Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tieu Luan CTHPT - Lý thuyết phát triển bền vững ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.12 KB, 35 trang )

Lý thuyết phát triển bền vững ở Việt Nam
MỞ ĐẦU
Tại Việt Nam, vùng nông thôn thường là đối tượng hướng tới của các
nghiên cứu phát triển bền vững bởi tính dễ bị tổn thương do tác động của quá
trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Theo phát triển nông nghiệp bền vững là
“cơ sở để bắt đầu thay đổi mô hình phát triển chung”, trong đó, kiến thức bản
địa, tôn trọng mục tiêu và quan niệm nông dân, kết hợp khoa học xã hội và khoa
học tự nhiên cùng với tri thức của người nông dân trong khám phá công nghệ;
đặc biệt quan tâm phát triển nông nghiệp hữu cơ. Theo xu hướng đó, Dự án
nghiên cứu ứng dụng phát triển khuôn khổ cho sản xuất và marketing nông
nghiệp hữu cơ tại Việt Nam (2006-2009) do Trung tâm Hỗ trợ Nông thôn, Nông
dân thực hiện với sự tài trợ của Tổ chức Phát triển nông nghiệp châu Á - Đan
Mạch (ADDA) đã thành lập các tổ nhóm nông dân sản xuất nông nghiệp hữu cơ
nhằm thúc đẩy việc trao đổi, học hỏi kinh nghiệm trong cách thức sản xuất này.
Kết quả thực hiện dự án cho thấy tính đến thời điểm năm 2010, Hội Nông dân
Việt Nam đã tổ chức nông dân triển khai thử nghiệm phương pháp canh tác nông
nghiệp hữu cơ trên rau ở một số tỉnh miền Bắc. Tuy nhiên, nông nghiệp hữu cơ
vẫn còn chậm phát triển do trình độ, tay nghề của người sản xuất; do nhận thức,
hiểu biết của xã hội còn hạn chế; do Nhà nước chưa có cơ chế cụ thể để khuyến
khích, hỗ trợ phát triển. Theo hướng tiếp cận phát triển bền vững dựa vào cộng
đồng kết hợp với nguyên tắc sinh thái, Phạm Thành Nghị và nhóm cộng sự đã
tiến hành nghiên cứu “Giải pháp nâng cao ý thức sinh thái cộng đồng ở nước ta
trong những năm tới” trong giai đoạn 2001-2003 tại 4 tỉnh (Bắc Giang, Hải
Dương, Thừa Thiên - Huế và Đồng Nai), bao gồm 16 cộng đồng. Kết quả nghiên
cứu đã cho thấy mối quan hệ khá chặt chẽ giữa mức độ ý thức sinh thái cộng
đồng và hoạt động bảo vệ môi trường. Có thể nói hoạt động của chính quyền,
của các tổ chức đoàn thể, văn hóa và sự gắn kết cộng đồng có tác động lớn đến ý
thức sinh thái cộng đồng. Nhóm nghiên cứu cũng đưa ra nhận định, ở các cộng
đồng được đánh giá là môi trường có vấn đề, thường có đặc điểm coi trọng giá
1



trị kinh tế hơn môi trường. Phong trào bảo vệ môi trường do các cộng đồng phát
động không được duy trì thường xuyên và hiệu quả thấp. Vấn đề giảm nghèo tại
các khu vực nông thôn, miền núi cũng là một trong các chủ đề nghiên cứu phát
triển bền vững tại Việt Nam.
Tuy nhiên "Phát triển bền vững” là khái niệm mới ở Việt Nam. Tiến hành
xây dựng và thao tác hoá khái niệm này phù hợp với thực tiễn đất nước và bối
cảnh thế giới hiện nay sẽ có ý nghĩa quan trọng. Các nghiên cứu khoa học môi
trường, khoa học xã hội, trong đó đặc biệt là kinh tế học, xã hội học, và luật học
hy vọng sẽ có nhiều đóng góp cho việc hoàn thiện hệ thống quan điểm lý luận
về phát triển bền vững ở nước ta trong những thập niên sắp tới.

