Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

tieu luan triet dongtriet tay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.3 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

IV.

I.
II.
1.
2.
3.

MỞ ĐẦU………………………………………………………….......2
NỘI DUNG…………………………………………………………...3
Triết học là gì?.......................................................................................
Phương Tây và phương Đông………………………………………...4
So sánh những điểm khác biệt cơ bản giữa triết học phương Tây và

4.

phương Đông cổ đại…………………………………………………..7
Những điểm tương đồng giữa triết học phương Tây và phương Đông

cổ đại………………………………………………………………...13
5. Liên hệ thực tế……………………………………………………….14
III. KẾT LUẬN…………………………………………………………15
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………..16

MỞ ĐẦU

Triết học đã trải qua hang nghìn năm phát triển và đã đạt được
những thành tựu to lớn, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội loài
người. Ph.Ănghen viết : “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của


khoa học thì không thể không có tư duy lí luận”. Nhưng tư duy lí luận chỉ
là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của con người. Năng lực ấy
cần phải được phát triển hoàn thiện và muốn hoàn thiện được thì cần
nghiên cứu toàn bộ triết học của thời đại trước.
1


Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại nói chung và lịch sử triết học nói
riêng. Triết học phương Tây và phương Đông cổ đại giữ một vị trí hết sức
quan trọng. Việc nhận thức đầy đủ những giá trị của hai nền triết học này
là một vấn đề có ý nghĩa lí luận và thực tiễn sâu sắc. Dù triết học phương
Tây và phương Đông ra đời gần như cùng thời điểm (khoảng thế kỉ VIII –
VI trước Công nguyên) nhưng giữa chúng cũng có những điểm tương
đồng và những điểm khác biệt căn bản. Những sự tương đồng và khác
biệt này bắt nguồn từ sự giống và khác nhau về điều kiện tự nhiên, điều
kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội,…về quan niệm sống, cách sống của
người phương Tây và người phương Đông.
Triết học phương Tây và phương Đông đều giải quyết hai mặt của vấn
đề cơ bản của Triết học, tuy nhiên lại có sự khác nhau trong cách giải
quyết cũng như sự tâp trung giải quyết mặt thứ nhất hay mặt thứ hai.
Nghiên cứu sự tương đồng và sự khác biệt giữa triết học phương Tây và
triết học phương Đông sẽ cho chúng ta cái nhìn toàn diện hơn về Triết
học cũng như nắm bắt được rõ hơn vấn đề cơ bản của triết học.

NỘI DUNG
1.

Triết học là gì?

Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một

thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại
một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, Ấn Độ,
Hy Lạp.
Ở Trung Quốc, thuật ngữ Triết học có nguồn gốc ngôn ngữ là chữ
triết; người Trung Quốc hiểu triết học không phải là sự miêu tả mà là sự
2


truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là trí tuệ, là sự hiểu biết
sâu sắc của con người.
Ở Ấn Độ, thuật ngữ dar’sân (triết học) có nghĩa là chiêm ngưỡng,
nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để
dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy Lạp. Nếu chuyển từ
tiếng Hy Lạp cổ sang tiếng Latinh thì triết học là Philosophia, nghĩa là
yêu mến sự thông thái. Với Hy Lạp, Philosophia vừa mang tính định
hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.
Như vậy, cho dù phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học
đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con
người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.
Đã có rất nhiều cách khái niệm khác nhau về Triết học, nhưng đều bao
hàm những nội dung cơ bản giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới với
tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự
vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loại người, của con
người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ
thống dưới dạng duy lý.
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung
nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế
giới ấy.
2.


