Trêng
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HƯNG YÊN
TRƯỜNG THPT PHÙ CỪ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CÁCH RA ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI TRONG
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Lĩnh vực/Môn: Ngữ Văn
Người viết: Nguyễn Văn Song
Trường: Trung học phổ thông Phù Cừ
Năm học: 2013 – 2014
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
Lý lịch
Họ và tên tác giả : Nguyễn Văn Song
Chức vụ: Phó hiệu trường
Đơn vị công tác: Trường THPT Phù Cừ - Phù Cừ - Hưng Yên
Tên sáng kiến:
“CÁCH RA ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI TRONG TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
2
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
PHẦN MỞ ĐẦU
I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.CỞ SỞ LÍ LUẬN:
Nghị luận xã hội là một trong hai kiểu bài nghị luận trong nhà trường phổ
thông. Nếu nghị luận văn học giúp học sinh nâng cao năng lực cảm thụ tác phẩm
văn học, đưa ra những ý kiến đánh giá về các vấn đề văn học để từ đó bồi đắp
thế giới tâm hồn, tình cảm của mình thì nghị luận xã hội lại giúp học sinh khả
năng đưa ra ý kiến, suy nghĩ của bản thân mình trước những hiện tượng đời
sống, trước các vấn đề xã hội, những tư tưởng đạo lý để từ đó hình thành ý thức
công dân và nhân cách con người. Chất lượng của việc dạy và học làm văn nghị
luận xã hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với chất lượng giáo dục đạo đức học
sinh trong nhà trường. Muốn việc dạy và học làm văn nghị luận xã hội trong nhà
trường có chất lượng, cần phải rất quan tâm đến việc ra đề thi và kiểm tra. Đề thi
và kiểm tra là thước đo đồng thời là kim chỉ nam định hướng cho việc dạy và
học. Đề thi và kiểm tra nghị luận xã hội sáng tạo, có tính giáo dục, phù hợp với
đối tượng học sinh, phát huy tính chủ động, độc lập suy nghĩ của học sinh mới
mong việc dạy và học làm văn nghị luận xã hội trong nhà trường đạt hiệu quả.
2.CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Học sinh ngày nay phải đối mặt với rất nhiều vấn đề của đời sống xã hội.
Sự phát triển của kinh tế, khoa học, công nghệ dẫn đến những thay đổi về giá trị,
quan điểm, lối sống, đạo đức. Chính vì thế, đề văn nghị luận xã hội cũng phải đề
cập được những vấn đề mới mẻ, phức tạp thường xuyên xuất hiện trong đời sống
nói chung và đời sống, tình cảm của học sinh nói riêng để các em được bày tỏ
suy nghĩ, quan niệm của mình. Mỗi thời đại, mỗi thế hệ thậm chí là mỗi ngày lại
có những yêu cầu mới, nhiệm vụ mới trong công tác giáo dục học sinh. Điều đó
đòi hỏi người giáo viên dạy văn phải ra được những đề văn nghị luận theo sát với
xã hội và phản ánh kịp thời những tâm tư, suy nghĩ của thế hệ học sinh.
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
3
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
Việc ra đề văn nghị luận xã hội ở nhà trường trung học nói chung và ở
trường THPT Phù Cừ nói riêng đã được quan tâm nhưng chất lượng đề nói
chung còn hạn chế. Chính vì thế tôi chọn vấn đề “Cách ra đề văn nghị luận xã
hội trong trường THPT” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu đề tài này, tôi muốn bản thân mình có được những kỹ năng
cần thiết để ra được những đề thi và kiểm tra về nghị luận xã hội phù hợp với
học sinh, thúc đẩy việc dạy và học nghị luận xã hội ở trường THPT Phù Cừ,
đồng thời muốn chia sẻ kinh nghiệm với bạn bè, đồng nghiệp gần xa nhằm nâng
cao chất lượng dạy và học bộ môn Ngữ văn nói chung trong nhà trường THPT.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Đề tài nghiên cứu của tôi giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu thực trạng việc ra đề thi và kiểm tra nghị luận xã hội hiện nay ở
trường THPT Phù Cừ.
- Những yêu cầu cần thiết của một đề thi, đề kiểm tra nghị luận xã hội
- Các bước đề thi và kiểm tra về nghị luận xã hội.
- Giới thiệu một số đề thi và kiểm tra nghị luận xã hội.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc tài liệu, giáo trình có liên quan
đến các vấn đề cần nghiên cứu. Nghiên cứu sách giáo khoa, sách tham khảo và
các nguồn tư liệu.
2. Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành ra các đề thi và kiểm tra để sử
dụng trong các bài thi và kiểm tra, làm đáp án, hướng dẫn chấm cho các đề đã ra.
3. Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm
4. Phương pháp thống kê toán học: Thu thập, xử lý, đánh giá kết quả khi
áp dụng đề tài
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
4
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI:
1. Khái niệm văn nghị luận:
Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết (người nói) trình bày những
ý kiến của mình bằng cách dùng lí luận bao gồm cả lí lẽ và dẫn chứng để làm rõ
một vấn đề thuộc về chân lí nhằm làm cho người đọc (nghe) hiểu, tin, đồng tình
với những ý kiến của mình và hành động theo những điều mà mình đề xuất.
2. Vai trò, vị trí của văn nghị luận :
Văn nghị luận đã hình thành từ xa xưa và phát triển cùng với sự phát triển của tư
tưởng, văn hóa nhân loại và góp phần vào sự phát triển ấy. Ngày nay, văn nghị
luận càng phát triển mạnh mẽ. Nó thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đới sống xã
hội. Nó là vũ khí khoa học và vũ khí tư tưởng sắc bén , giúp cho con người nhận
thức đúng đắn các lĩnh vực của đời sống xã hội và hướng dẫn, thúc đẩy hoạt
động thực tiễn của con người.
Do đó, học làm văn nghị luận là một công việc, một yêu cầu rất trọng yếu của
việc học văn trong nhà trường. Văn nghị luận đặt ra những vấn đề tư tưởng và
học thuật đòi hỏi người học sinh phải giải quyết, từ đó giúp cho các em vận dụng
tổng hợp các tri thức đã học được từ tự nhiên đến xã hội, rèn luyện khả năng
diễn đạt bằng ngôn ngữ, khả năng tư duy logic khoa học, nghĩa là có phương
pháp tư duy đúng để tìm hiểu đúng vấn đề và có thái độ đúng trước các sự việc
sảy ra trong cuộc sống. Từ đó góp phần tích cực vào việc xây dựng và hoàn thiện
nhân cách của người học sinh. Vì vậy, văn nghị luận ngày càng chiếm một vị trí,
giữ một vai trò quan trọng trong cuộc sống.
