Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIEU LUAN HANG ảnh hưởng của phật giáo đến xã hội việt nam (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.95 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
A/ PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................1
B/ NỘI DUNG..................................................................................................2
I. Khái quát về Phật giáo................................................................................2
1. Nguồn gốc ra đời...........................................................................................2
2. Nội dung chủ yếu của tư tưởng Phật giáo.....................................................3
3. Sự truyền bá Phật giáo trên thế giới............................................................12
4. Tình hình phát triển của Phật giáo...............................................................13
II. Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống văn hóa người Việt Nam..........14
1. Bối cảnh ở Việt Nam...................................................................................14
2. Thời đại Phật giáo du nhập..........................................................................15
3. Lý do Phật giáo Ấn Độ vào Việt Nam.........................................................17
3.1. Tổng hợp, hỗn dung với tín ngưỡng của Việt Nam..................................18
3.2. Xu hướng hài hòa âm dương....................................................................18
3.3. Tính linh hoạt...........................................................................................19
III. Một số ảnh hưởng của Phật giáo ở Việt Nam.......................................19
1. Ảnh hưởng của Phật giáo về tư tưởng.........................................................19
2. Ảnh hưởng của Phật giáo về đạo lí.............................................................20
3. Ảnh hưởng của vào phong tục tập quán......................................................20
4. Ảnh hưởng qua các loại hình văn hóa, nghệ thuật......................................22
C/ PHẦN KẾT LUẬN...................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................26

0


A/ PHẦN MỞ ĐẦU
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, một thành tố van hóa; Nó chứa đựng
nội dung phong phú về lịch sử, tư tưởng, triết học, đạo đức, văn hóa, chính
trị… Tôn giáo là một bộ phận của đời sống tinh thần của con người là chất kết
dính tập hợp con người trong cộng đồng nhất định và phân biệt với các cộng


đồng khác. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu
sắc đến đời sông chính trị, văn hóa, xã hội, tâm lý, đạo đức lối sống, phong
tục, tập quán của dân tộc của quốc gia. Nói đến tôn giáo Việt Nam ta không
thể không nhắc đến Phật giáo; Phật giáo là tôn giáo lớn nhất trên thế giới –
chất chứa một triết lý nhân sinh cao cả với ước muốn là cứu con người ra khỏi
nỗi khổ muôn đời, với con đường là giải thoát không phải bằng sự ban bố
nhân đức mà ở chỗ con người có hạnh phúc hay không là chính ở cuộc sống
đức độ của con người, có như vậy con người mới đạt đến cái “ Chân, thiện,
mỹ” và nhập vào thế giới niết bàn. Vì triết lý đó Phật giáo đã tồn tại rất lâu
đời cùng với số lượng phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp trên thế giới
trong đó có Việt Nam.
Đạo Phật được truyền bá vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên
và đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống
tinh thần của người Việt, bên cạnh đạo Nho, đạo Lão và đạo Thiên chúa. Do
đó, việc tìm hiểu nghiên cứu Phật giáo đối với thế giới quan, nhân sinh quan
của con người là hết sức cần thiết, để giúp chúng ta hiểu rõ nguồn gốc, triết lý
của đạo phật; hiểu rõ tâm lý người dân, đặc điểm lịch sử, truyền thông văn
hóa của dân tộc ta. Qua đó tìm ra được cách thức để hướng đạo cho con người
một cách chân chính, đúng đắn làm cho con người gần người hơn trong xã
hội. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời
sống văn hóa người Việt Nam ” làm tiểu luận cho môn học Lịch sử văn minh
thế giới.

1


B/ NỘI DUNG
I. Khái quát về Phật giáo
1. Nguồn gốc ra đời
Đạo Phật mang tên người sáng lập là Đà ( hay buddha ). Đạo phật

chính là giáo lý mà Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế
kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, đạo Phật được lưu hành rộng
rãi ở các quốc gia trong khu vực á - Phi, gần đây được truyền tới các nước Âu
- Mỹ. Trong quá trình truyền bá của mình, đạo Phật đã kết hợp với tín
ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hoá bản địa để hình thành rất nhiều tông phái
và học phái, có tác động vô cùng quan trọng với đời sống xã hội và văn hoá
của rất nhiều quốc gia.
Nguồn gốc ra đời Phật giáo:
Ngoài bất công xã hội, tôn giáo phức tạp, đất nước Ấn Độ chia thành
nhiều nước nhỏ thường tranh chấp nhau chẳng khác thời chiến quốc bên
Trung Quốc, thời 12 sứ quân ở Việt Nam. Trong các nước đó, quốc gia giàu
mạnh nhất là Ca Tỳ La Vệ(Kapilavastu), phía bắc Trung Ấn, nay là pipsava,
phía nam nước Nepal. Nhà vua trị vì nước đó tên là Tịnh Phạn(Sudhodana).
Vào năm 204 trước Công Nguyên, hoàng hậu MaDa(Maya) hạ sinh một
hoàng tử khôi ngô tuấn tú tại vườn ngự uyển Lâm Tỳ Ni (Lumbini) dước gốc
cây Ưu Bát La thường gọi là cây Vô Ưu (Asokaa) có hoa với màu sắc rực rỡ.
Thái tử có tên là Tất Đạt Đa lớn lên, Thái tử văn võ song toàn,có vợ là công
chúa Da Du Đà La (Yasodara), con vua Thiện Giác. Cuộc sống Thái tử rất đầy
đủ, không thiếu một thứ gì trên trần gian.
Nhưng trước bối cảnh xã hội giai cấp, tư tưởng tôn giáo siêu hình, cuộc
sống con người cậy mạnh hiếp yếu…Năm 29 tuổi, Thái Tử đã thoát ngục
vàng, đến bên dòng A Nô Ma cắt tóc làm nhà đạo sĩ. Sau thời gian học đạo 6
năm, Thái Tử thấy con người hưởng lạc sẽ bê tha thối nát; còn tu khổ hạnh chỉ

2


chuốc thêm khổ thân; chỉ có con đường trung đạo mới mong thành chính quả.
Bởi thế, Thái Tử đã thiền quán dưới gốc cây Tất Bát La xứ Ba La Nại. Qua 49
ngày chiến đấu với ma tà, Thái Tử đã chứng tâm minh và thành Phật hiệu là

