Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tư tưởng triết học việt nam nguyễn bỉnh khiêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.13 KB, 19 trang )

NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG QUAN NIỆM
VỀ LÝ - ĐẠO - TÂM CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM VỚI TỐNG NHO

MỞ ĐẦU
Nhắc tới Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhắc tới một “nhà tư tưởng tỏa bóng
suốt thế kỉ XVI”. Đó là một bậc hiền triết, bậc chính khách, nhà tiên tri, người
thầy được vua chúa và nhân dân xem trọng coi là bậc phu tử - Tuyết Giang
phu tử (cùng với Chu Văn An và Nguyễn Thiếp). Cuộc đời Nguyễn Bỉnh
Khiêm trải gần trọn thế kỉ XVI, ông là người đã chứng kiến bao đau thương,
tang tóc từ cuộc chiến “nồi da xáo thịt” của dân tộc. Với nhân cách của bậc
cao sĩ cùng với “tấm lòng tiên ưu đến già chưa thôi” ông đã trở thành một bậc
thánh nhân lập đức. Với nhân sinh quan sáng suốt, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn
là nhà lập ngôn được người đời ngưỡng mộ. Lập đức và lập ngôn là hai lĩnh
vực đan xen, hòa quyện lẫn nhau tạo nên thành công của Nguyễn Bỉnh Khiêm
– một danh nhân văn hóa lớn của dân tộc.
Trong di sản của ông còn sót lại đến ngày nay, chúng ta mới chỉ mới
từng bước khám phá từng phần những tư tưởng uyên thâm xen kẽ giữa những
vần thơ tức sự, cảm hứng, những bài vịnh và văn bia. Những quan điểm triết
học trong tư tưởng của ông đang ngày càng đòi hỏi phải vận dụng những
phương pháp khoa học để minh chứng cho một điều là, Nguyễn Bỉnh Khiêm
đã đặt và giải quyết một số vấn đề triết học không kém phần bác học so với
các bậc hiền triết trên thế giới cùng thời, tức là những vấn đề quan trọng của
khoa học lịch sử triết học. Tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu ảnh hưởng
sâu sắc các học thuyết Tống Nho, Đạo Phật và Lão Trang. Trong đó, những
quan niệm về lý - đạo – tâm của ông có những điểm tương đồng và khác biệt
với Tống Nho.
A-

NỘI DUNG



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH
THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NGUYỄN BỈNH KHIÊM
1.1. Tiểu sử Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm nguyên có tên khai sinh là Nguyễn Văn Đạt, sinh
năm Tân Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 22 dưới triều Lê Thánh Tông (1491), ở
thời kỳ được coi là thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Ông sinh tại làng Trung Am,
huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học,
huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Cha của ông là giám sinh Nguyễn
Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa hiển đạt trong
đường khoa cử. Mẹ của ông là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan Tiến sĩ
Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông, bà là người phụ nữ có
bản lĩnh khác thường, học rộng biết nhiều lại giỏi tướng số, nên muốn chọn
một người chồng tài giỏi để sinh ra người con có thể làm nên đế nghiệp sau
này, nhưng kén chọn mãi đến khi luống tuổi bà nghe lời cha mới lấy ông
Nguyễn Văn Định (người huyện Vĩnh Lại) là người có tướng sinh quý tử.
Quê ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên
Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết,
huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng). Nội ngoại đôi bên thuộc hai phủ
nhưng bên này bên ấy nhìn rõ cây đa đầu làng, chỉ qua con sông Hàn (Tuyết
Giang) nối đôi bờ.
Về hành trạng của bà Nhữ Thị Thục, các tài liệu nghiên cứu đến nay
vẫn chưa thống nhất về tính xác thực của những giai thoại trong dân gian kể
rằng bà chê ông Nguyễn Văn Định không biết cách dạy con nên đã bỏ về nhà
cha mẹ đẻ ở làng An Tử Hạ (bởi với biệt tài lý số của mình, bà Nhữ Thị Thục
đã tiên đoán nhà Lê sơ 40 năm sau thời thịnh trị của Lê Thánh Tông sẽ đi vào
suy tàn nên bà muốn dạy Nguyễn Văn Đạt học cách làm vua để có thể giành
được ngôi vị đế vương về sau, điều này trái với ý muốn của ông Nguyễn Văn
Định). Nhiều nguồn sử liệu trước đây khẳng định rằng sau khi bỏ về nhà cha
mẹ đẻ, bà đã vượt qua lễ giáo phong kiến mà đi bước nữa để rồi sinh ra Trạng