II. THỰC TRẠNG VIỆC RA ĐỀ THI VÀ KIỂM TRA NGHỊ LUẬN XÃ
HỘI MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT
Từ năm 2006, khi Bộ Giáo dục và Đào tạo thay sách giáo khoa môn Ngữ
văn, nghị luận xã hội đã được chú trọng hơn trước đây. Nhiều bài kiểm tra trong
chương trình có nội dung là nghị luận xã hội. Các giáo viên trong tổ đã có ý thức
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
5
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
cao trong việc thực hiện việc ra đề thi và kiểm tra về nghị luận xã hội. Tuy nhiên
công việc này vẫn tồn tại những hạn chế sau:
- Chủ yếu các đề thi và kiểm tra được các giáo viên sử dụng đều là các đề
đã có trong sách giáo khoa hoặc trong sách giáo viên. Điều này dẫn đến việc lặp
đi, lặp lại của các đề thi và kiểm tra. Nhiều đề đã có đáp án, có bài mẫu trong các
sách tham khảo và trên Internet nên khi kiểm tra, thi cử, học sinh đã tìm cách để
quay cóp, sao chép, không phát huy được tính tích cực, độc lập của học sinh.
- Các dạng đề thi và kiểm tra về nghị luận xã hội chưa đa dạng, phong
phú, chưa hấp dẫn với học sinh.
- Việc ra hướng dẫn chấm chủ yếu vẫn là một chiều, ít có đất để học sinh
bày tỏ ý kiến riêng đặc biệt là những ý kiến trái chiều.
III. YÊU CẦU CỦA MỘT ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
1. Đề nghị luận xã hội phải có tính giáo dục có tính giáo dục
Nếu nghị luận văn học giúp học sinh nâng cao năng lực cảm thụ tác phẩm
văn học, đưa ra những ý kiến đánh giá về các vấn đề văn học để từ đó bồi đắp
thế giới tâm hồn, tình cảm của mình thì nghị luận xã hội lại giúp học sinh khả
năng đưa ra ý kiến, suy nghĩ của bản thân mình trước những hiện tượng đời
sống, trước các vấn đề xã hội, những tư tưởng đạo lý để từ đó hình thành ý thức
công dân và nhân cách con người. Chính vì thế, yêu cầu đầu tiên của một đề văn
nghị luận xã hội là phải mang tính giáo dục cao. Đề văn nghị luận xã hội phải
định hướng giáo dục cho học sinh những tình cảm cao đẹp như tình yêu con
người, yêu cuộc sống, yêu quê hương, cội nguồn, gia đình; bồi đắp cho học sinh
nhân cách đẹp với các phẩm chất như lòng vị tha, sự dũng cảm, tính trung thực,
lòng tự trọng; hướng học sinh đến lý tưởng sống, mục đích sống có ý nghĩa trong
cuộ đời, những lối sống trong sáng, lành mạnh…Điều tưởng như tất yếu này
nhưng đôi khi, vì cách suy nghĩ chưa thấu đáo hoặc do kỹ thuật của người ra đề
mà đề văn nghị luận xã hội chưa đảm bảo được tính giáo dục, thậm chí còn phản
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
6
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
giáo dục. Năm 2013 vừa qua, trong đề thi học sinh giỏi của Sở Giáo dục và Đào
tạo Hải Phòng có đề văn nghị luận xã hội như sau: “Người mẫu Ngọc Trinh từng
trả lời phỏng vấn rằng: "Yêu không có tiền thì cạp đất mà ăn à?". Mới đây, cô
gái trẻ Lê Thị Huyền Anh (biệt danh "Bà Tưng") khi trả lời một trang mạng xã
hội, cũng thẳng thắn: "Tôi mơ ước có nhiều đại gia, nhiều người giàu quan tâm
đến mình, cho tôi thật nhiều tiền” (theo Vietnamnet). Từ những hiện tượng trên,
anh/chị hãy viết một bài văn (tối đa 800 từ) về chủ đề: "Tiến bộ xã hội và ước
mơ đại gia của cô gái trẻ". Đề văn trên lập tức gây nhiều bức xúc trong dư luận
xã hội. Nhiều nhà văn, nhà giáo không ngần ngại khẳng định đây là một đề văn
vô tình cổ xúy cho cái xấu, cho lối sống vật chất tầm thường của một bộ phận
giới trẻ. Điều đáng trách của người ra đề là cẩu thả trong việc nêu luận đề nghị
luận “Tiến bộ xã hội và ước mơ đại gia của những cô gái trẻ”. Cách nêu luận
điểm như thế vô hình chung khiến người đọc hiểu rằng lối sống buông thả, thực
dụng của các nhân vật trên chính là ước mơ chính đáng của những cô gái trẻ
trong một xã hội tiến bộ.
2. Đề văn nghị luận xã hội phải có tính thiết thực, phù hợp với học sinh.
Đối tượng của các đề thi nghị luận xã hội chính là các em học sinh THPT
độ tuổi từ 15 đến 18. Chúng ta ra đề để các em được nói nên những suy nghĩ,
mong muốn, ý kiến của mình đồng thời chính chúng ta cũng muốn tác động, giáo
dục, định hướng cho các em. Muốn vậy thì đề thi phải thiết thực, gần gũi và phù
hợp với các em như mối quan hệ thầy trò, bạn bè, tình yêu tuổi học trò, ước mơ
về nghề nghiệp trong tương lai, khát vọng sống của tuổi trẻ, những tấm gương
tuổi trẻ, những biểu hiện tiêu cực trong giới trẻ, trong nhà trường…Đừng nghĩ
các em là các nhà chính trị, các học giả uyên bác, các nhà xã hội học mà ra cho
các em những đề văn quá trừu tượng, đòi hỏi sự tư duy, suy nghĩ vượt tuổi. Đã
có thời câu nói của Gớt- nhà thơ, nhà triết học vĩ đại của Đức “ Lý thuyết chỉ
một màu xám xịt. Còn cây đời mãi mãi xanh tươi” hay câu nói của Herriot–
nhà khoa học và chính khách, viện sĩ Viện hàn lâm Pháp “Văn hóa là cái còn lại
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
7
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
khi ta quên tất cả, là cái còn thiếu khi ta đã học tất cả” được sách giáo khoa và
nhiêu giáo viên lụa chon làm đề kiểm tra cho học sinh. Thú thực, chính bản thân
tôi thấy những đề văn ấy còn quá sức với mình huống chi là với học sinh. Hiểu
thì hiểu được nhưng triển khai thành bài văn nghị luận xã hội với các thao tác
cần có không phải là một điều đơn giản với những câu nói trên. Hàn lâm quá,
triết lý sâu xa quá so với lứa tuổi học trò từ 15 đến 18 tuổi. Năm 2012, trong kỳ
thi tuyển vào Đại học FPT có đề văn nghị luận xã hội như sau:
“ Đại thi hào Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều:
Xưa nay trong đạo đàn bà
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường
Có khi biến, có khi thường
Có quyền, nào phải một đường chấp kinh
Và chính ông cũng lại viết:
Đạo tòng phu, lấy chữ trinh làm đầu
Ngày xưa, nếu cô dâu bị mất trinh thì coi như mất hết, hôn nhân đỗ vỡ,
người vợ bị đem trả lại. Nhưng ngày nay, đối với nhiều bạn trẻ, cái màng trinh
không còn ý nghĩa quan trọng đến thế, thậm chí nhiều người còn ủng hộ quan
điểm tình dục trước hôn nhân.