Thích Ca Mâu Ni năm 36 tuổi.
Thành Phật rồi, Đức Phật đến rừng nai xứ Ba La Nai giáo hóa cho năm
người bạn cùng tu khổ hạnh ngày trước.
Khắp vùng Ngũ Hà suốt 45 năm, đúc Phật thuyết pháp trên 300 hội,vào
tận hang cùng ngõ hẻm một cách tận tụy và rộng rãi. Phật đã giáo hóa không
lúc nào ngừng nghỉ. Phật làm tất cả mọi việc dù là rất nhỏ…Tất cả việc làm
của Phật chỉ có mục đích duy nhất là bày trí kiến Phật cho chúng sinh. Phật
đến rừng SaLa vào Niết Bàn lúc nửa đêm dưới ánh trăng rằm tỏa rạng vào
năm 80 tuổi
2. Nội dung chủ yếu của tư tưởng Phật giáo
Tư tưởng triết lý Phật giáo được tập trung trong một khối lượng kinh
điển rất lớn, được tổ chức thành ba bộ kinh lớn gọi là tam tạng gồm:
Tạng Luận: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo qui định cho cả
năm bộ phái Phật giáo như: “ Tứ phần luật” của thượng toạ bộ, Maha tăng kỷ
luật của “Đại chúng bộ”, căn bản nhất thiết hữu bộ luật” ... Sau này còn thêm
các Bộ luật của Đại Thừa như An lạc, Phạm Võng.
Tạng kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạng kinh gồm nhiều
tập dưới dạng các tiền đề, mỗi tập được gọi là một Ahàm.
Tạng luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của Phật
giáo. Tạng luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về
giáo pháp của Phật giáo.
Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện, về bản thể luận và
nhân sinh quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.

3


Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ là vô thuỷ,
vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi liên tục
(vô thường ) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các

Pháp đều thuộc về một giới ( vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp
giới. Mỗi một pháp ( mỗi một sự việc hiện tượng, hay một lớp sự việc hiện
tượng) đều ảnh hưởng đến toàn Pháp. Như vậy các sự vật, hiện tượng hay
các quá trình của thế giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động
qua lại và qui định lẫn nhau.
Tác phẩm “ thanh dung thực luận” của kinh phật viết rằng: “ Có người
cố chấp là có Đại tự nhiên là bản thể chân thực bao khắp cả, lúc nào cũng
thường định ra chư pháp đạo Phật cho rằng toàn bộ chư pháp đều chi chi phối
bởi luật nhân quả, biến hoá vô thường, không có cái bản ngã cố định, không
có cái thực thể, không có hình thức nào tồn tại vĩnh viễn cả. Tất cả đều theo
luật nhân quả biến đổi không ngừng và chỉ có sự biến hoá ấy là thường còn
(vĩnh viễn). Cái nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra được mà thành quả. Quả
lại nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại thành quả. Quả lại nhờ có
duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả mới ...
Cứ thế nối nhau vô cùng vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài, cứ sinh sinh,
hoá hoá mãi.
Như vậy ngay từ đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ
bản của Triết học một cách biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò
sáng tạo thế giới của các “đấng tối cao” của “Thượng đế” và cho rằng bản thể
của thế giới tồn tại khách quan và không do vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái
bản thể ấy chính là sự thường hằng trong vận động của vũ trụ, là muôn ngàn
hình thức của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong vạn vật nhưng nó
không dừng lại ở bất kỳ hình thức nào. Nó muôn hình vạn trạng nhưng lại
tuân hành nghiêm ngặt theo luật nhân quả.

4


Do qui luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không
ngừng, thành, trụ, hoại, diệt ( sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã và diệt vong).

Quá trình đó phổ biến khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phương thức thay đổi
chất lượng của sự vật và hiện tượng.
Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hoá vô thường của vạn vật,
đã xây dựng nên thuyết “ nhân duyên”. trong thuyết “nhân duyên” có ba khái
niệm chủ yếu là Nhân, Quả và Duyên.
- Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, được
gọi là Nhân.
- Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả.
- Duyên: Là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không
phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để
giúp cho sự biến chuyển của vạn Pháp.
Ví dụ hạt lúa là cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây
lúa sắp thành. Lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện và
những mối liên hệ thích hợp như đất, nước, không khí, ánh sáng. Những yếu
tố đó chính là Duyên.
Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về nguyên nhân biến hoá vô
thường của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tương lại. Phật giáo đã
trình bày thuyết “ Thập Nhị Nhân Duyên” ( mười hai quan hệ nhân duyên)
được coi là cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, một cách tất yếu
của sự liên kết nghiệp quả.
+ Vô minh: ( là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên
sáng tỏ).
+ Hành: ( Là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả,
tạo ra cái nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có thức ấy là hành làm quả cho
vô minh và là nhân cho Thức).
5


+ Thức: ( Là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm
quả cho hành và làm nhân cho Danh sắc).

+ Danh sắc: ( Là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và
tên của ta. Do danh sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm
nhân cho Lục xứ).
+ Lục xứ hay lục nhập: ( Là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi, tai,
thân và tri thức. Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật.
Do Lục nhập mà có xúc - tiếp xúc. ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm
nhân cho Xúc.)
+ Xúc: ( Là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên
cmở rộng xúc, cảm giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và
làm nhân cho Thụ.)
+ Thụ: (Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào
mình. Do thụ mà có ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho ái.)
+ ái: (Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ. Do ấy, ái
làm quả cho Thụ và làm nhân cho Thủ.)
+ Thủ: ( Là lấy, chiếm đoạt cho mình. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà
Thủ làm quả cho ái và làm nhân cho Hữu).
+ Hữu: ( Là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái
nghiệp. Do Hữu mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh).
+ Sinh: ( Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người, làm
súc sinh. Do sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử).
+ Lão tử: ( Là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải
chết. Nhưng chết - sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác
tan đi là hết nhưng linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang cái
nghiệp rơi vào vòng luân hồi ( khổ não).

6


Thập nhị nhân duyên như nước chảy kế tiếp nhau không bao giờ cạn,
không bao giờ ngừng, nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên tự tập nhau