BùngPhùng Khắc Khoan (người làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất,
trấn Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây cũ). Nhưng nhiều nghiên cứu hiện nay cho
rằng điều này rất khó xảy ra bởi bà Nhữ Thị Thục sinh ra Nguyễn Văn Đạt khi
đã luống tuổi (ngoài 20 tuổi) trong khi Phùng Khắc Khoan sinh sau Nguyễn
Bỉnh Khiêm (Nguyễn Văn Đạt) tới 37 năm. Một điều nữa là bà Nhữ Thị
Thục sau khi qua đời lại được an táng bên nhà cha mẹ đẻ ở làng An Tử Hạ mà
không phải tại làng Trung Am bên nhà chồng như quan niệm truyền thống
xưa nay.
Nguyễn Bỉnh Khiêm được giáo dục từ nhỏ trong một gia đình nội ngoại
đều có học vấn uyên thâm. Hầu hết những nghiên cứu về cuộc đời và sự
nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều ghi nhận ảnh hưởng lớn của bên họ
ngoại trong việc hình thành nhân cách cũng như tài năng của ông. Trong gia
phả của họ Nguyễn (thuộc nhánh hậu duệ người con trai thứ 7 của Nguyễn
Bỉnh Khiêm) ở thôn An Tử Hạ còn ghi lại: "Phu nhân hồi An Tử Hạ, ỷ phụ
thân giáo dưỡng Đạt nhi tam tuế", qua đó cho thấy mẹ Nhữ Thị Thục và ông
ngoại Nhữ Văn Lan có công lớn giáo dưỡng Nguyễn Văn Đạt khi còn nhỏ.
Đến tuổi trưởng thành, nghe tiếng Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng
Lạch Triều (thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày nay) nổi danh
trong giới sĩ phu đương thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cất công vào tận xứ
Thanh để tầm sư học đạo. Lương Đắc Bằng từng là một đại thần giữ
chức Thượng thư dưới triều Lê sơ nhưng sau khi những kế sách nhằm ổn định
triều chính do ông đưa ra không được vua Lê cho thi hành, Lương Đắc Bằng
đã cáo quan về quê sống đời dạy học (1509). Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn sáng
dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên chẳng bao lâu đã trở thành học trò
xuất sắc nhất của người thầy họ Lương. Bởi vậy mà trước khi qua đời, Bảng
nhãn Lương Đắc Bằng đã trao lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm bộ sách quý
về Dịch học (Chu Dịch) là Thái Ất thần kinh đồng thời ủy thác người con
trai Lương Hữu Khánh của mình cho Nguyễn Bỉnh Khiêm dạy dỗ.



Lớn lên trong thời đại loạn (giai đoạn triều Lê sơ rơi vào khủng hoảng,
suy tàn), không muốn đi lại vết xe cũ của người thầy Lương Đắc Bằng nên từ
khi trưởng thành cho đến khi ra ứng thí (1535), suốt hơn 20 năm, Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã bỏ qua tới 9 kỳ đại khoa (trong đó có 6 khoa thi dưới triều Lê
sơ). Ngay cả khi nhà Mạc lên thay nhà Lê sơ (1527), xã hội dần đi vào ổn
định nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không vội vã ra ứng thí (ông không
tham dự 2 khoa thi đầu tiên dưới triều Mạc). Tới năm Đại Chính thứ sáu
(1535) đờiMạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) thịnh trị vương đạo nhất triều
Mạc, ông mới quyết định đi thi và đậu ngay Trạng nguyên. Năm ấy ông đã 45
tuổi. Ngay sau khi đỗ đạt, ông được bổ nhiệm làm Đông Các hiệu thư (chuyên
việc soạn thảo, sửa chữa các văn thư của triều đình) rồi sau được cử giữ nhiều
chức vụ khác nhau như Tả thị lang bộ Hình, Tả thị lang bộ Lại kiêm Đông các
Đại học sĩ. Nhưng sự qua đời đột ngột của Mạc Thái Tông vào năm Đại
Chính thứ 11 khi mới 41 tuổi (1540) đã kết thúc giai đoạn được coi là thịnh trị
nhất dưới triều Mạc đồng thời Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng mất đi một chỗ dựa
vững chắc cho việc thực hiện những hoài bão trị quốc của mình. Nhân lúc
triều chính nhiễu nhương chia bè kết phái do Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải)
còn ít tuổi lên thay vua cha nhưng chưa đủ năng lực điều hành chính sự,
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dâng sớ trị tội 18 lộng thần (trong đó có cả con rể của
ông là Phạm Dao làm Trấn thủ Sơn Nam) nhưng không được vua chấp thuận.
Bởi vậy, năm 1542 ông xin về quê trí sĩ sau 8 năm làm quan tại triều đình.
Sau hai năm về trí sĩ, tới năm Giáp Thìn (1544), vua Mạc lại cho người
về phong tước Trình Tuyền Hầu cho ông, rồi sau lại thăng ông lên chức
Thượng thư bộ Lại, Thái phó, tước Trình Quốc Công. Do vậy mà dân gian
quen gọi ông là Trạng Trình. Một số nhà nghiên cứu tiểu sử Nguyễn Bỉnh
Khiêm cho rằng nguồn gốc của tên gọi Trình Tuyền(gắn với tước hiệu Trình
Tuyền Hầu và Trình Quốc Công của ông) là bắt nguồn từ tên địa danh của
làng Trung Am từ trước chứ không phải là bắt nguồn từ họ tên người theo ý



hiểu rằng "Nguyễn Bỉnh Khiêm là người hiểu rõ suối nguồn Lý học của họ
Trình (tức Trình Di và Trình Hạo) đời Tống bên Trung Quốc".
Gần hai chục năm từ năm 53 tuổi tới 73 tuổi[6], Nguyễn Bỉnh Khiêm
tuy không ở hẳn kinh đô nhưng vẫn cáng đáng nhiều việc triều chính, lúc bàn
quốc sự, lúc theo xa giá nhà vua đi dẹp loạn, vua Mạc tôn kính ông như bậc
quân sư. Những việc trọng đại nhà vua thường sai sứ giả về hỏi (trong đó có
lời khuyên nổi tiếng đã đi vào sử sách: Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế), có
khi lại đón ông lên kinh để bàn việc, xong rồi ông lại trở về làng Trung Am.
Ngoài 73 tuổi, ông mới chính thức treo ấn từ quan, về quy ẩn nơi quê
nhà.Trạng nguyên, Tô Khê hầu Giáp Hải một người bạn lâu niên với Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã làm thơ ca ngợi tài đức cũng như công lao của ông đối với
triều Mạc, trong đó có những câu như "Lực phù nhật cốc trụ kình thiên" (năng
lực phò vua như cột chống đỡ trời) hay "Tứ triều huân nghiệp nhân trung
kiệt" (một tay anh kiệt huân nghiệp trải bốn triều vua).
Trong những năm trí sĩ cũng như thời gian quy ẩn tại quê nhà, ông đã
cho dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân,
làm cầu Nghinh Phong, Trường Xuân cho dân qua lại thuận tiện và mở trường
dạy học cạnh sông Tuyết (còn có tên là sông Hàn). Vì vậy mà về sau các môn
sinh tôn ông là "Tuyết Giang phu tử". Học trò của ông có nhiều người hiển
đạt sau này như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Trương Thời
Cử, Đinh Thời Trung, Hàn Giang cư sĩ Nguyễn Văn Chính (con trai cả của
ông)... Nhiều tài liệu văn học sử cho rằng Nguyễn Dữ (tác giả của Truyền kỳ
mạn lục) cũng từng là học trò của ông và được ông phụ chính tác phẩm
để Truyền kỳ mạn lục trở thành một áng thiên cổ kỳ bút như Vũ Khâm Lân đã
ca ngợi. Tuy nhiên cũng có một số nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Dữ chưa
từng là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà chỉ là một người sống cùng thời
với ông. Vấn đề này đến nay vẫn chưa có quan điểm thống nhất của giới
nghiên cứu văn học cũng như lịch sử.



Ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu, niên hiệu Đoan Thái nguyên niên
(1585), ông tạ thế tại quê nhà ở tuổi 95, đây là tuổi thọ hiếm có đương thời.
Trước khi qua đời, ông còn dâng sớ lên vua Mạc: "... Thần tính độ số thấy vận
nước nhà đã suy, vận nhà Lê đến hồi tái tạo, ý trời đã định, sức người khó
theo. Song nhân giả có thể hồi thiên ý, xin nhà vua hết lòng tu nhân phát
chính, lấy dân làm gốc, lấy nước làm trọng, trong sửa sang văn trị, ngoài
chuyên cần võ công, may ra giữ được cơ nghiệp tổ tiên, thì thần chết cũng
được thỏa lòng". Bấy giờ vua Mạc Mậu Hợp cử Phụ chính đại thần Ứng
vương Mạc Đôn Nhượng cùng văn võ bá quan về lễ tang để tỏ sự trọng thị.
Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang đã nói lên sự trân
trọng rất lớn của triều Mạc với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Triều đình lại sai cấp
ruộng tự điền trăm mẫu, đồng thời cấp ba nghìn quan tiền để lập đền thờ ông
tại quê nhà, đích thân vua đề chữ lên biển gắn trước đền thờ là "Mạc
Triều Trạng Nguyên Tể Tướng Từ".
Theo bản Phả ký (Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký) do
Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân soạn năm 1743, Nguyễn Bỉnh Khiêm có cả thảy
ba người vợ và 12 người con, trong đó có 7 người con trai. Cũng giống như
cha, hầu hết các con trai của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều theo phò tá nhà Mạc.
Bởi vậy sau khi nhà Mạc bị thất thủ dưới tay nhà Lê-Trịnh (1592), con cháu
ông đều phải thay tên đổi họ, li tán thập phương. Một chi họ do người con trai
cả của ông là Hàn Giang hầu Nguyễn Văn Chính đứng đầu đã di cư về vùng
Trường Yên thuộc đất Hoa Lư, Ninh Bình ngày nay và đổi từ họ Nguyễn sang
họ Giang nhằm tránh sự trả thù của nhà Lê-Trịnh. Lúc sinh thời, Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã cử người con trai thứ 7 (con trai út) dẫn người cháu đội bát hương
sang sinh cơ lập nghiệp ở làng An Tử Hạ, xã Kiến Thiết bên quê ngoại để
trông coi phần mộ và thờ phụng ông bà ngoại Nhữ Văn Lan cùng mẹ Nhữ Thị
Thục rồi về sau tạo thành một chi họ Nguyễn hậu duệ của Trạng Trình trên
đất Tiên Lãng ngày nay.



1.2. Đặc điểm điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội Việt Nam
thế kỷ XVI
Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên trong một giai đoạn lịch sử nhà Lê suy
thoái, các phe phái trong triều đố kỵ, chém giết lẫn nhau. Năm 1572, Mạc
Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra một triều đại mới. Thế là suốt cuộc đời
thanh niên trai trẻ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn dật, không thi thố
được tài năng. Mãi tới năm 1535. Lúc này đã 45 tuổi, ông mới đi thi. Ba lần
thi Hương, thi Hội, thi Đình ông đều đỗ đầu và đỗ Trạng nguyên. Từ đấy, ông
làm quan với tân triều, nhà Mạc phong chức Tả thị lang (chức đứng hàng thứ
ba trong bộ Hình). Triều đình nhà Mạc rất trân trọng Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ông hy vọng triều đại nhà Mạc có thể xây dựng lại đất nước. Lúc này, Mạc
Đăng Dung đã nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh và rút về làm Thái
thượng hoàng. Doanh là người tỏ ra có chí khí đảm lược. Nguyễn Bỉnh
Khiêm, một nhà học giả uyên thâm, một trí thức dân tộc đã nhìn thấy điều đó.
Và ông hy vọng: với nhân vật này, triều đại mới có thể đưa đất nước thoát
khỏi tình trạng rối ren mà vua tôi nhà Lê và các tập đoàn phong kiến trước đó
gây

ra.