Phương Tây và phương Đông

Phương Đông để chỉ các nước Châu Á, các nền văn minh trên ba lưu
vực sông lớn: sông Nin, sông Hằng, sông Hoàng Hà ; chủ yếu là Ai Cập,
Ả Rập, Ấn Độ và Trung Hoa. Hầu hết các nền tôn giáo lớn của thế giới
đều xuất hiện ở đây.
Phương Tây chủ yếu là các nước Tây Âu như: Anh, Pháp, Đức, Ý, Áo,
Tây Ban Nha… Tuy nhiên, triết học phương Tây cổ đại thì chủ yếu là
triết học Hy Lạp cổ đại, là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm nhiều
3


thành bang ở phía Nam bán đảo Ban Căn, nhiều đảo trên biển Êgiê và
vùng Tiểu Á.
Đặc điểm hai loại hình cơ sở xã hội Đông – Tây là tĩnh, ổn định đối
nghịch với động, biến động nhanh. Triết học lỏng lẻo, mềm dẻo của
phương Đông đối lại là triết học chặt chẽ, thống nhất thành hệ thống của
Tây. Triết học phương Tây đi từ gốc lên ngọn (từ thế giới quan, vũ trụ
quan, bản thể luận…từ đó xây dựng nhân sinh quan con người) trong khi
triết học phương Đông đi từ ngọn xuống gốc (từ nhân sinh quan, vấn đề
cách sống, lối sống sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể luận…). Đó là hai
nét chính của hai nền triết học Đông – Tây.
Nếu như ở phương Tây, triết học được xây dựng bởi chủ yếu là các
nhà khoa học, gắn liền với các thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự
nhiên thì ở phương Đông, triết học gắn liền với những hiền triết – nhà tôn
giáo, nhà giáo dục đạo đức, chính trị xã hội. Vậy nên đặc điểm chủ đạo là
các nhà Triết học phương Tây thiên về giải thích thế giới theo nhiều cách,
còn mục đích chính của phương Đông là cải tạo thế giới gồm có: ổn định
xã hội, giải thoát cho con người và làm sao cho con người hòa đồng với

thiên nhiên.
Nguồn gốc là do ở phương Đông, thượng tầng kiến trúc ra đời trước
và thúc đẩy sự phát triển của hạ tầng cơ sở, còn ở phương Tây hạ tầng cơ
sở quyết định đến thượng tầng kiến trúc.
Phương Đông
Tinh thần – Đời người – Tĩnh lặng cảm
nhận các mối quan hệ
Thiên về tôn giáo, mỹ thuật, nghệ thuật
Sử dụng tình cảm, quan tâm đạo đức –
Con người, đạo học
Dùng trực giác, tổng thể vẫn loanh quanh
những lối cũ, bề ngoài
Quan tâm phần ngọn: nhân sinh quan,
cách sống, lối sống
Ảnh hưởng tới: kinh nghiệm/hoàn thiện
cá nhân, ổn định xã hội

Phương Tây
Vật chất – Máy móc – Mạnh mẽ, quyết
liệt, xúc động, quan tâm thực thể độc lập
Thiên về khoa học công nghệ
Sử dụng trí tuệ, tư tưởng, quan tâm sự
vật/hiện tượng – Vũ trụ, học thuyết
Dùng lý trí, mất dần tổng thể, ngày càng
phong phú, cụ thể
Quan tâm phần gốc: thế giới quan, bản
thể luận, nhận thức luận
Ảnh hưởng tới: giải thích/lý luận về thế
giới, thực hành kỹ nghệ, tự do cá nhân,
cách mạng xã hội