Vậy theo bạn, người phụ nữ có nhất thiết phải giữ gìn trinh tiết trước khi
về nhà chồng? Và hạnh phúc thật sự của một cuộc hôn nhân có phụ thuộc vào
việc người vợ có còn trinh hay không?”
Nói thực, với tôi thì đề này có quá nhiều điều để nói về kỹ thuật làm đề
nhưng cơ bản nhất là đề văn này không phù hợp với một kỳ thi tuyển vào một
trường đại học. Nó động chạm một vấn đề khá tế nhị không đúng lúc đồng thời
nó còn khiến người ta hiểu sai lệch về quan niệm của Nguyễn Du về trinh tiết
của người phụ nữ thời phong kiến. Chữ trinh mà Nguyễn Du bàn đến là đức
hạnh, phẩm cách của người phụ nữ nói chung trong đó có ẩn ý bao hàm về trinh
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
8
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
tiết của người phụ nữ nhưng đề bài này đặt vấn đề một cách rất thô thiển về “cái
màng trinh” và quan điểm “tình dục trước hôn nhân”. Thậm chí đề còn hỏi “có
nhất thiết phải giữ gìn trinh tiết” giống như một gợi ý cho người viết bày tỏ quan
điểm “không nhất thiết”. Tôi không phải kiểu người cổ hủ nhưng không hiểu sao
khi đọc đề văn này, tôi thấy gai hết cả người.
3. Đề văn nghị luận xã hội phải có tính thời sự:
Tính thời sự nghĩa là vấn đề nghị luận đang là vấn đề được xã hội quan
tâm hoặc nó là những hiện tượng vừa mới diễn ra và có tác động mạnh đối với
mọi người. Có những vấn đề luôn giữ được tính thời sự, luôn là điều cần thiết
phải giáo dục cho giới trẻ nhưng có những vấn đề nó chỉ mang tính thời sự trong
một thời điểm nhất định nào đó. Chẳng hạn vấn đề về môi trường, về tai nạn giao
thông luôn là những vấn đề thời sự trong đời sống hiện đại. Trong đề thi tốt
nghiệp năm 2013 có đề nghị luận xã hội về em Nguyễn Văn Nam, một học sinh
ở Đô Lương - Nghệ An. Đề thi yêu cầu viết một bài văn ngắn khoảng 400 từ bày
tỏ suy nghĩ về hành động dũng cảm của học sinh Nguyễn Văn Nam khi lao
xuống dòng nước cứu sống 5 học sinh rồi bị dòng nước cuốn trôi khi kiệt sức.
Đây là một đề thi mang tính thời sự lúc ấy vì sự kiện em Nam dũng cảm cứu 5
học sinh rồi tử nạn vừa mới diễn ra cách thời điểm đó không lâu. Đề văn ấy đã
có tính giáo dục và tác động sâu sắc trong giới trẻ và dư luận nhờ tính thời sự
cao.
4. Đề văn nghị luận xã hội phải mới mẻ và hấp dẫn
Cái hay của một đề nghị luận xã hội đúng nghĩa là ở chỗ nó không có sẵn
như những đề nghị luận văn học nên tránh được việc học sinh quay cóp, sao
chép, giúp học sinh độc lập tư duy, suy nghĩ. Tuy nhiên, nếu các thầy cô không
ra được đề mới mà sử dụng những đề đã quen thuộc thì cũng không khác gì đề
văn nghị luận văn học. Những vấn đề cần nghị luận thì khó có thể mới nhưng
ngữ liệu và cách hỏi thì phải mới, phải khác mới tạo được sự hứng thú và kích
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
9
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
thích được sự suy nghĩ riêng của học sinh. Điều đáng tiếc là rất ít thầy cô tự ra đề
mới cho học sinh từ đề kiểm tra bài viết đến thi học kỳ, thi thử Đại học. Gần đây,
nếu bạn quan tâm đến các đề nghị luận xã hội của các trường hẳn bạn sẽ bắt gặp
những câu nghị luận xã hội đại loại như: Hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của
anh chị về câu nói “Bàn tay tặng hoa hồng luôn phảng phất hương thơm” hay
“Tôi đã khóc khi không có giầy để đi cho đến khi nhìn thấy người không có chân
để đi giày” …Nếu bạn gõ những câu ấy vào Google hoặc tìm trong các sách
tham khảo về nghị luận xã hội bạn sẽ bắt gặp nhan nhản những bài văn mẫu.
Thực ra những đề ấy là rất hay, nhưng nó chỉ hay khi mới xuất hiện thôi, còn khi
nó đã được các thầy cô dạy như luyên thi thì không nên đưa vào làm đề kiểm tra
và thi cử nữa. Không có đề nào là mới mãi cả vì thế giáo viên muốn dạy văn
nghị luận xã hội tốt phải không ngừng tìm tòi, sáng tạo để ra được những đề bài
mới và hay.
IV. CÁC BƯỚC RA ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
1. Chọn ngữ liệu làm đề thi:
Bất kỳ đề làm văn nào cũng phải có ngữ liệu. Nếu Đề nghị luận văn học
lấy ngữ liệu từ những tác phẩm văn học có trong chương trình thì ngữ liệu của
nghị luận xã hội không có một giới hạn nào. Bạn có thể lấy từ rất nhiều nguồn tư
liệu cả trong và ngoài chương trình miễn là ngữ liệu ấy chứa đựng được vấn đề
nghị luận đúng đắn, sâu sắc và đảm bảo được những yêu cầu của một đề văn
nghị luận xã hội. Ngữ liệu cho đề văn nghị luận xã hội rất phong phú, đa dạng
nhưng tôi thường khái quát thành những dạng cơ bản sau:
a. Ngữ liệu là một câu nói hàm súc:
Giáo dục đạo đức, nhân cách cho con người là vấn đề của muôn đời.