lại mà sinh mãi mãi gọ là Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên mà làm quả
cho đoạn trước, rồi lại do các duyên mà làm nhân cho đoạn sau. Bởi 12 nhân
Duyên mà vạn vật cứ sinh hoá vô thường.
- Mối quan hệ Nhân - Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không
gian và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên toàn bộ thế giới
không tính đến cái lớn nhỏ, không tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Một hạt
cát nhỏ được tạo thành trong mối quan hệ nhân quả của toàn vũ trụ. Cả vũ trụ
hoà hơp tạo nên nó. Cũng như nó hoà hợp tạo nên cả vũ trụ bao la. Trong một
có tất cả trong tất cả có một. Do nhân Duyên mà vạn vật sinh hay diệt. Duyên
hợp thì sinh, Duyên tan thì diệt.
Vạn vât sinh hoá vô cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau
mà ra. Nên vạn vật chỉ tồn tại ở dạng tương đối, trong dòng biến hoá vô tận
vô thường vô thực thể, vô bản ngã, chỉ là hư ảo. Chỉ có sự biến đổi vô thường
của vạn vật, vạn sự theo nhân duyên là thường còn không thay đổi.
Do vậy toàn bộ thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ cũng
chỉ là dòng biến hoá hư ảo vô cùng, không có gì là thường định, là thực, là
không thực có sinh, có diệt, có người, có mình, có cảnh, có vật, có không
gian, có thời gian. Đó chính là cái chân lý cho ta thấy được cái chân thế tuyệt
đối của vũ trụ. Thấy được điều đó gọi là “ chân như” là đạt tới cõi hạnh phúc,
cực lạc, không sinh, không diệt, niết bàn.
Thế giới của chúng sinh (loài người) cũng do nhân duyên kết hợp mà
thành. Đó là sự kết hợp của hai thành phần: Phần sinh lý và phần tâm lý.
- Cái tôi sinh lý tức là thể xác, hình chất với yếu tố “ sắc” ( địa, thuỷ,
hoá, phong ) tức là cái cảm giác được.
- Cái tôi tâm lý ( tinh thần ) linh hồn tức là “tâm” với 4 yếu tố chỉ có
tên gọi mà không có hình chất gọi là “ Danh”.
7


Trong “Sắc’ gồm những cái nhìn thấy được cũng như những thứ không

nhìn thấy được nếu nó nằm trong quá trình biến đổi của “sắc” gọi là “vô biến
sắc” như vật chất chuyển hoá thành năng lượng chẳng hạn.
Bốn yếu tố do nhân duyên tạo thành phần tâm lý ( tinh thần ) của con
người là:
+ Thụ: Những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sướng, đưa đến sự xúc
chạm lĩnh hội thân hay tâm.
+ Tưởng: Suy nghĩ, tư tưởng.
+ Hành: ý muốn thúc đẩy hành động.
+ Thức: Nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý ta là ta.
Hai thành phần tạo nên từ ngũ uẩn do Nhân - Duyên tạo thành mỗi sinh
vật cụ thể có danh và có sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan ngũ uẩn
thì là diệt. Quá trình hợp tan ngũ uẩn do Nhân - Duyên là vô cùng tận.
Các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn luôn biến hoá theo qui luật nhân hoá
không ngừng không nghỉ, nên mọi sinh vật cũng chỉ là vụt mất, vụt còn.
Không có sự vật riêng biệt, cố định, không có cái tôi, cái tôi hôm qua không
còn là cái tôi hôm nay. Kinh Phật có đoạn viết “ Sắc chẳng khác không, không
chẳng khác sắc, sắc là không, không là sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng
đều như thế”.
Như vậy thế giới là biến ảo vô thường, vô định. Chỉ có những cái đó
mới là chân thực, vĩnh viễn, thường hằng. Nếu không nhận thức được nó thì
con người sẽ lầm tưởng ta tồn tại mãi mãi, cái gì cũng thường định, cái gì
cũng của ta. Do đó, mà con người cứ khát ái, tham dục cứ mong muốn và
hành động chiếm đoạt tạo ra kết quả mà kết quả đó có thể tốt, có thể xấu gây
nên nghiệp báo, rơi vào bể khổ triền miên không bao giờ dứt.
Sở dĩ có nỗi khổ là do qui định của Luật nhân quả. Vì thế mà ta không
thấy được cái luật nhân bản của mình ( bản thể chân thực ). Khi đã mắc vào
8


sự chi phối của Luật Nhân - Duyên, thì phải chịu nghiệp báo và kiếp luân hồi,

luân chuyển tuần hoàn không ngừng, không dứt.
Nghiệp và luân hồi không những chỉ là những khái niệm của Triết học
Phật giáo mà có từ trong Upanishad.
Nghiệp chữ phạn và Karma là cái do những hoạt động của ta, do hậu
quả việc làm của ta, do hành động của thân thể ta. Được gọi là “ thân nghiệp”,
còn hậu quả của những lời nói của ta, phát ngôn của ta thì được gọi là “ khẩu
nghiệp”. Hay những cái do ý nghĩ của ta, do tâm tue của ta gây nên được gọi
là ‘ý nghiệp”. Tất cả những thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp là do ta tham
dục mà thành, do ta muốn thoả mãn tham vọng của mình gây nên. Sở dĩ ta
tham dục vì ta chưa hiểu đươc chân bản vốn có của ta cũng như vạn vật là
luôn luôn biến đổi không có gì là thường định và vĩnh viễn cả.
Cuộc đời con người là sự gánh chịu hậu quả của nghiệp đương thời và
các kiếp sống trước rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau.
Nghiệp báo trong một đời là sự tổng hợp của các nghiệp gây ra trong
hiện tại cộng với các nghiệp gây ra trong quá khứ, nó quyết định đời sau xấu
hay tốt, thiện hay ác.
Luân hồi: Chữ phạn là Samsara. Có nghĩa là bánh xe quay tròn. Đạo
phật cho rằng, sau khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra
khỏi thể xác và đầu thai vào một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác (có
thể là con người, loài vật thậm chí cỏ cây). Cứ thế mãi do kết quả, quả báo
hành động của những kiếp trước gây ra. Đó cũng là cách lý giải căn nguyên
nỗi khổ ở đời con người.
Sau khi lý giải được nỗi khổ ở cuộc đời con người là do “ thập nhị nhân
duyên” làm cho con người rơi vào bể trầm luân. Đạo Phật đã chủ chương tìm
con đường diệt khổ. Con đường giải thoát đó không những đòi hỏi ta nhận
thức được nó mà cao hơn ta phải hành động, phải thấm nhuần tứ diệu đế.