4


Về đối tượng nghiên cứu của triết học Đông - Tây
Đối tượng nghiên cứu của triết học phương Tây rất rộng, bao gồm
toàn bộ tự nhiên, xã hội, tư duy mà gốc là tự nhiên. Nó ngả theo hướng
lấy ngoại (ngoài con người) để giải thích trong (con người), nói chung xu
hướng nổi trội là duy vật.
Trong khi đó phương Đông lấy xã hội, cá nhân làm gốc là tâm điểm để
nhìn xung quanh. Do đó, đối tượng của triết học phương Đông chủ yếu là
xã hội, chính trị, đạo đức, tâm linh, do vậy xu hướng là hướng nội, lấy
trong để giải thích ngoài. Đa số trường phái thiên về duy tâm.
Về phương pháp nhận thức của hai nền triết học
Triết học phương Tây ngả về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ, còn
phương Đông thì ngả về dùng trực giác.
Cái mạnh của phương Tây là cho khoa học, kỹ thuật và về sau là công
nghệ phát triển… và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân lý vô
hạn cùng. Phương Tây đi gần mãi đến chân lý qua hang loạt những trừu
tượng, khái niệm, quy luật… của toàn thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ
bản chất thấp đến mức độ bản chất cao hơn, cũng do vậy họ có xu hương
cô lập hóa, cách ly hóa, làm mất đi tính tổng thể.
Triết học phương Đông ngược lại thường dùng trực giác, tức là đi
thẳng đến sự hiểu biết, vào cái sâu thẳm bản chất của sự vật, hiện tượng.
Trực giác giữ được cái tổng thể mà tư duy phân tích, mổ xẻ đạt đến.
Nhưng nó có tiềm tàng nhược điểm là không phổ biến rộng được. Trực
giác mỗi người mỗi khác và không phải trực giác lúc nào cũng đúng.
Thực ra 2 biện pháp kết hợp lẫn nhau, nhưng ở đây nói về thiên hướng.
Triết học phương Tây có xu hướng tách chủ thể với khách thể để nhận
thức cho khách quan, còn triết học phương Đông lại cho rằng người nhân
thức và đối tượng nhận thức cùng hòa hợp vào nhau (đặt cùng trong một

hệ quy chiếu) thì nhận thức sẽ dễ dàng.

5


Phương tiện nhận thức của triết học phương Tây là khái niệm, mệnh
đề, biểu thức logic để đối tượng mô tả rõ ràng, thống nhất hơn thì trong
triết học phương Đông lại là ẩn dụ, liên tưởng, hình ảnh, ngụ ngôn…để
không bị lưới giả về nghĩa do khái niệm che phủ. Nhưng điểm yếu của
triết học phương Đông chính là đa nghĩa, nhập nhằng khác biệt khi qua
các phân tích khác nhau.
Triết học phương Đông biến đổi tuần tự thay đổi dần về lượng, dù
thay đổi bao nhiêu vẫn giữ lấy phần gốc, phần lõi làm nền, không rời xa
gốc đã có.
Triết học phương Tây thay đổi theo hướng nhảy vọt về chất, nên càng
tiến hóa càng phong phú hơn, xa rời gốc ban đầu, thậm trí có xu hướng
cái sau phủ định hoàn toàn cái ở giai đoạn trước.
Trong phép biện chứng giải thích quy luật của sự vận động – phát triển
cũng có nét khác biệt. Phương Đông nghiêng về thống nhất hay vận động
vòng tròn, tuần hoàn. Phương Tây nghiêng về sự đấu tranh và vận động,
phát triển theo hướng đi lên.
Một nét nữa của triết học Tây – Đông là theo thống kê thì triết học
phương Tây thiên về hướng ngoại, chủ động, tư duy lý luận, đấu tranh
sống còn, hiếu chiến, cạnh tranh, cá thể, phân tích, tri thức suy luận, khoa
học, tư duy cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể… còn khuynh hướng nổi
trội của phương Đông lại là hướng nội, bị động, trực giác, huyền bí, hòa
hợp, quân bình chủ nghĩa, thống nhất, hợp tác, giữ gìn, tập thể, tổng hợp,
minh triết, tôn giáo, tâm lý, tâm linh, tư duy cơ hữu, chú ý nhiều tới quan
hệ…
3.


