Tải bản đầy đủ (.doc) (210 trang)

Phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn tỉnh bình dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 210 trang )

B QUC PHềNG

HC VIN CHNH TR

CAO THANH QUNH

Phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ trong
xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn
tỉnh bình dơng hiện nay

Chuyờn ngnh: Chu nghia duy võt biờn chng v duy võt lich s
Mó s

: 922 90 02

LUN AN TIấN S TRIấT HC

NGI HNG DN KHOA HC:
1.PGS. TS Phan Trng Ho
2. TS o Vn Tin

H NI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng nghiên cứu sinh. Các số liệu, kết quả nêu trong
luận án là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng,
không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN


Cao Thanh Quỳnh


MỤC LỤC
Trang

LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.
Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến nguồn nhân lực,
nguồn nhân lực nông thôn trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
1.2.
Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến xây dựng đời
sống văn hoá, phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng đời
sống văn hoá ở nông thôn Việt Nam và tỉnh Bình Dương
1.3.
Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình khoa học đã công bố và
những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết
Chương 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ
NGUỒN NHÂN LỰC TRẺ TRONG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA Ở NÔNG THÔN TỈNH BÌNH DƯƠNG
2.1.
Quan niệm về nguồn nhân lực trẻ và phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ
trong xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn tỉnh Bình Dương
2.2.
Tính quy luật về phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng
đời sống văn hóa ở nông thôn tỉnh Bình Dương

Chương 3 THỰC TRẠNG, NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ YÊU CẦU
PHÁT HUY VAI TRÒ NGUỒN NHÂN LỰC TRẺ
TRONG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở NÔNG
THÔN TỈNH BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY
3.1.
Thực trạng phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng đời
sống văn hóa ở nông thôn tỉnh Bình Dương hiện nay
3.2.
Nhân tố tác động và yêu cầu phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ trong xây
dựng đời sống văn hóa ở nông thôn tỉnh Bình Dương hiện nay
Chương 4 GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY VAI TRÒ NGUỒN
NHÂN LỰC TRẺ TRONG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA Ở NÔNG THÔN TỈNH BÌNH DƯƠNG
HIỆN NAY
4.1.
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể và chất lượng đào
tạo, sử dụng nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng đời sống văn hóa ở
nông thôn tỉnh Bình Dương hiện nay
4.2.
Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách và các điều kiện bảo đảm
phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng đời sống văn hóa
ở nông thôn tỉnh Bình Dương hiện nay
4.3.
Khơi dậy tính tích cực, sáng tạo và tổ chức các hoạt động thực tiễn nhằm
bồi dưỡng, nâng cao năng lực, rèn luyện nguồn nhân lực trẻ trong xây
dựng đời sống văn hóa ở nông thôn tỉnh Bình Dương hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


4
8
8
14
24
28
28
59

79
79
101

120
120
134
148
160
162
163


PHỤ LỤC

177


4
MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong lãnh đạo cách mạng, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta xác
định: “Văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức
mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc” [39, tr. 126]. Xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn là chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động
xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân
cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời
sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội [38, tr. 88, 89].
Trong xây dựng đời sống văn hoá, yếu tố con người giữ vai trò quyết định. Theo
đó, phát huy tinh thần tự nguyện, tự quản và năng lực sáng tạo, làm chủ của nhân
dân, nhất là vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của nguồn nhân lực trẻ là động lực
to lớn, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả xây dựng đời sống văn hoá.
Nguồn nhân lực trẻ có vị thế quan trọng trong cơ cấu nguồn nhân lực xã hội,
đã và đang khẳng định vai trò to lớn trong các lĩnh vực hoạt động chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, thể hiện ở tính tích cực chính trị, tinh thần xung kích, năng động,
sáng tạo trong xây dựng và phát triển đất nước. Xây dựng đời sống văn hoá ở nông
thôn là quá trình lâu dài, phải giải quyết đồng bộ, toàn diện trên nhiều nội dung, đòi
hỏi có quyết tâm, thời gian và phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp các nguồn lực,
trong đó, nguồn nhân lực giữ vai trò đặc biệt quan trọng, mà cốt lõi là nguồn nhân
lực trẻ để thực hiện. Trong xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn tỉnh Bình
Dương, nguồn nhân lực trẻ: luôn xung kích trong phát triển kinh tế - xã hội; tích cực
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, tạo lập những giá trị văn hoá mới; lực
lượng chủ chốt tham gia hoạt động, sinh hoạt văn hoá, xây dựng thiết chế của đời
sống văn hoá; nòng cốt đấu tranh ngăn chặn các tư tưởng sai trái, phản văn hoá, bảo
vệ sự trong sạch, lành mạnh đời sống văn hoá ở nông thôn.



5
Bình Dương là tỉnh có truyền thống kiên cường, bất khuất, một trong những
trung tâm kinh tế trọng điểm phía Nam, có tốc độ phát triển nhanh và năng động,
thuộc nhóm các tỉnh đứng đầu phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị hoá, xây dựng
đời sống văn hoá và nông thôn mới. Những năm qua, nguồn nhân lực trẻ Bình
Dương đã phát huy được vai trò nòng cốt, xung kích, sáng tạo trong phát triển kinh
tế - xã hội, góp phần bảo tồn, gìn giữ và làm phong phú các giá trị văn hoá dân tộc,
đấu tranh chống sự xâm nhập của các trào lưu văn hoá ngoại lai không phù hợp với
thuần phong, mỹ tục con người Việt Nam, xây dựng và bảo vệ sự trong sạch, lành
mạnh đời sống văn hoá ở nông thôn của tỉnh. Tuy nhiên, nguồn nhân lực trẻ là chủ
thể, hạt nhân để xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn vẫn còn tồn tại một số bất
cập, hạn chế nhất định, đặc biệt là việc khai thác, sử dụng và phát huy vai trò nguồn
nhân lực này. Đây là vấn đề cần được quan tâm cả lý luận và thực tiễn, cần nhận
thức và giải quyết tốt, tạo điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công xây dựng đời
sống văn hoá ở nông thôn.
Thời gian qua, nghiên cứu nguồn nhân lực trẻ, phát huy vai trò nguồn nhân
lực trẻ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế đã được
các nhà khoa học quan tâm. Song, nghiên cứu nguồn nhân lực trẻ và phát huy vai
trò nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn là vấn đề mới,
phức tạp, cần thiết có những nghiên cứu xác đáng.
Từ những lý do trên, tác giả chọn và nghiên cứu đề tài: “Phát huy vai trò
nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn tỉnh Bình Dương
hiện nay” là mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn phát huy vai trò nguồn nhân
lực trẻ trong xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn tỉnh Bình Dương, trên cơ
sở đó đề xuất giải pháp cơ bản phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ trong xây
dựng đời sống văn hoá ở nông thôn tỉnh Bình Dương hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu



6
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
Làm rõ một số vấn đề lý luận về phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ trong
xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn tỉnh Bình Dương.
Đánh giá thực trạng, chỉ rõ nhân tố tác động và yêu cầu phát huy vai trò
nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn tỉnh Bình
Dương hiện nay.
Đề xuất giải pháp cơ bản phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ trong xây
dựng đời sống văn hoá ở nông thôn tỉnh Bình Dương hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề thực chất và tính quy luật phát huy vai trò nguồn
nhân lực trẻ trong xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn tỉnh Bình Dương.
Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu ở góc độ triết học và điều tra, khảo sát những
vấn đề về phát huy vai trò của nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng đời sống văn hoá
ở nông thôn tỉnh Bình Dương hiện nay; số liệu điều tra, khảo sát ở một số xã nông
thôn tỉnh Bình Dương [Phụ lục 1], từ năm 2010 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nguồn nhân lực, đời sống văn hoá và
phát huy vai trò nguồn nhân lực trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Đồng thời,
luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã được công bố có
liên quan đến đề tài.
Cơ sở thực tiễn
Luận án dựa trên báo cáo tổng kết, thống kê của các cơ quan chức năng tỉnh
Bình Dương về vấn đề xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn, vai trò của nguồn



7
nhân lực trẻ trong xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn tỉnh Bình Dương; kết
quả điều tra, khảo sát của tác giả.
Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, kết hợp sử dụng các phương pháp nhận thức khoa học như: phân
tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch; hệ thống và cấu trúc; khái quát hoá và trừu
tượng hoá; tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học, điền dã; phương pháp chuyên gia
để làm rõ vấn đề dưới góc độ triết học.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án đã làm rõ nội dung và tính quy luật phát huy vai trò nguồn nhân lực
trẻ trong xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn tỉnh Bình Dương.
Luận án đã đưa ra những giải pháp cơ bản phát huy vai trò nguồn nhân lực
trẻ trong xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn tỉnh Bình Dương hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần bổ sung, phát triển thêm một số vấn đề lý luận về nguồn
nhân lực trẻ và phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng đời sống văn hoá
ở nông thôn tỉnh Bình Dương.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu đề tài là tài liệu giúp cho các cấp uỷ đảng, chính quyền
tỉnh Bình Dương tham khảo trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát huy vai trò
nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn tỉnh Bình Dương
hiện nay; ngoài ra có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học,
giảng dạy, học tập ở các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu; 4 chương (10 tiết); kết luận; danh mục các công
trình của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài luận án; danh mục tài liệu

tham khảo và phụ lục.


8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến nguồn nhân lực,
nguồn nhân lực nông thôn trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
1.1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến nguồn nhân lực
trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
Nguồn nhân lực có vai trò to lớn trong phát triển bền vững, ngay từ đầu những
năm 1990 đến nay, đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Ở
nước ta, các nhà khoa học đã tập trung đi sâu nghiên cứu nguồn lực con người trong
sự nghiệp đổi mới đất nước, đặc biệt dưới góc độ phát triển nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Trong công trình Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước [43], do Phạm Minh Hạc chủ biên, đã đưa ra cơ sở lý luận và thực
tiễn để thực hiện chiến lược con người, với tư tưởng coi nhân tố con người, phát
triển nguồn lực con người có ý nghĩa quyết định đối với việc sáng tạo vật chất và
tinh thần, coi con người là trung tâm sự phát triển. Công trình bước đầu khái quát,
đưa ra quan niệm phát triển nguồn lực con người, cấu trúc nguồn lực con người “là
số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ,
năng lực và phẩm chất” [43, tr. 328]; đồng thời đã trình bày khá rõ mối quan hệ
giữa đào tạo, sử dụng, việc làm với sự phát triển nguồn nhân lực; xác định trách
nhiệm quản lý của Nhà nước, ngành giáo dục, đào tạo đối với sự phát triển nguồn
nhân lực trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cũng theo hướng nghiên cứu này, Đoàn Văn Khái với công trình
Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt
Nam [58], cho rằng: “Nguồn lực con người là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu

dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả các đặc điểm và sức mạnh
của nó trong sự phát triển xã hội” [58, tr. 62]; đồng thời, tiếp cận và nghiên
cứu vấn đề nguồn lực con người với tính cách là nguồn lực quyết định sự


9
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thể hiện trên cả phương diện chủ thể
lẫn phương diện khách thể; coi con người là nguồn lực của mọi nguồn lực, là
tài nguyên của mọi tài nguyên, giữ vị trí trung tâm. Hơn nữa, khái niệm nguồn
nhân lực, ngoài nghĩa rộng là nguồn lực con người, còn được hiểu theo nghĩa
hẹp là nguồn lao động, thậm chí có khi còn được hiểu là lực lượng lao động;
“khái niệm “tài nguyên con người” còn được sử dụng với hàm ý nhấn mạnh
phương diện khách thể của con người, coi con người như một loại tài nguyên,
một loại của cải quý giá, cần được khai thác hợp lý, có hiệu quả nguồn tài
nguyên này, đặc biệt là nguồn tiềm năng trí tuệ trong đó” [58, tr. 66].
Trong công trình Một số vấn đề triết học trong các văn kiện Đại hội XI của
Đảng [48], có bài “Vấn đề phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay” của
Nguyễn Thế Kiệt, đề cập đến yếu tố thể chất và yếu tố tinh thần của con người,
phản ánh thể lực, trí lực và những phẩm chất tinh thần khác (tâm lực) ở con người,
nhờ đó tạo ra được sức mạnh với tư cách là một nguồn lực của sự phát triển, tác giả
cho rằng: ““Nguồn lực con người” là tổng hợp toàn bộ các yếu tố thể chất và tinh
thần của con người, các hoạt động vật chất và tinh thần của họ đã, đang và sẽ tạo ra
năng lực, sức mạnh thúc đẩy sự phát triển xã hội” [48, tr. 122]. Ở đây, con người
xuất hiện vừa với tư cách là chủ thể, vừa với tư cách là khách thể của các quá trình
kinh tế - xã hội. Mặt khác, tác giả cũng chỉ rõ: khi xem xét nguồn lực con người, đòi
hỏi phải coi con người với tư cách là con người cá nhân, là thực thể sinh vật - xã
hội; trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, nguồn lực con
người luôn đứng ở vị trí trung tâm, giữ vai trò quyết định. Theo tác giả, khái niệm
nguồn lực con người và nhân tố con người có nét chung nhưng không giống nhau,
trong đó “nhân tố con người là cái cốt lõi, đặc trưng xã hội, là thuộc tính xã hội, giữ