Nhưng niềm tin đó bị thất vọng. Là một học giả, học rộng biết nhiều, trong
thơ ông hay nhắc tới sự thăng trầm "thương hải biến vi tang điền" (biển xanh
biến thành nương dâu) của trời đất, tạo vật và cuộc đời trôi nổi như "phù vân".
Ông thương xót cho "vận mệnh" quốc gia và cảm thông sâu sắc tình cảnh của
"dân đen", "con đỏ". Ông thật sự mong muốn đất nước thịnh vượng, thái bình.
Tương truyền, hình như để tránh những cuộc binh đao khói lửa, tương tàn cho
chúng dân và nhìn thấy trước thời cuộc, "vận mệnh" của đất nước trong hoàn
cảnh ấy chưa thể có những lực lượng đảm đương được việc thống nhất, nên
khi các tập đoàn phong kiến đến hỏi kế sách, ông đều bày cho họ những

phương sách khác nhau để giữ thế "chân vạc". Năm 1568, Nguyễn Hoàng
thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm sát hại, lo cho "số phận" nên đã
ngầm cho người hỏi kế an thân, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: "Hoành sơn nhất


đái, vạn đại dung thân" (ngụ ý nói: Dựa vào một dải Hoành sơn có thể lập
nghiệp được lâu dài). Thế là Nguyễn Hoàng tức tốc xin anh rể là Trịnh Kiểm
cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Tại Thăng Long, thời ấy chúa Trịnh cũng ra
sức ức hiếp vua Lê và muốn phế bỏ, liền cho người hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Ông không trả lời và lẳng lặng dẫn sứ giả ra thăm chùa và nói với nhà
sư: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản", ngụ ý muốn khuyên chúa Trịnh cứ tôn phò
nhà Lê thì quyền hành tất giữ được. Nếu tự ý phế lập sẽ dẫn đến binh đao.
Còn đối với nhà Mạc, sau những cuộc chiến tranh liên miên, phải bỏ chạy lên
Cao Bằng thế thủ, vua Mạc cho người về hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông
đã trả lời: "Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thể" (Cao Bằng tuy đất hẹp,
nhưng có thể giữ được vài đời). Quả nhiên, mãi đến năm 1688, sau ba đời giữ
đất Cao Bằng, nhà Mạc mới bị diệt. Các truyền thuyết trên đây muốn chứng
tỏ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài tiên đoán, đo nắm được bí truyền
của sách Thái ất thần kinh. Vả lại còn truyền thuyết nữa về Trạng Trình với
tập Trình quốc công sấm ký. Tương truyền trong tập sách đó, ông đã tiên tri
và biết trước các sự việc nhân tình thế thái, thời cuộc xảy ra "năm trăm năm
sau". Thực, hư thế nào, còn là vấn đề cần phải nghiên cứu khẳng định hay phủ
định của các nhà học giả Việt Nam sau này để trả lại giá trị xứng đáng cho
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đương nhiên, một điều cần khẳng định: Nguyễn Bỉnh
Khiêm thật sự là nhà học giả "thượng thông thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri
nhân sự" (trên trời hiểu thiên văn, dưới đất tường địa lý, ở giữa hiểu con
người).
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị
như: Tập thơ Bạch Vân (gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán còn lưu lại) và hai
tập: Trình quốc công Bạch vân thi tập và Trình quốc công Nguyễn Bỉnh

Khiêm thi tập hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi (với hàng trăm bài thơ
chữ Nôm). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu chất liệu hiện thực, mang tính triết
lý sâu xa của thời cuộc. Ông phê phán gay gắt bọn tham quan ô lại hút máu,
hút mủ của dân. Thơ ông còn truyền đạt cho đời một đạo lý đối nhân xử thế,


đạo vua tôi, cha con và quan hệ bầu bạn, hàng xóm láng giềng. Đọc thơ ông là
thấy cả một tấm lòng lo cho nước, thương đời, thương dân, và một tâm hồn
suốt đời da diết với đạo lý: "Tiên thiên hạ chi ưu phi ưu, hậu thiên hạ chi lạc
nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Vì thế khi
về ở ẩn, ông vẫn mở trường dạy học, mong đào tạo cho đời những tài năng
"kinh bang tế thế". Học trò của ông cũng có người trở thành danh tướng,
Trạng nguyên như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quyền...
CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
TRONG QUAN NIỆM VỀ LÝ - ĐẠO - TÂM CỦA NGUYỄN BỈNH
KHIÊM VỚI TỐNG NHO
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tiếp thu quan niệm của Tống nho về lý - đạo tâm, song ông không sa đà vào việc phân tích, lý giải triết học, mà về cơ bản,
đứng trên lập trường của minh triết phương Đông để giải quyết những vấn đề
của thực tiễn cuộc sống và do vậy, lý học của ông mang tính thực tế hơn,
tránh được lối học và trình bày của các học giả Tống nho Trung Quốc.
2.1- Quan niệm về Lý và Đạo
Trong Lịch triều hiến chương loại chí, quyển “Nhân vật chí”, sử gia
Phan Huy Chú đã nhắc lại lời sứ giả nhà Thanh (Trung Quốc) là Chu Xán
Nhiên về Nguyễn Bỉnh Khiêm rằng: “An Nam lý học hữu Trình Tuyền”
(Nước An Nam có nhà Lý học là Trình Tuyền). Tuy nhiên, trong di sản thơ
văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm còn lại cho đến nay, chúng ta không tìm thấy
một văn bản chính thức nào bàn về những vấn đề cơ bản của Lý học với tư
cách học thuyết về con đường nhận thức thế giới thông qua phạm trù Lý như
một hiện thực khách quan. Lý học của Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ tập trung lý
giải những vấn đề xuất phát từ trực quan sinh động về một thế giới đang diễn

biến phức tạp nhưng tất thảy mọi hiện tượng, sự vật trong đó đều vận động
theo một quy luật đã định sẵn. Chính vì vậy, trong tư tưởng của ông khó tách
bạch giữa Lý, Đạo và Tâm, bởi truyền thống của Lý học Trung Hoa phần lớn
là trùng hợp với Đạo học, còn tâm vừa là chủ thể của nhận thức, vừa là đối