Những nhà hiền triết, những nhà văn hóa, những danh nhân thế giới và cả nhân
dân muôn đời cũng đã quan tâm giáo dục nhân cách con người qua những triết lý
cô đọng hàm súc. Biết bao nhiêu tục ngữ, thành ngữ, ngạn ngữ của các nước trên
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
10
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
thế giới ẩn chứa những bài học sâu sắc. Những câu nói nổi tiếng của các danh
nhân như những kim chỉ nam cho suy nghĩ, hành động của con người. Muốn ra
được đề nghị luận xã hội hay, người giáo viên phải thuộc được nhiều câu châm
ngôn, tục ngữ, thành ngữ, phải đọc, sưu tầm nhiều từ các sách lời hay ý đẹp, từ
các trang website danh ngôn cuộc sống. Điều chú ý là khi sưu tầm, tìm kiếm,
chúng ta cần sắp xếp theo từng lĩnh vực để sau này ta dễ sử dụng theo mục đích
của đề thi và kiểm tra. Chẳng hạn, ta có thể sắp xếp như sau:
Danh ngôn về lý tưởng sống
- Muốn đi tới mục tiêu lớn phải bắt đầu từ mục tiêu nhỏ. Lenin (Nga)
Trong đời người, có hai con đường bằng phẳng không trở ngại: một là đi tới lý
tưởng, một là đi tới cái chết. Lev Tolstoy (Nga)
- “Thân thể khỏe mạnh” và “tư tưởng lành mạnh” là hai điều hạnh phúc
lớn nhất trong cuộc sống. Horace (La Mã)
- Con người có vật chất mới có thể sinh tồn, có lý tưởng mới nói đến cuộc
sống. Bạn muốn hiểu sự khác nhau giữa sinh tồn và sống? Động vật thì sinh tồn,
con người thì sống. Hugo (Pháp)
- Trong cuộc đời có 2 mục tiêu: một là theo đuổi lý tưởng, hai là thực hiện
lý tưởng, hưởng thụ thành quả. Chỉ có người sáng suốt mới đạt được mục tiêu
thứ 2. Smith (Anh)
- Lý tưởng là suối nguồn của lịch sử, cái nôi của trí tuệ, cờ chiến của xung
phong, kiếm sắc để chặt gai.Gorky (Nga)
- Hoạt động của con người nếu không có sự cổ vũ của lý tưởng thì sẽ biến
thành trống rỗng và nhỏ bé.Chernyshevsky (Nga)
- Thanh niên ta rất hăng hái. Ta biết kết hợp lòng hăng hái đó lại và dìu dắt
đúng đắn thì thanh niên sẽ thành một lực lượng rất mạnh mẽ.
Danh ngôn về đạo đức
- Đạo đức chân chính giống như dòng sông, càng sâu càng vô thanh.
- Đạo đức không gì hơn là lòng tôn kính cuộc sống.
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
11
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
Albert Schweitzer
- Tôi sẽ cho anh định nghĩa về đạo đức: Luôn tốt khi duy trì và nuôi dưỡng
cuộc sống, luôn xấu khi gây thương tổn và phá hủy cuộc sống.
Albert Schweitzer
- Hạnh phúc, cho dù dưới chế độ chuyên quyền hay dân chủ, cho dù trong
sự nô lệ hay tự do, không bao giờ đạt được nếu ta không có đạo đức.
John Adams
- Tri thức trong đầu và đạo đức trong tim, thời gian cống hiến để nghiên
cứu và lao động thay vì hình thức và lạc thú, đó là cách để trở nên hữu dụng, và
nhờ vậy, có được hạnh phúc. John Adams
- Người đàn bà đẹp đạt được thành công dễ dàng hơn người đàn bà thông
minh. Chỉ đơn giản là những người đàn ông mù thì ít, bù lại những người đàn
ông ngốc nghếch lại quá nhiều. X. Lôren
- Hỏi rằng, có khi nào trong đời, con người ta lại thôi thúc tiến lên hơn là
lúc đứng trước đèn đỏ giao thông. H. D. Suyt
- Người cao thượng là người không bao giờ làm một điều gì để hạ thấp
người khác. A. N. Casơn
- Nếu chỉ loại hôn nhân vì tình yêu mới là đạo đức thì loại hôn nhân mà
trong đó tình yêu tiếp tục tồn tại mới là đạo đức. F.Engels
Đóng góp bởi candylove
- Đạo đức và tài nghệ có thể làm cho một người bình thường trở thành bất
hủ. Shakespeare (Anh)
- Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì? Đó chính là lòng yêu nước.
Napoleon (Pháp)
Sau khi đọc, tìm tòi, giáo viên lựa chọn những câu nói mình tâm đắc
nhất làm đề thi. Theo tôi, nên chọn những câu nói vừa sâu sắc, vừa có tính giáo
dục, vừa phù hợp với học sinh, vừa mới mẻ (chưa hoặc ít xuất hiện trong các đề
thi và kiểm tra trước đó), vừa có tính hình tượng. Không phải câu châm ngôn nào
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
12
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
cũng hội tụ tất cả những yêu cầu đó. Có khi đọc mấy chục câu châm ngôn mới
tìm được một câu ưng ý. Chẳng hạn, với tôi, trong những câu châm ngôn về đạo
đức trên đây thì câu nói “Đạo đức chân chính giống như dòng sông, càng sâu
càng vô thanh” là câu nói làm được đề thi hay hơn cả.
b. Ngữ liệu là một mẩu chuyện, một đoạn thơ, bài thơ.
Những mẩu chuyện về đạo đức, về lối ứng xử giữa con người với con
người, những đoạn thơ, bài thơ có giá trị tư tưởng, đạo lý, chứa đựng những bài
học triết lý về lẽ làm người cũng là những ngữ liệu hấp dẫn của đề văn nghị luận
xã hội. Giáo viên cũng phải đọc và sưu tầm rất nhiều từ các kênh thông tin khác
nhau như sách, báo, tạp chí, các trang website có uy tín về giáo dục kỹ năng
sống, giá trị sống. Bộ sách “Hạt giống tâm hồn” cũng là nguồn tư liệu rất phong
phú. Mẩu chuyện sau đây trong bộ sách này là một mẩu chuyện chứa đựng rất
nhiều thông điệp về lòng yêu thương, sự tha thứ và hối hận mà giáo viên có thể
sử dụng làm đề thi:
“Tại một thị trấn nhỏ ở Tây Ban Nha, có một người đàn ông tên Jorge vừa cãi
vã dữ dội với cậu con trai Paco của mình. Ngày hôm sau, ông phát hiện giường
của Paco trống không- cậu bé đã bỏ nhà đi. Vượt qua cảm giác ăn năn, hối hận
về những điều đã xảy đến, Jorge nhìn lại mình và nhận ra rằng, với ông, cậu con
trai quan trọng hơn tất cả. Với mong muốn bắt đầu lại, Jorge đến một cửa hiệu
nổi tiếng ở trung tâm thị trấn và dán một tấm giấy lớn có dòng chữ: “Paco, con
hãy trở về nhà. Bố yêu con. Hãy gặp bố ở đây vào sáng ngày mai, con nhé!”.
Sáng hốm sau, khi Jorge đến cửa hiệu, thì không chỉ có một, mà có đến bảy cậu
bé cùng tên Paco bỏ nhà ra đi đã đứng đợi ở đấy ”
Hay bài thơ Hỏi của Hữu Thỉnh cũng là một bài thơ có tác động mạnh với
học sinh về lẽ sống của con người nếu được lấy làm đề thi:
Tôi hỏi đất:
-Đất sống với đất như thế nào?