So sánh những điểm khác biệt cơ bản giữa triết học phương Tây và
phương Đông cổ đại
Thứ nhất, Triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong mối
quan hệ giữa con người và vũ trụ với công thức thiên – địa – nhân là một
nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”. Cụ thể là:
6


Triết học Trung Hoa là nền triết học có truyền thống lịch sử lâu đời
nhất, hình thành cuối thiên niên kỷ thứ II đầu thiên niên kỷ thứ I trước
Công nguyên. Đó là những kho tàng tư tưởng phản ánh lịch sử phát triển
của những quan điểm của nhân dân Trung Hoa về tự nhiên, xã hội và
quan hệ con người với thế giới xung quanh, họ coi con người là tiểu vũ
trụ trong hệ thống lớn… trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một.
Như vậy con người cũng chứa đựng tất cả những tính chất, những điều
huyền bí của vũ trụ bao la. Từ điều này cho ta thấy hình thành ra các
khuynh hướng như: khuynh hướng duy tâm của Mạnh Tử thì cho rằng vũ
trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý thức chủ quan và trong ý niệm đạo đức
Trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm “vạn vật đều có đầy đủ
trong ta”. Ta tự xét mình mà thành thực, thì có cái thú vui nào lớn hơn
nữa. Ông dạy mọi người phải đi tìm chân lý ở ngoài thế giới khách quan
mà chỉ cần suy xét ở trong tâm, “tận tâm” của mình mà thôi. Như vậy
theo ông chỉ cần tĩnh tâm quay lại với chính mình thì mọi sự vật đều yên
ổn, không có gì vui thú hơn. Còn theo Thiện Ung thì cho rằng: vũ trụ
trong lòng ta, lòng ta là vũ trụ. Đối với khuynh hướng duy vật thô sơ kinh dịch thì biết đến cùng cái tính của con người thì cũng có thể biết đến
cái tính của vạn vật, trời đất: trời có chín phương, con người có chín
khiếu. Ở phương Đông khuynh hướng duy vật chưa rõ ràng đôi khi còn
đan xen với duy tâm, mặc dù nó là kết quả của quá trình khái quát những
kinh nghiệm thực tiến lâu dài của nhân dân Trung Hoa thời cổ đại. Quan

điểm duy vật được thể hiện rõ ở học thuyết Âm dương, tuy nó còn mang
tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ và có những quan điểm duy tâm,
thần bí về lịch sử xã hội nhưng trường phái triết học này đã lộ rõ khuynh
hướng duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát của mình trong quan điểm
về cơ cấu và sự vận động, biến hoá của sự vật hiện tượng trong tự nhiên
cũng như trong xã hội.

7


Ở Ấn Độ cổ đại tư tưởng triết học được hình thành từ cuối thiên niên
kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên, bắt nguồn từ thế giới quan
thần thoại, tôn giáo, giải thích vũ trụ bằng biểu tượng các vị thần mang
tính chất tự nhiên, có nguồn gốc từ những hình thức tôn giáo tối cổ của
nhân loại. Ở Ấn Độ nguyên tắc “thiên nhiên hợp nhất” lại có màu sắc
riêng như:
Xu hướng chính của Upanishad là nhằm biện hộ cho học thuyết duy
tâm, tôn giáo trong kinh Vêđa về cái gọi là “tinh thần sáng tạo tối cao”
sáng tạo và chi phối thế giới này. Để trả lời câu hỏi cái gì là thực tại cao
nhất, là căn nguyên của tất cả mà khi nhận thức được nó, người ta sẽ nhận
thức được mọi cái còn lại và có thể giải thoát được linh hồn khỏi sự lo âu
khổ nào của đời sống trần tục và ràng buộc của thế giới này là “tinh thần
vũ trụ tối cao” . Brahman, là thực thể duy nhất, có trước nhất, tồn tại vĩnh
viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và nhập về với nó
sau khi chết. Tóm lại Brahman là tinh thần vũ trụ, là đấng sáng tạo duy
nhất, là đại ngã, đại đinh, là vũ trụ xung quanh cái tồn tại thực sự, là
khách thể. Còn Atman là tinh thần con người, là tiểu ngã, là cái có thể mô
hình hoá, là chủ thể và chẳng qua chỉ là linh hồn vũ trụ cư trú trong con
người mà thôi. Linh hồn con người (Atman) chỉ là sự biểu hiện, là một bộ
phận của “tinh thần tối cao”. Vì Atman “linh hồn” là cái tồn tại trong thể