2


NỘI DUNG
I. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
1. Các nguyên tắc cho sự phát triển bền vững tại Việt Nam:
1.1 Khái niệm:
Phát triển bền vững là sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn
phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang
là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc
thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để hoạch định chiến lược
phù hợp nhất với quốc gia đó
1.2 Những nguyên tắc cho phát triển bền vững tại Việt Nam, Chương trình
Nghị sự 21


Thứ nhất, con người là trung tâm của phát triển bền vững. Đáp ứng
ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng

lớp nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh là nguyên tắc quán triệt nhất quán trong mọi giai
đoạn phát triển.



Thứ hai, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn
phát triển sắp tới, bảo đảm an ninh lương thực, năng lượng để phát
triển bền vững, bảo đảm vệ sinh và an toàn thực phẩm cho nhân
dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa với phát triển xã hội; khai
thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên
trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và bảo vệ môi trường lâu
bền. Từng bước thực hiện nguyên tắc "mọi mặt: kinh tế, xã hội và
môi trường đều cùng có lợi".



Thứ ba, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là
một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển. Tích cực và
chủ động phòng ngừa, ngăn chặn những tác động xấu đối với môi
trường do hoạt động của con người gây ra. Cần áp dụng rộng rãi
nguyên tắc "người gây thiệt hại đối với tài nguyên và môi trường
3


thì phải bồi hoàn". Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ và có
hiệu lực về công tác bảo vệ môi trường; chủ động gắn kết và có
chế tài bắt buộc lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi trường trong việc
lập quy hoạch, kế hoạch, chưương trình và dự án phát triển kinh tếxã hội, coi yêu cầu về bảo vệ môi trường là một tiêu chí quan trọng
trong đánh giá phát triển bền vững.



Thứ tư, quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công
bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc
sống của các thế hệ tương lai. Tạo lập điều kiện để mọi người và
mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển,
được tiếp cận tới những nguồn lực chung và được phân phối công
bằng những lợi ích công cộng, tạo ra những nền tảng vật chất, tri
thức và văn hoá tốt đẹp cho những thế hệ mai sau, sử dụng tiết
kiệm những tài nguyên không thể tái tạo lại được, gìn giữ và cải
thiện môi trường sống, phát triển hệ thống sản xuất sạch và thân
thiện với môi trường; xây dựng lối sống lành mạnh, hài hoà, gần
gũi và yêu quý thiên nhiên.



Thứ năm, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền
vững đất nước. Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với môi
trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất,
trước mắt cần được đẩy mạnh sử dụng ở những ngành và lĩnh vực
sản xuất có tác dụng lan truyền mạnh, có khả năng thúc đẩy sự
phát triển của nhiều ngành và lĩnh vực sản xuất khác.



Thứ sáu, phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp
chính quyền, các bộ, ngành và địa phương; của các cơ quan, doanh
nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân.
Phải huy động tối đa sự tham gia của mọi người có liên quan trong

việc lựa chọn các quyết định về phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ
môi trường ở địa phương và trên quy mô cả nước. Bảo đảm cho
4


nhân dân có khả năng tiếp cận thông tin và nâng cao vai trò của
các tầng lớp nhân dân, đặc biệt của phụ nữ, thanh niên, đồng bào
các dân tộc ít người trong việc đóng góp vào quá trình ra quyết
định về các dự án đầu tư phát triển lớn, lâu dài của đất nước.


Thứ bảy, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển bền vững đất nước.
Phát triển các quan hệ song phương và đa phương, thực hiện các
cam kết quốc tế và khu vực; tiếp thu có chọn lọc những tiến bộ
khoa học công nghệ, tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển bền
vững. Chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả,
năng lực cạnh tranh. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn những tác
động xấu đối với môi trường do quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế gây ra.



Thứ tám, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội
và bảo vệ môi trường với bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự
an toàn xã hội.