- Chúng tôi tôn cao nhau
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
13
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
Tôi hỏi nước:
-Nước sống với nước như thế nào?
- Chúng tôi làm đầy nhau
Tôi hỏi cỏ: Cỏ sống với cỏ như thế nào?
- Chúng tôi đan vào nhau
Làm nên những chân trời
Tôi hỏi người:
- Người sống với người như thế nào?
Tôi hỏi người:
- Người sống với người như thế nào?
Tôi hỏi người:
- Người sống với người như thế nào?
Tuy nhiên, dạng đề văn nghị luận xã hôi rút ra từ một mẩu chuyện, một
đoạn thơ, bài thơ là một yêu cầu khó với học sinh đại trà. Dạng này phù hợp với
đối tượng là học sinh giỏi bởi nó đòi hỏi người viết phải có kỹ năng đọc hiểu và
sự cảm thụ văn học tốt. Điều đáng lưu ý là giáo viên nên chọn những mẩu
chuyện những đoạn thơ, bài thơ có dung lượng ngắn, tập trung vào một khía
cạnh của đời sống, tránh những ngữ liệu có nhiều vấn đề tản mạn hoặc gây
tranh cãi. Nếu trong một câu chuyện có nhiều vấn đề được đề cập thì cần phải
chú ý cách đưa ra yêu cầu trong đề thi mà tôi sẽ bàn ở phần sau.
C. Ngữ liệu là một mẩu tin hoặc những hiện tượng trong đời sống
Trong cuộc sống hiện đại, chẳng mấy ngày không có hiện tượng cần bàn
bạc, suy nghĩ. Tuy nhiên cần chọn lựa những hiện tượng phù hợp với học sinh.
Những hiện tượng đó được đăng tải trên báo mạng, báo viết báo hình rất phong
phú. Là giáo viên dạy văn không thể thiếu những thông tin về đời sống. Trong
quá trình cập nhật thông tin, thấy sự kiện nào ấn tượng, phù hợp cần phải nắm
bắt kịp thời và đưa vào các đề văn nghị luận xã hội. Hiện nay, giơi trẻ phải đối
mặt với rất nhiều hiện tượng đời sống đáng báo động như hiện tượng bạo lực
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
14
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
học đường, nghiện Internet, chat, game, tội phạm học đường, các tệ nạn xã hội,
lối sống buông thả …Những mẩu tin có ý nghĩa giáo dục như gương người tốt,
việc tốt, những tấm lòng nhân ái rất thiết thực đối với các đề nghị luận xã hội.
Chẳng hạn trên báo Tuổi trẻ online ngày 18/11/2014 có mẩu tin sau:
Khoảng 8g sáng 18-11, trong lúc đi chơi, hai em Khiêm và Khởi tình cờ
phát hiện và nhặt tại bụi cây ven đường một chiếc ví da màu đen, bên trong có 2
triệu đồng, 10,5 chỉ vàng 24K, giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn
Văn Hòa (51 tuổi, trú xã Phước Thắng, huyện Tuy Phước).
Cả hai em (là anh em con cô cậu ruột) cùng nhau đem ví da với đầy đủ tiền,
vàng đến nhà trả lại cho ông Hòa. Nhận lại tài sản, ông Hòa rất cảm động và
cảm ơn hai em nhỏ. Cách đây 6 tháng, trên đường đi ăn đám cưới về, ông Hòa
đánh rơi chiếc ví trên nhưng tìm mãi không thấy.
Hoặc mẩu tin dưới đây trên báo VOV ngày 31/3/2014 cũng là một bản tin
có thể đưa vào đề văn nghị luận xã hội:
Khoảng 18 giờ chiều ngày 31/3, tại sông Trường, đoạn chảy qua thôn 2,
xã Trà Giang, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam đã xảy ra một vụ đuối nước
làm 3 nữ sinh lớp 8 chết thảm.
Sau khi học hết tiết học cuối buổi chiều, nhóm bạn nữ chơi rất thân gồm Hồ Thị
Hoa, Hồ Thị Ngọc Linh (trú thôn 1); Lê Hoàng Sương, Trần Thị Hiền, Võ Thị
Mây (trú thôn 2), đều sinh năm 2000 và học lớp 8, trường Trung học Cơ sở
Nguyễn Huệ, xã Trà Giang đã rủ ra nhau ra sông Trường tắm.
Do không biết bơi nên Hoa, Sương, Hiền khi tắm ở khu vực nước sâu, bị uống
nước, rồi chìm dần và chết đuối. Hai em Linh và Mây, tắm ở khu vực nước cạn
thấy bạn bị nạn, đã tức tốc chạy đến khu dân cư gần nhất tìm người đến cứu
nhưng không kịp.
2. Đưa ra yêu cầu của đề thi
Có hai cách để đưa ra yêu cầu của đề thi
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
15
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
Cách thứ nhất là: Trình bày suy nghĩ của anh/chị sau khi đọc mẩu chuyện,
mẩu tin hay câu nói trên. Cách này khá phổ biến và tránh được những đáng tiếc
về các cách hiểu khác nhau. Nhưng nếu đưa yêu cầu như vậy thì đáp án hoặc
hướng dẫn chấm phải có lối mở để khuyến khích được những phát hiện riêng của
học sinh.
Cách thứ hai là: Từ mẩu chuyện, mẩu tin, câu nói trên, anh chị rút ra bài
học gì cho mình về một khía cạnh nào đó (chẳng hạn như lòng nhân ái, khát
vọng sống…). Nghĩa là vạch sẵn một hướng đi, nêu ra một luận điểm khá rõ
ràng. Cách này tránh được cách viết tản mạn, không tập trung nhưng dễ có “tai
nạn”. Trở lại với đề Văn học sinh giỏi của Hải Phòng năm 2013:
“Người mẫu Ngọc Trinh từng trả lời phỏng vấn rằng: "Yêu không có tiền thì cạp
đất mà ăn à?". Mới đây, cô gái trẻ Lê Thị Huyền Anh (biệt danh "Bà Tưng") khi
trả lời một trang mạng xã hội, cũng thẳng thắn: "Tôi mơ ước có nhiều đại gia,
nhiều người giàu quan tâm đến mình, cho tôi thật nhiều tiền” (theo Vietnamnet).
Từ những hiện tượng trên, anh/chị hãy viết một bài văn (tối đa 800 từ) về chủ
đề: "Tiến bộ xã hội và ước mơ đại gia của cô gái trẻ”.
Thực ra, trong đề văn nghị luận xã hội có thể lấy những hiện tượng tiêu
cực làm ngữ liệu nhưng phải đặt ra yêu cầu rõ ràng để người viết không lầm lẫn.