xác con người ở đời sống trần tục, nên ý thức con người lầm tưởng rằng
linh hồn, “cái ngã” là cái khác với “linh hồn vũ trụ”, khác với nguồn sống
không có sinh, không có diệt vong của vũ trụ. Vậy nên kinh Vêđa nối con
người với vũ trụ bằng cầu khẩn, cúng tế bắt chước hoà điệu của vũ trụ
bằng lễ nghi, hành lễ ở hình thức bên ngoài. Còn kinh Upanishad quay
vào hướng nội để đi từ trong ra, đồng nhất cá nhân với vũ trụ bằng tri
thức thuần tuý kinh nghiệm.
Đối với phương Tây lại nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi
con người là chủ thể, chúa tể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ – thế giới
8


khách quan. Và cũng chính từ thế giới khách quan khác nhau nên dẫn đến
hướng nghiên cứu tiếp cận cũng khác nhau:
Từ thế giới quan triết học “thiên nhân hợp nhất” là cơ sở quyết định
nhiều đặc điểm khác của triết học phương Đông như: lấy con người làm
đối tượng nghiên cứu chủ yếu – tính chất hướng nội; hay như nghiên cứu
thế giới cũng là để làm rõ con người và vấn đề bản thảo luận trong triết
học phương Đông bị mờ nhạt. Nhưng ngược lại triết học phương Tây lại
đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất hướng ngoại; còn vấn đề
con người chỉ được nghiên cứu để giải thích thế giới mà thôi. Cho nên
phương Tây bàn đậm nét về bản thể luận của vũ trụ.
Cái khác biệt nữa là ngay trong vấn đề con người phương Đông cũng
quan niệm khác phương Tây:
Ở Phương Đông người ta đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người
với người và đời sống tâm linh, ít quan tâm đến mặt sinh vật của con
người, chỉ nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay ác theo lập trường của giai
cấp trống trị cho nên nghiên cứu con người không phải là để giải phóng
con người mà là để cai trị con người, không thấy quan hệ giữa người với
người trong lao động sản xuất.

Ở Phương Tây họ lại ít quan tâm đến mặt xã hội của con người, đề cao
cái tự nhiên – mặt sinh vật trong con người, chú ý giải phóng con người
về mặt nhận thức, không chú ý đến nguyên nhân kinh tế – xã hội, cái gốc
để giải phóng con người.
Thứ hai, ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới
dạng thuần tuý mà thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác.
Cái nọ lấy cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để tồn tại và phát triển cho
nên ít có những triết gia với những tác phẩm triết học độc lập. Và có
những thời kỳ người ta đã lầm tưởng triết học là khoa học của khoa học
như triết học Trung Hoa đan xen với chính trị lý luận, còn triết học Ấn Độ

9


lại đan xen tôn giáo với nghệ thuật. Nói chung ở phương Đông thì triết
học thường ẩn dấu đằng sau các khoa học.
Ở phương Tây ngay từ thời kỳ đầu triết học đã là một khoa học học
độc lập với các môn khoa học khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu
đằng sau triết học. Và thời kỳ Trung cổ là điển hình: khoa học muốn tồn
tại phải khoác áo tôn giáo, phải tự biến mình thành một bộ phận của giáo
hội.
Thứ ba, Lịch sử triết học phương Đông ít thấy có những bước nhảy
vọt về chất có tính vạch ra ở các thời điểm, mà chỉ là sự phát triển cục bộ,
kế tiếp xen kẽ. Ở Ấn Độ, cũng như Trung quốc các trường phái có từ thời
cổ đại vẫn giữ nguyên tên gọi cho tới ngày nay (từ thế kỷ VIII – V trước
công nguyên đến thế kỷ 19).
Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, thêm bớt hay
đi sâu vào từng chi tiết như: Nho tiền Tần, Hán nho, Tống nho vẫn trên
cơ sở nhân – lễ – chính danh, nhưng có cải biên về một phương diện nào
đó, ví như Lễ thời tiền Tần là cung kính, lễ phép, văn hoá; thời Hán biến

