Tải bản đầy đủ (.docx) (264 trang)

Nghị luận xã hội dành cho trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 264 trang )

Nghị luận xã hội
Đề 1:Tình thương là hạnh phúc của con người
1. Mở bài
- Trong cuộc sống, ai cũng từng nói hoặc từng nghe 2 tiếng tình thương. Song có một thực tế khó phủ nhận
không phải ai cũng thấu hiểu sâu sắc hai chữ rất đỗi giản dị mà vô cùng thiêng liêng ấy.
- Quan niệm “Tình thương là hạnh phúc của con người” có thể được xem là một cách hiểu đáng tin cậy.
2. Thân bài
a) Giải thích ý kiến
- Giải thích từ ngữ:
+ Tình thương là một khái niệm chỉ một phẩm chất tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn của con người. Đó là tình cảm
thương yêu, chia sẻ và đùm bọc một cách thắm thiết.
+ Hạnh phúc là khái niệm chỉ trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt ý nguyện.
- Nội dung câu nói: “Tình thương là hạnh phúc của con người” là cách nói định nghĩa về tình thương: tình cảm
yêu thương, chia sẻ, đùm bọc thắm thiết của con người sẽ đem đến cho con người niềm sung sướng vì cảm
thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện. Thực chất đấy là cách diễn đạt cô đọng về ý nghĩa, tác dụng của tình thương
đối với đời sống con người.
b) Bàn luận
(1) Biểu hiện của tình thương trong cs
- Tình thương giữa những người có quan hệ ruột thịt, thân thích:
+ Tình yêu thương, sự chăm sóc, sự hi sinh… tự nhiên, tự nguyện của ông bà, cha mẹ dành cho con cháu.
+ Sự nhường nhịn, giúp đỡ giữa anh chị em…
+ Sự đùm bọc, cưu mang… giữa những người họ hàng.
+ Sự kính trọng, biết ơn, thái độ quan tâm phụng dưỡng…của con cháu đối với ông bà cha mẹ.
Tình yêu thương là liều thuốc an thần để con người thêm nghị lực vươn lên trong cuộc sống
- Tình thương yêu dành cho đồng bào, đồng loại:
+ Thái độ đồng cảm, xót thương chân thành, sâu sắc dành cho những con người có số phận đau khổ, bất hạnh:
những đứa trẻ mồ côi, những người già cô đơn, những người bị hắt hủi, những người tật nguyền, người sống
trong nghèo khó, người mang căn bệnh hiểm nghèo…
+ Thái độ quan tâm, hành động sẵn sàng chia sẻ vật chất cho những người sống khó khăn, thiếu thốn, cần sự
giúp đỡ ở quanh mình: ủng hộ tiền, đồ dùng sinh hoạt, tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện do các cấp, các
nghành phát động như hiến máu nhân đạo, phong trào tình nguyện, nhịp cầu trái tim, nối vòng tay lớn, chăm sóc


trẻ em khuyết tật, trẻ em mồ côi trong làng SOS…
+ Tích cực lên án, đấu tranh chống lại những thế lực đày đoạ, bóc lột, ngược đãi con người.
(2) Ý nghĩa, tác dụng của tình thương trong cuộc sống
- Tình thương yêu sẽ là ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn những con người cô đơn, đau khổ, bất hạnh, truyền cho họ
sức mạnh, nghị lực để vượt lên hoàn cảnh cô đơn, đau khổ, bất hạnh ấy.
- Tình thương tạo sức mạnh cảm hoá kì diệu đối với những người “lầm đường lạc lối”, thậm chí cả kẻ thù.
- Được sống trong tình yêu thương là niềm hạnh phúc lớn để con người trở nên lương thiện: những đứa trẻ
được nuôi dưỡng, lớn lên trong tình yêu thương sẽ có tâm hồn nhạy cảm với những buồn vui, biết yêu thương
quan tâm đến người khác ở quanh mình. Trái lại, những đứa trẻ bị đối xử thô bạo, bị hắt hủi, bị ruồng bỏ sẽ là
bất hạnh khôn cùng…
Con người luôn hạnh phúc khi được yêu thương
- Con người hạnh phúc vì được sống khi bị cái chết rình rập, được ăn khi đang đói, được đầy đủ khi đang nghèo
khó, được hi vọng khi đang tuyệt vọng, được thành công sau thất bại… nhưng niềm hạnh phúc lớn lao nhất vẫn
là được sống trong tình thương.
(3) Mở rộng, phản đề
- Không chỉ người được nhận tình thương mới hạnh phúc mà cả người trao gửi tình thương cũng được hạnh
phúc vì hạnh phúc không phải chỉ là “nhận” mà còn là “cho”.


- Phê phán những người trong xã hội sống thiếu tình thương, vô cảm, dửng dưng trước nỗi đau chung của đồng
loại; những kẻ ích kỉ, chỉ biết lo cho cuộc sống của bản thân mình mà không quan tâm đến bất cứ ai.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Câu nói đã khẳng định vai trò của tình thương trong cuộc sống con người.
- Chúng ta hãy nâng niu hạnh phúc gia đình; hãy sống yêu thương, biết sẻ chia, đồng cảm với những cảnh ngộ
trong cuộc đời.
3. Kết bài
- Trên thế gian này không có vị thần nào đẹp hơn thần mặt trời, không có ngọn lửa nào đẹp hơn ngọn lửa yêu
thương. Vì thế, hãy mở rộng lòng mình, dang rộng cánh tay để đón nhận và cho đi điều tuyệt vời nhất của tình
người, đó là tình yêu thương.
Đề 2: Phân tích và làm sáng tỏ ý nghĩa của câu nói: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà

khó vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học).
1. Mở bài
- Có rất nhiều yếu tố giúp con người thành công trong cuộc sống. Người xưa thì khái quát thành “Thiên thời, địa
lợi, nhân hoà”. Người nay lại khẳng định lí tưởng cao đẹp, phương pháp đúng đắn, hiểu biết sâu sắc, bản lĩnh
sáng tạo…
- Song có lẽ, không ai phủ nhận vai trò của ý chí, nghị lực. Câu nói của Nguyễn Bá Học “Đường đi khó không
khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông ” góp thêm một tiếng nói đáng tin cậy về vai trò
của ý chí, nghị lực.
2. Thân bài
a) Giải thích ý kiến
- Giải thích từ, hình ảnh:
+ “ngăn sông cách núi” là một hình ảnh vừa mang ý nghĩa cụ thể chỉ những không gian địa lí hiểm trở, vừa chứa
ý nghĩa khái quát về những chướng ngại, thử thách, khó khăn khách quan
+ “lòng người ngại núi e sông”: diễn tả những chướng ngại, thử thách, khó khăn thuộc chủ quan – bản thân con
người chưa thông suốt về tư tưởng, không có ý chí, quyết tâm, nhụt chí, nản lòng.
+ “đường đi” không chỉ có ý nghĩa cụ thể mà còn là cách nói khái quát về công việc, sự nghiệp:
- Nội dung câu nói: Câu nói muốn khẳng định và nhấn mạnh yếu tố tinh thần, tư tưởng của con người đối với
công việc. Một khi tư tưởng thông suốt, tinh thần vững vàng thì sẽ có quyết tâm cao, có ý chí mạnh mẽ để vượt
qua được khó khăn, thử thách.
b) Bàn luận
(1) Vai trò của ý chí, nghị lực:
- Con đường đời luôn ẩn chứa nhiều chông gai thử thách. Bởi vậy, khi thực hiện một công việc, xây dựng một sự
nghiệp, nếu bản thân con người chưa thông suốt về tư tưởng, không có ý chí, quyết tâm, nhụt chí, nản lòng… thì
khó có thể vượt qua những thử thách dù lớn hay nhỏ.
- Vượt qua khó khăn thử thách của đường đời đã khó, vượt qua sự ngại khó ngại khổ của bản thân còn khó
hơn. Vì thế, con người cần nhận thức đúng, sâu sắc tư tưởng để có tinh thần vững vàng. Ý chí, nghị lực, quyết
tâm chính là sức mạnh tinh thần để con người bắt tay thực hiện công việc nhanh chóng và hiệu quả. Khi ấy, dù
đối mặt với những thử thách bất ngờ, tưởng như quá khả năng, con người vẫn sẽ có cách để khắc phục, chiến
thắng.
(2) Biểu hiện của ý chí, nghị lực trong đời sống và trong văn học

- Trong đời sống:
+ Nhờ có ý chí, quyết tâm cao độ, Bác Hồ kính yêu mới vượt qua bao khó khăn, thử thách trên hành trình bôn ba
suốt ba mươi năm tìm đường cứu nước. Chính Bác cũng đã khẳng định vai trò to lớn của ý chí, nghị lực:
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên
+ Trong lịch sử giữ nước, dân tộc ta, nếu không có quyết tâm cao, ý chí sắt đá giành độc lập, mang nặng tâm lí
“nước nhược tiểu”, sẽ không thể có nguồn sức mạnh tinh thần vô địch để đứng vững và chiến thắng các thế lực


ngoại xâm hung bạo, hùng hậu, hung hãn (cuộc chiến đấu chống Mông Nguyên, cuộc đấu tranh vệ quốc chống
Pháp và giải phóng đánh Mĩ…).
+ Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, bằng sức mạnh của tinh thần, chúng ta đã vượt lên nhiều thử thách để
bảo vệ thành quả dựng nước của cha ông ta, làm cho tổ quốc Việt Nam ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn,
có thể sáng vai với bạn bè quốc tế…
+ Các nhà khoa học đã nghiên cứu kiên trì, bền bỉ…để có được những phát minh, công trình khoa học giúp ích
cho con người.
- Trong văn học nghệ thuật:
+ Có nhiều nhà văn bằng ý chí, nghị lực phi thường đã vượt lên hoàn cảnh, cs nghèo khổ, xh xấu xa để trở
thành những nhà văn lớn được kính trọng về nhân cách và tài năng (Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình
Chiểu, Gorki, Solokhop, Victor Hugo, Moda…)
+ Có rất nhiều tác phẩm ca ngợi, khẳng định sức mạnh kì diệu của ý chí, nghị lực con người (anh thanh niên
trong Lặng lẽ Sa Pa, tổ nữ trinh sát mặt đường trong Những ngôi sao xa xôi, những người lính trong thơ ca
kháng chiến Đồng chí, Tây Tiến, Bài thơ về tiểu đội xe không kính…
(3)Mở rộng, phản đề
- Câu nói trên đề cao tinh thần vượt khó chứ không khuyên con người đạt được mục tiêu bằng mọi giá.
- Phê phán những người vừa gặp khó khăn đã nản chí, vừa gặp thất bại đã buông xuôi, chưa làm được việc mà
đã tưởng tưởng ra những khó khăn, nguy hiểm…
c) Bài học nhận thức và hành động

- Câu nói đã khẳng định được vai trò quan trọng của ý chí, nghị lực đối với việc vượt qua khó khăn thử thách
trên đường đời của mỗi người.
- Mỗi chúng ta cần rèn luyện ý chí, nghị lực để sẵn sàng đối diện với những khó khăn thử thách.
3. Kết bài
- Như vậy, trên đường đời đầy gian nan thử thách, mỗi người phải có nghị lực sống để vượt qua tất cả, “nghị lực
sống sẽ mở ra cho chúng ta những con đường đi đến thành công!”.
Đề 3: Hãy phát biểu ý kiến của mình về mục đích học tập do UNESCO đề xướng Học để biết, học để làm,
học để chung sống, học để tự khẳng định mình.
1. Mở bài
- Con người khi sinh ra đến lúc từ giã cuộc đời, ai cũng phải trải qua việc học nhưng không phải ai cũng có ý
thức xác định mục đích của việc học, và không phải ai cũng xác định đúng đắn mục đích học tập.
- Mỗi xã hội, mỗi thời đại, mỗi con người có mục đích học tập không giống nhau. Tổ chức UNESCO đã đề
xướng “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình” nhằm xác định mục đích học
tập có tính toàn cầu. Đó là học để tiếp thu kiến thức, biết vận dụng vào đời sống, nhằm tự khẳng định mình.
2. Thân bài
a) Giải thích, bàn luận từng nội dung của ý kiến
(1) Học để biết
- Giải thích:
+ Học là quá trình tiếp thu tri thức từ sách vở, trường học; từ thực tế cuộc sống trường đời…
+ Học để biết là mục đích đầu tiên của việc học. “Biết” là tiếp thu, mở mang, có thêm kiến thức về đời sống tự
nhiên, xã hội, con người. Con người từ chưa biết đến biết hết, từ biết ít đến biết nhiều, từ biết sơ sài đến biết
sâu sắc, từ chỗ biết một lĩnh vực mà có thể hiểu biết về nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau…
- Bàn luận:
+ Nhờ học, con người có được những hiểu biết phong phú, đa dạng về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tự làm
giàu kho tri thức khoa học của mình trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và nhân văn; tạo được vốn sống sâu sắc.
+ Điều có ý nghĩa quan trọng hơn là qua những tri thức đó, con người có khả năng hiểu biết về bản chất con
người và tự nhận thức về bản thân. Nói cách khác, nhờ học, con người có thể biết người biết mình…
(2) Học để làm
- Giải thích:
+ Là mục đích tiếp theo của việc học theo đề xướng của UNESCO. Làm là vận dụng kiến thức, hiểu biết có

được vào thực tế cuộc sống. Đây là nội dung thể hiện mục đích thiết thực nhất của việc học - học đi đôi với
hành.