Vẫn ngữ liệu trên nhưng chúng ta chỉ cần thay câu lệnh: Từ những hiện tượng
trên, anh/chị hãy viết một bài văn (tối đa 800 từ) về chủ đề: "Tiến bộ xã hội và
ước mơ đại gia của cô gái trẻ” thành câu lệnh mới: Trình bày suy nghĩ của
anh/chị về lối sống của một bộ phận giới trẻ như Ngọc Trinh và bà Tưng. Câu
lệnh của đề văn này vô hình chung khiến người đọc hiểu rằng lối sống buông
thả, thực dụng của các nhân vật trên chính là ước mơ chính đáng của những cô
gái trẻ trong một xã hội tiến bộ.
3. Ra đáp án, hướng dẫn chấm cho đề thi
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
16
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
Hướng dẫn chấm của một bài văng nghị luận xã hội vừa đảm bảo yêu cầu
của một bài văn nói chung, vừa phải đảm bảo các thao tác làm văn nghị luận xã
hội nói riêng. Với mỗi dạng bài lại có hướng ra đáp án khác nhau
a. Với dạng đề là một câu nói, một đoạn thơ, một mẩu chuyện
Bước thứ nhất
Bước thứ nhất là phải giải thích được mẩu chuyện, đoạn thơ, câu nói ấy
muốn nói tới vấn đề gì. Muốn giải thích được phải trả lơi câu hỏi:
- Nói như thế nghĩa là thế nào?( giải thích)
Tuỳ theo từng yêu cầu cụ thể mà mức độ và cách giải thích có thể khác
nhau. Có những đề bài, khâu giải thích có thể làm rất gọn gàng, đơn giản nhất là
khi trong yêu cầu, nhận định không có những khái niệm phức tạp, khó hiểu hay
những hình ảnh có khả năng khơi gợi những tư tưởng sâu xa nhưng lại có những
đề bài, khâu giải thích rất công phu, phải giải thích cả nghĩa đen rồi sau đó suy ra
nghĩa bóng.
Ví dụ: Anh, chị suy nghĩ như thế nào về câu nói sau: “Con tàu rất an
toàn khi neo đậu ở cảng, nhưng người ta đóng tàu không phải vì mục đích
đó”( Grace Hopper) . Đề bài này yêu cầu phải giải thích được nghĩa đen, nghĩa
bóng của câu nói.
- Nghĩa đen: Con người đóng tàu là để khám phá đại dương và thực hiện
những mục đích lớn lao. Giá trị con tàu chỉ được khẳng định khi nó vượt qua
phong ba, bão tố để thực hiện những mục đích ấy. Con tàu neo đậu ở bến cảng sẽ
an toàn nhưng không có giá trị, không có ý nghĩa về sự tồn tại.
- Nghĩa bóng: Câu nói khẳng định con người chỉ có giá trị, có ý nghĩa khi
dám đối mặt với khó khăn, thử thách để thực hiện những mục đích, hoài bão,
khát vọng lớn lao của mình. Đây chính là vấn đề cần nghị luận.
Bước thứ hai
Bình luận được vấn đề cần nghị luận được gửi gắm trong câu chuyện, đoạn
thơ, câu nói. Muốn thao tao này được tốt phải trả lời được câu hỏi:
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
17
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
- Nói như thế đúng hay sai? Tại sao đúng? Tại sao sai?
Vẫn với đề bài trên, đến bước hai này chúng ta có thể có những ý trong
hướng dẫn chấm như sau
Ý kiến trên là đúng vì:
+ khi phải đối mặt với khó khăn, con người sẽ bộc lộ được những khả
năng, những giá trị còn tiềm ẩn.
+ Dám đối mặt với thử thách, con người mới đạt được những mục đích
lớn, vì những mục đích lớn thường không dễ dàng thực hiện.
+ Không dám đối mặt với gian khổ, con người sẽ có cuộc đời êm ả những
cũng chẳng thực hiện được những điều gì lớn lao, cuộc sống sẽ tẻ nhạt, vô vị.
Bước thứ ba
Cần phải chứng minh được tính đúng đắn hoặc sai lầm của vấn đề cần nghị
luận. Phải trả lời được câu hỏi:
Cơ sở nào chứng minh cho điều đó?
Thao tác này yêu cầu phải lấy được những dẫn chứng xác thực để chứng
minh cho luận điểm của mình. Bài viết phải đưa ra được những dẫn chứng thì
mới thuyết phục được người đọc.Tuỳ từng đề bài mà có cách lấy dẫn chứng khác
nhau: có thể lấy dẫn chứng trong thực tế cuộc sống, trong các tác phẩm văn học,
có thể chứng minh trực tiếp, có thể chứng minh bằng phản đề…
Với đề bài trên yêu cầu học sinh lẫn dẫn chứng về những con người đã
dám đối mặt với khó khăn thử thách để khẳng định giá trị của bản thân.
Bước thứ tư
Bước này yêu cầu người viết phải rút ra cho mình bài học từ vấn đề cần
nghị luận. Với đề bài trên, bài học cần rút ra là:
+ Không ngại khó, ngại khổ để vươn lên trong cuộc sống
+ Phê phán những người tìm lối sống hưởng thụ, an nhàn vô nghĩa
b. Với dạng đề về một hiện tượng đời sống
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
18
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
Để ra được hướng dẫn chấm cho dạng đề này cần trả lời một số câu hỏi
sau đây:
- Hiện tượng đó là gì?
Để trả lời được câu hỏi này các em phải nêu được khái niệm các hiện tượng. Đây
là cơ sở quan trọng để các em có thể trình bày quan điểm của mình theo đúng
yêu cầu mà đề bài đặt ra. Có những hiện tượng diễn ra hàng ngày, rất quen thuộc
với học sinh thì các em sẽ dễ dàng nêu được khái niệm.Ví dụ: hiện tượng tai
nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, nghiện internet, bạo lực học đường…
- Hiện tượng đó đang diễn ra trong cuộc sống ra sao?
Tương ứng với câu trả lời này là việc nêu thực trạng của vấn đề. Đây là
phần việc đòi hỏi học sinh phải có kiến thức xã hội sâu rộng để có thể nhận diện
được thực trạng vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống như thế nào. Đối với các
hiện tượng tiêu cực trong đời sống như tai nạn giao thông, ô nhiễm môi
trường, gian lận trong thi cử…, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh “mô típ”
của việc nêu thực trạng là: hiện tượng đó đang diễn ra ở mức độ nghiêm trọng,
ngày càng phổ biến, đáng báo động và là nỗi quan tâm lo lắng của toàn xã hội.
Câu hỏi tiếp theo là:
- Nguyên nhân của hiện tượng đó?
Nêu được thực trạng của vấn đề thì phải giải thích được các nguyên nhân
dẫn đến thực trạng đó. Có đưa ra được những nguyên nhân mới chứng tỏ được sự
hiểu biết của mình về vấn đề một cách cặn kẽ, bài viết mới có sức thuyết phục.