vị trí trung tâm trong tiềm năng của con người” [48, tr. 125]. Nhấn mạnh tính chất
tích cực, sáng tạo của nguồn lực con người, trong quan hệ với kinh nghiệm, thói
quen, thể lực của chủ thể. Khái niệm nhân tố con người và nguồn lực con người có
cùng một nghĩa như nhau khi đặt trong mối quan hệ với nhân tố khác, nguồn lực
khác như: kinh tế, chính trị, xã hội... trong đời sống xã hội.


10
Nguyễn Đình Hoà với công trình Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân
lực và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá [52], đã phân tích vai trò, thực trạng
chất lượng của nguồn nhân lực và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, tập trung phân tích mối quan hệ chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các tác giả cho rằng: Phát triển nguồn
nhân lực là để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và ngược lại đến lượt nó lại
tạo điều kiện, tiền đề vật chất và môi trường cho quá trình thúc đẩy phát triển mạnh
mẽ hơn nữa nguồn nhân lực.
Nghiên cứu khá hệ thống về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực,
trên cơ sở quan điểm của tổ chức Liên hợp quốc về nguồn nhân lực là trình độ lành
nghề, kiến thức và năng lực hiện có thực tế và dưới dạng tiềm năng của con người
để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng, Dương Anh Hoàng với công
trình Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở thành
phố Đà Nẵng [53], cho rằng: “Nguồn nhân lực là tổng hợp những phẩm chất, năng
lực, sức mạnh của lực lượng người đang và sẵn sàng tham gia vào quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đó trước hết là những người lao động có sức
khỏe, trí tuệ, đạo đức, trình độ chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, kinh nghiệm, quyết
tâm phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
[53, tr. 24].
Nguyễn Hồng Quang chủ biên công trình Nguồn nhân lực với phát triển bền
vững vùng Bắc bộ giai đoạn 2011 - 2020 [88], tiếp cận nguồn nhân lực ở hai góc độ
vi mô và vĩ mô. Ở góc độ vi mô, nguồn nhân lực nằm trong kiến thức, kỹ năng và

động lực của người lao động. Ở góc độ vĩ mô, nguồn nhân lực được xem là trình độ
lành nghề, kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế
hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng [88, tr. 21, 22].
Về cấu trúc nguồn nhân lực, theo tác giả có hai cách chia: Theo góc độ dân số trong
độ tuổi và có khả năng lao động, bao gồm lực lượng lao động dự trữ (15 tuổi trở
lên) và lực lượng lao động có việc làm hoặc thất nghiệp; theo tính chất nghiên cứu


11
về số lượng (quy mô, tốc độ, sự phân bố) hay chất lượng (trí thức, thể lực, thái độ,
quan điểm) của nguồn nhân lực.
Ngoài ra, đi sâu nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực còn có: Lê Thị
Hồng Điệp với công trình Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu xây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam (Một số vấn đề lý luận và thực tiễn)
[40]; Nguyễn Văn Lưu với công trình Phát triển nguồn nhân lực - Yếu tố quyết
định sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam [69]; Huỳnh Thị Gấm với công trình
Giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát
triển của các ngành kinh tế vùng Nam bộ [41]. Các tác giả đã tập trung bàn về
những vấn đề lý luận chung, xu hướng, yêu cầu, nội dung và tiêu chí phát triển
nguồn nhân lực; những yếu tố tác động trực tiếp đến phát triển nguồn nhân lực,
kinh nghiệm trong nước và quốc tế về phát triển nguồn nhân lực. Trong đó, Nguyễn
Văn Lưu chỉ rõ: “Nguồn nhân lực là một phạm trù dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn
của dân cư, khả năng huy động tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh
thần cho xã hội trong hiện tại cũng như trong tương lai. Sức mạnh và khả năng đó
của nguồn nhân lực được thể hiện bằng số lượng, chất lượng và cơ cấu dân cư, nhất
là số lượng, chất lượng và cơ cấu của nhóm dân cư cơ sở đủ điều kiện tham gia và
sẵn sàng tham gia vào hoạt động của xã hội” [69, tr. 19]. Trên cơ sở đánh giá thực
trạng, đề xuất giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay, các nhà
khoa học đều thống nhất khẳng định giáo dục, đào tạo, dạy nghề là giải pháp quan
trọng trong phát triển nguồn nhân lực hiện nay; chú trọng phát triển, đồng thời thu

hút nguồn nhân lực chất lượng cao; huy động mọi nguồn lực trong phát triển nguồn
nhân lực.
Gần đây có các công trình: Nguyễn Thị Luyến Phát triển nguồn nhân lực
khoa học kỹ thuật khí tượng thủy văn Việt Nam hiện nay [70]; Lê Tuấn Ngọc Phát
triển nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các
tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay [82]; Lê Thị Hạnh Đào tạo nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay [46], đã tập
trung làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn, đề xuất một số giải pháp cơ bản về đào