9



Tứ diệu đế: Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng
sinh phải thấu hiểu và thực hiện nó. Tứ diệu đế gồm:
1. Khổ đế: Con người và vạn vật sinh ra là khổ, ốm đau là khổ, già yếu
là khổ, chết là khổ, ghét nhau mà phải sống gần nhau là khổ, yêu nhau mà
phải chia lìa nhau là khổ, mất là khổ mà được cũng là khổ. .... Những nỗi khổ
ấy từ đâu? chúng ta tiếp tục tìm hiểu Tập đế.
2. Tập đế: Tập là tập hợp, tụ tập lại mà thành. Vậy do những gì tụ tập
lại mà tạo ra nỗi khổ cho chúng sinh?
Đó là do con người có lòng tham, dâm (giận dữ ), si ( si mê, cuồng mê,
mê muội) và dục vọng. Lòng tham và dục vọng của con người xâu xé là do
con người không nắm được nhân duyên. Vốn như là một định luật chi phối
toàn vũ trụ. Chúng sinh khômg biết rằng mọi cái là ảo ảnh, sắc sắc, không
không. Cái tôi tưởng là có nhưng thực là không. Vì không hiểu được ra nỗi
khổ triền miên, từ đời này qua đời khác.
3. Diệt đế: Là phải thấu hiểu được “ Thập nhị nhân duyên” để tìm ra
được căn nguyên của sự khổ - để dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ của cái khổ.
Thực chất là thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, sinh tử.
4. Đạo đế: Là con người ta phải theo đế diệt khổ, phải đào sâu suy nghĩ
trong thế giới nội tâm ( thực nghiệm tâm linh ). Tuy luyện tâm trí, đặc biệt là
thực hành YOGA để đạt tới cõi siêu phàm mà cao nhất là đạt tới cõi phận là
đạt tới trình độ giác ngộ bát nhã. Tới chừng đó sẽ thấy được chân như và
thanh thản tuyệt đối, hết ham muốn, hết tham vọng tầm thường, tức là đạt tới
cói “niết bàn” không sinh, không diệt.
Thực hiện Đạo đế là một quá trình lâu dài, kiên trì, giữ nguyên giới luật
tập trung thiên định cao độ Phật giáo đã trình bày 8 con đường hay 8 nguyên
tắc ( Bát chính Đạo - buộc ta phải tuân thủ bát chính đạo gồm:
- Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt được phải trái, không để
cho những cái sai che lấp sự sáng suốt.
10



- Chính tư duy: Suy nghĩ phải, phải chính, phải đúng đắn.
- Chính nghiệp: Hành động phải chân chính, phải đúng đắn.
- Chính ngữ: Nói phải đúng, không gian dối, không vu oan cho người khác.
- Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi, gian tà, không
được bỏ điều nhân nghĩa.
- Chính tịnh tiến: Phải nỗ lực, siêng năng học tập, có ý thức vươn lên
để đạt tới chân lý.
- Chính niệm: Phải luôn luôn hướng về đạo lý chân chính, không nghĩ
đến những điều bạo ngược gian ác.
- Chính định: Kiên định tập trung tư tưởng vào con đường chính, không
bị thoái chí, lay chuyển trước mọi cán dỗ.
Muốn thực hiện được “ Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để thực
hiện nhằm ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những
người làm điều thiện có lợi ích cho mình và cho người. Nội dung của các
phương pháp đó là thực hiện “ Ngũ giới” ( năm điều răn ) và “Lục độ” (Sáu
phép tu ).
- “Ngũ giới” gồm:
+ Bất sát:

Không sát sinh

+ Bất đạo: Không làm điều phi nghĩa.
+ Bất dâm: Không dâm dục.
+ Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu oan giáo hoạ cho kẻ
khác, không nói dối.
- “Lục độ” gồm:
+ Bố thí: Đêm công sức, tài trí, của cải để giúp người một cách
thành thực chứ không để cầu lợi hoặc ban ơn.


11


+ Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
+ Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để
làm chủ được mình.
+ Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vươn lên.
+ Thiền định: Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, chính
không để cho cái xấu cho lấp.
+ Bát nhã: Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế gian.
Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện “Bát
hành đạo”, “Ngũ giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thoát mình ra
khỏi nỗi khổ. Phật giáo không chủ trương giải phóng bằng cách mạng xã hội.
Mặc dù Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ người bóc lột người, chống lại chủ
nghĩa duy tâm cua Bàlamôn giáo. Đó là một trong những nhược điểm đồng
thời cũng là ưu điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng trước bể khổ của chúng
sinh Phật giáo chủ trương cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện
thực. Như vậy Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, phủ nhận đấng
sáng tạo ( vô ngã, vô tạo giả) và có tư tưởng biện chứng ( vô thường, lý thuyết
Duyên khởi ). Tuy nhiên, Triết học Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ
quan khi coi thế giới hiện thực là ảo giả và do cái tâm vô minh của con người
tạo ra.
3. Sự truyền bá Phật giáo trên thế giới
Trước khi Thích ca Mâu Ni tạ thế, các khu vực truyền bá Đạo Phật chủ
yếu ở miền Trung lưu vực Sông Hằng, đặc biệt xung quanh các khu vực thành
phố lớn mới nổi lên. Sau khi ngài tạ thế, các thế kỷ trực tuyến của ngài đã
đem Đạo Phật mở rộng đến hạ lưu sông Hằng về phía Đông, phía Nam đến bờ
sống Caođaveri, phía Tây đến bờ biển Arập, phía Bắc tới khu vực Thaiysiro. ở
thời kỳ thống trị của vua Asôca thuộc vương triều Maurya, Đạo phật bắt đầu
phát triển tới các cùng biển của thứ Đại lục, Đông tới Miama, Nam tới

12


Xrilanca, Tây tới Xyri, Aicập .... Nhanh chóng trở thành tôn giáo mang tính
thế giới. Sau khi vương triều Casan (kushan) hưng khởi lại truyền tới Iran, các
nơi ở trung tâm Châu á, rồi qua con đường tơ lụa truyền vào Trung Quốc.
Các nơi khác: Mấy năm gần đây ở một số nước như: Italya, Thuỵ Sỹ,
Thuỵ Điển, Tiệp .... Việc nghiên cứu Đạo Phật cũng rất sôi nổi, đã xây dựng
nên không ít cơ sở nghiên cứu Phật giáo và trung tâm nghiên cứu Phật học. Ví
dụ sở nghiên cứu Trung Đông, Viễn Đông Italia, dưới sự chủ trì của Đỗ Kỳ đã
biên tập và xuất bản “ Tư sách La mã với Đông Phương” (Đến năm 1977 đã
xuất bản được 51 loại) trong đó bao gồm rất nhiều trước tác phẩm Phật giáo.
Nhưng ở trong các quốc gia này số tín đồ không nhiều lắm chỉ chiếm số
ít phần trăm trong tổng số dân. Ngay cả trong số người nổi tiếng trên thế giới
ngày nay cũng chọn Phật giáo làm đạo tu hành cho mình như cầu thủ bóng đá
Rôbettô Bagiô, Erie Cantôna, siêu sao màn bạc Richard Gere.
4. Tình hình phát triển của Phật giáo
Trước đây Phật giáo được coi là một trong ba tôn giáo lớn của thế giới,
nhưng trong những năm gần đây do sự suy yếu của một số quốc gia, số tín đồ
Phật giáo đã tụt xuống đứng sau Đạo Cơ Đốc, Đạo Ixlam và Đạo ấn Độ, chiếm
vị trí thứ tư. Căn cứ thống kê của “ Bách khoa toàn thư Cơ Đốc giáo thế giới”
xuất bản ở Oxford năm 1982, toàn thế giới hiện có 295.570.780 tín đồ Phật
giáo. Con số này so với năm 1972 đã tăng lên 50.000 người ( năm 1972 có
244.800.300 người ). Tín đồ Phật giáo phát triển so với tổng số dân trên toàn
thế giới là rất nhỏ bé. Tình hình phân bố của tín đồ Phật giáo theo Theo
in the world.htm( số liệu năm 2009 ):
Quốc gia / Vựng / Chõu lục - Số Phật tử - (Số phần trăm so với tổng số dân)
Trung Quốc (ước lượng “lạc quan”)1.070.893.447(80.00%)
Trung Quốc (ước lượng “bi quan”)669.308.405(50.00%)
Nhật Bản: 122.022.837(96.00%)