2. Phân tích và chứng minh nguyên tắc thứ hai cho sự phát triển bền vững
tại Việt Nam
2.1 Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển

sắp tới:
Tháng 12 năm 2006. Việt Nam gia nhập tổ chức thế giới WTO- tổ
chức thương mại thế giới. Hội nhập quốc tế, Việt Nam đang đứng trước hàng
ngàn những cơ hội mới và cả những thách thức mới. Nhưng để đón nhận những
cơ hội đó cũng như giải quyết được những thách thức mới thì một tất yếu lịch sử
của nền kinh tế Việt Nam là phải đổi mới. Nhưng đổi mới cái gì và phải đổi mới
như thế nào?Trong hoàn cảnh hiện nay đổi mới đất nước là một vấn đề hết sức
quan trọng đươc đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân. Từ
năm 1986, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta đã tiến hành đổi mới kinh tế. Từ
những năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ
mang tính chất tự cung, tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
5


với những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa đã làm
cho nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng lạc hậu, khủng hoảng kéo dài, đời
sống nhân dân bấp bênh khổ cực thiếu thốn. Chính vì vậy, Đảng ta đã tìm ra con
đường đúng đắn nhất để đổi mới đất nước dựa trên cơ sở quan điểm triết học là
đổi mới phải toàn diện nhưng đổi mới kinh tế là trọng tâm.
Để thực hiện tốt mục tiêu tổng quát và các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của
năm 2014, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo
điều hành, trọng tâm là Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02 tháng 01 năm 2014
của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực
hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm
2014. Ngay từ đầu năm, Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ tập trung chỉ
đạo quyết liệt các ngành, các cấp và địa phương triển khai thực hiện đồng bộ,
hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp nhằm sớm khắc phục những hạn chế, vượt
qua thách thức để ổn định vĩ mô, tạo tăng trưởng bền vững, bảo đảm đời sống
dân cư.
Ví dụ như:

Trong hai ngày 27 và 28-8, tại Trụ sở Chính phủ, dưới sự chủ trì của
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 8/2014,
thảo luận các giải pháp nhằm đạt kết quả cao nhất các nhiệm vụ, mục tiêu đã đề
ra cho năm 2014, tạo tiền đề, nền tảng cho phát triển và tăng trưởng cao hơn
trong năm 2015 và những năm tiếp theo. Theo các thành viên Chính phủ, trên cơ
sở những kết quả đạt được của năm 2014, đặc biệt là tăng trưởng GDP dự kiến
đạt 5,8%, việc đề xuất chỉ tiêu tăng trưởng GDP khoảng 6-6,2% cho năm 2015
là hợp lý. Các thành viên Chính phủ nhấn mạnh để đạt được con số tăng trưởng
này, các nhiệm vụ, giải pháp đề ra cần hết sức quan tâm đến tăng tổng cầu của
nền kinh tế; tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh;
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở cả trong và ngoài nước; nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc gia...

6


Các thành viên Chính phủ đề xuất, trong xây kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội
2015, cần đặc biệt quan tâm đến các định hướng, giải pháp thúc đẩy tái cơ cấu
kinh tế với trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước, ngân
hàng, nông nghiệp; các giải pháp thúc đẩy đầu tư, sản xuất các sản phẩm công
nghiệp có lợi thế so sánh; phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến,
chế tạo; xây dựng nền nông nghiệp có ứng dụng mạnh khoa học-kỹ thuật, tạo
giá trị gia tăng cao, phát triển theo hướng bền vững; thúc đẩy cải cách hành
chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; các giải pháp thu hút đầu tư, đặc
biệt là thu hút đầu tư nước ngoài…
2.2 Bảo đảm an ninh năng lượng để phát triển bền vững
Vào năm 2013 mức tiêu thụ năng lượng của Việt Nam khoảng 57 triệu tấn dầu
quy đổi và dự báo sẽ tiếp tục gia tăng ở mức cao vào khoảng 7%/năm trong giai
đoạn 2010-2020, xấp xỉ 5% giai đoạn 2020-2030. Do vậy, để bảo đảm an ninh
năng lượng quốc gia, phát triển các nguồn điện theo hướng năng lượng sạch thì