tượng, mục đích của nhận thức. Cả ba học thuyết trên hướng đến việc nhận
thức chân lý. Trên thực tế, nhà Lý học Việt Nam chỉ vận dụng các phạm trù
của Lý học thời Tống vào việc suy xét và lý giải thế sự. Do vậy, theo chúng
tôi, không nhất thiết phải tập trung trình bày tư tưởng của Nguyễn Bỉnh
Khiêm về các phạm trù Lý, Đạo, Tâm, mà phải xuất phát từ thực tiễn xã hội,
đòi hỏi của thời đại mà nhà tư tưởng đó sống, nhận thức và phản tư trước thực
trạng xã hội bằng những nguyên lý và phương pháp của Tân Nho giáo.
Lý và Đạo trong tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự kế thừa học thuyết
của Nhị Trình, được ông vận dụng vào việc xem xét các hiện tượng, sự vật
của thế giới, mang đậm sắc thái của triết học tự nhiên. Trình Hạo viết:
“Muôn vật không vật nào là không có đối, một âm một dương, một
thiện một ác. Dương trưởng thì âm tiêu; thiện tăng thì ác giảm. Lý ấy đem suy
ra thật là xa. Làm người chỉ cần biết có thế” (Ngữ lục). Thực ra, quan niệm
này của Trình Hạo có nguồn gốc từ Dịch học, đó là “Nhất âm nhất dương chi
vị đạo” (Một âm một dương gọi là đạo). Lão Tử, khi phát biểu về tính quy
luật của đạo, cũng nói: “Vạn vật đều cõng âm mà ôm dương, điều hòa bằng
khí trùng hư” (Vạn vật phụ âm nhi bão dương, trùng khí dĩ vi hòa – Đạo Đức
Kinh, chương 42). Khi thừa nhận đạo (âm, dương) như một quy luật phổ biến
là “Lý”, “thiên lý” là bản thể của thế giới vạn vật; “trên trời chỉ có một lý”;
“vạn vật đều cùng một thiên lý”; đồng thời xem “Lý” là cái trừu tượng, siêu
hình, tồn tại thông qua các sự vật cụ thể hữu hình (hình nhi thượng); và khí
tức là các sự vật cụ thể hữu hình, là sự biểu hiện cụ thể của lý (hình nhi hạ),
Nhị Trình đều đồng quan điểm về ý nghĩa phổ biến của Lý, từ đó các ông mới
đi đến khẳng định: “Làm người chỉ cần biết có thế”.

Khi quan sát các hiện tượng, sự vật, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khái quát
lên thành quy luật tự nhiên và áp dụng nó vào việc xem xét các quy luật trong
xã hội. Ông viết:
“Khôn ngoan mới biết thăng thì giáng,
Dại dột nào hay tiểu có đài.


Đã khuất bao nhiêu thì lại duỗi,
Đạo trời lồng lộng chẳng hề sai”
Đạo trời ở đây chính là “Lý”, là quy luật siêu hình thuộc hình nhi
thượng mà không phải ai cũng nắm được, bởi đó là quá trình của nhận thức từ
đơn giản đến phức tạp mà kỳ vọng của con người muốn đạt tới đích đó phải
trải qua “cách vật trí tri”. Cũng tương tự như vậy, ông viết tiếp về quy luật tự
nhiên:
“Hoa càng khoe nở, hoa nên rữa,
Nước chứa cho đầy, nước ắt vơi.
Mới biết doanh hư đà có số,
Ai từng dời được đạo trời”
Trong các tác phẩm thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta ít gặp
các thuật ngữ, “Lý”, “Lý học”, nhưng thay vào đó là thuật ngữ thông dụng
nhất, được dùng nhiều nhất là “Đạo trời”. Chúng tôi cho rằng, đây là cách
biểu thị ý nghĩa cũng như tính chất của khái niệm “Thiên lý” trong triết học
Trình – Chu. Sự vật và hiện tượng luôn có đối, tức là hai thái cực, hai thế lực
đối ngược nhau nhưng lại tạo điều kiện cho nhau để cùng tồn tại thống nhất
trong các sự vật, hiện tượng ấy. Âm trưởng thì dương tiêu, giữa chúng luôn có
sự bù trừ lẫn nhau, tự điều chỉnh để tính hệ thống trong các sự vật và hiện
tượng luôn tồn tại và phát triển:
“Cơ ngẫu tòng lai doanh cánh hư,
Âm dương tiêu trưởng lẽ thừa trừ”
Nghĩa là:

(Chẵn lẻ, xưa nay đầy lại vơi,
Âm dương tiêu trưởng nghiệm rõ lẽ thừa trừ - Độc Chu Dịch hữu cảm).
Tuy nhiên, sự phát triển của sự vật và hiện tượng trong quan niệm của
Nguyễn Bỉnh Khiêm theo một quy luật (“Lý”) phổ biến xác định của Dịch.
Đó là sự phát triển theo chu kỳ tuần hoàn, hết rồi lại bắt đầu:
“Tái nhất âm hề phục nhất dương,


Tuần hoàn vãng phục lý chi thường”
Nghĩa là:
(Một khí âm vừa qua thì một khí dương lại đến,
Xoay vòng ra đi và trở lại là lẽ thường – Khiển hứng)
Hoặc:
“Nhất chu khí vận chung nhi thủy,
Bác phục đô tòng Thái cực tiên”.
Nghĩa là:
(Khí vận xoay vòng, hết rồi lại bắt đầu,
Quẻ Bác đến quẻ Phục, đều theo đạo Thái cực sắp đặt trước – Cảm
hứng).
Theo đó, có thể nói, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất chú trọng đến sự thống
nhất giữa hai mặt đối lập trong một sự vật cũng như hệ quả tác động giữa
chúng. Một vấn đề đặt ra là, chẳng lẽ ông không đề cập gì đến vấn đề quan
trọng nhất của Lý học là mối quan hệ giữa lý và khí?
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đưa ra quan niệm về khí như là nguồn gốc
của vạn vật. Trong bài “Cảm hứng”, ông nói về sự hình thành tam tài như sau:
“Thái cực sơ triệu phân,
Tam tài định quyết vị.
Khinh thanh thượng vi thiên,
Trọng trọc hạ vi địa.
Trung tập nhi vi nhân,