Thái Lan: 62.626.649(95.00%)
Ấn Độ: 37.913.134(3.25%)
13


Thỏi Lan: 14.933.050(70.00%)
Nhng nc chõu khỏc: 280.209.398(21.00%)
Chõu (c lng lc quan) 1.588.598.515
Chõu (c lng bi quan) 1.187.013.473
Hoa K: 6.135.071(2.00%)
Canada v cỏc Quc gia o Bc M: 368.447(1.10%)
Bc M: 6.503.518
c Quc: 905.657 (1.10%)
Phỏp Quc: 773.215 (1.20%)
Anh Quc: 733.394 (1.20%)
Nhng nc u chõu khỏc: 785.700(0.15%)
u Chõu: 3.197.966
Chõu M la tinh v Nam M: (868.929(0.15%)
c Chõu: 618.752(1.80%)
Phi Chõu: 194.550 (0.02%)
Ton th gii: (c lng lc quan)1.599.982.230 Khong 1.6 t
Ton th gii: (c lng bi quan)1.198.397.188Khong 1.2 t
Nh vy, s lng Pht t hin nay trờn th gii l khong t 1.2 t n
1.6 t. S lng ny thỡ gn bng s lng tớn ca hai tụn giỏo ln nht th
gii l Hi giỏo v Thiờn Chỳa giỏo (gm Cụng giỏo, Tin Lnh, Anh giỏo v
Chớnh Thng giỏo).
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Phật giáo ở các nơi trên
thế giới đã trải qua những biến đổi khác nhau, đã xuất hiện
một số đặc điểm mới phù hợp với tâm lý nguyện vọng của
dân tộc, quốc gia mà Phật giáo du nhập vào.

II. nh hng ca Pht giỏo trong i sng vn húa ngi Vit Nam
1. Bi cnh Vit Nam
Nc Vit Nam cú hỡnh ch S, thuc bỏn o ụng Dng, cú v th
7/10 bỏn o ụng Dng, tip giỏp vi bin Trung Quc v vnh Ben Gan,
14


được cấu thành bởi các dãy núi chạy từ Tây Tạng đến phía Đông và xòe ra
biển như hình rẽ quạt. Giữa các rặng núi là những thung lũng tạo thành các
miền cao nguyên, bình nguyên và các sông lớn.
Địa thế Việt Nam còn nằm giữa hai lục địa lớn và đông dân nhất thế
giới là Trung Quốc và Ấn Độ. Hai quốc gia lớn này cũng có nền văn hóa rất
sớm đối với nhân loại, trong đó có Việt Nam.
Người Việt Nam, theo truyền thuyết thuộc nòi giống Tiên Rồng. Nhưng
theo các nhà sử học, dân tộc Việt Nam được hình thành có những thuyết như sau:
a. Tổ tiên Việt Nam gốc ở Tây Tạng: Vì đời sống, một bộ lạc theo lưu
vực sông Hồng, dần hồi tràn xuống Trung Châu Bắc Việt - hạ lưu sông Dương
Tử bị nước Sở đánh đuổi. Để lánh nạn người Việt chạy về phía Nam miền
Quảng Đông, Quảng Tây rồi từ từ đến bắc Việt và Bắc Trung Việt. Cũng từ đó
người Việt có truyền thống Nam tiến.
b. Theo các nhà nhân chủng học thời thượng cổ: Giống người
Indonesia bị giống dân Aryan đánh đuổi, họ bỏ Ấn Độ chạy đến bán đảo Ấn
Độ Chi Na. Số người chạy về phía Nam lập thành nước Campuchia, Chiêm
Thành theo văn hóa Ân Độ. Còn số người ở phía Bắc kết hợp với giống Mông
Cổ thành người Việt Nam.
c. Theo các nhà dân tộc học: Việt Nam nằm giữa khu vực nối liền Ân
Độ Dương và Thái Bình Dương, chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa cổ nhất
là Ấn Độ và Trung Quốc. Vì thế Việt Nam là vùng quy tụ các thành phần dân
tộc khác nhau với tám nhóm ngôn ngữ: Mường, Thái, Dao, Khơmer, Chăm,
Nam Á..Nhưng thành phần người Kinh chiếm phần lớn, có ưu thế hơn.

Người Việt Nam có nhiều đặc tính quý báu: Thông minh, sáng tạo, cần
cù, nhẫn nại, yêu nước, yêu chuộng hòa bình; độ lượng, hài hòa…tinh thần tự
lập tự cường, ý chí độc lập, đoàn kết…Vì thế, Việt Nam đã tiếp nhận hai nền
văn hóa tư tưởng có từ lâu đời trên thế giới qua đường thủy và đường bộ.
2. Thời đại Phật giáo du nhập

15


Qua lịch sử, Phật giáo từ Ân Độ truyền vào Việt Nam cùng thời với con
đường truyền qua Trung Quốc.
Theo cuốn “Cổ sử các nước Ân Độ hóa ở vùng Viễn Đông” và cuốn
Roman coinsindia-1964P.559-683 cùa R.Sewedl.Trong những năm đầu của
công nguyên, các thương nhân hằng hải của Ấn Độ qua miền Viễn Đông để
buôn bán, đạo Phật đã theo bằng đường thủy qua Srilanca, Java, Inddônêxia,
Ấn Độ Chi Na và Trung Quốc. Ở những nơi thương nhân ghé lại, nơi thừa tự
được lâp để nguyện cầu bình an, may mắn. Từ dó, tư tưởng tôn giáo được
thiết lập.
Theo cuốn “Ngô chí” của Trung Quốc vào đời Hán thì có nói: Sĩ Nhiếp
trong buổi loạn lạc đã giữ yên quận Giao Châu, giúp dân an cư lạc nghiệp.Vì
thế ông được người dân bản xứ tôn kính. Đi đâu ông cũng có người Hồ đi
theo hai bên đường. Mà theo Sylvainlevi, Hồ là từ mà người Trung Quốc
dùng để chỉ người Trung Á hay Ấn Độ. Như vậy, người Ấn Độ, kể cả các nhà
sư có nhiều ở Giao Châu lúc bấy giờ. Bản thân Sĩ Nhiếp cũng đã theo đạo
Phật, đi đâu cũng có các nhà sư đi theo…Như thế chứng tỏ là đạo Phật đã do
các nhà sư Ấn Độ đem vào Việt cuối thế kỉ thứ 2. Và còn một số sách khác cho
thấy rằng: Sinh hoạt Phật giáo đã bắt đầu ở Việt Nam từ đầu thế kỷ do các nhà
buôn đem vào. Rồi thực sự có các nhà sư theo thuyền buôn đến truyền đạo vào
cuối thế kỷ thứ 2 và đầu thế kỷ thứ 3 bằng hai con đường là đường thủy và
đường bộ. Vào các thế kỷ đầu ở Giao Châu, Phật Giáo đã có một trung tâm lớn