+ Làm trước hết để tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần cụ thể phục vụ nhu cầu sống của bản thân và góp
phần tạo ra của cải cho xã hội.
- Bàn luận: Học mà không làm thì kiến thức có được không tạo nên những giá trị vật chất, tinh thần mới cho bản
thân và cho xã hội, không bền vững, không được sàng lọc.
(3) Học để chung sống
- Giải thích: Là một trong những mục đích quan trọng nhất của việc học. Chung sống là khả năng hoà nhập xã
hội, kĩ năng giao tiếp, ứng xử.. để tự thích nghi với mọi môi trường sống, các quan hệ phức tạp xã hội của con
người trong quá trình sống. Đây là hệ quả tất yếu của việc biết, làm.
- Bàn luận: Bởi lẽ, con người là tổng hoà của những mối quan hệ xã hội. Bản chất, giá trị, nhân cách con người
được hình thành, nuôi dưỡng, khẳng định, thử thách trong các mối quan hệ đó.
(4) Học để tự khẳng định mình
- Giải thích:
+ Là mục đích sau cùng của việc học trong đề xướng của UNESCO. Tự khẳng định mình là tạo lập được vị trí,
chỗ đứng vững vàng trong xã hội, thể hiện sự tồn tại có ý nghĩa của cá nhân mình trong cuộc đời. Mỗi con người
chỉ có thể khẳng định mình khi có hiểu biết, có năng lực hành động, có khả năng chung sống.
- Bàn luận: Từ việc học, mỗi con người sẽ có cơ hội khẳng định tri thức mình tích luỹ được: khẳng định khả năng
lao động, sáng tạo; khẳng định nhân cách, phẩm chất…
b) Bình luận, mở rộng
- Mục đích học tập này đã thực sự đáp ứng, hoàn toàn phù hợp với yêu cầu đào tạo, giáo dục con người trong
thời đại ngày nay. Đây là mục đích học tập không phải chỉ dành riêng cho đối tượng HS SV mà còn dành cho tất
cả những ai là người học. Vì thế, có thể coi đây là mục đích học tập chung, có tình chất toàn cầu.
- Từ mục đích học tập đúng đắn này, mỗi người học thấy rõ những sai lầm trong nhận thức về việc học: học
không có mục đích; coi việc học là thực hiện nghĩa vụ nặng nề với người khác chứ không phải vì mình; học vì
bằng cấp; học vì thành tích; học mà không có khả năng làm, không biết chung sống, không thể khẳng định mình.
VD: Học sinh THPT không biết viết đơn xin nghỉ học đúng quy cách; kĩ sư giỏi được đào tạo bài bản mà không
chế tạo được những công cụ trong sản xuất nông nghiệp; có bằng cấp học vị nhưng cách ứng xử thì vụng về, lối

sống lại thiếu văn hóa…
+ Mục đích học tập giúp con người, xã hội điều chỉnh được nhận thức về thời gian học: không chỉ học ở một giai
đoạn mà còn phải học suốt đời; nơi học: không chỉ ở nhà trường mà ngoài xã hội; Cần điều chỉnh quan niệm về
người dạy: không chỉ là người truyền dạy tri thức mà còn dạy làm người, không chỉ là thầy giáo mà còn là tất cả
xã hội.
+ Mục đích học tập này còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giúp người học xác định mình cần học
những gì (nội dung thiết thực) và phải học như thế nào (lựa chọn phương pháp, cách thức học phù hợp, hiệu
quả).
c) Bài học nhận thức và hành động
- Nội dung đề xướng về mục đích học tập của UNESCO thật sự đúng đắn, toàn diện, đầy đủ.
- Mỗi chúng ta cần xác định đúng mục tiêu của việc học, cần tìm được phương pháp học tập phù hợp và hiệu
quả nhất để nâng cao chất lượng học tập, nhằm rút ngắn con đường chinh phục ước mơ, mục đích của mình.
3. Kết bài
- Lê-nin từng nói “Học, học nữa, học mãi”. Hãy không ngừng học tập, không ngừng mở mang tri thức, nâng cao
trí tuệ của bản thân. Hãy để học tập không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là niềm yêu thích của mỗi người.
Đề 4: Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh với con người cũng quan trọng và cần thiết như ca ngợi lòng vị
tha, tình đoàn kết.
1. Mở bài
- Trong cuộc sống, nhiều khi người ta chỉ nghĩ đến việc ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết mà ít chú ý phê phán
thái độ thờ ơ, lạnh nhạt với con người. Hai vấn đề ấy rất chặt chẽ với nhau, quan trọng và cần thiết như nhau.
- Ý kiến: “Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh với con người cũng quan trọng và cần thiết như ca ngợi lòng vị tha,
tình đoàn kết” thật sâu sắc và đúng đắn.
2. Thân bài
a) Giải thích vấn đề
- Lòng vị tha, tình đoàn kết:


+ Lòng vị tha: là tấm lòng biết vì người khác, vì lợi ích chung của cộng đồng hay xã hội;
+ Tình đoàn kết: là tình cảm làm cho nhiều người liên hợp với nhau tạo thành một khối nhất trí, gắn bó trên cơ
sở một lợi ích chung nào đó.

à Lòng vị tha và tình đoàn kết là những tình cảm cao đẹp của con người. Lòng vị tha và tình đoàn kết được thể
hiện thường xuyên là cơ sở hình thành lối sống nhân ái, hoà hợp – một trong những lối sống đẹp nên thường
được ca ngợi, biểu dương, trân trọng.
- Thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh với con người: là thái độ không quan tâm tới, không có chút tình cảm gì đối với con
người và cuộc sống; không có biểu hiện tình cmả thân mật, gần gũi trong giao tiếp, ứng xử giữa con người với
con người.
à Thờ ơ, lạnh nhạt là dấu hiệu của thái độ sống ích kỉ, nhỏ nhen, tầm thường ở con người. Thái độ thờ ơ, lạnh
nhạt với con người nếu thành thói quen sẽ hình thành lối sống vô tâm, tàn nhẫn, tầm thường – một trong những
lối sống xấu xa khiến con người dễ trở thành kẻ tha hoá, tàn bạo, mang thú tính, do đó cần phải phê phán, lên
án mạnh mẽ.
b) Bàn luận
(1) Ý nghĩa, tác dụng:
- Trong xã hội cũng như trong mỗi con người đều tồn tại cả hai thái độ sống thờ ơ, lạnh nhạt, và vị tha, đoàn kết.
Phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt với con người, ca ngợi lòng vị tha và tình đoàn kết thực chất là hai mặt của
một vấn đề, chúng liên quan rất chặt chẽ với nhau, đều chung mục đích xây dựng lối sống đúng đắn và cao đẹp
cho con người, tạo dựng một môi trường sống tốt đẹp vì con người:
+ Ca ngợi lòng vị tha và tình đoàn kết là để khẳng định một lối sống đẹp nhằm khuyến khích những con người
có lối sống đúng đắn ấy tiếp tục thể hiện và phát huy trong mọi mối quan hệ giao tiếp; mặt khác cũng góp phần
làm cho con người khác có thể học tập, phấn đấu noi theo. Như thế sẽ làm cho mối quan hệ giữa con người với
con người trở nên tốt đẹp hơn, góp phần tạo dựng một môi trường xã hội lành mạnh, nhân ái, hoà hợp.
+ Phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt với con người là cách bộc lộ thái độ không đồng tình, bất bình trước một lối
sống xấu xa, nhằm cảnh tỉnh những người đang có lối sống sai lạc đó; giúp họ thay đổi, điều chỉnh dần để
hướng đến một cách sống đúng đắn, đẹp đẽ hơn như biết sống nhân ái, đoàn kết với mọi người…; phê phán
thái độ thờ ơ, lạnh nhạt với con người cũng là cách nhằm hạn chế, ngăn chặn những biểu hiện khác của lối sống
sai trái như giả dối, tham lam, tàn bạo… góp phần tạo dựng một môi trường xã hội lành mạnh, nhân ái, hoà hợp.
(2) Biểu hiện
- Trong cuộc sống: Việc phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt với con người được thể hiện dưới nhiều hình thức gắn
với những biểu hiện phong phú, đa dạng nhiều khi khó nhận ra của thái độ thờ ơ, lạnh nhạt với con người.
+ Nhắc nhở, khuyên nhủ khi thấy ai đó chưa biết quan tâm, cảm thông, chia sẻ những khó khăn, vất vả, gánh
nặng… của người thân hoặc có những lời nói, việc làm, ứng xử khiến người thân lo, buồn, khổ tâm…

+ Tỏ thái độ không đồng tình với một người vô tâm chạm vào nỗi đau, nỗi bất hạnh… của một ai đó.
+ Bất bình khi một ai đó dửng dưng, giễu cợt, cười nhạo người tàn tật, kẻ ăn mày, nghèo khổ, gặp tai hoạ bất
ngờ; thậm chí còn tỏ ra hả hê khi thầy người mình không ưa, không thích thất bại, mất mát hay tức tối, ghen tị
khi thấy người khác thành công.
+ Lên án người đã xúc phạm nặng nề danh dự, nhân phẩm, nhân cách con người vì những mục đích đen tối,
xấu xa.
+ Kiên quyết đấu tranh để gạt bỏ lối sống thờ ơ, lạnh nhạt.
- Trong văn học: Văn học sinh ra và tồn tại được trong cuộc đời là để thực thi sứ mệnh cao cả trở thành “thứ khí
giới thanh cao và đắc lực… để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người
được thêm trong sạch và phong phú hơn” (Thạch Lam). Vì vậy, trong văn học, cùng với việc ngợi ca lòng vị tha
và tình đoàn kết, nhà văn còn thể hiện nhiệt tình phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt với con người:
+ Lỗ Tấn một lần đi xem phim thấy những người Trung Quốc hăm hở đi xem người Nhật chém một người Trung
Quốc làm gián điệp cho quân Nga đã giật mình: Chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần
cho quốc dân. Và thế là ông chuyển từ nghề thuốc sang làm văn nghệ. Thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh chính là một
trong những biểu hiện của “quốc dân tính” mà ông phê phán.
+ Trong các sáng tác dân gian: Mẹ con Cám thờ ơ lạnh nhạt với nỗi khổ, những nhu cầu sống, ước mơ chính
đáng của Tấm, trở thành kẻ tàn nhẫn, độc ác nên đã bị tác giả dân gian trừng trị đích đáng…
+ Trong các tác phẩm văn học viết: Tắt đèn – Ngô Tất Tố; Số đỏ – Vũ Trọng Phụng; Chí Phèo – Nam Cao…
(3) Mở rộng, phản đề:


- Cách thức phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt với con người cũng rất cần thiết và quan trọng: Phê phán trung
thực, thẳng thắn nhưng cũng cần khéo léo, tế nhị. Để sự phê phán có tác dụng tích cực, phải luôn xuất phát từ
thái độ thiện chí với tinh thần xây dựng. Tránh lối phê phán nhằm bêu riếu, hạ thấp, xúc phạm.
- Trong cuộc sống hiện nay, khi mà tư tưởng tôn trọng cá nhân đang được đề cao, trong chừng mực nào đó,
người ta hay dựa vào tư tưởng này để ngụy biện cho thái độ thờ ơ, lạnh nhạt với con người. Cũng có biểu hiện
ngộ nhận thái độ thờ ơ, lạnh nhạt với con người là tôn trọng tự do cá nhân, là không can thiệp vào cuộc sống
của nhau. Thực ra đó là cách sống “Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại” mà cha ông ta từng phê phán.
- Đôi khi cũng có hiện tượng con người vin vào lí do bận bịu công việc mưu sinh, lập nghiệp, theo đuổi lí tưởng
riêng mà vô tình trở thành kẻ thờ ơ với cha mẹ, vợ con, anh em, hàng xóm… Bởi vậy, việc ca ngợi lòng vị tha và

tình đoàn kết luôn đồng hành với việc phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt với con người.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt với con người, ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết thực chất là hai mặt của một
vấn đề, chúng liên quan rất chặt chẽ với nhau, đều chung mục đích xây dựng lối sống đúng đắn và cao đẹp cho
con người, tạo dựng một môi trường sống tốt đẹp vì con người.
- Luôn biết nhận ra, biết xấu hổ với những biểu hiện sống thờ ơ, lạnh nhạt của chính mình với niềm vui sướng,
nỗi buồn đau hay thành công thất bại của người sống quan mình. Từ đó, nghiêm khắc phê phán bản thân , quyết
tâm khắc phục, từ bỏ thái độ sống như thế.
3. Kết bài
- Làm điều xấu tất nhiên là không tốt nhưng thấy cái xấu mà không lên án thì cũng chẳng phải là tốt. Vì thế, phê
phán thái độ ghẻ lạnh, thờ ơ là đúng, là cần thiết trong thế giới nhân ái, nhân văn.
- Ý kiến đúng đắn đã giúp mỗi người khắc phục được cách ứng xử có tính chất cực đoan trước những vấn đề
đạo đức, nhân sinh đang nảy sinh trong đời sống.
Đề 5: “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”. Ý kiến trên của nhà văn Pháp M. Xi-xê-rông
gợi cho anh (chị) những suy nghĩ gì về việc tu dưỡng và học tập của bản thân.
1. Mở bài:
- Người ta thường nói rằng:
Ý nghĩ là nụ
Lời nói là bông hoa
Việc làm mới là quả ngọt
Những câu thơ muốn nói với chúng ta rằng: khi ta có ý nghĩ về một việc làm tốt, khi ta nói ra điều đó, ta cần phải
thực hiện, biến ý nghĩ, lời nói thành việc làm cụ thể, như vậy mới tạo thành “quả ngọt”.
- Nhà văn Pháp M.Xi-xê-rông cũng từng khẳng định: “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”.
2. Thân bài:
a) Giải thích:
- Đức hạnh là những phẩm chất đạo đức, trí tuệ, tâm hồn và tình cảm của con người. Đức hạnh là cội nguồn tạo
ra hành động.
- Hành động là biểu hiện cụ thể của đức hạnh, được thể hiện ra qua những việc làm cụ thể, thiết thực, qua mối
quan hệ giữa cá nhân với tập thể, xã hội…
- Nội dung câu nói: Câu nói khẳng định sự thống nhất giữa những nét đẹp lí tưởng trong nhân cách và hành

động thực tiễn của con người.
b) Bàn luận
(1) Biểu hiện: Để đánh giá đức hạnh của người khác nhất thiết phải thông qua hành động:
- Những hành động cao đẹp: Beetoven từng nói: “Trong cuộc sống, không có cái gì cao quý và tốt đẹp hơn là
đem hạnh phúc cho người khác”. Câu nói ca ngợi quan niệm sống cống hiến, vị tha. Và có những người quan
niệm cống hiến, trao tặng là hạnh phúc. Đối với họ, cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi con người biết hi sinh cho hạnh
phúc nhân loại, biết đem lại hạnh phúc cho người khác.
+ Đó là sự hi sinh của các chiến sĩ cách mạng để đem lại hạnh phúc, hòa bình cho chúng ta, cho dân tộc.
+ Đó là một hành động nhỏ như giúp đỡ một cụ già qua đường, nhường ghế cho phụ nữ có thai… cho đến
những việc làm thiện nguyện để cứu giúp những số phận bất hạnh gặp phải tai ương trong cuộc đời.
- Những hành động chưa đẹp: Có không ít người coi sự thỏa mãn vật chất, tình cảm của riêng mình là hạnh
phúc. Những người chỉ làm việc khi đem lại lợi ích cho bản thân họ.


+ Những người chồng vũ phu đánh đập vợ con tàn bạo, những đứa con bất hiếu chỉ biết ăn chơi để thỏa mãn
nhu cầu cá nhân.
+ Có những thanh thiếu niên thay vì chăm lo học tập, tìm kiếm việc làm để gây dựng sự nghiệp cho bản thân thì
lại sa vào ăn chơi hưởng lạc, khi thiếu thốn tiền bạc, họ bất chấp thủ đoạn để đạt được mục đích của mình:
cướp giật, móc túi, lừa gạt người khác…
(2) Ý nghĩa, tác dụng
- Những hành động cao đẹp của con người không chỉ thể hiện đức hạnh, phẩm giá của họ mà họ còn mang lại
hạnh phúc cho người khác, làm cho mọi người vui vẻ. Hơn thế là chính họ cũng cảm nhận được niềm hạnh
phúc. Một xã hội mà con người có những hành động đẹp với nhau là một xã hội văn minh, hòa bình, hạnh phúc.
- Ngược lại, những hành động ích kỉ, độc ác, vô tâm sẽ bị cả xã hội lên án, phê phán. Họ chỉ đem lại bất hạnh
cho người khác, gây ra những tệ nạn cho xã hội, làm mất đi niềm tin của con người vào tình người.
(3) Mở rộng, phản đề:
- Hành động thể hiện đức hạnh của con người. Tuy nhiên, cần xem xét trong từng hoàn cảnh để có cái nhìn
khách quan và đúng đắn. Nói dối được xem là một hành động xấu và sai. Nhưng vẫn có những trường hợp nói
dối là cần thiết, nói dối là xuất phát từ thiện chí của người nói với người nghe chứ không phải là ác ý. Những lời
nói dối như thế vẫn được đánh giá là một hành động cao cả.

- Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại rất nhiều những kẻ thiếu đức hạnh. Những người nói ra những điều cao cả nhưng
hành động thì ngược lại; những kẻ có hành động sống vị kỉ, chỉ nghĩ cho riêng mình; những kẻ có những hành
động cử chỉ đẹp nhưng không hề có những đức tính tốt đẹp.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Đây là một quan điểm đúng đắn, khẳng định được sự thống nhất giữa những nét đẹp lí tưởng trong nhân cách
và hành động thực tiễn của con người.
- Mỗi chúng ta cần chăm lo học tập, tu dưỡng đạo đức; có lí tưởng sống và hành động cao đẹp; dám nhìn thẳng
vào khuyết điểm của bản thân để sửa chữa, khắc phục; có tinh thần cầu tiến… để thể hiện phẩm chất và đức
hạnh của bản thân.
Trên thực tế, anh (chị) đã thực hiện được điều gì, gặp khó khăn gì khi biến suy nghĩ thành việc làm? Anh (chị)
thấy điều gì là trở ngại lớn nhất khi biến suy nghĩ thành hành động? Tại sao?
3. Kết bài
- Nhà thơ Tố Hữu từng viết: “Người với người sống để yêu nhau”. Vậy, hãy biến tình yêu đó thành hành động.
Hãy yêu thương nhiều hơn, hãy chia sẻ nhiều hơn, hãy đem nét đẹp của đức hạnh vào trong cuộc sống bằng
những hành động thiết thực. Vì một xã hội tốt đẹp hơn.
Đề 6: “Duy chỉ có gia đình, người ta mới tìm được chốn nương thân để chống lại tai ương của số phận ”
(Euripides). Anh (chị) nghĩ thế nào về câu nói trên?
1. Mở bài
- Cuộc sống bôn ba vất vả để mưu sinh, nhiều lúc con người ta cảm thấy mệt mỏi và kiệt sức. Khi đó, điểm tựa
và nguồn động lực lớn lao có thể đưa con người vượt qua khó khăn đó chính là gia đình.
- Bàn về ý nghĩa và vai trò to lớn của gia đình đối với mỗi cá nhân, Euripides nói: “Duy chỉ có gia đình, người ta
mới tìm được chốn nương thân để chống lại tai ương của số phận ”
2. Thân bài
a) Giải thích
- Gia đình: chỉ mối quan hệ hôn nhân và huyết thống giữa các thành viên của gia đình, thể hiện tình cảm gắn bó
bền chặt, không thể chia cắt.
- Tai ương của số phận: chỉ những khó khăn, trắc trở gặp phải khi bước trên đường đời.
- Nội dung câu nói: Khẳng định vai trò to lớn của gia đình đối với mỗi con người – gia đình là sức mạnh giúp con
người vượt lên khó khăn, đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã và vững vàng hơn trong cuộc sống.
b) Bàn luận

(1) Vai trò của gia đình
- Gia đình là nơi nuôi dưỡng tâm hồn con người và là gốc rễ của mọi điều tốt đẹp nhất cuộc sống. Gia đình
không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng, giáo dục và hình thành nhân cách của một con người
mà còn góp phần lớn tạo ra những thành công khi trưởng thành.
+ Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng tài năng và nhân cách con người. Bởi vậy, mỗi con người sinh ra và lớn lên,
trưởng thành đều có sự ảnh hưởng, giáo dục to lớn từ truyền thống gia đình. Chính điều đó sẽ là hành trang cho
mỗi chúng ta bước vào đời, giúp ta khẳng định năng lực và phẩm giá của mình để thành công trong cuộc sống.


+ Gia đình là cái nôi hạnh phúc của con người từ bao thế hệ: không chỉ đùm bọc, chở che, gia đình còn giúp con
người vượt qua được những khó khăn, trở ngại trong cuộc sống. Trong cuộc đời, không ai có thể tránh khỏi
những va vấp, những tổn thương, những khó khăn thử thách, những thất bại. Khi đó, gia đình sẽ là nơi bao bọc,
chở che, động viên, vỗ về chúng ta đứng lên sau thất bại, là chỗ dựa vững chắc và vô điều kiện những khi ta đã
“lưng chùng gối mỏi” sau những lúc tất tả trên đường đời.
(2) Trách nhiệm của mỗi người đối với gia đình
- Câu nói trên đặt ra vấn đề cho mỗi con người, xã hội: Bảo vệ, xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, hạnh phúc.
Muốn làm được điều đó cần: trong gia đình mọi người phải biết thương yêu, đùm bọc chở che nhau; phê phán
những hành vi bạo lực gia đình, thói gia trưởng…
(3) Mở rộng, phản đề
- Gia đình có vai trò to lớn đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của con người, là chỗ dựa tinh thần
vững chắc để con người vươn lên trong cuộc sống. Tuy nhiên, trong thực tế, có rất nhiều người ngay từ khi sinh
ra đã không được sự chở che, đùm bọc, giáo dục, nâng đỡ của gia đình nhưng vẫn thành đạt, trở thành con
người hữu ích cho xã hội.
- Gia đình là quan trọng như thể sinh mệnh con người vậy mà có những đứa con bất hiếu đối với ông bà, cha
mẹ; lãng quên cội nguồn, cự tuyệt tình thân; sống thiếu trách nhiệm đối với những người thân trong gia đình.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Câu nói trên thật đúng khi khẳng định vai trò của gia đình đối với cuộc sống mỗi người. Vì gia đình có giá trị
bền vững và vô cùng to lớn không bất cứ thứ gì trên cõi đời này sánh được, cũng như không có bất cứ vật chất
cũng như tinh thần nào thay thế nổi.
- Mỗi chúng ta cần góp phần bảo vệ, xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Hãy biết thương yêu, đùm bọc, chia

sẻ cho nhau. Hãy biết nhẫn nhịn, chịu đựng, hi sinh để gia đình luôn là tổ ấm hạnh phúc nhất.
3. Kết bài
- Ai đó đã định nghĩa: Gia đình, đó là nơi ngay cả khi nước sôi cũng reo lên niềm hạnh phúc. Vậy chúng ta hãy
bằng tình yêu và hành động của mình để cho niềm hạnh phúc ấy luôn được reo lên trong hai tiếng thiêng liêng
“gia đình”.
Đề 7: Anh/chị nghĩ như thế nào về câu nói: “Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước
giông tố” ( Trích Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm)
1. Mở bài
- Cuộc sống quanh ta có biết bao nhiêu là khó khăn và thử thách. Nếu hèn nhát và yếu đuối, chắc chắn ta sẽ
thất bại nhưng nếu có ý chí và nghị lực chắn chắn ta sẽ đạp bằng mọi gian khó để vươn đến thành công. Đó
cũng chính là ý nghĩa của câu nói mà chị Đặng Thùy Trâm muốn gửi đến tất cả chúng ta: “Đời phải trải qua
giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố”.
2. Thân bài
a) Giải thích câu nói
- Giải thích từ ngữ:
+ Giông tố: dùng để chỉ những gian nan đầy thử thách hoặc việc xảy ra dữ dội đến với chúng ta trong cuộc sống.
Đó có thể là một căn bệnh hiểm nghèo, một đổ vỡ trong kế hoạch làm ăn, một thất bại trong học tập, một phá
sản trong kinh doanh…
+ Cúi đầu: đầu hàng, lùi bước, chấp nhận thất bại.
- Câu nói khẳng định: cuộc đời có thể trải qua nhiều gian nan, thử thách nhưng con người không được đầu
hàng, lùi bước trước những khó khăn, thất bại trong cuộc đời.
b) Bàn luận
(1) Biểu hiện
- Cuộc sống không bao giờ bình lặng mà luôn có vô vàn những khó khăn, thử thách, có thành công – thất bại,
hạnh phúc – khổ đau… Để vượt qua được khó khăn, thử thách không phải là điều dễ dàng, nó đòi hỏi ta phải
biết chấp nhận giông tố, vì một khi ta biết chấp nhận nó, ta sẽ biết cách vượt qua nó bằng chính nghị lực, bản
lĩnh, kỹ năng, tri thức của mình.
- Thực tế cuộc sống có biết bao tấm gương về những con người có nghị lực, bản lĩnh, vượt lên số phận, vượt
lên hoàn cảnh.
(2) Ý nghĩa, tác dụng



- Gian nan, thử thách chính là môi trường tôi luyện con người. Vượt qua khó khăn thử thách, con người trưởng
thành hơn, vững vàng hơn về mọi mặt.
- Vượt qua thử thách, chúng ta có cơ hội đến được với ước mơ của chính mình, được hoàn thiện bản thân.
(3) Mở rộng, phản đề
- Để vượt qua giông tố, con người cần giữ vững niềm tin, tinh thần lạc quan với cuộc sống; biết chấp nhận và
đứng lên sau mỗi thất bại.
- Phê phán lối sống thiếu nghị lực, bản lĩnh của một bộ phận giới trẻ hiện nay. Trước sóng gió, họ thường bỏ
cuộc, buông xuôi, chấp nhận thất bại. Bên cạnh đó, có nhiều bạn trẻ sống ích kỉ, dựa dẫm vào gia thế của mình
mà không tự phấn đấu vươn lên trong cuộc sống; số khác, vì nghèo khó mà sẵn sàng làm những việc trái với
đạo đức, lương tâm.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Câu nói trên là tiếng nói của một lớp trẻ sinh ra và lớn lên trong thời đại đầy bão táp, sống thật đẹp và hào
hùng. Câu nói thể hiện một quan niệm nhân sinh tích cực: sống không sợ gian nan, thử thách, phải có nghị lực
và bản lĩnh.
- Câu nói gợi cho bản thân nhiều suy nghĩ: trong học tập, cuộc sống bản thân phải luôn có ý thức phấn đấu vươn
lên. Bởi cuộc đời không phải con đường bằng phẳng mà đầy chông gai, mỗi lần vấp ngã không được chán nản
bi quan mà phải biết đứng dậy vươn lên. Để có được điều này thì cần phải làm gì?
3. Kết bài
- Khi đứng trước những ngã rẽ cuộc đời, hãy suy nghĩ kĩ để đưa ra quyết định sáng suốt. Khi đối mặt với giông
tố cuộc đời, hãy vững bước chân, hãy tự nhủ với bản thân “Đời có nhiều giông tố nhưng không được cúi đầu
trước giông tố”. Có như vậy bạn mới có cơ hội được trải nghiệm và tận hưởng mọi vẻ đẹp của cuộc đời.
Đề 8: Nhà triết học Hi Lạp, Đê-nông đã nói với một người bẻm mép: “Chúng ta có hai tai và một miệng
để nghe nhiều hơn và nói ít hơn”Anh (chị) hiểu thế nào về ý kiến trên. Hãy bày tỏ suy nghĩ của mình về.
vấn đề đặt ra trong ý kiến đó?
1. Mở bài
- Nghe nhiều hơn và nói ít hơn là một lời khuyên đẹp, một bài học nhẹ nhàng mà sâu sắc, thấm thía. Nói ít, nghe
nhiều, làm giỏi là thước đo giá trị và nhân phẩm.
- Câu nói của nhà triết học Hi Lạp Đê-nông với một người bẻm mép “Chúng ta có hai tai và một miệng để nghe

nhiều hơn và nói ít hơn” là một lời khuyên sâu sắc về nghệ thuật ứng xử giữa người với người trong cuộc sống.
2. Thân bài
a) Giải thích
- Giải thích từ ngữ:
+ Tai: Cơ quan thính giác có chức năng thu nhận âm thanh, tiếng động nên trở thành biểu tượng cho khả năng
và nhiệm vụ tiếp nhận thông tin
+ Miệng: cơ quan phát âm có chức năng chuyển tải ý nghĩ, cảm xúc thành lời nói nên trở thành biểu tượng cho
nhu cầu biểu hiện, bộc lộ con người cá nhân của người nói
+ Hai tai và một miệng: là cấu trúc diện mạo tự nhiên của con người song khi gắn với ý nghĩa biểu tượng của
mỗi hình ảnh lại thể hiện một tương quan giữa nghe và nói
- Khái quát ý nghĩa của ý kiến: lời khuyên con người cần biết lắng nghe nhiều hơn và nói ít hơn
b) Bàn luận vấn đề
- Vai trò và mức độ cần thiết của việc nghe:
+ Tiếp nhận những thông tin, kiến thức cần thiết để có thêm hiểu biết. Nhận biết thái độ, cách đánh giá của
người khác để tự điều chỉnh và hoàn thiện bản thân. Hiểu rõ sự đa dạng phức tạp của cuộc sống để có cách
ứng phó, xử lí đích đáng
+ Cần biết lắng nghe trong mọi hoàn cảnh, điều kiện, tình huống khác nhau. Cần kết hợp với khả năng phân
tích, chọn lọc để việc lắng nghe thực sự có ích và ý nghĩa
- Vai trò và mức độ cần thiết của việc nói
+ Hành vi thể hiện nhu cầu của bản thân. Bày tỏ, bộc lộ tình cảm, cảm xúc, quan điểm, cách nghĩ của cá nhân
để người khác hiểu về mình và tạo mối quan hệ hiểu biết lẫn nhau giữa mình và người khác. Hành động có ý
nghĩa tác động làm thay đổi nhận thức, quan niệm, tư tưởng của người khác.