Bẩm thụ thị nhất khí”.
Nghĩa là:
(Thái cực từ lúc mới tạo lập đã phân chia,
Tam tài đã ổn định vị trí của nó.
Nhẹ và trong bốc lên là trời,
Nặng và đục lắng xuống là đất.
Ở giữa tập kết lại thành người,


Bẩm thụ cùng một khí chất – Cảm hứng, ba trăm câu).
Ở đây, chúng tôi có một nghi vấn về cách trình bày của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, khi ông cho rằng, “Thái cực từ lúc mới tạo lập đã phân chia” thành
tam tài (Thiên – Địa – Nhân). Trong Chu Dịch, Hệ từ truyện có viết: “Dịch
hữu thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng
sinh bát quái”, tức là (Dịch có thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi
sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái). Thuật ngữ sinh ở đây vừa chỉ mối quan
hệ nhân quả, vừa phản ánh quá trình tiến hóa của vũ trụ, vạn vật. Quá trình đó
chắc chắn là lâu dài và phức tạp, song Nguyễn Bỉnh Khiêm lại quan niệm kết
quả của quá trình phân chia đó rất nhanh, làm chúng ta liên tưởng đến chu kỳ
“sinh - trụ - dị - diệt" trong thế giới quan Phật giáo, ở đó sự biến đổi của vạn
vật diễn ra trong khoảnh khắc thời gian rất ngắn (sadna). Rất có thể, do ảnh
hưởng của Phật giáo mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đưa ra cách trình bày
không giống như các nhà sáng lập Nho giáo đời Tống. Ông đã từng nhấn
mạnh quan điểm của Phật giáo về nguồn gốc của thế giới: “Tòng đầu sắc thị
không, Bản lai vô nhất vật” (Từ đầu thì sắc đã là không, Vốn không có một
vật gì cả - Cảm thời cổ ý).
Tuy nhiên, không phải Nguyễn Bỉnh Khiêm đứng trên lập trường duy
tâm chủ quan của Phật giáo, mà ông tiếp tục đi theo xu hướng duy tâm khách
quan của Tống Nho, khi cho rằng, vạn vật có nguồn gốc từ khí (Bẩm thụ thị
nhất khí). Khí ấy, theo Trương Tải (1020-1078), ở trong Thái hư - “Thái hư

thì vô hình, là bản thể của khí” (Chính mông, Thái hòa). Nhị Trình nói: “Khí
thì tự nhiên sinh ra con người, sự sinh ra của khí, sinh ra ở chân nguyên. Khí
của trời cũng tự nhiên sinh sôi không cùng” (Nhị Trình di thư, Ngữ lục). Còn
Chu Hy thì cho rằng: “Giữa trời đất có lý và khí. Lý là đạo thuộc hình nhi
thượng, là gốc sinh ra vạn vật. Khí là khí vật, vật chất thuộc hình nhi hạ, là
công cụ sinh ra vạn vật. Do đó khi được sinh ra, người và vật phải bẩm thụ cái
khí này, rồi sau mới có hình” (Chu Văn Công văn tập, Đáp Hoàng Đạo Phu
thư).


Như vậy, có thể nói, Nguyễn Bỉnh Khiêm trình bày theo đúng quan
điểm của Chu Hy, song ông không nói cái gì quy định sự “bẩm thụ” cái khí
ấy. Có một số nhà nghiên cứu cho rằng, quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm
chỉ tập trung vào khí mà không đề cập đến mối quan hệ giữa lý và khí, từ đó
cho rằng, “chính đây mới là chìa khóa then chốt để có thể đánh giá đóng góp
đích thực của ông đối với triết học tự nhiên”. Chúng tôi cho rằng, cách trình
bày của Nguyễn Bỉnh Khiêm về quá trình hình thành và phát triển của vũ trụ
vạn vật là giản đơn và vắn tắt, không suy luận dài dòng và phức tạp. Tuy
không trình bày một cách cụ thể mối quan hệ giữa lý và khí, nhưng ông lại
khẳng định cái vô hình (thuộc hình nhi thượng) vẫn luôn thắng cái hữu hình
(thuộc hình nhi hạ). Bằng chứng là, có lần đi thăm chùa Phổ Minh, ngôi chùa
được xây dựng vào thời Trần ở ngoại thành Nam Định đã bị giặc Minh tàn
phá, thậm chí cái vạc của chùa rất nổi tiếng cũng bị giặc phá làm súng đạn
năm 1426, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói:
“Liêu liêu cổ đỉnh kim hà tại?
Thức đắc vô hình thắng hữu hình”.
Nghĩa là:
(Vắng vẻ lặng lẽ, vạc xưa nay còn đâu?
Thế mới biết vô hình vẫn thắng hữu hình – Du Phổ Minh tự).
Tuy cái vạc với tư cách sự vật cụ thể làm cho ngôi chùa đó nổi tiếng

linh thiêng một thời không còn, cảnh chùa vắng vẻ nhưng vẫn có cái gì đó tác
động mạnh mẽ tới ấn tượng của người thăm viếng. Dù cách trình bày vắn tắt
như ở trên, chúng ta vẫn hiểu được tính nhất quán trong tư tưởng của Trạng
Trình về sự vượt lên của cái siêu hình (lý) so với “khí” mà ở đây, có thể xem
là “khí cụ” từng được Chu Hy đề cập tới trong học thuyết của mình. Từ đó,
Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa thiên lý (đạo trời) áp dụng vào việc lý giải các hiện
tượng của đời sống xã hội mà về cơ bản, là làm rõ quan hệ của “thái cực”
trong từng sự việc, từng mối quan hệ cụ thể:
“Thửa nơi doanh mãn là nơi tổn,