12
tạo, phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phòng, chống, giảm
nhẹ thiên tai, thảm họa và công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức,
góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
1.1.2. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến nguồn nhân lực
nông thôn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nguồn nhân lực ở nông thôn nước ta,
Nguyễn Ngọc Sơn với công trình Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta - đặc điểm và xu hướng phát triển [93], cho
rằng: “Nguồn nhân lực nông thôn là nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã
hội ở nông thôn, đồng thời cung cấp nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói
chung” [93, tr. 47], và “Phát triển nguồn nhân lực nông thôn là quá trình nâng cao
năng lực của con người nông thôn về mọi mặt; đồng thời, phân bổ, sử dụng và khai
thác có hiệu quả nguồn nhân lực nông thôn thông qua hệ thống phân công lao động
và giải quyết việc làm ở nông thôn” [93, tr. 50]. Trên cơ sở khung lý thuyết đã
xác định, công trình này đi sâu đánh giá thực trạng của nguồn nhân lực ở nông
thôn, tập trung nghiên cứu những đặc điểm, xu hướng phát triển nguồn nhân lực ở
nông thôn nước ta. Từ đó đề xuất các nhóm giải pháp: về giáo dục - đào tạo; về
kinh tế - xã hội; về chính trị - văn hoá, nhằm sử dụng, phát triển nguồn nhân lực
nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Vũ Thị Mai với công trình Tạo việc làm cho người lao động bị ảnh hưởng
trong quá trình đô thị hoá Hà Nội [73], tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị, đã tập
trung trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn về giải quyết việc làm cho người lao động
bị thu hồi đất. Nêu lên một số kinh nghiệm về giải quyết việc làm, như: đa dạng hoá
hình thức, cách thức tạo việc làm; huy động mọi nguồn lực xã hội để hình thành các
chương trình, dự án mục tiêu giải quyết việc làm; khuyến khích người lao động tự
tạo việc làm cho mình và cho người khác theo đúng pháp luật; thực hiện tốt công
tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là đào tạo nghề cho người lao động; chú
trọng xuất khẩu lao động để giám bớt áp lực về nhu cầu việc làm của lực lượng lao
động. Đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất, chỉ


13
ra những định hướng chủ yếu và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm
cho người lao động bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá ở
các vùng miền nước ta hiện nay.
Trong công trình Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế [87] có bài “Một số vấn đề cần giải quyết
để nâng cao hiệu quả đào tạo lao động nông thôn” của Nguyễn Từ và bài “Một
số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn hiện nay”
của Nguyễn Thanh Tuấn nhấn mạnh nông dân và lao động nông thôn nói chung
không thể trở thành chủ thể thực sự của phát triển nông nghiệp, nông thôn nếu
như chất lượng yếu kém; chất lượng thấp của nhân lực đang là một trong những
điểm nghẽn của nền kinh tế nước ta; “khu vực nông nghiệp, nông thôn, sự yếu
kém của chất lượng nguồn lực nông thôn nước ta thể hiện không chỉ ở thể chất,
trình độ văn hoá, chuyên môn mà ở thói quen, ý thức chấp hành hợp đồng, quy
trình công nghiệp” [87, tr. 417]. Các tác giả đã đề xuất một số giải pháp cơ bản
nâng cao hiệu quả đào tạo và dạy nghề cho lao động nông thôn.
Công trình Mô hình đào tạo nghề cho lao động nông thôn [28], do
Nguyễn Tiến Dũng chủ biên, đã đề xuất một số mô hình tổng quát và khái quát

kinh nghiệm việc triển khai thực hiện một số mô hình đào tạo nghề cho nông dân
và lao động nông thôn, khẳng định: đào tạo nghề cho lao động nông thôn - thành
tố quan trọng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn;
“Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là việc làm có tính xã hội và nhân văn sâu
sắc, do đó đã nhận được sự đồng thuận rất cao của người dân, của các cấp, các
ngành, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, các doanh nghiệp, các
phương tiện thông tin đại chúng” [28, tr. 33]. Tư tưởng bao trùm của chủ trương
đề án là góp phần tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại trong nông nghiệp, tạo ra
người lao động có kiến thức, có kỹ năng sản xuất hiện đại, có khả năng thích ứng
được với sự cạnh tranh quốc tế trong sản xuất nông nghiệp.
Nguyễn Thị Hảo với công trình Vai trò của phụ nữ nông thôn vùng đồng
bằng sông Hồng trong xây dựng gia đình văn hoá hiện nay [51], đã trình bày


14
những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của phụ nữ nông thôn vùng đồng
bằng sông Hồng trong xây dựng gia đình văn hoá. Từ việc phân tích, đánh giá
thực trạng vai trò của phụ nữ nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trong xây
dựng gia đình văn hoá và những vấn đề đặt ra, tác giả công trình đã đề xuất
những quan điểm cơ bản và các giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của phụ nữ
trong xây dựng gia đình văn hoá ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện
nay. Các giải pháp đó là: Nâng cao nhận thức về vị thế và vai trò của phụ nữ
trong xây dựng gia đình văn hoá; phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông
Hồng để tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao vị thế cho phụ nữ; phát huy trách
nhiệm của gia đình và nâng cao toàn diện năng lực của phụ nữ nông thôn vùng
đồng bằng sông Hồng trong xây dựng gia đình văn hoá; phát huy vai trò của hệ
thống chính trị cơ sở, nhất là vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp và Hội
Nông dân trong công tác phụ nữ và xây dựng gia đình văn hoá.
1.2. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến xây dựng đời
sống văn hoá, phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng đời sống

văn hoá ở nông thôn Việt Nam và tỉnh Bình Dương
1.2.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến xây dựng đời
sống văn hoá ở nông thôn Việt Nam
Tập trung bàn về văn hoá và văn hoá Việt Nam, con người và con người Việt
Nam, phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực Việt Nam đầu thế kỷ XXI, trong
công trình Nghiên cứu văn hoá, con người, nguồn nhân lực đầu thể kỷ XXI [17],
Phạm Minh Hạc khẳng định: “Nói đến văn hoá là nói đến con người vừa là chủ thể
sáng tạo văn hoá vừa là sản phẩm của văn hoá. Vấn đề bản sắc văn hoá, đa dạng
văn hoá đi liền với vấn đề bản sắc cá thể, đa dạng cá thể. Cùng với văn hoá, con
người nổi lên là vấn đề của thiên niên kỷ mới” [17, tr. 31]. Cũng trong công trình
này, Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Bước vào thế kỷ XXI, việc xây dựng cho
được nguồn nhân lực có chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức đòi
hỏi các nhà hoạch định chính sách và giới nghiên cứu phải chú ý tới mối quan hệ
con người - văn hoá - nguồn nhân lực với tính cách là một tổng thể có mối liên hệ