thành Tam cương ngũ thường, đời Tống biến thành chữ Lý...
Các nhà triết học ở các thời đại chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ ủng
hộ, bảo vệ quan điểm hay một hệ thống nào đó để hoàn thiện và phát triển
nó hơn là vạch ra những sai lầm và không đặt ra mục đích tạo ra thức triết
học mới. Do vậy nó không mâu thuẫn với các học thuyết đã được đặt nền
móng từ ban đầu, không phủ định nhau hoàn toàn và dẫn đến cuộc đấu
tranh trong các trường phái không gay gắt và cũng không triệt để. Có tình
trạng đó chính là do chế độ phong kiến quá kéo dài và bảo thủ, kết cấu
kinh tế, giai cấp trong xã hội đan xen cộng sinh bên nhau.
Ngược lại, phương Tây lại có điểm khác biệt ở mỗi giai đoạn, mỗi thời
kỳ, bên cạnh các trường phái cũ lại có những trường phái mới ra đời có
tính chất vạch thời đại như thời cố đại bên cạnh trường phái Talét,
Hêraclit... đến Đêmôcrit rồi thời đại khai sáng Pháp, CNDV ở Anh, Hà
10


lan, triết học cổ điển Đức... Và hơn nữa cuộc đấu tranh giữa duy tâm và
duy vật mang tính chất quyết liệt, triệt để hơn.
Thứ tư, Sự phân chia trường phái triết học cũng khác:
Ở phương Đông đan xen các trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm biện
chứng, siêu hình không rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi sâu
vào những nội dung cụ thể thường là có mặt duy tâm có mặt duy vật, sơ
kỳ là duy vật, hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ thế giới quan
thiếu nhất quán, thiếu triệt để của triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã
hội phương Đông cũng không mạch lạc như phương Tây.
Ngược lại triết học phương Tây thì sự phân chia các trường phái rõ nét
hơn và các hình thức tồn tại lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác thô
sơ đến duy vật siêu hình rồi đến duy vật biện chứng.
Thứ năm, Hệ thống thuật ngữ của triết học phương Đông cũng khác
so với triết học phương Tây ở 3 mảng:

- Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ “giới tự nhiên”, “bản
thể”, “vật chất”. Còn ở phương Đông lại dùng thuật ngữ “thái cực” đạo
sắc, hình, vạn pháp,... hay ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ... Để nói
về bản chất của vũ trụ đặc biệt là khi bàn về mối quan hệ giữa con người
và vũ trụ thì phương Tây dùng phạm trù khách thể – chủ thể; con người
với tự nhiên, vật chất với ý thức, tồn tại và tư duy. Còn phương Đông lại
dùng Tâm – vật, năng – sở, lí – khí, hình – thần. Trong đó hình - thần là
những phạm trù xuất hiện sớm và dùng nhiều nhất.
- Nói về tính chất, sự biến đổi của thế giới: phương Tây dùng thuật
ngữ “biện chứng” siêu hình, thuộc tính, vận động, đứng im nhưng lấy cái
đấu tranh cái động là chính. Đối với phương Đông dùng thuật ngữ “động
– tĩnh”, “biến dịch”, “vô thường”, “thường còn”, “vô ngã” và lấy cái
thống nhất, lấy cái tĩnh làm gốc là vì phương Đông triết học được xây
dựng trên quan điểm vũ trụ là một, phải mang tính nhịp điệu.