thủy điện đang là một hướng đi của Việt Nam. Việt Nam hiện có 75 công trình
thủy điện lớn và khoảng hơn 470 công trình thủy điện vừa và nhỏ có công suất
từ 1.000-3.000 MW. Nước ta có 2.360 con sông đây sẽ là điều kiện thuận lợi để
phát triển thủy điện, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
2.3 Bảo đảm an ninh lương thực ,vệ sinh và an toàn thực phẩm cho nhân
dân;
Mặc dù đã là nước xuất khẩu gạo, an ninh lương thực vẫn được coi
là mục tiêu hàng đầu ở Việt Nam. Chính phủ Việt nam đã ban hành nghị
quyết về An Ninh Lương Thực Quốc Gia vào ngày 23-12-2009. Nghị quyết
khẳng định: “Đến năm 2020, bảo vệ đất lúa 3,8 triệu héc ta để có sản lượng
41-43 triệu tấn, tăng diện tích trồng ngô lên 1,3 triệu héc ta, sản lượng 7,5
triệu tấn; diện tích cây ăn quả 1,2 triệu héc ta, sản lượng 12 triệu tấn; rau các
loại 1,2 triệu héc ta, sản lượng 20 triệu tấn; sản lượng thịt hơi 8 triệu tấn, sữa

7


tươi 1 triệu tấn, trứng gia cầm 14 tỉ quả, 2,4 triệu tấn thủy sản khai thác và 4
triệu tấn thủy sản nuôi trồng”.
2.4 Khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên
trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và bảo vệ môi trường lâu bền.
Điều 4 nguyên tắc bảo vệ môi trường của Luật bảo vệ môi trường
55/2014/QH13 đã nêu rõ : Bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hòa với phát
triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ xã hội để phát triển bền vững đất nước; bảo
vệ môi trường quốc gia phải gắn với bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu.
3. Việt Nam cần làm gì để phát triển bền vững:
3.1 Chuyển hướng tư duy hoạch định chính sách
Đây là giải pháp cơ bản và toàn diện để phát triển bền vững. Về kinh
tế, phát triển bền vững đã được Nghị quyết của Đảng khẳng định là chuyển
hướng đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, chủ yếu phát

triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu,
nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế. Song với bệnh thành tích về
tăng trưởng đã ăn sâu hơn thập kỷ qua thì việc chuyển hướng này chắc chắn
sẽ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt ở các cơ quan thực thi chính sách ở cấp cơ
sở. Muốn vậy, ngay từ cấp hoạch định chính sách ở trung ương cần quyết
tâm rất cao với những giải pháp quyết liệt và được quán triệt tư duy ở tất cả
các cơ quan xây dựng và thực thi chính sách ở cả trung ương và địa phương.
Hoàn thiện thể chế làm cơ sở cho sự phát triển của kinh tế thị trường cần
được khởi động lại với các chính sách giải phóng các nguồn lực trong nước,
đặc biệt là khu vực tư nhân với nguồn nội lực to lớn và huy động tối đa các
nguồn lực từ bên ngoài. Việt Nam với địa thế rất thuận lợi trong khu vực để
phát triển giao thương và du lịch với bãi biển dài hàng ngàn mét có đủ cả 3S
(sun - sea - sand) nhưng chưa có chính sách chiến lược đầu tư để phát triển
các lợi thế, mang lại hiệu quả kinh tế cao, cạnh tranh được với các nền kinh
tế trong khu vực. Cần thay đổi tư duy phát triển 63 nền kinh tế địa phương
với cơ cấu kinh tế tương tự nhau, khu kinh tế, khu công nghịêp mở khắp nơi
nhưng hiệu quả rất thấp.
8