Sau khi đưa ra các nguyên nhân, bài viết cần làm sáng tỏ vấn đề bằng cách
trả lời câu hỏi sau:
- Hậu quả hay tác dụng của hiện tượng đó?
Nếu vấn đề cần nghị luận là hiện tượng tiêu cực của đời sống thì bài viết
phải đưa ra hậu quả của hiện tượng. Ngược lại, nếu là hiện tượng tích cực phải
nêu được tác dụng của hiện tượng.
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
19
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
Từ việc nêu hậu quả hay tác dụng của hiện tượng, bài viết cần đưa ra được
các giải pháp qua việc trả lời câu hỏi thứ năm:
- Giải pháp để ngăn chặn hay đẩy mạnh hiện tượng đó?
Nếu vấn đề cần nghị luận là hiện tượng tiêu cực của đời sống thì bài viết
phải đưa ra giải pháp để ngăn chặn. Ngược lại, nếu là hiện tượng tích cực phải
nêu được giải pháp để thúc đẩy. Có thể căn cứ vào các nguyên nhân để nêu ra
giải pháp.
Như ở trên tôi đã nói, mục đích của kiểu bài nghị luận về một hiện tượng
đời sống là tìm ra ý nghĩa về tư tưởng, đạo đức của hiện tượng nên bài viết cần
trả lời câu hỏi tiếp theo:
- Suy nghĩ và hành động của bản thân với hiện tượng đó?
Phần này yêu cầu học sinh phải nêu được cảm nghĩ riêng của mình về hiện
tượng đã nêu. Có thể sử dụng một số phép tu từ và yếu tố biểu cảm để phần liên
hệ được sâu sắc, thấm thía.
IV. GIỚI THIỆU MỘT SỐ ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
ĐỀ SỐ 1:
Bạn hãy bao dung với tất cả mọi người trừ chính mình. – Joubert.
Trình bày suy nghĩ của anh, chị về ý kiến trên.
HƯỚNG DẪN CHẤM
Để làm sáng tỏ được vấn đề nghị luận trong câu nói của Joubert, các ý cơ
bản cần có:
- Giới thiệu khái quát vấn đề cần nghị luận.
- Giải thích : +Bao dung là rộng lượng, dễ dàng bỏ qua, tha thứ cho những
thiếu sót hoặc lỗi lầm của người khác.
+ Ý nghĩa của cả câu: Cần rộng lượng với người khác song
phải thật nghiêm khắc với bản thân.
- Làm sáng tỏ “bao dung với tất cả mọi người”:
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
20
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
+ Mọi người ai cũng có lúc thiếu sót, sai lầm, nếu chấp trách sẽ khiến các
mối quan hệ trở nên căng thẳng.
+ Bỏ qua những lỗi lầm của người khác thì lòng mình sẽ được nhẹ nhàng,
thanh thản và con người sống gần nhau hơn.
+ Trong cuộc sống có rất nhiều tấm lòng bao dung, độ lượng.
- Làm sáng tỏ “trừ chính mình”:
+ Không thể dễ dàng bỏ qua, tha thứ cho những thiếu sót, lỗi lầm của bản
thân.
+ Nếu dễ dàng tha thứ cho bản thân, con người sẽ coi những lỗi lầm là
chuyện bình thường nên dễ dàng phạm lại và khó có thể tiến bộ, thậm chí sẽ
phạm phải những sai lầm nghiêm trọng.
+ Nghiêm khắc với bản thân, con người sẽ cẩn trọng trong hành vi ứng xử
và ít phạm phải những sai lầm đáng tiếc.
+ Trong cuộc sống có rất nhiều người nghiêm khắc với bản thân, có ý thức
sửa chữa sai lầm để sống tốt đẹp hơn.
- Từ đó rút ra cho mình bài học: sống bao dung với mọi người nhưng cần
thật nghiêm khắc với bản thân.
ĐỀ SỐ 2:
Thiên nhiên ban cho ta cuộc sống không lâu dài, nhưng kí ức về một
cuộc sống đẹp thì còn lại mãi mãi - M. Cicero
Trình bày suy nghĩ của anh, chị về ý kiến trên.
HƯỚNG DẪN CHẤM
Để làm sáng tỏ được vấn đề nghị luận trong câu nói của M. Cicero các ý
cơ bản cần có:
- Giới thiệu khái quát vấn đề cần nghị luận.
- Giải thích ngắn gọn câu nói : Thiên nhiên ban cho ta cuộc sống không
lâu dài, nhưng kí ức về một cuộc sống đẹp thì còn lại mãi mãi : Cuộc đời của
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
21
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
mỗi con người là hữu hạn nhưng những ai có một cuộc sống có ý nghĩa thì dù đã
chết, họ vẫn sống mãi trong kí ức của những thế hệ mai sau.
- Nhận xét, đánh giá về ý nghĩa của câu nói : Câu nói của M. Cicero đúng
đắn và có ý nghĩa sâu sắc về lẽ sống của con người. Người có cuộc sống đẹp là
con người đem lại cho cuộc đời những giá trị nhất định nào đó, đem đến cho con
người những niềm vui và hạnh phúc. Họ sẽ được người đời sau mãi nhớ đến với
tình cảm ngưỡng mộ, biết trân trọng, yêu mến. Tên tuổi họ mãi tồn tại như một
chân lí bất diệt ; sức sống của họ vượt lên thời gian mà họ được sống.
- Thực tế cuộc sống đã có những con người, những cuộc đời bất tử.
- Từ đó thí sinh cần rút ra bài học cho bản thân về cuộc sống : hãy biết
trân trọng thời gian ngắn ngủi mà tạo hoá ban tặng để sống có ý nghĩa, có giá
trị ; phê phán những kẻ sống vô nghĩa, bỏ phí thời gian được sống trên đời bằng
những việc vô bổ.
ĐỀ SỐ 3:
Trong bộ sách “Hạt giống tâm hồn” của NXB tổng hợp TP Hồ Chí Minh
năm 2008 có mẩu chuyện sau:
“Hai người bạn cùng đi qua sa mạc. Trong chuyến đi, giữa hai người
có xảy ra một cuộc tranh luận và một người nổi nóng không kiềm chế được
mình đã nặng lời miệt thị người kia. Cảm thấy bị xúc phạm, anh không nói gì,
chỉ viết lên cát: “Hôm nay, người bạn tốt nhất của tôi đã làm khác đi những
gì tôi nghĩ”. Họ đi tiếp, tìm thấy một ốc đảo và quyết định đi bơi. Người bị
miệt thị lúc nãy bây giờ đuối sức và chìm dần xuống. Người bạn kia đã tìm
cách cứu anh. Thoát khỏi vũng lầy, anh lấy một miếng kim loại khắc lên đá:
“Hôm nay, người bạn tốt nhất của tôi đã cứu sống tôi”. Người bạn kia hỏi:
“Tại sao khi tôi xúc phạm anh, anh viết lên cát, còn bây giờ anh lại khắc lên
đá?” ”.