+ Trong trường hợp có thể chắc chắn về tác dụng của việc nói hoặc có trách nhiệm bộc lộ ý kiến, quan điểm cá
nhân thì việc nói là rất cần thiết. Khi mục đích của việc nói chưa thật rõ ràng, chính đáng, nội dung cần nói chưa
được cân nhắc, chọn lọc sao có hiệu quả thì tốt nhất là nên cẩn trọng. Cần căn cứ vào hoàn cảnh, đối tượng,
tính chất của quan hệ để xác định nội dung, cách thức và mức độ cần thiết của việc nói
- Tác hại của việc nói nhiều, nghe ít:
+ Khi nói quá nhiều ta sẽ không còn cơ hội để lắng nghe, hậu quả là tự mình thu hẹp khả năng tiếp nhận thông

tin và hạn chế sự giao lưu đa chiều, sẽ dẫn đến lời nói thiếu chọn lọc, ảnh hưởng đến chất lượng và khả năng
của lời nói, sẽ làm cho người nghe mệt mỏi, chán ngán và căng thẳng đầu óc, có hại cho các mối quan hệ của
chính mình
+ Giảm cơ hội và khả năng tiếp nhận thông tin. Hạn chế tầm hiểu biết về con người và cuộc sống xung quanh
mình. Không tận dụng được một kênh giao lưu tình cảm, tạo ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ, nhất là mối
quan hệ tình cảm giữa các cá nhân.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Nói là cần thiết song nếu nói mà không làm sẽ gây mất niềm tin của người khác và tự hạ thấp giá trị bản thân
mình. Chỉ nói mà không biết lắng nghe sẽ tự cô lập mình và khiến bản thân mình nghèo đi cả về nhận thức, tình
cảm và các cơ hội để tạo lập, củng cố những mối quan hệ giữa con người và cuộc sống.
3. Kết bài
- Cổ nhân đã từng lưu ý: “Ngôn quá kì hành, bất khả trọng dụng” (nói nhiều hơn làm, không dùng việc lớn được).
Câu nói một lần nữa khẳng định tính đúng đắn trong lời khuyên của Đê-nông. Dù ở thời nào, nói ít, nghe nhiều,
làm giỏi vẫn là thước đo giá trị và nhân phẩm con người.
Đề 9: “Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve
nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy” (Tuân Tử). Ý kiến của anh (chị) về câu nói trên.
1. Mở bài
Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Để có được thái độ an nhiên, bình thản với mọi được - mất, khen - chê ở đời như Nguyễn Công Trứ đâu phải dễ.
Chúng ta vẫn luôn bận lòng với lời khen tiếng chê ở đời. Khen chê đôi khi là động lực để ta hoàn thiện mình.
Khen chê đôi khi là “thuốc thử” để ta biết thật – giả của lòng người. Khuyên con người cần tỉnh táo trước lời
khen, chê ấy, Tuân Tử nói: “Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta,
những kẻ vuốt ve nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy” .
2. Thân bài
a) Giải thích
- Giải thích từ ngữ:
+ Chê: phê bình chê trách những yếu kém, thiếu sót và tỏ ra không thích, không vừa ý về những điều đó
+ Chê phải: chê đúng, chỉ ra chính xác những hạn chế, khiếm khuyết, sai lầm trên tinh thần thiện chí vì sự tiến
bộ của ta

+ Khen: đánh giá tốt và tỏ ý vừa lòng về một điều gì đó
+ Khen phải: đánh giá đúng trên cơ sở phát hiện chính xác điểm tốt, sự tiến bộ mà ta có được
+ Vuốt ve nịnh bợ: tỏ vẻ quan tâm, thông cảm hoặc khen ngợi thái quá bằng thái độ giả dối cốt lấy lòng, lôi kéo
mua chuộc để cầu lợi
+ Thầy: Người có trình độ hướng dẫn, dạy bảo
+ Bạn: người có quan hệ thân quen, gần gũi có thể tâm tình, chia sẻ, đáng để ta trân trọng
+ Kẻ thù: người có quan hệ thù địch cần đề cao cảnh giác
- Khái quát: Cần coi trọng người giúp ta nhận ra sai sót, khiếm khuyết, trân trọng những người phát hiện những
điểm tốt, thế mạnh của ta và cần đề cao cảnh giác với những kẻ tìm cách lôi kéo, mua chuộc lấy lòng vì những
mục đích không rõ ràng
b) Bàn luận vấn đề
(1) Vì sao Người chê ta mà chê phải là thầy của ta?
- Dám chê người là trung thực, thẳng thắn. Chê phải lại càng quý, càng phục. Ta có lầm lỗi, có khuyết điểm,
nhược điểm mà được người khác chê, chê phải mới đáng quý.


- Chỉ có thể chê phải nếu hiểu sâu sắc và có nhận thức đúng đắn về những chuẩn mực cần thiết. Hơn nữa
những lời chê phải thường xuất phát từ thái độ thiện chí, hướng tới những điều tốt đẹp, hoàn hảo.
- Chê phải vì người ta nhìn thấy khiếm khuyết của ta, cái mà ta không nhìn thấy, để nhắc nhở, khuyên bảo, để
mong ta tiến bộ.
à Những người như thế đáng là thầy ta, đáng được ta trân trọng, cảm phục.
(2) Vì sao Người khen ta mà khen phải là bạn ta?
- Chỉ có thể khen phải khi những điều tốt đẹp, sự cố gắng nỗ lực, điểm tiến bộ, thành công kia là có thật.
- Chỉ có thể khen phải nếu lời khen kia xuất phát từ một thái độ đúng, trân trọng những giá trị thực và cách đánh
giá đúng xuất phát từ những tiêu chuẩn chuẩn mực.
- Những lời khen phải và khen đúng lúc sẽ có ý nghĩa động viên kịp thời và hữu hiệu. Đó chính là động lực tinh
thần thôi thúc ta cố gắng hơn, làm việc có hiệu quả hơn.
à Những người như thế chính là bạn ta.
(3) Vì sao Những kẻ vuốt ve nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta?
- Sự vuốt ve nịnh bợ có thể đem lại cảm giác dễ chịu, thoải mái cho con người vì nó khiến con người lầm tưởng

được quan tâm, được coi trọng, được đánh giá cao. Hơn cả sự lầm tưởng, người được vuốt ve nịnh bợ còn dễ
có những ảo tưởng về bản thân và về mối quan hệ tốt đẹp giữa mình và người vuốt ve nịnh bợ kia.
- Nhưng thực chất, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ là kẻ xấu. Lời nói của họ là để lấy lòng, làm vừa lòng người ta.
Loại người này có thủ thuật dùng những lời nói ngon ngọt để mơn trớn, để làm “phổng mũi” người ta! Vuốt, ve,
nịnh bợ là để dụ dỗ, mơn trớn, mua chuộc và cầu lợi. Sống gần gũi những kẻ vuốt ve, nịnh bợ, nếu không có
bản lĩnh sẽ bị sa ngã. Nịnh thần làm sụp đổ ngai vàng. Có gì cứng như đá, có gì mềm như nước; thê mà “nước
chảy đá mòn”. Những lời vuốt ve, nịnh bợ còn mạnh hơn nữa, còn sắc hơn dao có thể mài mòn nhân cách, có
thể giết chết bất cứ ai, có thể hủy hoại tâm hồn, làm băng hoại lối sống. Những kẻ vuốt ve, nịnh bợ còn là đầu
mối, nguyên nhân của sự mất đoàn kết.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Là một lời nhắc nhở giúp chúng ta tự điều chỉnh thái độ, cách cư xử với mọi người xung quanh mình để tự
hoàn thiện nhân cách bản thân, sống chân tình, thiện chí, không xu nịnh, bợ đỡ vì như thế là cách tự hạ thấp
phẩm giá của mình.
- Điều kiện để thực hiện cách ứng xử theo quan niệm của Tuân Tử:
+ Nâng cao học vấn và văn hoá để có thể nhận thức đúng, phân biệt chính xác mọi hành vi, biểu hiện của người
khác và mình.
+Rèn luyện bản lĩnh để vượt lên thói thường, sống đàng hoàng, ngay thẳng và luôn tỉnh táo trong xử lí các mối
quan hệ
3. Kết bài
Câu nói của Tuân Tử là một lời khuyên đẹp. Ông đã nêu lên một phương châm sống giàu ý nghĩa; nêu lên tiêu
chí đúng đắn về cách nhận diện người thầy, người bạn, kẻ thù. Chọn thầy để học và hành đạo (đạo làm người).
Chọn bạn (bạn tốt) để thêm sức mạnh trong cuộc đời. Nhận diện kẻ thù, bọn xu nịnh để gạt chúng ra khỏi tâm
trí, để tâm hồn trong sạch, sống thảnh thơi.
Đề 10: Trong một bộ phim truyền hình Việt Nam mới công chiếu gần đây, nhân vật người ông nói với
người cháu của mình rằng: “Ta có thể nhặt được một gói tiền nhưng sẽ không có ai đánh rơi một gói
văn hoá cho ta nhặt”
Anh chị suy nghĩ như thế nào về lời nhắc nhở trên?
1. Mở bài
- Văn hoá là hành trang không thế thiếu trong hành trình cuộc đời của mỗi người, nhưng có được nó thì không
hề đơn giản.

- Trong một bộ phim truyền hình Việt Nam mới công chiếu gần đây, có nhân vật đã nhắc nhở người cháu của
mình rằng: “Ta có thề nhặt được một gói tiền nhưng sẽ không có ai đánh rơi một gói văn hoá cho ta nhặt”. Đây
thực sự là một triết lí về cuộc sống và cách sống mà có lẽ không chỉ người cháu là cần ghi nhớ suốt đời.
2. Thân bài
a) Giải thích
- Giải thích từ ngữ:
+ Gói tiền: lượng vật chất rất có giá trị


+ Có thể nhặt được gói tiền: Giả thiết về việc con người có thể có một lượng vật chất giá trị mà không phải mất
nhiều công sức để xây dựng hình thành, tích luỹ. Đây là việc ít gặp song không phải là tuyệt đối không thể xẩy ra
+ Văn hoá: trình độ học vấn, vốn tri thức, kiến thức khoa học và trình độ sống biểu hiện qua sinh hoạt và ứng xử
của con người trong đời sống xã hội
+ Không ai đánh rơi gói văn hoá cho ta nhặt: cách nói hình ảnh để phủ nhận khả năng có được gói văn hoá một
cách ngẫu nhiên, tình cờ, ngoài ý thức và nỗ lực cố gắng của con người.
- Khái quát ý nghĩa của ý kiến: Có thể tự nhiên có được một lượng vật chất song không tự nhiên mà có văn hoá.
Vì vậy, cần tự tích luỹ, hình thành và bồi đắp vốn văn hoá cho mình
b) Bàn luận vấn đề
(1) Vì sao có thể nhặt được gói tiền?
- Vì tiền tuy quý song là vật ngoài thân, không thể đồng nhất với con người.
- Khi là vật ngoài thân người ta có thể giữ gìn, bảo quản, có thể sẽ thất lạc, mất mát.
- Có thể nhặt được gói tiền nếu ai đó bất cẩn mà đánh rơi.
(2) Vì sao không thể nhặt được gói văn hoá?
- Văn hóa là những giá trị tinh thần vô cùng quý giá, quan trọng, khẳng định vị trí, nhân cách của mỗi cá nhân
trong xã hội. Trình độ văn hóa là thước đo chính xác nhất cho sự phát triển toàn diện của mỗi con người. Văn
hóa còn là yếu tố đặc trưng của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng, là niềm tự hào của dân tộc.
- Văn hóa là những giá trị tinh thần song lại được biểu hiện cụ thể trong đời sống qua những hành động, ngôn
ngữ, cử chỉ, thói quen, cách ăn mặc, giao tiếp, ứng xử ... của mỗi cá nhân với thế giới xung quanh (thế giới xã
hội và thế giới tự nhiên). Văn hoá ở đây là biểu hiện của trình độ, nó thuộc về con người, làm nên diện mạo tinh
thần của con người, nó không tồn tại ở dạng vật chất nên không thể đánh rơi và cũng không thể nhặt.

- Vì văn hoá là một quá trình tích luỹ, chọn lọc và hoàn thiện dần bằng khả năng nhận thức và ý thức nên không
thể tự nhiên xuất hiện ở con người. Văn hóa chỉ có thể được hình thành qua quá trình học tập, rèn luyện, tu
dưỡng lâu dài, bền bỉ, thậm chí gian khổ nữa. Nó là quá trình mỗi cá nhân không ngừng tiếp thu những giá trị tốt
đẹp để làm giàu thêm, để hoàn thiện cho nhân cách mình. Tiền có thể mua được những sản phẩm văn hóa
nhưng không thể dùng tiền để có được văn hóa.
- Văn hoá là kết tinh năng lực và phẩm chất của con người văn minh nên chỉ khi đạt trình độ học vấn và có trình
độ sống của con người văn minh mới được coi là có văn hoá.
(3) Làm thế nào để có văn hoá?
- Học tập bằng những phương thức, những con đường khác nhau (tự học và học theo hướng dẫn, học trong
sách vở, trong thực tế, ở thầy và ở bạn...) để có được trình độ kiến thức, khoa học.
- Học hỏi với ý thức vươn lên tự hoàn thiện về cách sống, cách sinh hoạt, cách ứng xử để đáp ứng những yêu
cầu của cuộc sống văn minh.
- Luôn trau dồi rèn luyện và củng cố những gì mình đã học được để nó thuộc về mình, làm nên diện mạo của
tinh thần của mình trong cuộc sống.
(4) Mở rộng, phản đề
- Phê phán những tư tưởng đề cao giá trị vật chất mà không coi trọng giá trị tinh thần, văn hóa, phê phán thói
lười nhác, những hành vi thiếu văn hóa của mỗi cá nhân.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Là một bài học tư tưởng đạo lí về cách sống cho con ngườì. Sự sâu sắc của bài học là ở chỗ: Khi văn hoá
không thể bỗng dưng mà có thì mỗi người cần chủ động, tích cực trong học tập, học hỏi để bồi đắp, nâng cao
vốn văn hoá cho chính mình.
- Là lời nhắc nhở có ý nghĩa với tất cả mọi người song đặc biệt cần thiết với tuổi trẻ, cần chú ý tới việc tích luỹ
vốn sống, vốn văn hoá để xây dựng tương lai. Nâng cao ý thức học tập, tu dưỡng để hoàn thiện nhân cách, góp
phần xây dựng xã hội văn minh.
3. Kết bài
Ngạn ngữ phương Đông có câu: “Những người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách
cao thượng” hay ai đó cũng nói “sự học là cây cầu bắc từ bờ bên này mông muội sang bờ bên kia chân lí” một
lần nữa đã khẳng định vai trò của sự học – tầm quan trọng của việc tích lũy văn hóa. Mỗi người hãy tìm cách bổ
sung vốn văn hóa cho mình để trở nên “cao thượng” và sang được đến “bờ bên kia chân lí”.
Đề 11: Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề tự học?