11


- Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới
thì phương Tây dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ” “quy luật”. Còn
phương Đông dùng thuật ngữ “đạo” “lý” “mệnh” “thần”, cũng xuất phát
từ thế giới quan thiên nhân hợp nhất nên tất cả phải mang tính nhịp điệu,
tính quy luật, tính xoắn ốc của vũ trụ như thái cực đến lưỡng nghi... Có
nhịp điệu là hài hoà âm dương, còn vũ trụ là tập hợp khổng lồ các xoắn
ốc...
Thứ sáu, Tuy cả hai dòng triết học phương Đông và phương Tây đều
nhằm giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, nhưng phương Tây nghiêng
nặng về giải quyết mặt thứ nhất còn mặt thứ hai chỉ giải quyết những vấn
đề có liên quan. Ngược lại ở phương Đông nặng về giải quyết mặt thứ hai
cho nên dẫn đến hai phương pháp tư duy khác nhau.

Phương Tây đi từ cụ thể đến khái quát cho nên là tư duy tất định – tư
duy vật lý chính xác nhưng lại không gói được cái ngẫu nhiên xuất hiện.
Còn phương Đông đi từ khái quát đến cụ thể bằng các ẩn dụ triết học với
những cấu cách ngôn, ngụ ngôn nên không chính xác nhưng lại hiểu cách
nào cũng được, nó gói được cả cái ngẫu nhiên mà ngày nay khoa học gọi
là khoa học hỗn mang – dự báo.
4. So sánh những điểm tương đồng giữa triết học phương Tây và
phương Đông cổ đại
Ngoài những điểm khác biệt thì giữa triết học phương Tây và phương
Đông cổ đại vẫn có những điểm tương đồng sau:
Thứ nhất, Cả triết Đông và Tây đều lý giải vấn đề bản thể của vũ trụ
từ một dạng vật chất cụ thể như: Đất, nước, lửa (Heraclit : Lửa;
Anaximen: Không khí, nước).
Triết học Trung Quốc quan niệm thế giới được cấu tạo từ Ngũ hành:
Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
Thứ hai, Triết học của Socrate (Hy Lạp) quan niệm quá trình nhận
thức là sự trở về nhận thức chính cái Tôi của mình.
12


Triết học Ấn Độ chú trọng cái tôi, cái tinh thần con người, nhận thức
cũng chỉ là trở về với cái Tôi đó, tu luyện cũng là cái để cái tôi tinh thần
(Atman) đạt đến bản nguyên tuyệt đối của mình (Brahman).
Thứ ba, Trong triết học cổ đại phương Tây – Platon có quan niệm về ý
niệm tuyệt đối (sự vật chỉ lại cái bóng của ý niệm nhưng khi hình ảnh của
ta in lên hang động, sự vật là bắt chước nguyên mẫu của tinh thần, không
tồn tại chân thực.
Triết học Balamon coi sự vật chỉ là ảo tượng, ảo ảnh của con người.
Thứ tư, Triết học phương Tây cổ đại có quan niệm biện chứng của
Heraclite. Triết Đông có thuyết Vô thường (Phật Giáo), Kinh dịch (Trung

Hoa), quan niệm mọi vật đều biến hóa.
Thứ năm, Triết Tây có Nguyên tử luận của Democrite. Ấn Độ cổ đại
thuyết Nyaya, Vaisesika/ quan niệm về nguyên tử.
Thứ sáu, Triết gia cổ đại Hy Lạp Platon (428 – 347 trước công
nguyên), Pitagore (580 – 500 trước công nguyên) quan niệm linh hồn là
bất tử.
Kinh Upanishat và hệ thống triết học Balamon đều có quan niệm về
linh hồn bất tử.
Thứ bảy, Triết Tây thường bàn đến các vấn đề mang tính bản thể luận.
Triết Đông tuy thường bàn về các vấn đề đạo đức luân lý, mà ít bàn đến
vấn đề bản thể luận nhưng trong lý thuyết của Lão Tử, khái niệm Đạo
chính là khái niệm mang tính bản thể luận.
5. Liên hệ thực tế
Ở thời đại chúng ta, hệ thống tư tưởng phương Đông dù đã trải qua
hàng ngàn năm lịch sử vẫn không mất đi ánh hào quang rực rỡ, vẫn được
tiếp tục nghiên cứu ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã thừa hưởng những giá trị của triết học
phương Đông và phương Tây; đặc biệt là của triết học Mác - Lênin và
phát triển thành một triết học mang sắc thái Việt Nam. Các sách của
13