15
thống nhất, hữu cơ: Nói đến văn hoá tức là nói đến con người; nói đến phát triển
con người tức là phải nhằm tới mục tiêu xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng
cho xã hội” [17, tr. 56]. Xem xét mối quan hệ nhân quả phức tạp giữa văn hoá con người - nguồn nhân lực, Lê Thi cho rằng: “Chính yếu tố con người là khâu mấu
chốt, là yếu tố quyết định sự phát triển của văn hoá và việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Con người sáng tạo ra các giá trị văn hoá vật chất và tinh thần cần
thiết để cải tạo tự nhiên và xã hội, thông qua đó lại tự cải tạo bản thân, hình thành
nên nguồn nhân lực mới, có chất lượng cao hơn, đủ khả năng, trình độ để xây dựng
xã hội mới tốt đẹp hơn, phong phú hơn, bền vững hơn” [17, tr. 1022].
Những nguyên lý cơ bản về lý luận văn hoá và xây dựng văn hoá hiện nay ở
Việt Nam được Hoàng Vinh trình bày trong Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây
dựng văn hoá ở nước ta [142] và Những vấn đề văn hoá trong đời sống xã hội Việt
Nam hiện nay [143]. Theo tác giả: “Đời sống văn hoá là bộ phận của đời sống xã
hội, bao gồm các yếu tố văn hoá tĩnh tại (các sản phẩm văn hoá vật thể, các thiết chế

văn hoá) cũng như các yếu tố văn hoá động thái (con người và các dạng hoạt động
văn hoá của nó). Xét về một phương diện khác, đời sống văn hoá bao gồm các hình
thức văn hoá hiện thực và cả các hình thức sinh hoạt văn hoá tâm linh” [142, tr.
268]. Quan niệm này, về cơ bản đã phản ánh được cấu trúc của đời sống văn hoá,
bao gồm các yếu tố tĩnh và động, vật thể và phi vật thể, chủ thể và sản phẩm văn
hoá. Về mặt phạm vi, đời sống văn hoá chỉ là một bộ phận của đời sống xã hội.
Song, vẫn chưa đề cập đến những giá trị văn hoá, đồng thời cách diễn đạt này chưa
làm rõ được bản chất đời sống văn hoá vì chỉ nêu các yếu tố cấu thành ở thể biệt
lập. Hơn nữa, xây dựng văn hoá là một công việc phức hợp, đa dạng thường diễn ra
theo hai bình diện đan kết chặt chẽ với nhau: Một là, xây dựng chiều cao tức là xây
dựng đội ngũ những người hoạt động văn hoá chuyên nghiệp; Hai là, xây dựng
chiều rộng, tức là xây dựng đời sống văn hoá cộng đồng, bằng cách tổ chức nhân
dân tham gia vào các hoạt động văn hoá nghiệp dư.
Nguyễn Hữu Thức với công trình Về văn hoá và xây dựng đời sống văn hoá
[116] và Một số kinh nghiệm quản lý và hoạt động tư tưởng - văn hoá [117], chỉ rõ:


16
“Đời sống văn hoá được hiểu một cách khái quát là hiện thực sinh động các hoạt
động của con người trong môi trường sống để duy trì, đồng thời tái tạo sản phẩm
văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần theo những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất
định nhằm không ngừng tác động, biến đổi tự nhiên, xã hội và đáp ứng nhu cầu đổi
mới, nâng cao chất lượng sống của chính con người” [117, tr. 20]. Có thể nói rằng
đây là một bước tiến trong cách nhìn nhận về đời sống văn hoá của Nguyễn Hữu
Thức. Mặt khác, từ cách tiếp cận đời sống văn hoá thuộc đời sống tinh thần, Trần
Thị Kim Cúc với công trình Văn hoá Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn
[18], cho rằng: “Đời sống văn hoá là một bức tranh hiện thực sống động các hoạt
động của con người với sự hỗ trợ của các thiết chế văn hoá và sản phẩm văn hoá
nhằm sáng tạo, hưởng thụ và lưu giữ, phát huy các giá trị văn hoá kết tinh trong
những sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật thể, nâng cao chất lượng của con người”

[18, tr. 114, 115].
Trong công trình Mấy vấn đề văn hoá Việt Nam hiện nay - Thực tiễn và lý
luận [25], Đinh Xuân Dũng không chỉ phân tích vai trò của văn hoá nói chung
đối với sự phát triển bền vững của xã hội hiện đại, nhấn mạnh ý nghĩa, chiều sâu
của văn hoá là các giá trị, còn dự báo rằng nếu đời sống văn hoá tinh thần của
con người vận động theo chiều hướng xấu, tiêu cực mà sự vận động đó lại có
khuynh hướng trở nên phổ biến, thì sức tác động của nó sẽ rất lớn, tinh vi và
phức tạp, hệ quả của nó sẽ phá vỡ tính bền vững của sự phát triển và nguy hại
hơn, là nhân tố kéo lùi sự phát triển dẫn tới nguy cơ làm đổ vỡ cả thể chế và thiết
chế xã hội. Từ đó tác giả phân tích các biểu hiện mặt xấu của đời sống văn hoá
tinh thần và chỉ rõ nguyên nhân của vấn đề bức xúc nảy sinh trong đời sống văn
hoá tinh thần của xã hội đương đại.
Đinh Thị Vân Chi chủ biên công trình Những vấn đề lý luận và thực tiễn về
đời sống văn hoá và môi trường văn hoá [14], tập trung vào hai nội dung chính:
một là, những vấn đề lý luận về đời sống văn hoá và môi trường văn hoá; hai là,
thực tiễn xây dựng đời sống văn hoá và môi trường văn hoá ở nông thôn, đô thị, ở
cơ sở... Bàn sâu về khái niệm đời sống văn hoá, thiên về đời sống tinh thần, coi như


17
là hoạt động tinh thần của con người, Đinh Thị Vân Chi cho rằng: “Đời sống văn
hoá là tổng thể những hoạt động tinh thần của con người. Đó là những hoạt động
trong thời gian rỗi, bao gồm quá trình sáng tạo, lưu giữ, truyền bá và hưởng thụ
những sản phẩm văn hoá, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển và hoàn thiện con
người” [14, tr. 68, 69]. Trong khi đó, Nguyễn Thanh Tuấn khẳng định: “Đời sống
văn hoá là tổng hoà lối sống và các điều kiện tự nhiên và đời sống xã hội của một
hình thái xã hội nhất định, là sự tổng hoà những tính chất cơ bản nhất của các mối
quan hệ giữa vật chất và tinh thần, cái riêng và cái chung (cá nhân và xã hội, dân tộc
và quốc tế...), cho nên các đặc điểm của đời sống văn hoá được thể hiện qua tất cả
các hình thức đời sống của con người phù hợp với điều kiện sống trong phạm vi