tại Luy Lâu một trong ba trung tâm lớn của đế quốc nhà Hán.
Trụ sở của quận Giao Chỉ là Luy Lâu đã sớm trở thành trung tâm quan
trọng của Phật giáo. Tại đây với hoạt động truyền giáo của Khâu-ĐàLa(Kasudla) đã xuất hiện truyền thuyết đầu tiên về Phật giáo Việt Nam với
Thạch Quang Phật và Nàng Nương Phật Mẫu.
Do Phật giáo được truyền bá trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam nên ngay từ
đầu công nguyên từ Buddha (Bậc Giác Ngộ) tiếng phạn đã được phiên âm
16


sang tiếng Việt là Bụt. Phật giáo Giao Châu lúc này mang màu sắc Tiểu Thừa
Nam Tông, và trong mắt người Việt nông nghiệp hình tượng Bụt được hình
dung như vị thần dân toàn năng có mặt khắp nơi, luôn sẵn sàng xuất hiện để
cứu giúp người tốt và trừng trị kẻ xấu.
Sau này, sang thế kỷ thứ 4-5 có thêm luồng ảnh hưởng của Phật Giáo Đại
Thừa Bắc Tông từ Trung Hoa tràn vào không bao lâu, nó đã lấn át và thay thế
luồng Nam Tông có từ trước đó. Khi ấy từ Buddha tiếng Phạn vào tiếng Hán
được phiên âm thành Phật ngang đà, Phật đồ, vào tiếng Việt rút gọn thành
Phật. Và từ đây từ Phật dần dần thay thế từ Bụt.
Từ Trung Hoa, có ba tông phái Phật giáo được truyền vào Việt Nam, đó là:
Thiền tông,Tịnh Độ tông và Mật tông.
Việt Nam là xứ nông nghiệp, thiên nhiên ít được ưu đãi, nhiều thiên tai
bão lụt, con người tin nhiều vào thần thánh, phép lạ,…bởi thế Phật giáo rất dễ
du nhập. Các sư như Ma Ha Kỳ Vực, Khâu Đà La, Chi Cương Lương làm
nhiều phép thần thông lạ thường được dân Việt Nam ưa thích.
Mật tông là tông phái chủ trương sử dụng những phép tu huyền bí như
dùng linh thù, mật chú, ấn quyết,…để mau chóng đạt đến giác ngộ và giải
thoát. Ở Việt Nam Mật tông không tồn tại độc lập như một tông phái riêng mà
nhanh chóng hòa vào dòng tín ngưỡng dân gian.
Tịnh Độ tông, với pháp môn niệm Phật cầu Vãng sinh, lớp bình dân dễ
dàng tin theo. Phép tu chỉ có chuyện niệm Phật A Di Đà. Dù chưa dứt hết

nghiệp, sau khi chết, người chuyên niệm Phật vẫn được Vãng sinh cực lạc.
Thiền tông là pháp môn thấy dễ mà khó, thiền không khéo sẽ bị tẩu hỏa
nhập ma, điên loạn, mất bình thường. Tuy thế, người Việt Nam vẫn tiếp nhận
và cũng khá phổ biến trong các nhà sư và trí thức.
3. Lý do Phật giáo Ấn Độ vào Việt Nam

17


Đạo Phật với những đặc trưng như đã nêu ở trên nó nhanh chóng trở
thành tôn giáo của thế giới, ảnh hưởng đến nhiều nước đặc biệt là đối với Việt
Nam -Trong hoàn cảnh xã hội đầy rẫy bất công do chế độ phân hóa giai cấp
gây ra, thì đạo Phật lại chủ trương không phân biệt đẳng cấp, kêu gọi lòng
thương người (từ bi hỉ xả), tránh điều ác, làm điều thiện, kêu gọi sự công
bằng, lòng nhân đức; nghi lễ đơn giản và khi Phật giáo đến với Việt Nam ở
đây chưa có một loại tôn giáo nào nên Việt Nam là mảnh đất phì nhiêu cho
Phật giáo cắm rễ. Phật giáo vào Việt Nam đã:
3.1. Tổng hợp, hỗn dung với tín ngưỡng của Việt Nam
Đây là đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp. Khi vào Việt Nam, Phật giáo
đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng truyền thống của dân tộc ta, do đó đã
tổng hợp chặt chẽ ngay với chúng. Hệ thống chùa “Tứ pháp” kết hợp việc thờ
Phật với thờ các vị thần tự nhiên như Mây – Mưa - Sấm - Chớp và thờ đá. Lối
kiến trúc của chùa chiền Việt Nam là “tiền Phật hậu Thần” với việc đưa vào
chùa các thần, thánh, các thành hoàng thổ địa và các anh hùng dân tộc. Có
chùa thờ cả Bác Hồ ở Hậu tổ và hầu như không một chùa nào là không để bia
hậu, bát nhang cho các linh hồn, vong hồn đã mất.
Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn kết hợp chặt chẽ giữa việc đạo với việc
đời. Tuy là một tôn giáo xuất thế, nhưng ở Việt Nam, Phật giáo lại rất nhập
thế: các cao tăng được nhà nước mời tham chính hoặc cố vấn trong những
việc hệ trọng. Sự gắn bó giữa đạo với đời mật thiết tới mức không chỉ có các

nhà sư tham gia vào chính sự, mà các thời Lý- Trần còn khá nhiều vua quan
quý tộc đi tu( thiền phái Thảo Đường và Trúc Lâm Yên Tử).
3.2. Xu hướng hài hòa âm dương
Đây là đặc trưng nổi bật thứ hai của Phật giáo Việt Nam- đặc trưng bản
chất của nền văn hóa nông nghiệp.