Hãy gẫm cho hay mới kẻo âu”
Hoặc:
“Làm người chớ thấy tài mà cậy,
Có nhọn bao nhiêu, lại có tùi”
“Một cơ yêu nhục đổi thay đều,
Yêu bao nhiêu, thì nhục bấy nhiêu”
Những cặp từ đối lập, như “mãn - tổn”; “nhọn - tùi"; “yêu - nhục”, v.v.
đều làm cho con người lâm vào tình trạng rắc rối, lo âu. Chính vì vậy, Nguyễn
Bỉnh Khiêm khuyên mọi người hãy luôn cảnh tỉnh để tránh bất cập, và muốn
tránh được bất cập thì tốt nhất là tuân thủ đạo “trung thường”, tức là giữ
nguyên tắc không thiên lệch, thái quá:
“Đạo ở mình ta lấy đạo trung,
Chớ cho đục, chớ cho trong”
Trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, “Đạo” tức “Lý” còn được thể
hiện rõ nét trong đời sống xã hội. Với tinh thần nhất quán về tính quyết định
của Đạo trời (thiên lý) đối với tất thảy các sự vật, hiện tượng, ông khẳng định
đạo trung thường chính là vùng giao thoa giữa đạo trời và đạo người mà ở đó,
đến lượt mình, đạo người lại tiếp tục bị chi phối bởi đạo trời:
“Thấy cơ doanh mãn, cho hay chớ,

Phải đạo trung thường, mựa có qua”
Đạo trung thường tức là đạo trung dung, không thái quá và cũng không
bất cập. Con người muốn biết đạo trời và giữ được đạo người thì phải chú
trọng, không được phép bỏ qua đạo trung dung, phải tâm niệm đạo đó là
thường hằng, bất biến. Mối quan hệ giữa đạo trời và đạo người trong tư tưởng
của Nguyễn Bỉnh Khiêm, về thực chất, là sự phản ánh thực trạng xã hội
đương thời vô cùng rối ren, phức tạp. Trong xã hội loạn lạc đến cực đỉnh, ở đó
ngôi vua không chính, bề tôi tham nhũng, nhân dân đói rét, ly tán bởi chiến
tranh và cướp bóc thì sự đối cực trong các mối quan hệ xã hội luôn là vấn đề
nổi cộm. Do đó, việc xác định điểm giữa (trung) để dung hòa sự đối và duy trì


sự tồn tại của đối tượng (khách thể) càng trở nên khó khăn. Tuy vậy, Nguyễn
Bỉnh Khiêm vẫn luôn khẳng định trong bất kỳ trường hợp nào cũng có thể tìm
được điểm trung nhạy cảm ấy.
2.2- Quan niệm về Tâm
Để nhận thức được sự đối cực và tìm đến đạo trung thường, Nguyễn
Bỉnh Khiêm đòi hỏi không chỉ có “khôn ngoan”, tức sự khéo léo trong cách
ăn ở, cư xử, mà phải có sự tham dự của “tâm”. Ông khuyên người khôn
không nên coi thường kẻ dại; ngược lại, người dại không nên tranh chấp với
kẻ khôn:
“Làm người có dại mới nên khôn,
Chớ dại ngây si, chớ quá khôn.
Khôn được ích mình, đừng rẻ dại,
Dại thì giữ phận, chớ tranh khôn”
“Khôn – dại” trong cuộc sống dù thận trọng đến mấy cũng không thể
tránh được những lúc lầm lỡ, bởi “Dại nọ chưa đo âu đã đắn, Khôn thì thốt
trước lại lo sau” (Thơ Nôm, 59). Vì vậy, trong cách ứng xử với người khác,
theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, tốt nhất là “vô sự”, tức là bằng cách nào đó để tâm
không bị dao động và phiền muộn. Ông viết:

“Chữ rằng “nhân dĩ hòa vi quí”,
Vô sự thì hơn, kẻo phải lo”
Hoặc:
“Có thuở được thời mèo đuổi chuột,
Đến khi thất thế kiến tha bò.
Được thua sau mới ăn năn lại,
Vô sự chăng hơn có sự ru”
Tuy chỉ nêu các hiện tượng cụ thể để làm rõ sự “đối cực” trong cuộc
sống thường nhật, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã giúp con người lựa chọn cách ứng
xử sao cho có lợi nhất cho bản thân và những đối tác của nó. Ông đưa ra khái
niệm “vô sự” và ví nó như ánh trăng soi xuống mặt nước hồ trong đêm thu


lặng gió, đó là lòng chân thành, chân thực và thêm vào đó là sự vô tư. Theo
ông, “vô sự” không phải là sự thờ ơ của con người trước các hiện tượng của
thế giới đang vận động, biến đổi vô thường, mà nhằm làm cho tâm tĩnh để suy
xét chúng được chính xác hơn, để con người đỡ ân hận, ăn năn sau những
quyết định của mình. Ông nói:
“Kiền khôn tĩnh lý suy,
Kim cổ nhàn trung đắc.
Hiểm mạc hiểm thế đồ,
Bất tiễn tiện kinh cức.
Nguy mạc nguy nhân tâm,
Nhất phóng tiện quí quắc.
Quân tử cầu sở chỉ,
Chí thiện tư vi cực”.
Nghĩa là:
(Tâm tĩnh biết lẽ càn khôn,
Trong nhàn, ngẫm lẽ xưa nay.
Không gì hiểm bằng đường đời,