một hình thái xã hội. Tuy vậy, đặc trưng bản chất của đời sống văn hoá trực tiếp gắn
với hệ thống giá trị tinh thần - văn hoá của con người” [14, tr. 13, 14]; đời sống văn
hoá được thể hiện ở lẽ sống, mức tiêu dùng văn hoá, khuôn mẫu ứng xử, nếp sống
văn hoá, lối sống văn hoá, tiêu chuẩn văn hoá.
Trong công trình trên, Nguyễn Thị Thanh Xuân với bài “Xây dựng đời
sống văn hoá gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới”; Trần Thị Tuyết
Mai với bài “Xây dựng đời sống văn hoá cơ sở gắn với xây dựng nông thôn
mới trong giai đoạn hiện nay”, các tác giả tập trung luận giải những vấn đề
thực tiễn xây dựng nông thôn mới đang đặt ra nói chung, đặc biệt là vấn đề
xây dựng đời sống văn hoá trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở nước ta
hiện nay, đề xuất giải pháp nhằm xây dựng thành công tiêu chí văn hoá trong
xây dựng nông thôn mới hiện nay.
Bàn về cấu trúc của đời sống văn hoá, do có nhiều cách hiểu khác nhau về
khái niệm đời sống văn hoá, nên cũng có nhiều quan niệm khác nhau về cấu trúc,
về các thành tố cấu thành của khái niệm này. Trước đổi mới, những thành tố then
chốt được chú trọng là: Tư tưởng, đạo đức, nếp sống, lối sống, văn nghệ quần
chúng...; nếp sống, thiết chế văn hoá, các hoạt động văn hoá (thông tin, cổ động,
bảo tàng, giáo dục truyền thống, văn nghệ quân chúng). Theo Nguyễn Hữu Thức
[118], từ năm 2000, khi phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”


18
được phát động, vấn đề xây dựng đời sống văn hoá có sự mở rộng về cấu trúc, các
thành tố được nới rộng về phạm vi và mang tính tổng thể, toàn diện hơn: Không chỉ
lĩnh vực văn hoá, mà còn bao hàm cả lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật,
môi trường sinh thái; bên cạnh các thiết chế văn hoá, còn lồng ghép các thiết chế thể
thao nhằm nâng cao thể lực con người, có nếp sống văn hoá, hoạt động văn hoá.
Phan Trung Tá với công trình Về khái niệm đời sống văn hoá ở nông thôn
[95], cho rằng xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn bao gồm 3 thành tố
chính: môi trường chính trị, kinh tế, xã hội; môi trường văn hoá; chủ thể văn hoá

(năng lực tiếp nhận, thực hành và sáng tạo văn hoá của các cá nhân hay của cộng
đồng). Với cách hiểu này, đời sống văn hoá đã mang một ý nghĩa rất rộng, bao
trùm và kết nối những môi trường quan trọng nhất của đời sống con người:
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và chủ thể văn hoá. Trong khi đó, từ phương
diện quản lý nhà nước lại tồn tại một cách hiểu khá hẹp về “đời sống văn hoá”,
theo nghĩa là đời sống văn hoá cơ sở, giới hạn ở các lĩnh vực do Bộ Văn hoá,
Thể thao và Du lịch quản lý, với các mặt hoạt động: thông tin cổ động; câu lạc
bộ; thư viện, đọc sách báo; bảo vệ di tích lịch sử văn hoá, giáo dục truyền thống;
văn nghệ quần chúng; xây dựng nếp sống mới gắn với cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.
1.2.2. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến phát huy vai trò
nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn Việt Nam
Quan niệm về “phát huy nhân tố con người”, Trần Thị Thuỷ với công trình
Nhân tố con người và phát huy nhân tố con người trong điều kiện mới ở Việt Nam
hiện nay [119], cho rằng: “Phát huy nhân tố con người, về thực chất, là quá trình
nâng cao không ngừng vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người, tạo
ra động lực phát triển xã hội và sự hoàn thiện chính bản thân mình” [119, tr. 147].
Trong khi đó, Phạm Công Nhất với công trình Phát huy nhân tố con người trong
phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay [77], đã tiến hành nghiên cứu về
nhân tố con người và vai trò của nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản


19
xuất, tiến hành khảo cứu thực trang và đề xuất giải pháp phát huy nhân tố con người
nhắm phát triển lực lượng sản xuất thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở Việt Nam hiện nay.
Ở góc độ phát huy nguồn lực thanh niên, Nguyễn Thị Tú Oanh trong công
trình Phát huy nguồn lực thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Việt Nam hiện nay [83], đi sâu nghiên cứu nguồn lực thanh niên và vai trò
của nó trong phát triển kinh tế - xã hội; vai trò và mối quan hệ giữa nguồn lực

thanh niên với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; khảo cứu thực trạng và
đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát huy vai trò của nguồn lực thanh
niên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Tác giả
nhấn mạnh: “Nguồn lực thanh niên là một bộ phận quan trọng của nguồn lực con
người nói chung. Đó là nguồn tài sản vô giá của đất nước hôm nay và mai sau.
Sinh lực của một dân tộc, một quốc gia thể hiện ở thanh niên, lực lượng có khả
năng làm những việc “dời non lấp biển”, là “rường cột của nước nhà”, là “mùa
xuân của nhân loại”” [83, tr. 39].
Bàn về phát triển nguồn nhân lực trẻ, Nguyễn Văn Trung với công trình
Phát triển nguồn nhân lực trẻ ở nông thôn để công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông thôn, nông nghiệp nước ta [120], chủ yếu đi vào nghiên cứu về nông thôn
và vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, thực trạng tình hình nghề
nghiệp việc làm của thanh niên nông thôn và vai trò của họ trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, xây dựng nông thôn mới. Từ mối quan hệ giữa nguồn nhân lực trẻ
với công nghiệp hoá, hiện đại hoá, công trình này khẳng định: “Phát triển nguồn
nhân lực trẻ, có chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ về mọi mặt cho
thanh niên nông thôn và giải quyết tốt các vấn đề xã hội ở nông thôn nước ta
hiện nay là một nhiệm vụ và yêu cầu cấp thiết trong chiến lược phát huy nhân tố
con người của công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [120, tr. 11]. Công trình này
không đi vào nghiên cứu dưới góc độ nguồn nhân lực trẻ mà tập trung vào
nghiên cứu thanh niên nông thôn, qua đó chỉ rõ “thanh niên nông thôn là nguồn