Khổng Tử và Mạnh Tử có những luận điểm tương đồng với tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhân cách người làm quan và người cán bộ cách mạng và về
lấy dân làm gốc, v.v… Khổng Tử cho rằng có bốn điều kiện cơ bản tạo
thành nhân cách của người làm quan: “Một, trước hết phải có trí tuệ. Hai,
có trí tuệ nhưng đức nhân không đủ duy trì trí tuệ, thì tuy làm được quan,
nhưng rồi cũng đánh mất trí tuệ và mất chức. Ba, có trí tuệ, có nhân đức
đủ duy trì trí tuệ, nhưng không thành tâm trân trọng con người, thì dân
chúng cũng chẳng ai kính trọng nào. Bốn, có đủ trí tuệ, có đức nhân đủ

duy trì trí tuệ, lại thành tâm trân trọng con người, nhưng hành động không
theo phép nước thì cũng chưa phải người xứng đáng làm quan”.
Nhân cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên thời đại ngày nay đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến nhiều trong các trước tác của Người và nói
một cách sâu sắc và cụ thể. Người không khuyên dạy cán bộ, đảng viên
phải tu thân theo lối các nho sĩ thời xưa để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ
theo Nho giáo, mà rèn luyện nhân cách, đạo đức cách mạng để trở thành
người có năng lực, phẩm chất, làm tròn nhiệm vụ được giao, trở thành
người đầy tớ hết lòng phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước, xây dựng một
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

KẾT LUẬN

Chúng ta đã nghiên cứu, cùng so sánh triết học phương Tây cổ đại
và triết học phương Đông cổ đại. Qua đó có thể thấy được những sự
tương đồng và khác nhau giữa hai hệ thống triết học. Điều này giúp
chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn, bản chất hơn đối với mỗi hệ thống triết
học. Hiểu rõ triết học phương Đông cổ đại cũng như triết học phương Tây
cổ đại, vận dụng linh hoạt hơn vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Kết hợp một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin và hệ thống
triết học phương Đông cổ đại, triết học phương Tây cổ đại để thúc đẩy
quá trình phát triển, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh, hạnh phúc.
14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.


Giáo trình triết học Mác – Lê nin – Bộ giáo dục và đào tạo
Lịch sử triết học – PGS, TS Nguyễn Hùng Hậu
Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ đại, Doãn Chính (chủ

4.

biên), NXB Giáo dục, 1994.
Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ đại, Doãn Chính (chủ
biên), NXB Giáo dục, 1994.

5.

Veda Upanishad - Những bộ kinh triết lý tôn giáo cổ Ấn Độ, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.

6.

Lịch sử triết học Trung Quốc, Phùng Hữu Lan (TQ), Lê Anh Minh
(dịch), NXB KHXH, 2007.

7.

Đại cương triết học Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê.
15


8.

Triết giáo Đông phương, Lê Anh Minh (chủ biên), NXB Trẻ, 2007


9.

Kinh Dịch Và Cấu Hình Tư Tưởng Trung Quốc, Lê Anh Minh (chủ
biên), NXB Trẻ, 2007

10.

Lịch sử tư tưởng VN,t.1, Nguyễn Tài Thư (chủ biên), NXB KH XH,
1993

11.

Lịch sử tư tưởng VN,t.2, Lê Sỹ Thắng, NXB KH XH, 1997

12.

Lịch sử tư tưởng triết học VN, t.1, Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên),
NXB KH XH, 2006.

13.

Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, Cao Xuân
Huy, Nxb V.hoá, 1995.

16




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×