Không cắt đi thì toàn gai góc.
Không gì nguy bằng lòng người,
Buông lỏng ra thì đều là quỉ quái.
Quân tử tìm chỗ đứng lại,
Chí thiện ấy là chỗ cùng tột - Trung Tân ngụ hứng).
Tâm tĩnh là mệnh lệnh tuyệt đối, đồng thời là điều kiện tất yếu để nhận
thức thế giới xung quanh. Đó cũng là điểm gặp gỡ của tam giáo mà Tống –
Minh Nho đã lĩnh hội được từ sự Phật giáo hóa, Lão – Trang hóa trong nhận
thức luận của mình. Nhờ sự “tự đổi mới” trong lĩnh vực nhận thức luận mà
Tân Nho giáo đã đạt được hiệu quả nhất định trong việc nhận thức các nguyên
lý của vũ trụ (lẽ càn khôn), của đường đời và lòng người. Dù đưa ra các thuật
ngữ khác nhau, như Lý học, Đạo học, Thánh học, Thực học, Tâm học, song


con đường chính của các nền học thuật ấy, suy cho cùng, cũng là nhằm đạt tới
nhận thức cái tuyệt đối. Nguyễn Bỉnh Khiêm không giải thích tâm là gì,
là thể hay dụng, ông chỉ nói: "Ôi! nói về tâm là nói về chỗ mà chí đạt tới vậy,
mà thơ lại là để nói chí" (Bài tựa tập thơ "Bạch Vân am thi tập"). Thiết nghĩ,
một câu triết lý ngắn gọn này bao hàm cả một vấn đề lớn về "tâm" như là
phạm trù dùng để chỉ ý thức con người. Khác với Trương Tải cho "nơi đến
của tâm là tính", Nhị Trình cho tâm là khí, tính là lý, Nguyễn Bỉnh Khiêm
chọn chỗ đến của chí là tâm. Chí được Nguyễn Bỉnh Khiêm hướng tới cuộc
sống nhàn dật, tự tại, bởi theo ông, trong trạng thái “nhàn dật” tâm mới tĩnh,
mới đủ điều kiện để suy ngẫm “lẽ xưa nay”.
Ở Nho giáo, cái tuyệt đối là Thiên lý, ở Phật giáo là Phật tính, ở Lão
Trang là Đạo. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tiếp thu tinh thần ấy của Tống Nho,
nhưng ông không sa đà vào việc phân tích, lý giải triết học, mà về cơ bản, đã
đứng trên lập trường của minh triết phương Đông để giải quyết các vấn đề
thực tiễn của đời sống xã hội. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh thêm điều là, minh
triết của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang sắc thái Tống Nho, song ở đó hàm lượng

các yếu tố Phật giáo và Đạo Lão – Trang được sử dụng một cách tinh tế hơn,
thực tế hơn so với nguyên bản của chúng. Vì thế, Lý học của ông mang tính
thực tế hơn, tránh được lối học và trình bày của các học giả Tống Nho Trung
Quốc
C - KẾT LUẬN
Có thể nói ở thế kỷ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học lớn của
Việt Nam. Tư tưởng triết học của ông "không bận tâm đi vào xu hướng duy
lý... đi tìm khái niệm bản thể luận như Lão Tử, như triết học Phật giáo hay cái
phóng nhiệm nhiều lúc đến ngụy biện của Trang Tử. Ông hiểu sâu sắc triết
học Tống Nho nhưng không đi vào sự câu nệ vụn vặt, không lý giải quá sâu
cái lý, có khi rắc rối, hoặc chẻ sợi tóc làm tư để tìm hiểu, biện giải nhiều thứ
mơ hồ rối rắm trong những khái niệm hỗn tạp đó. Với sự uyên thâm vốn có,
ông được triều đình nhà Mạc và sĩ phu đương thời phong là Trình tuyền hầu,


tức là một vị Hầu tước khơi nguồn dòng suối triết học của họ Trình (tức Trình
Di, Trình Hiện - hai nhà triết học khai phá ra phái Lạc Dương của Tống Nho),
hoặc đời còn gọi ông là cụ Trạng Trình. Tuy vậy, triết học của ông là triết học
đã được sống dậy, biểu hiện trong thơ như sự gợi ý mách bảo của cuộc sống
thực tiễn. Ông chắt lọc từ trong nhận thức triết học mà mình thu lượm được,
phép biện chứng nhìn bên ngoài có vẻ như thô sơ để giải đáp nhiều hiện
tượng tự nhiên và xã hội nảy sinh ở quanh mình. Trong thơ ông, ngoài mặt
triết lý nhân sinh, nổi bật lên những suy ngẫm chiêm nghiệm, đúc kết như
muốn vươn lên khái quát "luật" đời bằng những phạm trù triết học. Vì lẽ đó,
ông rất hay dùng đến những cặp phạm trù đối lập như: đen - trắng, tốt - xấu,
đầy - vơi, sinh - diệt, vuông - tròn, để giãi bày quan niệm triết lý nhân sinh
của mình.
Tuy nhiên, "một hạn chế dễ nhận thấy trong tư tưởng triết học của
Nguyễn Bỉnh Khiêm là tuy nắm được phép biện chứng, nhưng vẫn nặng về
duy tâm. Quan niệm về sự phát triển của ông còn nằm trong khung tròn khép

kín chứ chưa phải là vòng tròn xoáy ốc. Đó là sự phát triển tuần hoàn, là cái
phép biện chứng của Chu dịch... ông đã nhận được trong nền giáo dục Nho
học đương thời, cộng với phép biện chứng thô sơ của Lão Tử trong Đạo đức
kinh. Đó cũng là những hạn chế đương nhiên của rất nhiều nhà triết học cổ
đại" (Đào Thái Tôn)
Nhìn lại toàn bộ tiến trình lịch sử và con người thế kỷ 16, Nguyễn Bỉnh
Khiêm xứng đáng là "cây đại thụ", nhà học giả, nhà triết gia của thế kỷ.



×