1. Mở bài


Lê nin từng nói: "Học, học nữa, học mãi". Câu nói đó luôn có giá trị ở mọi thời đại, đặc biệt trong xã hội ngày nay
đang hướng tới nền kinh tế tri thức, nó đòi hỏi mọi người phải vận động để theo kịp sự phát triển của xã hội.
Chính vì vậy mà tinh thần tự học có vai trò vô cùng quan trọng.
2. Thân bài
a) Giải thích “tự học”
- Học tập là quá trình tiếp thu kiến thức, luyện kĩ năng vì vậy đòi hỏi mỗi HS phải chủ động tìm kiếm kiến thức dù
cho có thầy cô giáo dẫn dắt hay không.
- Vậy tự học là chủ động học tập bằng cách đọc sách, suy ngẫm khám phá và phát hiện, biến kiến thức của
sách vở, của người khác thành của mình.
- Tự học là chủ động trao đổi với bạn bè dưới sự khơi gợi hướng dẫn của thầy cô.
b) Bàn luận vấn đề
(1) Biểu hiện của tự học
- Tự học theo SGK. VD: học văn thì tự học có nghĩa là đọc trước bài văn bài thơ sẽ học, xem kĩ các chú thích,
soạn bài trước khi tới lớp…
- Tự học khi làm bài tập là tự mình làm lấy bài tập, không sao chép của bạn bè, không nhờ người khác giải hộ.
Khi gặp bài khó có thể nhờ bố mẹ, thầy cô, bạn bè chỉ cho cách thức hoặc hướng giải của từng bài.
- Tự học theo sách tham khảo là tìm hiểu thêm những kiến thức mới hoặc những chỉ dẫn, những phương pháp
tiếp cận bài văn, bài toán…Tuyệt đối không chép những bài giải sẵn để đối phó với thầy cô giáo.
- Tự học trong cuộc sống là sự quan sát thực tế của cuộc sống xảy ra hằng ngày xung quanh ta thông qua các
buổi sinh hoạt, tham quan, các công tác xã hội…để nâng cao vốn sống.
(2) Tác dụng của tự học
- Quá trình tự học giúp HS rèn luyện nghị lực, ý chí phấn đấu vươn lên để trau dồi kiến thức nâng cao trình độ
hiểu biết cho bản thân.
- Tự học còn là rèn luyện cho mình kĩ năng học thuộc lòng những phần ghi nhớ, những kiến thức cơ bản và các
dạng bài tập trong SGK… Bên cạnh kĩ năng học thuộc, HS còn phải rèn cho mình khả năng nhớ lâu, nhớ chính
xác.
- Rèn luyện nhiều kĩ năng: hoạt động nhóm, giao tiếp, tư duy sáng tạo.

(3) Mở rộng, phản đề
- Điều kiện để tự học có hiệu quả: ý thức tự giác và tinh thần trách nhiệm đối với bản thân; năng lực nhận thức,
khả năng tư duy, phương pháp học tập hiệu quả; có trình độ nhất định… Cần kết hợp việc tự học với việc học để
đạt hiệu quả cao nhất trong học tập.
- Phê phán lối học thụ động, thiếu tự giác; những người có thói ỷ lại, dựa dẫm vào người khác trong học tập
cũng như trong cuộc sống.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Học mà không coi trọng phương pháp tự học thì kết quả không cao.
- Bản thân mỗi chúng ta phải xây dựng cho mình tinh thần tự học trên nền tảng của sự say mê, ham học, ham
hiểu biết, giàu khát vọng và kiên trì trên con đường chinh phục tri thức.
- Mỗi con người cần chủ động, tích cực, sáng tạo, độc lập trong học tập. Có như vậy mới chiếm lĩnh được tri
thức để vươn tới những ước mơ, hoài bão của mình.
3. Kết bài
Hiểu được tầm quan trọng của việc tự học, chúng ta sẽ có ý thức tự giác hơn trong quá trình học tập, và sẽ
mang lại kết quả cao. Những người biết vận dụng phương pháp tự học cho bản thân sẽ có vốn kiến thức rộng
rãi và sẽ có khả năng trở thành người có ích cho xã hội, góp phần làm phát triển xã hội lên tầm cao mới.
Đề 12: “Điều gì phải thì cố làm cho kì được dù là điều phải nhỏ. Điều gì trái thì hết sức tránh, dù là một
điều trái nhỏ”. Anh (chị) có suy nghĩ gì về lời dạy của Bác ?
1. Mở bài
Albert Einstein - nhà vật lý lý thuyết người Đức đã từng nói: “Cuộc sống giống như lái một chiếc xe đạp, để giữ
thăng bằng ta phải liên tục tiến lên”. Con người ai cũng muốn cuộc sống mình sẽ trở nên tươi đẹp. Và để làm
chủ được cuộc sống, để thành công, đạt được ước vọng quả là một việc không hề dễ dàng đối với bất kì ai.
Nhưng thành công bắt đầu từ những việc nhỏ. Vậy nên, chính những điều nhỏ ấy là yếu tố quan trọng cho ta
nếu muốn chạm đến đích vinh quang. Việc nhỏ ấy có thể mang đến cho ta thành công, nhưng cũng có thể nó


gây ra hậu quả. Dù là điều phải hay điều trái thì việc nhỏ ấy thực sự quan trọng với cuộc đời của mỗi người. Bác
Hồ có dặn: “Điều gì phải thì cố làm cho kì được dù là điều phải nhỏ. Điều gì trái thì hết sức tránh, dù là một điều
trái nhỏ”. Đây là một lời dạy thiết thực của Bác đối với nhân dân Việt Nam ta.
2. Thân bài

a) Giải thích câu nói
- Giải thích từ ngữ:
+ Điều phải: là những điều đúng, điều tốt, đúng với lẽ phải, đúng với quy luật, đúng với chuẩn mực đạo đức của
xã hội.
+ Điều phải nhỏ: là những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống nhưng vẫn mang lại lợi ích cho mọi người, cho xã hội.
+ Điều trái: là những điều không đúng trái với lẽ phải, trái với chuẩn mực đạo đức của xã hội.
+ Điều trái nhỏ: là những điều sai trái dù rất nhỏ nhưng vẫn làm tổn hại tới lợi ích của người khác
- Nội dung câu nói: Đối với điều phải, dù nhỏ chúng ta phải cố sức làm cho kì được, tuyệt đối không được có thái
độ coi thường những điều nhỏ. Đối với điều trái, dù nhỏ cũng phải hết sức tránh, tức là đừng làm và tuyệt đối
không được làm.
b) Bàn luận vấn đề
(1) Vì sao điều phải dù là nhỏ chúng ta phải cố làm cho kì được?
- Điều phải là những điều đúng, điều tốt, đúng với lẽ phải, với quy luật, thuận với đạo lí, phù hợp với mọi người,
có ích cho xã hội. Điều phải lớn như hi sinh xả thân vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vì lí tưởng. Điều
phải nhỏ là những việc xảy ra hàng ngày trong sinh hoạt của mọi người.
- Đã là điều phải thì dù lớn hay nhỏ gì cũng điều đáng làm và nên làm. Đó là những việc đúng, việc tốt, đúng với
lẽ phải, hợp lí vừa lòng đối với mọi người chung quanh. Khi ta làm một việc phải là ta đã có mục đích tốt.
- Việc làm phản ánh đạo đức của con người. Nhiều việc phải nhỏ, tầm thường sẽ góp thành một việc phải lớn.
(2) Vì sao điều trái dù là nhỏ cũng phải tránh?
- Điều trái là những điều sai, sai với lẽ phải, với sự thật, làm hại kẻ khác, không có lợi cho mọi người. Điều trái
lớn như phản bội lại quyền lợi dân tộc, nhân dân, tổ quốc làm tổn hại tới cuộc sống của cộng đồng. Điều trái nhỏ
là những việc sai, không đúng, tuy là nhỏ nhặt nhưng cũng có tổn hại ít nhiều đến người khác.
- Là điều trái tất nhiên là có hại, hại cho bản thân và hại cho người khác. Luật pháp và lương tâm con người
không dung thứ khi ta cố tình làm điều sai trái, dù nhỏ. Nếu ta làm điều trái nhỏ lâu ngày nó sẽ tích lũy dần thành
điều trái lớn. Cũng như một học sinh lúc đầu dối trá với bạn rồi đến thầy cô… dần dần trở thành kẻ gian dối ở
ngoài xã hội. Như vậy, ta không nên nhúng tay vào bất kì một điều trái nào, dù nhỏ, là như thế.
(3) Ý nghĩa của lời dạy
- Bác Hồ đã dạy rõ: Đối với điều phải, đã cho là đúng, là phải và cần thiết làm thì dù việc đó có nhỏ thì chúng ta
cũng quyết tâm thực hiện cho kì được quyết không trốn tránh hay bỏ cuộc nửa chừng. Trên phương diện đạo
đức, người ta đánh giá việc làm phải của mỗi người là ở tinh thần và mục đích của việc làm ấy chứ không phải

là ở tầm cỡ hay kết quả của nó. Hơn thế nữa, nhiều điều phải nhỏ góp lại sẽ thành điều phải lớn. Không phải lớn
không phái lúc nào cũng xảy ra và ai làm cũng được. Do đó, chúng ta nên “tùy theo sức của mình” mà làm
những việc phải nhỏ thường xuyên có mặt trong cuộc sống của mình.
- Còn đôi với điều trái, đã cho là không đúng thì phải hết sức tránh, dù là điều trái nhỏ. Nghĩa là chúng ta bằng
mọi cách phải từ chối, không tham gia, phải tự chiến thắng bản thân mình, chiến thắng những cám dỗ vật chất.
Bác Hồ căn dặn chúng ta không được coi thường điều trái nhỏ, phải hết sức tránh nghĩa là không nên làm, tuyệt
đối không được làm. Nhiều điều trái nhỏ góp lại sẽ thành điều trái lớn. Nhiều lần làm điều trái sẽ dẫn chúng ta tới
thói quen “ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt”. Không tránh làm điều trái nhỏ là ta đã vi phạm vào đạo đức xã
hội.
(4) Mở rộng, phản đề
- Phê phán những việc làm vô ý thức, thiếu trách nhiệm.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Lời dạy của Bác đã đề ra một thái độ sống tích cực.
- Thấm nhuần lời dạy của Bác, bản thân mỗi người phải sống và làm theo lẽ phải, làm những việc có ích cho
bản thân, cho gia đình và xã hội. Phải quan tâm đến những điều nhỏ nhất, dù đó là điều phải lẫn điều trái. Phải
thận trọng trong cách ứng xử, trong việc làm hàng ngày. Phải biết suy nghĩ và hành động khi biết đó là điều tốt.
Sau cùng, ta nên mạnh dạn từ bỏ những thói quen xấu, dù đó là điều xấu nhỏ.
3. Kết bài


Lời khuyên dạy của Bác thật vô cùng quý giá và sâu sắc. Bác đã nhắc nhở, giáo dục mọi người, đặc biệt là thế
hệ trẻ một phương châm sống và hành động là hãy làm theo lẽ phải, bảo vệ chân lí, nhất quyết không làm điều
trái có hại cho người khác.
Đề 13: Suy nghĩ của anh (chị) về lòng tự trọng
1. Mở bài
- Giá trị của con người không phải là được thể hiện ở ngoại hình, hay không chỉ đơn giản là trình độ học vấn, địa
vị trong xã hội. Mà nó được thể hiện rõ nhất bằng lòng tự trọng của con người. Giá trị của con người được thể
hiện qua lòng tự trọng.
2. Thân bài
a) Giải thích

- “Lòng tự trọng”: Là ý thức và tình cảm của cá nhân tôn trọng và bảo vệ nhân phẩm của chính mình. Một cá
nhân, tập thể, hay một dân tộc đều có lòng tự trọng của riêng mình.
b) Bàn luận vấn đề
(1) Biểu hiện lòng tự trọng:
- Người có lòng tự trọng sẽ biết kiềm chế những nhu cầu và ham muốn thấp kém, những phản ứng có tính chất
bản năng.
- Người có lòng tự trọng luôn cố gắng sống đúng theo chuẩn mực đạo đức xã hội: Tự nguyện thực hiện nhiệm
vụ được giao, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân; quyết không làm những việc xấu, chỉ hưởng những gì mình xứng
đáng được hưởng; sống trung thực; biết tôn trọng pháp luật…
- Người có lòng tự trọng có suy nghĩ, hành vi lời nói đẹp đẽ.
- Một tập thể, một dân tộc có lòng tự trọng luôn cố gắng vươn lên để khẳng định giá trị của mình.
(2) Vai trò của lòng tự trọng:
- Lòng tự trọng là một phẩm chất vô cùng quan trọng góp phần tạo nên giá trị của con người; khích lệ con người
vươn tới những điều tốt đẹp, có khả năng khơi dậy những khả năng kì diệu của con người. Người có lòng tự
trọng sẽ được mọi người xung quanh quý trọng và từ đó lòng tự trọng cá nhân càng được củng cố.
- Nhiều người có lòng tự trọng sẽ tạo nên một xã hội phát triển lành mạnh và toàn diện.
(3) Mở rộng, phản đề
- Trong cuộc sống, bên cạnh những người giàu lòng tự trọng còn có nhiều người có biểu hiện thiếu tự trọng: Nói
tục chửi bậy, không trung thực trong thi cử, không tôn trọng pháp luật… Sự thiếu tự trọng làm cho con người mất
đi những giá trị đạo đức khác, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt trong đời sống xã hội. Nếu hiểu sai
con người sẽ rơi vào sự tự kiêu, tự ái dẫn đến những hành vi sai lầm.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Nhận thức: lòng tự trọng là phẩm chất đáng quý cần được đề cao trong xã hội và cần được xây dựng trong mỗi
con người.
- Bài học hành động:
+ Cần biết rèn luyện, nghiêm khắc với bản thân để bồi dưỡng lòng tự trọng và gạt bỏ tính tự ái.
+ Không xúc phạm đến lòng tự trọng của người khác.
+ Phấn đấu học tập để vươn đến thành công nhưng không được quên sống tự trọng.
3. Kết bài
Ai cũng muốn mình được tôn trọng. Không ai muốn mình bị người khác coi thường. Nhưng người khác chỉ coi

thường bạn khi bạn để họ có được cơ hội ấy. Bạn phải là người đầu tiên tôn trọng giá trị bản thân mình. Ai ai
cũng đều không hoàn hảo nhưng ai ai cũng có những thứ để tự hào về con người của mình. Chính lòng tự trọng
đã giúp họ có được những điều ấy.
Đề 14: Viết bài nghị luận bày tỏ ý kiến của mình về phương châm “Học đi đôi với hành”.
1. Mở bài
- Bàn về phương pháp học tập, xưa nay có rất nhiều ý kiến. Mỗi ý kiến đúc kết một kinh nghiệm quý báu góp
phần rút ngắn khoảng cách trong hành trình chiếm lĩnh tri thức của nhân loại. Học đi đôi với hành là một trong
những phương châm đó.
2. Thân bài
a) Giải thích


