng XHCN là sự vận động biến đổi của các hình thức tổ chức sản
xuất, kinh doanh dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về TLSX dưới tác động của các
qui luật KTTT và sự định hướng, dẫn dắt của nhà nước XHCN, thể hiện ở sự gia
tăng về số lượng, qui mô cùng với sự dịch chuyển về cơ cấu, trình độ sản xuất,
kinh doanh theo hướng tiến bộ, hiệu quả... nhằm góp phần hiện thực hóa mục tiêu
KT-XH trong thời kỳ quá độ” [45, tr.23].
Các quan niệm trên, mặc dù trình bày, diễn đạt bằng các ngôn từ và phạm vi
đề cập khác nhau nhưng cùng phản ánh sự vận động của các bộ phận, lực lượng cấu
thành nền kinh tế, TPKT, khu vực kinh tế... theo chiều hướng tiến bộ, hiệu quả ngày
càng cao; đồng thời, xem xét phát triển KTTN trong mối quan hệ mật thiết, hữu cơ
với phát triển KT-XH nói chung.
Từ các quan niệm trên có thể khái quát phát triển KTTN trên những những
nội dung cơ bản sau:


25

Thứ nhất, phát triển KTTN phản ánh sự biến đổi về mặt định lượng như: sự
tăng lên về số lượng, quy mô, chất lượng các loại hình tổ chức KTTN; tăng lên
lượng vốn và lao động được huy động và sử dụng; hiệu quả sản xuất kinh doanh
tăng; đồng thời là tăng lên về tỉ lệ đóng góp trong cơ cấu giá trị của nền kinh tế...
Tất cả được biểu hiện bằng con số thống kê của các cơ quan chức năng tại những
thời điểm cụ thể, nhất định.
Thứ hai, phát triển KTTN phản ánh sự biến đổi về mặt định tính, được biểu
hiện thông qua các tiêu chí đánh giá như: trình độ sử dụng KHCN, lao động; năng
lực cạnh tranh; trình độ năng lực quản lý, tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh;
vai trò trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao đời sống dân cư; tham gia
vào thực hiện các chuỗi giá trị xã hội… của các tổ chức KTTN. Những tiêu chí
này được biểu hiện ra thành những số liệu thống kê mang tính tương đối và bằng

sự cảm nhận, đánh giá của yếu tố tâm lý xã hội.
Thứ ba, phát triển KTTN suy đến cùng là phát triển LLSX, đồng thời là
phương tiện để thực hiện mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế KT-XH. Điều đó
được biểu hiện ở việc huy động, khai thác và sử dụng có hiểu quả các nguồn lực
vào phát triển kinh tế nhằm tạo ra sự chuyển biến tích cực về cơ cấu KT-XH, nâng
cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân... nên phát triển KTTN là vấn đề
chiến lược, lâu dài trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.
Thứ tư, phát triển KTTN chịu sự chi phối, tác động của nhiều yếu tố, trong
đó hệ thống quy luật KTTT và vai trò quản lý, định hướng của Nhà nước XHCN là
quan trọng nhất quyết định đến quy mô, tốc độ, chất lượng phát triển của KTTN.
Từ quan niệm của mình về KTTN và những luận giải về phát triển KTTN ở
trên, tác giả đưa ra quan niệm: Phát triển KTTN trên địa bàn huyện Mê Linh, thành
phố Hà Nội là hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của các chủ thể nhằm tạo ra
sự sự gia tăng về số lượng, chất lượng và cơ cấu tổ chức của các hình thức tổ chức
KTTN trên địa bàn Huyện, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát
triển KT-XH của huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội và đất nước.


×