Bên cạnh đó, cũng cần ban hành một số chính sách “nói không” với những
dự án đầu tư không mang lại nhiều hiệu quả hoặc có thể gây ra những tác
động bất lợi, kể cả về mặt xã hội hơn là những khoản lợi nhuận kinh tế trước
mắt. Năm 2010, Quốc hội đã từng “nói không” với dự án đường sắt cao tốc.
Đến nay cần tiếp tục nghiên cứu, phân tích lợi - hại để đưa ra các quyết sách
kịp thời với thủy điện, điện hạt nhân, khai thác tài nguyên (bauxite, than…),
bất động sản, tiền tệ, dịch vụ tài chính, ngân hàng... Thời gian qua, kinh tế
phát triển với tốc độ nhanh chủ yếu vẫn dựa vào các nguồn lực từ bên ngoài
và các chính sách “bong bóng”. Nếu không có can đảm “xì hơi” dần thì
những bong bóng này chắc chắn sẽ gây ra hậu quả và không thể mang đến sự

phát triển bền vững.
3.2 Gắn phát triển kinh tế với xã hội, môi trường
Muốn phát triển bền vững, không chỉ có chính sách kinh tế quyết định mà
cần gắn với chính sách kinh tế với an sinh xã hội, phát triển nguồn nhân lực
và bảo vệ môi trường. Nút thắt về nguồn nhân lực đã được các nhà hoạch
định chính sách nhìn thấy song đến nay vẫn chưa có chiến lược nào được
thực thi để tháo gỡ. Suốt hàng thập kỷ qua giáo dục cũng phát triển với tốc
độ “bong bóng”, tỷ lệ có bằng đại học thuộc loại cao nhất thế giới nhưng chất
lượng nguồn nhân lực thì không được thị trường công nhận. Nguồn nhân lực
giá rẻ chứng tỏ chất lượng lao động thấp, chỉ thu hút đầu tư vào những ngành
sử dụng lao động giản đơn, hiệu quả thấp, ít sử dụng công nghệ cao. Thành
quả của nền giáo dục chính là tương lai của nền kinh tế, song với chất lượng
giáo dục thấp như vậy thì kinh tế không thể cất cánh được.
Nền kinh tế phát triển có bền vững hay không còn phụ thuộc vào các yếu tố
xã hội và môi trường. Sự phát triển kinh tế trên cơ sở nhu cầu và các mối
quan hệ xã hội, đồng thời thúc đẩy các lực lượng xã hội phát triển. Việc hài
hòa các lợi ích về kinh tế và xây dựng các mối quan hệ xã hội tuy khó nhưng
không thể tách rời. Nếu hoạch định chính sách kinh tế thiếu gắn kết với
chính sách an sinh xã hội chắc chắn sẽ không thể duy trì được tăng trưởng
mà có thể gây ra những tác động bất lợi cho sự phát triển ổn định.
9


Thời gian qua, đã có nhiều chính sách được ban hành để kích thích phát triển
kinh tế nhưng vẫn thiếu các chính sách thúc đẩy các lĩnh vực xã hội như y tế,
giáo dục, môi trường… phát triển theo hướng tạo nền tảng cho kinh tế phát
triển chứ không phải phát triển tương tự như một ngành kinh tế. Nhiều mối
quan hệ xã hội được nảy sinh cùng với tốc độ phát triển nhưng chưa có chính
sách, thể chế đầy đủ để định hướng phát triển như chính sách về hội, về báo
chí, về lao động…