- Giải thích từ ngữ:
+ Học: Học tập, lĩnh hội kiến thức từ bài giảng trong nhà trường, từ nhiều kênh thông tin.
+ Hành: Thực hành, vận dụng kiến thức vào giải thích, đánh giá các vấn đề, hiện tượng trong đời sống, ứng
dụng kết quả nghiên cứu vào lao động sản xuất để phục vụ cuộc sống con người.
- Ý nghĩa cả câu: Nhấn mạnh sự cần thiết giữa việc học lí thuyết với việc vận dụng lí thuyết, kinh nghiệm vào
thực tiễn.
b) Bàn luận
(1) Vì sao học phải đi đôi với hành
- Học là hoạt động tiếp thu những tri thức cơ bản của nhân loại đã được đúc kết qua mấy ngàn năm lịch sử.
Chúng ta có thể học ở trường qua sự truyền thụ của thầy cô giáo; học ở bạn bè; tự học qua sách vở và thực tế
đời sống.
- Mục đích của việc học là để làm giàu tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết về nhiều mặt để có thể làm chủ bản
thân, làm chủ công việc của mình, có khả năng ứng xử trong giao tiếp xã hội, khả năng giải quyết công việc
trong những tình huống phức tạp… góp phần hữu ích vào việc xây dựng sự nghiệp riêng và sự nghiệp chung.
- Học là để làm cho mọi công việc được thực hiện với chất lượng và hiệu quả cao hơn. Hành là quá trình vận
dụng những kiến thức đã tiếp thu được trong quá trình học vào thực tế công việc hằng ngày. Học để hành, có
nghĩa là phải học để làm cho tốt. Nếu chúng ta học những lí thuyết dù cao siêu đến đâu mà không vận dụng
được vào thực tế thì đó chỉ là lí thuyết suông, tốn thời gian, tiền bạc mà vô ích, giống như truyện ngụ ngôn ngày

xưa kể về người đàn ông mất bao công phu tìm thầy học nghề giết rồng để rồi suốt đời chẳng tìm thấy một con
rồng nào cả.
- Học mà không hành thì vô ích vì hành vừa là mục đích, vừa là phương pháp học tập. Học để làm việc có hiệu
quả, để nâng cao đời sống bản thân và có ích cho xã hội. Học mà gắn liền với thực hành thì kiến thức sẽ được
củng cố, khắc sâu.
(2) Làm thế nào để học đi đôi với hành thật sự hiệu quả?
- Học đi đôi với hành là một phương châm giáo dục đúng đắn và khoa học. Việc kết hợp giữa lí thuyết và thực
hành có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những lĩnh vực khác nhau. Thông qua thực
hành, người học nắm chắc lí thuyết hơn vì lí thuyết ấy được biến thành việc làm và được kiểm nghiệm trong
thực tiễn.
- Học đi đôi với hành có ý nghĩa thực sự quan trọng. Để đạt được hiệu quả cao, người học nên biết cân bằng
giữa lí thuyết và thực tiễn sao cho hài hòa, hợp lí. Học với hành giúp chúng ta vừa chuyên sâu kiến thức lại vừa
thông thạo, hoàn thiện kĩ năng làm việc.
- Để học đi đôi với hành thật sự hiệu quả cần vận dụng những kiến thức đã học khi ra ngoài xã hội. Những gì
được học phải đem áp dụng vào cuộc sống, chứ không phải học để biết rồi bỏ đó. Hãy biến những tri thức,
những bài học cuộc đời đầy ý nghĩa mà ta thâu nhận được từ sách vở thành hiện thực. Như vậy thì những kiến
thức đó mới trở nên thật sự có ý nghĩa.
- Việc học không bó hẹp trong phạm vi nhà trường. Nhiều khi lí thuyết được rút ra sau sự trải nghiệm thực tiễn.
(3) Mở rộng, phản đề
- Phương châm về mối quan hệ giữa học với hành trên là kinh nghiệm được đúc kết từ thực tế lịch sử phát triển
của toàn nhân loại. Phải đánh giá đúng mức mối quan hệ hữu cơ khăng khít giữa học và hành, không thể coi
nhẹ vai trò vô cùng quan trọng của việc học.
+ Muốn đạt được hiệu quả cao trong công việc, con người phải được đào tạo bài bản, nghiêm túc, đến nơi đến
chốn theo từng chuyên ngành và trong suốt quá trình làm việc vẫn phải học tập, học tập không ngừng. Nắm
vững lí thuyết, chúng ta mới có thể làm được những công việc phức tạp và tránh được những sai lầm đáng tiếc.
Lí thuyết dẫn đường cho thực hành; thực hành bổ sung, hoàn thiện cho lí thuyết…
+ Hành mà không học thì không thể trôi chảy. Không có lí thuyết soi sáng, chúng ta sẽ gặp khó khăn trong công
việc. Nếu ta chỉ làm việc theo thói quen và kinh nghiệm thì tiến trình làm việc sẽ chậm và hiệu quả không cao.
Cách làm việc cũ kĩ, lạc hậu ấy chỉ thích hợp với những hình thức lao động giản đơn, không cần nhiều đến trí
tuệ.

- Thực tế, nhiều học sinh đã sai lầm trong cách học, dẫn đến hiệu quả không cao vì chỉ khư khư ôm lấy lí thuyết
mà không chịu thực hành. Một phần do các bạn ấy chưa nắm được tầm quan trọng của phương châm học đi đôi
với hành, một phần xuất phát từ tâm lí e ngại, lười hoạt động.


- Phải biết kết hợp một cách hài hòa giữa lí thuyết và thực tiễn. Việc tuyệt đối hóa bất cứ một phương diện nào
cũng sẽ phản tác dụng. Nếu quá đề cao lí thuyết, bạn sẽ rơi vào cách học máy móc, nặng nề, sách vở. Nếu
thiếu những nền tảng lí thuyết cơ bản, bạn sẽ gặp nhiều khó khăn khi làm việc.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Học đi đôi với hành là phương châm giáo dục, phương pháp học tập đúng đắn. Người biết thực hiện phương
châm đó một cách kiên trì sẽ gặt hái được thành công. Người chỉ biết “lí thuyết suông” sẽ học tập và làm việc
không có hiệu quả, vì thế không thuyết phục được người khác
- Thực hiện “học phải đi đôi với hành”: Học nghiêm túc, biết vận dụng sáng tạo để hiệu quả học tập và công việc
được nâng cao.
3. Kết bài
Có người đã từng nói: Mọi lí thuyết đều màu xám, chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi. Tuy có phần cực đoan
nhưng câu nói đó đã khẳng định đúng về giá trị của thực tiễn trong đời sống con người.
Đề 15: Anh/ chị suy nghĩ như thế nào về về câu nói: “Bàn tay tặng hoa hồng bao giờ cũng phảng phất
hương thơm”.
1. Mở bài
Thượng đế đã trao cho loài người một thứ vũ khí để chống lại mọi khó khăn, khắc nghiệt của cuộc sống: đó là
trái tim. Có một trái tim để đón nhận yêu thương, có một trái tim để cảm nhận được yêu thương, và yêu thương
sẽ trở thành sức mạnh. Trao đi yêu thương cũng là một cách nhận lại yêu thương, bởi lẽ: “Bàn tay tặng hoa
hồng bao giờ cũng phảng phất hương thơm”.
2. Thân bài
a) Giải thích
- Giải thích từ ngữ:
+ Bàn tay: ( hoán dụ) chỉ con người.
+ Hoa hồng (ẩn dụ) biểu tượng cho tình yêu thương, vẻ đẹp của sự sẻ chia, giúp đỡ.
+ Tặng: Trao đi một cách tự nguyện với thái độ trân trọng.

+ Hương thơm: Sự giàu có, vẻ đẹp và sự thơm thảo, thuần khiết toát lên từ tình yêu thương, hành động sẻ chia,
gíup đỡ.
- Ý nghĩa cả câu ( Nghĩa bóng) : Ai biết trao tặng, giúp đỡ người khác bằng sự chân thành thì người đó đã làm
đẹp cho chính tâm hồn mình và vẻ đẹp ấy sẽ lan toả góp phần làm cho cuộc sống đẹp hơn.
b) Bàn luận
(1) Vì sao lại như vậy?
- Người biết trao tặng hoa hồng, trao tặng yêu thương là người giàu có về tâm hồn. Giúp đỡ người khác, mang
đến hạnh phúc cho người khác chính là cách để tô đẹp tâm hồn mình. Yêu thương trao đi là yêu thương nhận lại
mãi mãi.
- Biểu hiện của yêu thương có muôn hình vạn trạng. Yêu thương mang đến có thể là một ánh mắt quan tâm lo
lắng hay cử chỉ ân cần. Khi trao yêu thương, ta sẽ nhận được tình yêu- trái tim của người mà ta trao tặng, có khi
chỉ đơn giản là cảm giác hạnh phúc, hài lòng về điều mình làm được cho người khác… Những giá trị vật chất sẽ
hao mòn theo thời gian nhưng yêu thương lại theo thời gian được bồi đắp mà lớn dần. Người giàu có nhất trên
thế giới chính là người có được nhiều hương thơm nhất từ những đóa hồng mà mình đã trao đi.
(2) Ý nghĩa
- Những người biết trao đi yêu thương đã và đang làm cho cuộc sống trở nên ấm áp, tươi đẹp hơn. Những con
người ấy sẽ luôn được yêu thương, cảm phục, sẽ luôn tìm được ý nghĩa của cuộc sống.
- Biết cho là đã được nhận. Được ban tặng là niềm hạnh phúc, người ban tặng lại càng hạnh phúc hơn vì họ đã
sống có ích. Họ nhận được tình yêu thương, lòng biết ơn, sự trân trọng của người khác và cuộc sống của họ
càng trở nên có ý nghĩa.
(3) Mở rộng, phản đề
- Quà tặng hay sự giúp đỡ đôi khi không quan trọng bằng cách thực hiện. Người biết cho đi bằng cả sự vô tư là
người được nhận về sự giàu có về tâm hồn. Tấm lòng chân thành và sự tinh tế của hành động trao tặng mang
vẻ đẹp thơm thảo và thuần khiết như hoa.
- Phê phán:
+ Một số biểu hiện chưa đẹp do động cơ của hành động giúp đỡ không xuất phát từ sự chân thành.


+ Nhiều người có lối sống ích kỉ, chỉ thích đón nhận, thích tích lũy cho bản thân. Cái bản ngã nhỏ nhen đôi khi
chi phối và mang đến cho con người những quan niệm sống sai lệch – sống chỉ vì mình.

c) Bài học nhận thức và hành động:
- Câu nói cho ta một bài học nhân sinh về triết lí sống của con người. Phương châm đó đã trở thành lẽ sống đẹp
của nhiều người: yêu thương, sẵn sàng giúp đỡ người khác một cách vô tư; biết quan tâm chia sẻ, trao tặng
mang đến niềm vui cho người khác. Cao hơn là biết cống hiến tài năng và sức lực cho sự phát triển đất nước.
- Bài học: Cần biết quan tâm, yêu thương những người khác; biết chuẩn bị điều kiện để thành người có ích; biết
hành động tích cực để chia sẻ, trao tặng những điều tốt đẹp để hạnh phúc luôn mỉm cười với tất cả mọi người.
3. Kết bài
Hãy để tình yêu thương tràn ngập cả thế giới này, hãy để những đóa hồng của bạn luôn ngào ngạt hương thơm.
Câu nói chứa đựng một quan niệm nhân sinh đúng đắn, đáng cho ta xem nó như một phương châm sống. Điều
ấy sẽ mang lại những điều tốt đẹp cho cuộc đời này, bởi lẽ yêu thương là thứ vĩnh hằng duy nhất trên thế gian
này, bởi lẽ “thiên đường cũng sẽ chẳng là gì nếu nơi ấy không có chỗ cho trái tim ngự trị”.
Đề 16: Vai trò của sách đối với đời sống nhân loại.
1. Mở bài
- Nhà văn M. Gorki đã nói: “Sách mở ra trước mắt tôi những chân trời mới”. Câu nói khẳng định vai trò quan
trọng của sách đối với việc nâng cao tri thức của con người.
- Ngày nay, cả nhân loại đang trên đường hướng đến một xã hội học tập. Vì vậy, sách trở thành một phương tiện
quan trọng để con người đến với tri thức. Càng ngày sách càng cho chúng ta thấy tầm quan trọng của mình với
đời sống nhân loại.
2. Thân bài
a) Giải thích
- Sách là một bản in bằng giấy có nội dung rất phong phú. Sách có từ khi loài người có chữ viết. Con người lưu
lại vào sách những suy nghĩ tâm tư, tình cảm của mình về những vấn đề trong cuộc sống: khoa học, nghệ thuật,
đời sống... Sách được phân loại theo thể loại, lĩnh vực, độ tuổi, sở thích của từng đối tượng. Sách được in với
nhiều thứ tiếng, nhiều ngôn ngữ khác nhau và có thể mang đến bất kì đâu trên thế giới.
b) Bàn luận
(1) Vai trò của sách:
- Sách cung cấp cho con người những hiểu biết, những tri thức về mọi lĩnh vực của đời sống, vượt thời gian và
vượt không gian. Sách có thể đưa ta đến với quá khứ, hiện tại, tương lai; sách có thể đưa ta lên thám hiểm mặt
trăng hay xuống đáy đại dương.
- Sách cho ta hiểu biết về chính mình. Đọc quyển sách tốt, ta được bồi đắp thêm về tâm hồn, tình cảm. Ta biết

phần chưa hoàn thiện trong con người mình để phấn đấu rèn luyện. Ta biết thành tựu của thế hệ đi trước để
phấn đấu vượt qua.
- Sách là phương tiên để ta có thể giao tiếp: giao tiếp với tác giả, với độc giả bao thế hệ để từ đó tự rèn luyện
mình.
- Sách giúp con người vươn tới những ước mơ, khát vọng; giáo dục tình cảm, đạo đức; giáo dục ý thức thẩm
mĩ...
- Nếu thiếu sách, cuộc sống con người sẽ rơi vào tăm tối, không có ánh sáng của tri thức, con người trở nên lạc
hậu.
(2) Làm thế nào để đọc sách hiệu quả?
- Cầm biết chọn sách và đọc sách:
+ Chọn sách theo mục đích sử dụng, tuy nhiên sách phải có nội dung lành mạnh, tích cực.
+ Đọc sách phải có tư duy phản biện, tránh bị chìm đắm trong thế giới mà sách tạo nên, dẫn đến xa rời thực tế,
tránh sa vào lí thuyết suông.
(3) Mở rộng, phản đề
- Ngày nay, cùng với sách, các phương tiện thông tin ngày càng trở nên đa dạng. Văn hóa đọc hình thành từ khi
có sách, đến nay không còn giữ nguyên ý nghĩa là đọc trong sách mà mở rộng thêm: đọc trong báo, đọc trên
mạng... Sách tồn tại trong cuộc sống không chỉ là sách được bán ở hiệu sách mà sách được đưa lên mạng... Dù
dưới hình thức nào, đối với con người, nhu cầu tìm hiểu thế giới tự nhiên và thế giới con người không bao giờ
vơi cạn. Vì thế, sách mãi mãi vẫn giữ vai trò quan trọng của mình trong đời sống nhân loại, là phương tiện giúp
con người nhận thức về thế giới và khám phá thế giới.


- Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, văn hoá đọc đang bị văn hoá nghe nhìn lấn át.
Nhiều bạn trẻ đã đánh mất thói quen đọc sách. Đây là một hiện tượng rất đáng lo ngại bởi nếu không chịu khó
đọc sách, con người sẽ trở nên hời hợt, thiếu tư duy tưởng tượng và thiếu trải nghiệm cần thiết.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Nhận thức được vai trò của sách, bản thân đã rèn luyện cho mình thói quen đọc sách, đọc để tích luỹ kiến
thức, đọc để hiểu biết hơn về cuộc sống.
3. Kết bài
Chừng nào con người vẫn còn nhu cầu nhận thức về thế giới và thưởng thức vẻ đẹp của trí tuệ, chừng nào loài

người còn biết đề cao văn hóa và các giá trị tinh thần, thì chừng ấy sách vẫn còn là một công cụ hữu hiệu và vô
giá trong công cuộc khai hóa nền văn minh.
Đề 17: Suy nghĩ về lòng dũng cảm.
1. Mở bài
- Lòng dũng cảm là một trong những đức tính vô cùng cần thiết và đáng quý trọng ở mỗi con người. Dù ở nơi
đâu, khi làm bất cứ một việc gì, con người đều cần lòng dũng cảm.
2. Thân bài
a) Giải thích
- Lòng dũng cảm là một đức tính tốt, thể hiện sự mạnh mẽ, tự tin của con người trong cuộc sống; không sợ khó
khăn, nguy hiểm.
- Người có lòng dũng cảm là người thực hiện được những hành động hào hiệp trong những trường hợp có vấn
đề cần giải quyết, chứng tỏ được phẩm giá của mình và cứu giúp được người khác.
b) Bàn luận
(1) Vai trò, biểu hiện của lòng dũng cảm trong đời sống:
- Giúp chúng ta có sức mạnh vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống.
- Giúp chúng ta có thể bảo vệ người khác, đứng về phía lẽ phải, chân lí. Trong chiến tranh, lòng dũng cảm biến
thành sức mạnh để mỗi con người sẵn sàng hi sinh bảo vệ tổ quốc. Khi đất nước có thiên tai (lũ lụt, hoả
hoạn…), lòng dũng cảm giúp ta đương đầu và vượt qua những tai ương đó.
- Giúp con người chiến thắng chính mình trước những cám dỗ, cạm bẫy của cuộc sống, biết xin lỗi khi làm ai bị
tổn thương, biết công nhận những điểm yếu, sai lầm của mình để sửa chữa.
Dẫn chứng: Thực tế đã chứng minh ý nghĩa và giá trị của lòng dũng cảm qua nhiều tấm gương tốt: Tấm gương
của những người anh hùng trong thời chiến như Lê Văn Tám, Kim Đồng, Võ Thị Sáu, Trần Thị Lí…; Trong thời
bình có nhiều tấm gương dũng cảm đáng học tập như anh thanh niên tay không bắt cướp, cậu học trò bỏ thi tốt
nghiệp vì cứu người đang bị lũ cuốn đi…, những tấm gương vượt lên số phận như Nguyễn Ngọc Kí, Hoa Xuân
Tứ…
(2) Ý nghĩa của lòng dũng cảm:
- Lòng dũng cảm cho ta niềm tin để vươn lên hoàn thiện mình và thực hiện những ước mơ trong cuộc sống;
- Lòng dũng cảm cho ta sức mạnh để có thể bảo vệ được người khác, bảo vệ chân lí và bảo vệ Tổ quốc;
- Lòng dũng cảm là phẩm chất tạo nên một người anh hùng.
(3) Mở rộng, phản đề

- Trái với lòng dũng cảm là hèn nhát, nhưng trái với dũng cảm còn là liều lĩnh. Tham gia đua xe máy, dám cầm
vũ khí đánh nhau, không sợ tù tội không phải là dũng cảm mà là liều lĩnh đến ngu dốt.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Nhận thức và hiểu được ý nghĩa của lòng dũng cảm, thanh niên ngày nay, nhất là học sinh, cần rèn luyện cho
mình lòng dũng cảm để vượt qua thử thách trong học tập và trong cuộc sống, tránh sa vào những tệ nạn xã hội.
3. Kết bài
Cuộc sống ngày càng khó khăn, để tồn tại con người phải đối diện với bao nhiêu thử thách, gian nan. Nếu không
có đủ nghị lực và nếu không có lòng dũng cảm, chúng ta sẽ rất khó có được sự thành công trong cuộc sống.
Đề 18: Suy nghĩ về lòng khoan dung
1. Mở bài


Không ai sinh ra là đã hoàn hảo. Bởi vậy, trong cuộc sống, ta đôi khi bắt gặp những người mắc sai lầm với
mình và mong muốn được sửa chữa những sai sót. Lúc này đây, họ rất cần sự cảm thông và đặc biệt là tấm
lòng khoan dung.
2. Thân bài
a) Giải thích
- Khoan dung là biết tha thứ, bỏ qua cho những sai lầm thiếu sót của người khác; là biết chấp nhận những yếu
đuối sai phạm của người khác và giúp họ đứng lên sau vấp ngã.
- Khoan dung còn là cách thể hiện sự cưu mang, giúp đỡ của bản thân với những người lầm đường lạc lối, giúp
cho họ được trở về hòa nhập với cuộc sống hơn.
- Khoan dung, còn nghĩa là tự tha thứ cho chính mình. Khoan dung với chính mình là tự làm cho bản thân cảm
thấy nhẹ nhõm, thoải mái hơn để có thể đưa ra quyết định, mục tiêu đúng đắn hơn.
b) Bàn luận
(1) Vì sao cần có lòng khoan dung trong cuộc sống
- Khoan dung là một đức tính tốt cần thiết trong cuộc sống:
+ Cuộc sống không tránh khỏi những va chạm, xung đột, những gièm pha, bình phẩm không thiện ý. Con người
nên chủ động giảng hòa, xoá bỏ hận thù, có hành vi ứng xử thân thiện.
+ Trong cuộc sống gia đình vợ chồng, con cái cũng có lúc nảy sinh mâu thuẫn, sự bất đồng. Khi đó rất cần sự
khoan dung của những người thân trong gia đình. Cha mẹ nên vị tha khi con mắc lỗi.

- Niềm vui mà khoan dung mang lại là niềm vui lớn, đích thực, khoan dung là biểu hiện của lối sống đẹp, thể hiện
nhân cách con người.
(2) Ý nghĩa của khoan dung trong cuộc sống
- Ta tha thứ lỗi lầm cho người để cảm hoá người. Bản thân người cảm động bởi lòng khoan dung của ta mà ăn
năn, hối lỗi, biết ơn ta, không tiếp tục mắc lỗi lầm.
- Bản thân ta thấy nhẹ lòng, tránh được những ý nghĩ, hành động hẹp hòi, thiển cận, trái đạo.
- Trong mỗi con người đều có hai mặt tốt và xấu, sáng và tối, con người luôn phải đấu tranh để chống lại nó, để
chiến thắng nó, chính là lòng khoan dung, độ lượng.
(3) Mở rộng, phản đề
- Cần biết phân biệt giữa khoan dung và bao che. Khoan dung - là chấp nhận những yếu đuối của người khác và
giúp họ sữa chữa - không có nghĩa là tiếp tay cho họ. Khoan dung cần phải tỉnh táo: dành cho những cá nhân
biết hướng thiện, tránh tạo cơ hội cho cái ác, cái xấu.
- Phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt của một số thanh niên hiện nay. Chính sự thờ ơ, lạnh nhạt, lòng ích kỷ, thiếu
khoan dung ấy đang gián tiếp tiếp tay cho tội ác lan rộng.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Nhận thức được vai trò của lòng khoan dung trong cuộc sống. Thiếu thốn tình cảm, thiếu thốn vị tha, lòng
khoan dung,... tất cả sẽ chỉ còn là một xã hội vô tri, vô giác, lạnh lùng, vô cảm…
- Khoan dung là một đức tính tốt của con người, nó làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, vì vậy, mỗi thanh niên cần
phải rèn luyện cho mình đức tính khoan dung ngay từ khi ngồi trong ghế nhà trường. Mỗi người hãy học cách
khoan dung với bản thân, với người khác bằng lòng nhân ái, bằng đức hi sinh. Không chỉ biết khoan dung, bên
cạnh đó, việc giúp người khác (hay chính mình) nhận ra sai lầm, định hướng sửa chữa cũng là điều rất quan
trọng.
3. Kết bài
Để cuộc sống tươi đẹp và giàu tình người hơn, mỗi chúng ta hãy sống một cách chân thành, luôn bao dung
và độ lượng với những người xung quanh. Khi đó, bạn sẽ cảm thấy cuộc sống thật đẹp và ý nghĩa.
Đề 19: Suy nghĩ về “cho” và “nhận” trong cuộc sống.
1. Mở bài
- Nhà thơ Tố Hữu có câu “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.
- Giữa cuộc sống bộn bề lo âu, chúng ta rất cần những yêu thương và sẻ chia, dù nó bình dị, nhỏ nhoi nhưng đó
là một tấm lòng đáng trân trọng. Trao đi yêu thương để nhận lại yêu thương vốn dĩ là một quy luật trong cuộc

sống. Đó vẫn là một mối quan hệ nhân quả giữa “cho” và “nhận” mà đôi khi ta không nhận ra.


2. Thân bài
a) Giải thích
- Cho chính là sự san sẻ, giúp đỡ, yêu thương xuất phát từ tâm, từ tim của một người. Dù “cho” rất nhỏ, nhất đời
thường nhưng đó là cả một tấm lòng đang quý.
- Nhận chính là được đáp trả, được đền ơn.
- Cho và nhận là một mối quan hệ nhân quả nhưng ẩn chứa trong đó rất nhiều mối quan hệ tương trợ, bổ sung
cho nhau.
b) Bàn luận
(1) Biểu hiện của cho và nhận
- Trong cuộc sống quanh ta, đâu đó vẫn còn những mảnh đời bất hạnh, đau khổ cần rất nhiều sự sẻ chia, giúp
đỡ, bao dung, rộng lượng. Họ cần chúng ta chia ngọt sẻ bùi.
- Chúng ta trao đi yêu thương chúng ta sẽ nhận lại sự thanh thản và niềm vui trong tâm hồn. Dù cái chúng ta
nhận lại không phải là vật chất, là những thứ hiển hiện, chỉ là niềm vui, là sự an nhiên mà thôi.
- Khi trao đi hạnh phúc cho người khác, chúng ta mới cảm thấy rằng cuộc sống của mình thực đáng sống và
đáng trân trọng. Có nhiều người làm từ thiện cả một đời, họ trao đi rất nhiều mà chẳng mong nhận lại điều gì.
Nhưng thứ họ nhận được là sự nhẹ nhõm và bình an trong tâm mình.
- Những người đang cho đi, đôi khi sự nhận lại không phải trong phút chốc, cũng không hẳn nó sẽ hiển hiện
ngay trước mắt. Điều bạn nhận lại có khi là cả một quá trình, sau này bạn mới nhận ra mình được đáp trả nhiều
hơn cái cho đi đó.
(2) Ý nghĩa của cho và nhận
- Cho và nhận là những quy luật của tự nhiên và xã hội loài người. Trong xã hội, vấn đề này càng cần được
nhận thức rõ ràng: không cho thì không thể nào nhận được.
- Cho và nhận xứng đáng được ngợi ca với tinh thần ta biết sống vì người khác, một người vì mọi người.
- Cho là một hạnh phúc, vì phải có mới cho được, điều đó càng có ý nghĩa khi cái ta cho không chỉ là vật chất,
tiền bạc mà là lòng nhân ái.
- Xã hội càng phát triển, vấn đề cho và nhận càng được nhận thức rõ ràng. Muốn đời sống được nâng lên, mỗi
cá nhân phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ, sáng tạo trong nghiên cứu, ứng dụng. Có như vậy, bằng

tài năng và sức lực, mới góp phần làm giàu cho Tổ quốc, làm giàu cho bản thân. Khi đó, cái mà ta cho cũng là
cái ta nhận. Trong cuộc sống, nếu chỉ cho mà không nhận thì khó duy trì lâu dài, nhưng nếu như cho và lại đòi
hỏi được đền đáp thì sự cho mất đi giá trị đích thực của nó.
(3) Mở rộng, phản đề
- Cho và nhận đáng phê phán khi: những kẻ tham lam tàn nhẫn sống trên mồ hôi nước mắt của người khác, kẻ
tầm thường chỉ muốn nhận muốn vay mà không muốn cho, muốn trả.
- Phê phán một bộ phận lớp trẻ hiện nay chỉ biết nhận từ cha mẹ, từ gia đình, người thân… để rồi sống ích kỉ, vô
cảm, không biết chia sẻ với bạn bè, đồng loại.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Cuộc sống của mỗi người sẽ trở nên tầm thường nếu chỉ biết nhận mà không biết cho. Vì thế, sống, hãy đừng
chỉ biết nhận lấy, mà còn học cách cho đi.
3. Kết bài
Hãy mở rộng lòng mình để cảm nhận cuộc sống. Hãy yêu thương nhiều hơn, chia sẻ nhiều hơn để xã hội
càng văn minh, để cái nắm tay giữa con người với con người thêm ấm áp.
Đề 20: Suy nghĩ của anh (chị) về mối quan hệ giữa tài và đức.
1. Mở bài
- “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” câu nói bất hủ của
Hồ Chủ tịch luôn là bài học quý báu trong lòng người Việt Nam. Ngày nay mối quan hệ giữa đức và tài rất quan
trọng, để trở thành một công dân có ích cho xã hội, con người cần rèn luyện cho mình cả hai giá trị cơ bản đó.
2. Thân bài
a) Giải thích vấn đề
- Tài: là trình độ, năng lực, khả năng sáng tạo của con người.


- Đức: là phẩm chất và nhân cách của con người.
- Tài và đức thể hiện vẻ đẹp nhân cách của con người.
b) Bàn luận
(1) Biểu hiện của tài và đức:
- Tài được thể hiện qua khả năng của con người về một hoặc nhiều lĩnh vực nào đó trong xã hội. Người có tài là
người có khả năng làm tốt một việc hoặc nhiều việc. Công việc ấy phải làm được nó và làm thật đẹp thật tốt thì

mới gọi được là tài. Còn có những con người biết nhiều, làm tốt được nhiều công việc thì người đó là người đa
tài, tức là có nhiều khả năng để làm tốt nhiều việc.
- Đức là đạo đức của một con người. Nói rõ hơn thì nó là những quy tắc chuẩn mực xã hội phù hợp với những
đạo lí sống trên đời giữa người với người. Người có đạo đức là người luôn biết sống đúng với những cái được
gọi là đẹp nhất. Nói cách khác người có đạo đức luôn có một tấm lòng lương thiện.
- Biểu hiện của người có tài có đức trong xã hội: Các nhà bác học có tài có tâm có những phát kiến vĩ đại vì con
người, giúp cho sự phát triển của loài người… Dù ở bất kì lĩnh vực nào, con người tài đức đều mang lại những
lợi ích nhất định cho loài người.
(2) Mối quan hệ giữa tài và đức
- Hai khái niệm đức và tài có quan hệ chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau trong một con người. Nói cách
khác thì yếu tố để làm nên một con người có ích cho chính bản thân, gia đình, bạn bè và đất nước phải là một
con người có tài và có đức.
+ Chú trọng tài mà không quan tâm đến đức sẽ dẫn tới lệch lạc trong suy nghĩ và hành động, thiếu sự phấn đấu,
tu dưỡng và rèn luyện của bản thân; thậm chí sẽ dẫn tới suy nghĩ và hành động gây hại cho cộng đồng và xã
hội.
+ Chỉ lo phấn đấu tu dưỡng đức mà không quan tâm đến việc nâng cao trình độ, năng lực và khả năng sáng tạo
của bản thân thì cũng không thể đóng góp nhiều cho cộng đồng và xã hội.
- Giải quyết mối quan hệ hài hòa, gắn bó giữa tài và đức sẽ giúp con người phát triển toàn diện và có nhiều đóng
góp hữu ích cho bản thân và cho cộng đồng.
- Những người có tài và có đức sẽ được mọi người kính trọng và nể phục, là những người đóng góp được nhiều
cho cộng đồng, cho sự phát triển của đất nước.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Nhận thức được tầm quan trọng và sự thống nhất của tài và đức trong một con người.
- Bài học của bản thân: rèn đức luyện tài. Cần cố gắng học tập, tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản thân hoàn
thiện để trở thành người có đức, có tài bởi đó là người cao quý, là hiền tài, là vốn quý của quốc gia là tiêu chuẩn
của con người mới.
3. Kết bài
Dù trong thời đại nào, tài và đức luôn là hai phẩm chất đáng quý, đáng trân trọng làm nên giá trị của con người.
Hãy trở thành người tài đức vẹn toàn để cuộc sống và những cống hiến của bạn có ý nghĩa hơn.
Đề 21: Hãy viết về ước mơ tuổi học trò.