20
nhân lực chủ yếu, lực lượng đi tiên phong trong ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ
thuật và công nghệ xây dựng cuộc sống mới ở nông thôn” [120, tr. 60, 61].
Xung quanh vấn đề này, từ góc độ xã hội học, Đặng Cảnh Khanh có các
công trình, như: Văn hoá với thanh niên, thanh niên với văn hoá [59]; Điều tra
thực trạng, đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực trẻ các dân tộc thiểu số
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá [60]; Nguồn nhân lực trẻ các dân

tộc thiểu số - Những phân tích xã hội học [61]. Tác giả cho rằng cần phân biệt rõ
ràng giữa khái niệm tuổi trẻ và nguồn nhân lực trẻ, hai khái niệm này không đồng
nhất mặc dù chúng có nhiều điểm tương đồng. Tuổi trẻ là tập hợp những thanh niên
có độ tuổi từ 15 đến 34, sinh sống, học tập, lao động trong cộng đồng các dân tộc và
các địa phương. Còn khái niệm nguồn nhân lực trẻ, cũng là tập hợp những người
trong độ tuổi từ 15 đến 34, nhưng số người được đào tạo, có tay nghề, nghiệp vụ,
chuyên môn có thể tham gia vào hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội,
chiếm tỉ lệ cao hơn so với khái niệm tuổi trẻ. Đây là nội dung của khái niệm nguồn
nhân lực trẻ [61, tr. 21, 22]. Tác giả khẳng định: “Tuổi trẻ là một tài nguyên, một
thứ quặng tự nhiên, nhưng tài nguyên tự nhiên đó cần phải được giữ gìn, nuôi
dưỡng, chăm sóc, phát triển không ngừng để có “giá trị sử dụng” đối với cuộc sống.
Không được nuôi dưỡng và khai thác thì tài nguyên tự nhiên vẫn chỉ là tài nguyên
tự nhiên mà thôi, chưa thể có ý nghĩa như là một nguồn lực dù đó là nguồn lực con
người” [61, tr. 23]. Quan điểm này có ý nghĩa quan trọng cho việc nghiên cứu một
cách xác đáng về nguồn nhân lực trẻ.
Từ góc độ tiếp cận quản lý hành chính công, Trần Văn Trung với đề tài
Chính sách phát triển nguồn nhân lực trẻ vùng Tây Bắc Việt Nam hiện nay
[121], phân loại nguồn nhân lực thành 3 loại: nguồn nhân lực trẻ, từ 0 - 30 tuổi;
nguồn nhân lực trung niên, từ 31 - 59 tuổi; nguồn nhân lực cao tuổi, trên 60 tuổi.
Tác giả cho rằng: “Nguồn nhân lực trẻ là một bộ phận của nguồn nhân lực quốc
gia có độ tuổi từ 0 - 30, là toàn bộ thể lực, trí lực, nhân cách, đạo đức, lý tưởng
mà bản thân họ và xã hội có thể huy động vào cuộc sống lao động, sáng tạo một


21
cách trực tiếp hoặc lâu dài vì sự phát triển và tiến bộ chung của xã hội” [121, tr.
25]. Quan điểm này cho rằng giai đoạn trẻ em (sơ sinh, ấu thơ, nhi đồng, thiếu
niên dưới 14 tuổi) thuộc phạm vi bao chứa của khái niệm nguồn nhân lực trẻ.
Khi bàn về vai trò của nguồn nhân lực và nguồn nhân lực trẻ với phát triển kinh
tế - xã hội, Trần Văn Trung bàn về vai trò của nguồn nhân lực nói chung, chưa

làm rõ vai trò của nguồn nhân lực trẻ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.3. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến phát huy vai trò
nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn tỉnh Bình Dương
Nguyễn Chí Hải và Hạ Thị Thiều Dao với công trình Phát triển nguồn nhân
lực tỉnh Bình Dương trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá [45], cho rằng:
“Bình Dương là một tỉnh có nguồn nhân lực trẻ, dồi dào, là nơi hội tụ của nguồn
nhân lực của các địa phương khác đến tham gia vào thị trường lao động, đó là một
thuận lợi rất quan trọng, mà ít địa phương khác có được” [45, tr. 68]. Trên cơ sở
phân tích đặc điểm nguồn nhân lực tỉnh Bình Dương và những vấn đề đặt ra, các
tác giả nhấn mạnh trong thời gian tới tỉnh Bình Dương cần duy trì phát triển dân số
ở mức tăng dân số bền vững, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế ngày càng cao của tỉnh; khai thác và sử dụng nguồn nhân lực có
hiệu quả đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh, đồng thời đề xuất
một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện mục tiêu đó. Đó là các giải pháp về: Quán
triệt sâu sắc hơn nữa tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực, yêu cầu
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo cả về số
lượng và chất lượng, đặc biệt là chất lượng; gắn giáo dục, đào tạo với cơ chế, chính
sách sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả; công tác thu hút và sử dụng nguồn nhân
lực cần có các nhà quản lý tài năng, tâm huyết và không thể tách rời việc hình thành
một thị trường sức lao động lành mạnh, hữu hiệu trên địa bàn tỉnh.
Trong công trình Tác động của tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế
đến tư duy, lối sống của người Bình Dương hiện nay [22], Đặng Ngọc Cư đã khái
quát quá trình hình thành vùng đất, con người; đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh


22
Bình Dương. Tìm hiểu những nhân tố tác động đến tư duy, lối sống của người Bình
Dương trong tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Chỉ ra các đặc điểm tư
duy, lối sống truyền thống của người Bình Dương; nghiên cứu thực trạng, đặc điểm
tư duy, lối sống của người Bình Dương hiện nay; dự báo xu hướng biến đổi tư duy,