18


Các vị thần Ấn Độ vốn xuất thân là những vị đàn ông, sang Việt Nam biến
thành Phật ông Phật Bà. Phật Bà Quan Âm( biến thể của từ Quán Thế Âm Bồ
Tát) trở thành vị thần hộ mệnh của cư dân khắp vùng sông nước vốn là địa
bàn của cư dân Nam Á. Đặc biệt, người Việt Nam còn có những Phật Bà riêng
của mình, do mình tạo ra như: đứa con gái của nàng Man, tương truyền sinh
ngày 8-4, được xem là Phật tổ Việt Nam, bản thân nàng Man trở thành Phật
mẫu.
Ở nước ta có khá nhiều chùa chiền mang tên các bà như: chùa Bà Dâu, chùa
Bà Đá, chùa Bà Đanh… và tuyệt đại bộ phận Phật tử tại gia cũng là các bà.
3.3. Tính linh hoạt
Tính linh hoạt này đã khiến cho khi vào Việt Nam, Phật giáo đã bị Việt
Nam hóa mạnh mẽ. Vốn có đầu óc thiết thực, người Việt Nam coi trọng việc
sống phúc đức, trung thực hơn là việc đi chùa: “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu
chợ, thứ ba tu chùa”. Coi trọng truyền thống thờ ông bà cha mẹ hơn là thờ Phật.
Vào Việt Nam, đức Phật được đồng nhất với những vị thần tín ngưỡng
truyền thống có khả năng cứu giúp mọi người thoát khỏi tai họa. Hơn nữa vì
muốn giữ cho Phật giáo ở mãi bên mình, người Việt Nam nhiều khi phá cả
giới luật. Người Việt Nam giao tiếp theo nguyên tắc” xưng khiêm hô nhường”
nên các vị Bồ tát, hòa thượng mà người Việt Nam yêu quý đều được tôn làm
Phật hết: Phật bà Quan Âm( vốn là Bồ tát), Phật Di-Lặc( vốn là hòa thượng).
Còn tượng Phật Việt Nam vốn mang dáng dấp hiền hòa của người Việt Nam.

III. Một số ảnh hưởng của Phật giáo ở Việt Nam
1. Ảnh hưởng của Phật giáo về tư tưởng
Tư tưởng hay đạo lí của Phật giáo là đạo lí Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế và
Bát chánh Đạo. Ba đạo lí này là nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo
nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng người dân Việt. Về giáo lí
nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của đạo Phật đã được truyền vào nước ta

19


rất sớm. Giao lí này đã trở thành nếp sống tín ngưỡng đối với người Việt Nam
có hiểu biết, có suy nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, nó chẳng
những thích hợp với giới bình dân mà còn ảnh hưởng đến giới trí thức. Vì
thế, giáo lí nghiệp báo luân hồi đã in dấu ấn đậm nét trong văn chương bình
dân, văn chương chữ Hán, chữ Nôm từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế
hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lí nhân quả nghiệp báo mà hành
động sao cho tốt đẹp, đem lại hòa bình an vui cho mọi người. Mỗi người dân
Việt Nam đều biết câu “ác giả ác báo”. Mặt khác, họ hiểu rằng nghiệp nhân
quả không phải là định nghiệp mà có thể làm thay đởi, do đó họ tự biết sửa
chữa, tu tập cải ác thành thiện. Từ những hành động thiện, giảm bớt điều ác,
dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho ta một cuộc sống yên vui.
2. Ảnh hưởng của Phật giáo về đạo lí
Đạo lí ảnh hưởng nhất là giáo lí từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của
Phật giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn người Việt
Nam. Tinh thần thương người như thể thương thân này đã biến thành ca dao,
tục ngữ rất phổ biến trong quần chúng Việt Nam như: “ lá lành đùm lá rách”,
“ nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau
cùng”. Đó là những câu ca dao tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng
thấm nhuần và thuộc lòng, nói lên lòng nhân ái vị tha của người Việt Nam.
Cho đến hôm nay tinh thần tương thân tương ái vẫn luôn được phát huy bằng

các hành động và việc làm cụ thể: Ủng hộ quỹ ngày vì người nghèo, quỹ bảo
trợ trẻ em, quỹ phòng chống lụt bão...Qua đó đã kịp thời giúp đỡ các cá nhân
tập thể có hoàn cảnh khó khăn vươn lên hòa nhập với cộng đồng.
Ngoài đạo lí từ bi, người Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của Đạo lí Tứ Ân,
gồm: ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sinh. Trong đó ân cha
mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lí người Việt
bởi vì đạo Phật đặc biệt chú trọng đến chữ hiếu, như thế là, phù hợp với đạo lí
truyền thống của dân tộc Việt. Đạo lí Tứ Ân còn có chung động cơ thúc đẩy
từ bi hỉ xả khiến con người ta sống hài hòa với xã hội, thiên nhiên để tiến đến
hạnh phúc đích thực và bền vững.
20


3. Ảnh hưởng của vào phong tục tập quán
* Ảnh hưởng qua tục ăn chay, phóng sinh, bố thí:
Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của nếp
sống văn hóa này. Nó xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo. Đạo Phật
không muốn sát sinh mà trái lại phải thương yêu mọi loài. Số ngày ăn chay
tuy có khác nhau trong từng tháng, nhưng cùng giống nhau ở quan điểm từ bi
hỷ xả của Phật giáo. Do hiệu quả của việc ăn chay trong việc tăng cường sức
khỏe, chống bệnh tật, nên người Việt Nam dù là Phật tử hay không đều thích
ăn chay.
Ăn chay và thờ Phật là hai việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Dù
không phải là Phật Tử cũng dùng tượng Phật hay tranh ảnh về Phật giáo để
trang trí cho đẹp và nghiêm trang.
Cùng với tục thờ Phật, tục thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam có từ lâu
đời. Tục này xuất phát từ lòng kính yêu đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên và
được xem là một dạng tín ngưỡng quan trọng của người Việt Nam. Vào
những ngày rằm, mùng 1 những gia đình không theo đạo Phật cũng mua hoa
quả thắp nhang trên bàn thờ tổ tiên.

Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật, tục lệ bố thí và phóng sinh
đã ăn sâu vào đời sống tinh thần. Đến ngày rằm và mùng 1, người Việt thường
mua chim, cá… để đem về chùa cầu nguyện rồi đi phóng sinh. Người dân
cũng thích làm phước bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó hoạn nạn. Tuy
nhiên, trong xã hội hiện đại những biểu hiện mang tính chất hình thức trên
ngày càng bị thu hẹp. Thay vào đó mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ
đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn, hoàn cảnh sống khó khăn đúng với truyền
thống đạo lí của dân tộc: lá lành đùm lá rách.
* Ảnh hưởng qua tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa:
Tập tục đến chùa để tìm sự bình an cho tâm hồn đã trở thành một nét
phong tục lâu đời “ đi chùa lễ Phật” của tổ tiên. Những ngày lễ hội lớn trong