1. Mở bài
- Một câu nói đáng để ta suy ngẫm: “Ở trên đời, mọi chuyện đều không có gì khó khăn nếu ước mơ của mình đủ
lớn”.
- Ước mơ là nhựa sống để nuôi dưỡng tâm hồn ta lớn lên, sống có mục đích, có tương lai, hạnh phúc. Cuộc đời
sẽ tẻ nhạt, vô nghĩa biết bao khi con người ta sống không có ước mơ, khát vọng.
- Tuổi trẻ càng cần có ước mơ để lấy đó làm động lực, định hướng vững bước trên đường đời.
2. Thân bài
a) Giải thích


- Ước mơ: là điều tốt đẹp ở phía trước mà con người tha thiết, khao khát, ước mong hướng tới, đạt được.
- Tuổi học trò là lứa tuổi trước 18, ngày ngày cắp sách tới trường, là tuổi có nhiều biến đổi tâm lí, chưa nhận
thức được đúng và đầy đủ về cuộc sống.
b) Bàn luận
(1) Vì sao cần có ước mơ
- Mỗi một con người tồn tại trên cõi đời này phải có riêng cho mình ước mơ, hi vọng, lí tưởng, mục đích sống
của đời mình.
- Cuộc sống luôn luôn chưa đựng những chông gai và cả những thử thách nhưng dũng cảm vượt qua nó và
dám đối mặt với những khó khăn và thử thách đó con người sẽ đạt được nhưng điều mà mình mong muốn. Khó
khăn và thử thách sẽ trở thành vô hình nếu ước mơ của chúng ta đủ lớn, con người không quản ngại mà cố
gắng để đạt được những ước mơ và hoài bão đó.
- Khi có ước mơ, họ sẽ luôn trang bị cho mình những kiến thức, những kế hoạch cho tương lai một cách khoa
học và áp dụng vào thực tiễn rất hợp lí, cần thiết để biến ước mơ thành hiện thực.
- Có ước mơ, cuộc sống sẽ tràn ngập những niềm vui và tiếng cười bởi con người sống có mục đích, có ý nghĩa.
(2) Những đặc điểm của ước mơ tuổi học trò
- Tuổi học trò là lứa tuổi có rất nhiều mơ ước và hoài bão, là lứa tuổi mơ mộng nhất của mỗi người. Mơ ước đối
với lứa tuổi học trò chính là lẽ sống, là mục đích sống, lí tưởng sống để các em vươn lên trong học tập, vượt qua
những thử thách dù là nhỏ nhất.
- Mơ ước đối với lứa tuổi học trò là vô cùng nhiều và khó có thể kể hết được. Ước mơ sẽ trở nên đẹp đẽ và giàu
ý nghĩa hơn khi chúng ta biết biến nó thành hiện thực.

- Ước mơ là một phần của hạnh phúc, hạnh phúc khi có khi con người nhận ra cuộc sống tươi đẹp. ước mơ giúp
cuộc sống của chúng ta trở nên tốt đẹp hơn.
(3) Mở rộng, phản đề
- Có không ít các em học sinh coi mong ước là điều viển vông, sẽ mãi mãi không thực hiện được, quan điểm ấy
thực tế làm mất đi ý chí phấn đấu của con người.
- Mơ ước không chỉ là sự ích kỉ của bản thân mà còn là ước mơ cho cả những người thân có cuộc sống khoẻ
mạnh, hạnh phúc hay mơ ước cho trẻ em nghèo, mơ ước cho những em bé mồ côi, có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn biết vươn lên trong cuộc sống. ước mơ có thể chỉ là những điều giản dị, trong sáng.
- Phê phán: Ước mơ có thể thành, có thể không, xin người hãy tự tin. Nếu sợ ước mơ bị thất bại mà không dám
ước mơ, hay không đủ ý chí, nghị lực mà nuôi dưỡng ước mơ “đủ lớn” thì thật đáng tiếc, đáng phê phán. Cuộc
đời sẽ chẳng đạt đạt được điều gì mình mong muốn, sống như thế thật tẻ nhạt, vô nghĩa.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Nhận thấy vai trò, tầm quan trọng của ước mơ trong cuộc sống.
- Mỗi người chúng ta hãy tìm cho mình một ước mơ, hi vọng để cuộc sống luôn dồi dào năng lượng, đầy ý
nghĩa.
3. Kết bài
- Có người đã ví: “Ước mơ giống như ngọn hải đăng, chúng ta là những con thuyền giữa biển khơi bao la, ngọn
hải đăng thắp sáng giúp cho con thuyền của chúng ta đi được tới bờ mà không bị mất phương hướng”. Sự ví von
quả thật chí lí, giúp người ta hiểu rõ, hiểu đúng hơn về ước mơ của mình, để chúng ta tìm lại cho mình ước mơ,
khát vọng.
Đề 22: Suy nghĩ của em về câu nói: “Một quyển sách tốt là một người bạn hiền”.
1. Mở bài
“Sách mở ra trước mắt ta những chân trời mới”. Lời nhận định ấy quả không sai. Nếu thiếu sách báo thì cuộc
sống ta sẽ buồn tẻ, hụt hẫng biết bao. Sách giúp ta rất nhiều trong quá trình học tập và rèn luyện, giúp ta giải
đáp mọi thắc mắc, ưu phiền... Sách chẳng khác nào là người bạn của chúng ta. Cho nên khi bàn về ích lợi của
sách, La Rochefoucault có nhận định: “Một quyển sách tốt là một người bạn hiền”.


2. Thân bài
a) Giải thích:

- Giải thích từ:
+ Sách tốt là loại sách mở ra cho ta chân trời mới, giúp ta mở mang kiến thức về nhiều mặt: cuộc sống, con
người, trong nước, thế giới, đời xưa, đời nay, thậm chí cả những dự định tương lai, khoa học viễn tưởng.
+ Bạn hiền là người bạn có thể giúp ta chia sẻ những nỗi niềm trong cuộc sống, giúp ta vươn lên trong học tập,
cuộc sống.
- Nội dung câu nói: Câu nói bàn đến tác dụng của việc đọc được cuốn sách hay.
b) Bàn luận
(1) Vì sao sách tốt là người bạn hiền?
- Sách tốt là người bạn hiền kể cho ta bao điều, cho ta nhiều kiến thức bổ ích. Sách tốt giúp ta học hỏi được
nhiều điều hay, nhiều điều mới lạ. Bởi sách là kết quả của quá trình nghiên cứu lâu dài tìm tòi suy ngẫm có khi
không mài của một người mà là của nhiều người, có khi không phải của một đời mà là nhiều thế hệ nhất là
những quyển sách thuộc lĩnh vực khoa học, y học, thiênn văn, xã hội học, kinh tế học...
- Sách cho ta hiểu và cảm thông với bao kiếp người, với những mảnh đời ở những nơi xa xôi, giúp ta vươn tới
những chân trời của ước mơ, ước mơ một xã hội tốt đẹp. Sách tốt giúp cho ta có một đời sống tâm hồn tốt đẹp,
biết yêu ghét rạch ròi, biết phân biệt bạn và thù, biết thông cảm với niềm đau, nỗi bất hạnh của con người.
- Sách chia sẻ, động viên ta những lúc ta buồn, gặp những chuyện không vui trong cuộc sống. Sách cho ta
những phút giải trí ý nghĩa, đem lại cho ta niềm vui, niềm tin, hi vọng vào cuộc sống.
(2) Thái độ đối với sách
- Sách có vai trò rất lớn với con người, vì thế phải biết yêu sách, quý sách, đọc sách.
- Đọc sách cũng cần có phương pháp, kĩ năng, để những kiến thức trong sách thực sự mang lại những tác dụng
bổ ích, thực tế cho người đọc.
(3) Mở rộng, phản đề
- Tuy nhiên, trong thực tế không phải sách nào cũng tốt cả. Bởi lẽ bên những quyển sách có giá trị rất cần thiết
cho chúng ta thì cũng có không những quyển sách vô bổ có hại đang có mặt rộng rãi khắp trên thị trường. Đó là
những quyển sách đầu độc tuổi thơ, kích động bạo lực tuyên truyền văn hóa đồi truỵ... mà ta cần phải tránh xa.
Vì vậy ta phải biết chọn sách tốt mà đọc. Nếu chọn được sách tốt tức là ta đã chọn được một bạn hiền.
c) Bài học nhận thức và hành động
- Liên hệ: Thế hệ trẻ ngày nay không còn coi sách là người bạn thân thiết. Những cuốn sách như Chiến tranh và
hoà bình, Tam quốc diễn nghĩa, Thép đã tôi thế ấy… không còn được gối đầu giường như xưa nữa. Như thế,
chúng ta đã đánh mất đi một người bạn hiền của mình. Vì thế, hãy biết đọc sách và yêu sách.

3. Kết bài
Trong thời đại ngày nay, sách không phải là phương tiện duy nhất để cho người giải trí, học hỏi, nhưng có
thể nói sách mãi mãi là người bạn cần thiết chúng ta. Do đó ta phải yêu sách như yêu bạn, biết giữ gìn sách tốt
như giữ tình bạn. Vì thế nhận định của nhà tư tưởng La Rochefoucault là một nhận có giá trị muôn đời.
Đề 23: Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết “Đoàn viên và Thanh niên ta nói chung là tốt, mọi
việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ…”. Trình bày suy nghĩ của anh (chị)
về câu nói trên.
1. Mở bài
- Đoàn viên, Thanh niên là nhân vật trung tâm của tổ chức Đoàn, là lực lượng nòng cốt trong công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước.
- Khẳng định vai trò và ngợi khen những phẩm chất cao đẹp của Đoàn viên, Thanh niên, trong Di chúc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh có viết “Đoàn viên và Thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại
khó khăn, có chí tiến thủ…”
2. Thân bài


a) Giải thích
- Bác khẳng định vai trò to lớn, phẩm chất cao đẹp của Đoàn viên thanh niên trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, xây dựng bảo vệ đất nước nói chung. Câu nói có ý nghĩa nhắc nhở một bộ phận thanh niên còn
có biểu hiện tiêu cực, chưa xứng đáng với lòng tin, lòng mong mỏi của Đảng và nhân dân nói riêng.
b) Bàn luận
(1) Vai trò của Đoàn viên, thanh niên trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
- Truyền thống tốt đẹp của Đoàn viên, Thanh niên ta trong quá khứ:
+ Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều thanh niên đã tham gia chiến đấu, anh dũng hi sinh: Lý Tự Trọng,
Võ Thị Sáu, Bế Văn Đàn… Nhiều người tham gia lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học phục vụ kháng chiến:
Trần Đại Nghĩa, Ngô Gia Khảm…
+ Khi miền Bắc được giải phóng, thanh niên đi đầu trong công cuộc lao động, xây dựng và bảo vệ đất nước:
Phạm Thị Vách, Hồ Giáo…
+ Trong kháng chiến chống Mỹ: Nguyễn Bá Ngọc, Nguyễn Viết Xuân, Nguyễn Văn Trỗi…
à Đoàn viên, Thanh niên là lực lượng nòng cốt trong công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước cũng như gìn giữ,

gây dựng và phát triển đất nước. Không thể phủ nhận vai trò quyết định của Đoàn viên, Thanh niên đối với sự
tồn vong của một quốc gia.
- Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đoàn viên, Thanh niên có rất nhiều phong trào sôi nổi:
Lập thân – lập nghiệp, Mùa hè xanh, Thanh niên tình nguyện… Nhiều tấm gương tiêu biểu như Đặng Thái Sơn,
Lê Bá Khánh, Ngô Bảo Châu…
(2) Nhiệm vụ của Đoàn viên, Thanh niên trong thời đại mới
- Là Đoàn viên, Thanh niên phải nêu cao tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc. Ý thức được vai trò, trách
nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, làm cho quê hương trở nên giàu
đẹp.
- Đoàn kết, thân ái vì cộng đồng. Sẵn sàng đóng góp sức của mình cho công việc chung, vì lợi ích chung.
- Xung kích xây dựng nếp sống lành mạnh, văn minh, phòng chống tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
-Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn.
(3) Mở rộng, phản đề
- Bên cạnh những Đoàn viên, Thanh niên năng động, tự tin, sáng tạo, còn tồn tại một bộ phận thanh niên có biểu
hiện tiêu cực: vướng vào tệ nạn xã hội, ngại khó, ngại khổ, sống không có lí tưởng, thiếu chí tiến thủ…
c) Bài học nhận thức và hành động
- Nhận thức được vai trò quan trọng của Đoàn viên, Thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Nhiệm vụ của Đoàn viên thanh niên trong tình hình mới của đất nước: Phải luôn nỗ lực học tập; Sống văn hóa,
tuân thủ pháp luật; Phải luôn nỗ lực học tập; Xung kích trên mọi lĩnh vực; Sống có lí tưởng, luôn năng động sáng
tạo…
3. Kết bài
Mỗi chúng ta hãy sống theo đúng tinh thần “Đâu cần Thanh niên có, đâu khó có Thanh niên” để cuộc sống của
bản thân trở nên ý nghĩa hơn, để góp một phần sức nhỏ bé của mình vào dáng hình đất nước, để làm yên lòng
người cha yêu dấu của dân tộc Việt Nam.
Đề 24: Dân tộc ta có truyền thống tôn sư trọng đạo. Theo anh (chị), truyền thống ấy được tiếp nối như
thế nào trong thực tế cuộc sống hiện nay.
1. Mở bài
- Từ xa xưa đã có câu ca: Muốn sang thì bắc cầu kiều/ Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. Hoặc thâm thúy hơn,
ông cha ta cũng từng nhắc con cháu: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” (Một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy).
- "Tôn sư trọng đạo" là một trong những truyền thống tốt đẹp nhất của người Việt Nam. Đó là đạo lí của những

người học trò mà chúng ta cần phải trân trọng, giữ gìn và phát huy.
2. Thân bài
a) Giải thích
- Giải thích từ ngữ:


×