Anh, chị hãy lí giải điều mà người bạn kia thắc mắc.
HƯỚNG DẪN CHẤM
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
22
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
* Cần lí giải thấu đáo điều mà anh bạn trong mẩu chuyện thắc mắc: Tại
sao khi tôi xúc phạm anh, anh viết lên cát, còn bây giờ anh lại khắc lên đá ?
* Bài viết có thể có nhiều cách trình bày nhưng cần đảm bảo những ý cơ
bản sau :
- Thấy được ý nghĩa sâu sắc của mẩu chuyện .
- Lí giải khi bị xúc phạm thì viết lên cát :
+ Khi bị xúc phạm con người sẽ bị tổn thương, đau khổ và dễ sinh lòng
thù hận.
+ Viết những điều đó nên cát để nỗi đau và lòng thù hận dễ nguôi ngoai và
dần được xoá nhoà theo thời gian.
+ Tìm cách quên đi nỗi đau và lòng thù hận, tâm hồn con người sẽ trở nên
thanh thản và cao thượng hơn.
+ Trong cuộc sống đã có nhiều người biết vượt lên nỗi đau và lòng thù hận
để sống có ý nghĩa.
- Lí giải khi được cứu sống thì khắc lên đá
+ Khi được cứu sống, con người thường có tình cảm biết ơn với người cứu
giúp.
+ Khắc những điều đó lên đá để nhủ lòng mình không bao giờ được quên
ân tình, ân nghĩa.
+ Tìm cách khắc ghi trong lòng sự biết ơn, con người sẽ nâng cao được
tâm hồn và nhân cách của bản thân.
+ Trong cuộc sống có rất nhiều người biết sống nghĩa tình, biết tri ân với
những người giúp đỡ mình những lúc khó khăn.
- Từ đó, phê phán những kẻ luôn gây thù chuốc oán và bội nghĩa vong ân ;
rút ra cho mình bài học : biết học cách quên nỗi đau và lòng thù hận, học cách
nhớ những ân nghĩa ân tình trong cuộc sống để con người gần nhau hơn.
ĐỀ SỐ 4:
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
23
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
Trong bộ sách “Hạt giống tâm hồn” của NXB tổng hợp TP Hồ
Chí Minh năm 2008 có mẩu chuyện sau:
“Một buổi sáng, khi đang dùng điểm tâm, tôi vô tình nghe được câu chuyện
của hai bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Một bác sĩ tâm sự:
- Anh biết không, tôi thật chẳng hiểu nổi. Cả anh và tôi cùng
cho bệnh nhân uống một thứ thuốc giống nhau, cùng một liều như nhau,
cùng một phác đồ điều trị và cùng một tiêu chuẩn nhập viện. Vậy mà kết quả
của tôi chỉ đạt 22% còn anh lại lên tới 74%. Một kết quả chưa từng thấy đối
với bệnh ung thư di căn. Làm thế nào anh có thể thành công được như vậy?
Vị bác sĩ đồng nghiệp nhẹ nhàng trả lời:
- Cả hai chúng ta đều dùng loại thuốc Etoposide, Platinum,
Oncovin và Hydroxyurea phải không? Anh gọi tắt các thuốc này là EPOH.
Nhưng tôi lại nói với các bệnh nhân của mình là họ đang dùng loại thuốc
HOPE (nghĩa là hi vọng)…”.
Đọc mẩu chuyện trên, anh (chị) có suy nghĩ gì?
HƯỚNG DẪN CHẤM
Làm sáng tỏ được vấn đề nghị luận trong mẩu chuyện. Các ý cơ bản cần có:
- Giới thiệu khái quát vấn đề cần nghị luận.
- Giải thích được nguyên nhân dẫn đến thành công của người bác sĩ điều
trị bệnh ung thư trong mẩu chuyện: đó là biết gieo vào lòng những bệnh nhân
niềm hi vọng, niềm tin được sống nhờ cách gọi tên các loại thuốc.
- Thấy được sức mạnh kì diệu của niềm tin trong cuộc sống. Niềm tin và
hi vọng tiếp cho con người nghị lực và sức mạnh để vượt lên hoàn cảnh dù là
những hoàn cảnh nghiệt ngã nhất.
- Trong cuộc sống đã có nhiều người biết vượt lên nghịch cảnh bằng niềm
tin và hi vọng.
- Từ đó rút ra bài học cho bản thân: biết nuôi dưỡng niềm tin và hi vọng
trong bất cứ hoàn cảnh nào, biết gieo niềm tin cho những người xung quanh bạn.
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
24
Cách ra đề văn nghị luận xã hội trong trường Trung học phổ thông
- Thấy được ý nghĩa sâu sắc của mẩu chuyện.
ĐỀ SỐ 5:
“Hào Anh sinh ra trong một gia đình nghèo, bố mẹ chia tay và có gia
đình mới, em sống với mẹ. Tháng 8/2009, Hào Anh được mẹ đưa vào trại tôm
giống Minh Đức để làm việc và hi vọng học nghề. Tại đây, em bị vợ chồng
chủ trại hành hạ dã man: đổ nước sôi vào người, bẻ răng, đánh đập, dùng dao
rạch lưng đổ formol…Chính quyền địa phương và hàng xóm đều không hay
biết để can thiệp. Mãi đến cuối tháng 4, hàng xóm đưa Hào Anh đến bệnh
viện cấp cứu trong tình trạng thương tích đầy mình, vụ việc mới vỡ lở. Vợ
chồng chủ trại bị bắt cùng hai người làm công. Lãnh đạo chính quyền địa
phương nhận kỷ luật. Phiên toà sơ thẩm vụ án hành hạ Hào Anh được tổ
chức lưu động ngày 29/6, thu hút hàng nghìn người dân. Vợ chồng chủ trại
phải nhận mức án tù mỗi người 23 năm.”
Tiến Thuỳ
(Theo VnExpress – Tin nhanh Việt Nam)
Trình bày suy nghĩ của anh/chị về nạn bạo hành trẻ em sau khi đọc mẩu tin
trên.
HƯỚNG DẪN CHẤM
Thí sinh có thể có nhiều cách trình bày khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý
cơ bản sau :
- Cần chỉ ra được hiện tượng trong mẩu tin chính là thưc trạng của nạn bạo hành
trẻ em trong đời sống xã hội hôm nay. Hiện tượng này đang có nguy cơ gia tăng
trong thời gian gần đây.
- Chỉ ra được nguyên nhân của nạn bạo hành.
+ Do thiếu sự quan tâm, yêu thương của gia đình mà trẻ em sớm phải dấn thân
vào chốn mưu sinh với rất nhiều nguy cơ bị xâm hại.
+ Do những ông chủ, bà chủ tham lam, độc ác, vô nhân tính, coi rẻ mạng sống
của trẻ thơ.
Nguyễn Văn Song Trường THPT Phù
Cừ
25