21


năm bắt đầu từ Phật giáo như: lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, lể tắm Phật…thực sự
đã trở thành ngày hội văn hóa của người dân. Những ngày lễ lớn như trên của
Phật giáo đã là chất keo gắn nhân dân với nhau và ảnh hưởng ngày càng sâu
đậm trong nhân dân.
Có thể nói phong tục tập quán ở Việt Nam trong qúa trình tồn tại và phát
triển đã chịu tác động của trào lưu văn hóa khác nhau, nhất là từ Trung Quốc,
trong đó Phật giáo đã dự một phần quan trọng vào việc định hình và duy trì
không ít các tập tục dân gian vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Nhưng không phải
tất cả các tập tục có sự ảnh hưởng của Phật giáo đều là tốt cả mà trong đó có
tập tục cần phải chắt lọc lại như tập tục xin xăm bói quẻ, cúng sao hạn, coi
ngày giờ, đốt vàng mã để phù hợp với chính pháp. Đó là nhiệm vụ nặng nề
của các nhà truyền giáo trong thời hiện đại.
4. Ảnh hưởng qua các loại hình văn hóa, nghệ thuật
*Ảnh hưởng trong ca dao, thơ:
Tư tưởng đạo lý Phật giáo cũng thường được ông cha ta đề cập đến trong

ca dao dân ca dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc nhở, khuyên răn dạy
bảo với mục đích xây dựng cuộc sống yên vui, phù hợp với truyền thống đạo
lý dân tộc Việt Nam. Quan niệm đạo Phật là đạo hiếu, lời dạy của Phật về việc
nhớ ơn và báo ơn cha mẹ là những cảm giác suy tư in đậm trong lòng người
dân đã được thể qua ca dao dân ca ví dụ:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
* Thể hiện qua nghệ thuật sân khấu

22


Tính triết lý nhân quả báo ứng của Phật giáo đóng vai trò quan trọng
trong các bài ca tuồng, vở diễn phù hợp với đạo lý Phương Đông và nếp sống
truyền thống của dân tộc, giáo lý “nhân quả báo ứng, thưởng thiện phạt ác”…
được các soạn giả thể hiện trong các vở cải lương…. Ví dụ: “Quan Âm Thị
Kính”. Ngoài ra còn có các vở chịu ảnh hưởng ít nhiều của tư tưởng Phật giáo
như các vở: “Phạm Công Cúc Hoa”, “Tấm Cám”, “Kim Vân Kiều”… do sự
ảnh hưởng tinh thần từ bi hỉ xả của Phật giáo nên các vở tuồng, cải lương ở
phần kết thúc đều có hậu.
* Phật giáo đã mang theo Giáo dục vào Việt Nam
Khi người Hán đến cai trị nước ta thì họ mang chữ Hán
đến. Nhưng người Hán chủ trương không mở trường đào tạo trí
thức người Việt mà chủ yếu đưa người Hán sang làm quan cai
trị. Do vậy Phật giáo đến Việt Nam đã đào tạo tầng lớp trí thức
Việt đầu tiên là trí thức Phật, tăng sĩ Việt Nam có nhiều người
có trí thức uyên thâm về Phật giáo. Nhiều người giỏi cả Phạn
ngữ, đã tham gia giải kinh Phật. Những nhà sư Phật giáo đã là

tầng lớp trí thức trụ cột cho những chính quyền độc lập đầu
tiên như các nhà tiền Lê - Lý - Trần.
Đạo Phật là tôn giáo thịnh đạt nhất trong xã hội thời Lý Trần. Thời Lý - Trần có rất nhiều nhà sư nổi tiếng trong cả
nước, có uy tín và địa vị chính trị xã hội. Có thể kể đến các
nhà sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông, Minh Không, Giác
Hải, Pháp Loa, Huyền Quang. Cho đến ngày nay trong các
chùa các phật tử được học chữ, đức làm người, các kiến thức
về lịch sử …
* Ảnh hưởng Phật giáo qua nghệ thuật tạo hình :

23


Về kiến trúc: Khi Phật giáo truyền vào Việt Nam, cố nhiên đã đem
theo các kiểu kiến trúc chùa tháp, lầu chuông gác trống theo mô hình kiến trúc
của Ấn Độ, Miến Điện và Trung Hoa. Tuy nhiên theo thời gian, tinh thần khai
phóng của Phật giáo phối hợp cung với lối tư duy tổng hợp của dân tộc Việt
đã tạo ra một mô hình kiến trúc rất riêng cho Phật giáo ở Việt Nam. Chùa tháp
ở Việt nam thường được xây dựng với lối kiến trúc đặc biệt, mái chùa bao giờ
cũng ẩn dấu sau lũy tre làng, dưới gốc cây đa hay ở một nơi có cảnh trí thiên
nhiên đẹp hoặc thanh vắng. Theo mô hình kiến trúc theo kiểu chữ "công" : bái
đường và điện Phật được nối nhau bằng nhà thiên hương; kiêu chữ "Đinh" :
trước; kiểu chữ "Tam" : có ba nếp nhà song song với nhau, hay kiểu "Nội
công ngoại Quốc": phía trước là tiền đường và điện Phật, sau là mảnh sân
hình vuông trồng cây cảnh, đặt hòn non bộ, phía sau là nhà hậu tổ, hai bên là
nhà Đông và nhà Tây. Phật giáo để lại nhiều quần thể kiến trúc độc đáo và
danh lam thắng cảnh cho nước Việt, nhiều ngôi chùa nổi tiếng như ở miền
Bắc có chùa Một Cột, chùa Tây phương, chùa Hương, ở miền Trung có chùa
Thiên Mụ, chùa Từ Hiếu, chùa Báo Quốc, và ở miền Nam có các chùa Giác
Lâm, chùa Vĩnh Tràng...

Về điêu khắc : Việt Nam có nhiều cốt tượng, phù điêu của Phật giáo
đó không những là một niềm tự hào của nền văn hóa dân tộc Việt mà còn là
dấu vết chứng minh sự ảnh hưởng của Phật giáo có mặt trong lĩnh vực này.
Tiêu biểu ta thấy có các tác phẩm như tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay.
Chùa Hạ (Vĩnh Phú, Bắc Việt, cao 3,2m), 16 pho tượng tổ gỗ của chùa Tây
Phương (Hà Tây, Bắc Việt), Bộ tượng Thập Bát La Hán chùa Phước Lâm
(Hội An, Quảng Nam Đà Nẵng), Bộ tượng Thập Bát ở chùa Tràng (Mỹ Tho),
tượng Tuyết Sơn chùa Trăm Gian (Hà Tây). Tượng Phật Thích Ca, cao 1,07m
bằng đồng ... là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc độc đáo của Việt Nam
còn có những công trình điêu khắc quy mô và mang tính lịch sử như tượng
"Phật Nhập Niết Bàn" dài 49m ở núi Trá Cú, Phan Thiết được kiến tạo năm
1962, tượng Đức Phật Thích Ca ngồi kiết già cao 11m tại Vũng Tàu, Khánh
24


×