lối sống của người Bình Dương trong thời gian tới. Từ đó, phân tích quan điểm và
đưa ra giải pháp về: kinh tế, chính trị, xã hội; giáo dục và đào tạo; quản lý và phát
triển nguồn nhân lực; về văn hoá - tư tưởng nhằm phát triển tư duy và hoàn thiện lối
sống của người Bình Dương trước những tác động của đổi mới và hội nhập quốc tế.
Nguyễn Văn Hiệp với công trình Phát triển bền vững kinh tế, xã hội tỉnh
Bình Dương [50], đã trình bày những chuyển biến về cơ cấu kinh tế, sự phát
triển của các ngành kinh tế, sự chuyển dịch của các thành phần kinh tế; các vấn
đề về cơ cấu dân cư, thiết chế xã hội; về hiện trạng và những vấn đề xã hội gắn
liền với quá trình hình thành và phát triển của tỉnh Bình Dương; về đổi mới kinh
tế, xã hội thành tựu và bài học kinh nghiệm của tỉnh Bình Dương trên các lĩnh
vực kinh tế, xã hội theo hướng phát triển bền vững; vấn đề bảo vệ môi trường,
lịch sử, văn hoá, truyền thống tỉnh Bình Dương; vấn đề giáo dục, đào tạo, khoa
học và công nghệ tỉnh Bình Dương.
Lưu Duẫn và Đỗ Văn Khiêm với công trình Thực trạng và giải pháp phát
triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ tỉnh Bình Dương [23], đưa ra khả
năng phân tích toàn diện thực trạng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ dựa vào
lý thuyết vốn con người. Công trình nghiên cứu về các mặt nhân lực khoa học và
công nghệ trong các doanh nghiệp, trong khối cơ quan nhà nước cấp tỉnh quản lý,
trong các tổ chức giáo dục và đào tạo, đến phát triển nguồn nhân lực khoc học và
công nghệ, tóm tắt một số đặc điểm nguồn nhân lực tỉnh Bình Dương, dự báo nhu
cầu nhân lực khoa học và công nghệ, đồng thời đề xuất các nhóm giải pháp về:
quản trị chiến lược tổng thể; giáo dục và đào tạo; dân số, sức khoẻ và an sinh xã hội
nhằm phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ của tỉnh Bình Dương.
Lê Ngọc Hùng với công trình Vấn đề thiếu hụt lao động tỉnh Bình Dương,
giai đoạn 2011 - 2015 [56], đã tiến hành đánh giá thực trạng thiếu hụt lao động trên


23
địa bàn tỉnh Bình Dương, phân tích các nguyên nhân và các cơ hội, thách thức đặt
ra đối với tình trạng thiếu hụt lao động. Đánh giá thực trạng việc giải quyết vấn đề

thiếu hụt lao động, phân tích các yếu tố, các cơ chế tác động và chỉ ra những mặt
mạnh và mặt yếu của các giải pháp hiện hành. Xác định rõ các vấn đề thiếu hụt lao
động hiện nay ở tỉnh Bình Dương, đồng thời dự báo xu hướng và đề xuất phương
hướng, khuyến nghị các giải pháp giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động ở tỉnh trong
giai đoạn 2011 - 2015, định hướng 2020.
Công trình Nghiên cứu làm rõ thực trạng chất lượng cuộc sống dân cư tỉnh
Bình Dương [78], do Vũ Hải Thiên Nga làm chủ nhiệm, đã tìm hiểu những thay đổi
về chất lượng cuộc sống của nhân dân trong tỉnh từ trước đến này. Trình bày khái
quát tỉnh Bình Dương về điều kiện tự nhiên cũng như kinh tế - xã hội, là tiền đề
quan trọng ảnh hưởng lớn đến điều kiện sống của nhân dân và nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân. So sánh, nhận xét chất lượng cuộc sống của con người
trong tỉnh; giữa tỉnh với tỉnh khác và trong vùng. Từ hiện trạng trên để đưa ra các
giải pháp về phát triển kinh tế tăng thu nhập bình quân đầu người, như phát triển
các ngành kinh tế, nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, thị trường; giải pháp
cho các vấn đề xã hội làm nâng cao chất lượng cuộc sống như phát triển giáo dục,
đào tạo, y tế, chăm sóc sức khoẻ, văn hoá, thể dục thể thao, bảo đảm lương thực
thực phẩm, an toàn vệ sinh; giải pháp về môi trường, về kết cấu hạ tầng… nhằm
nâng cao chất lượng cuộc sống người dân Bình Dương.
Trong công trình Bình Dương 20 năm phát triển [30] do Huỳnh Ngọc Đáng
chủ biên, có bàn về hoạt động văn hoá, thể dục - thể thao, tác giả cho rằng: “Văn
hoá, tinh thần, du lịch tỉnh Bình Dương phát triển khá toàn diện, đáp ứng nhu cầu
hưởng thụ đời sống văn hoá - tinh thần của người dân. Hầu hết các di tích lịch sử
đều được trùng tu, tôn tạo và phát huy hiệu quả. Các thiết chế văn hoá - tinh thần từ
cấp tỉnh đến cơ sở đều được đầu tư theo đúng quy hoạch. Phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” tiếp tục đi vào chiều sâu và ngày càng được
mở rộng, khẳng định tính toàn dân, toàn diện và không ngừng được nâng cao về
chất lượng, số lượng và hiệu quả” [30, tr. 15]. Tuổi trẻ Bình Dương năng động, đầy


24

sức sống với tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không
chùn bước trước mọi khó khăn, đã góp phần tích cực vào nhiệm vụ xây dựng và
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đời sống văn hoá vật chất, tinh thần, tham gia
quản lý xã hội của thanh niên cũng như nhu cầu học nghề, tạo việc làm, tiếp thu
thành tựu khoa học, công nghệ, kĩ thuật và quản lý hiện đại không ngừng tăng lên.
Một bộ phận lớn thanh niên ngoài tỉnh có mong muốn được cống hiến, xây dựng
cuộc sống lâu dài, lập thân, lập nghiệp tại Bình Dương [30, tr. 346 - 355].
1.3. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình khoa học đã công bố
và những vấn đề đặt ra luận án cần giải quyết
1.3.1. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình khoa học đã công bố
có liên quan đến đề tài luận án
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã đề cập và luận giải quan niệm về
nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực theo những tiếp cận và phương
pháp nghiên cứu khác nhau, dưới góc độ triết học, kinh tế, quản lý… Dù tiếp cận
dưới góc độ, phương pháp nào, các tác giả đều thống thống nhất khẳng định:
nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực có vai trò, ý nghĩa quyết định đến đời
sống xã hội; coi con người là nguồn lực của mọi nguồn lực, tài nguyên của mọi
tài nguyên, giữ vị trí trung tâm của toàn bộ quá trình phát triển, quyết định sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế. Trong đó, có công trình
đã khái quát, đưa ra khái niệm về nguồn nhân lực, cấu trúc của nguồn nhân lực;
đề xuất các chính sách và giải pháp nhằm phát triển, phân bổ hợp lý và sử dụng
có hiệu quả nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội; vấn đề giáo dục, đào
tạo và đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu liên quan đến nguồn nhân lực ở nông
thôn nước ta, đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận và một số vấn đề thực tiễn, nghiên
cứu đặc điểm và xu hướng phát triển của nguồn nhân lực ở nông thôn; vai trò
chủ thể của nông dân; nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải
quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất, từ đó đánh giá thực trạng và đề
xuất những giải pháp có giá trị thực tiễn cao nhằm sử dụng, phát triển nguồn



×