Gần đây, biến đổi khí hậu đã trở thành mối quan tâm của các nhà hoạch định
chính sách. Tuy nhiên, những nhận thức đó chưa được thể hiện nhiều trên
thực tế, hiện tượng phá hoại môi trường sống đang diễn ra khắp nơi, ở tất cả
mọi lĩnh vực của đời sống. Việt Nam vẫn thiếu những kế hoạch hành động cụ
thể và khả thi để bảo vệ môi trường cũng chính là mang lại lợi ích kinh tế.
Nếu mỗi chính sách được ban hành đều tính toán đến lợi ích về môi trường
thì lợi ích kinh tế sẽ thu được nhiều hơn và bảo đảm tính bền vững hơn.
3.3 Cải tổ bộ máy thực thi chính sách
Để thực hiện các chính sách đã được hoạch định thì cần cải tổ bộ máy
thực thi chính sách ở tất cả các lĩnh vực theo hướng Nhà nước phục vụ dân,
đáp ứng nhu cầu của thị trường, của cuộc sống. Đây là giải pháp cuối cùng
và thiết thực nhất nhưng cũng gian nan nhất để đưa chính sách vào cuộc
sống. Đặc biệt là cải cách thể chế và hệ thống tư pháp để pháp luật được thực
thi một cách công khai, minh bạch và bình đẳng, để người dân được hưởng
các quyền một cách chính đáng, phát huy được khả năng và đóng góp cho sự
phát triển của xã hội.
Việc hoạch định chính sách cần nhắm tới mục đích cuối cùng là phát triển
bền vững với chiến lược 30, 50 năm chứ không chỉ vì mục tiêu 5, 10 năm tới,
nhưng nếu không kiên trì xây dựng và thực thi từng bước ngay từ hôm nay
thì không thể có tương lai tươi sáng của đất nước.
Ngoài ba nhiệm vụ quan trọng trên chúng ta cũng cần phải chúng
ta cũng cần phải:
Trọng dụng nhân tài
10


Kinh nghiệm quốc tế và những nghiên cứu khoa học cho thấy, các quốc gia
phát triển nhanh và bền vững đều có chiến lược phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao và chính sách sử dụng nhân tài. Việt Nam muốn tăng trưởng
nhanh và phát triển bền vững cũng cần phải có những chính sách đúng đắn

để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao và trọng dụng nhân tài có hiệu quả.
Một thực tế rất đáng suy ngẫm là nguồn nhân lực của nước ta trong nhiều
năm qua không đáp ứng yêu cầu của những ngành kinh tế kỹ thuật mới,
trong khi nhiều học sinh, sinh viên Việt Nam đoạt giải cao ở các kỳ thi quốc
tế. Có thể nêu một số thí dụ: Hãng Intel của Mỹ vào Việt Nam đầu tư có tổ
chức thi tuyển dụng nhân viên công nghệ thông tin, trong số 2.000 ứng viên
dự thi để vào làm việc cho cơ sở sản xuất của hãng tại TP Hồ Chí Minh thì
chỉ có 90 người tức 5% đạt chuẩn chuyên môn, trong đó chỉ có 40 người đủ
trình độ tiếng Anh để tuyển dụng, kết quả cuối cùng là chỉ có 2% được tuyển
dụng. Hoặc như Hãng Renesas chuyên thiết kế và sản xuất vi mạch hàng đầu
của Nhật Bản đầu tư vào TP Hồ Chí Minh muốn tuyển 500 kỹ sư cho giai
đoạn đầu hoạt động của hãng, vậy mà hai năm liền 2007 và 2008 chỉ tuyển
được có 60 người... Ngay như một số dự án và công trình xây dựng trên khắp
đất nước ta cũng phải thuê nhân lực quốc tế. Những việc nêu trên cảnh báo
cho chúng ta một vấn đề về những bất cập của hệ thống giáo dục, nhất là
giáo dục ở bậc đại học và dạy nghề. Chiều hướng phát triển giáo dục, đào tạo
trong những thập niên vừa qua đã không thể đáp ứng nhu cầu phát triển của
đất nước khi đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa mặc dù đầu tư của Nhà
nước và của nhân dân rất lớn. Chúng ta cần phải đổi mới một cách căn bản tư
duy và cải cách giáo dục, đào tạo theo hướng phải thật sự coi trọng đào tạo tư
duy sáng tạo, đào tạo kỹ năng và đào tạo chuyên môn nghề nghiệp.
Theo đó, giáo dục đại học cần thiết chuyển hướng sang đào tạo nhân lực có
trình độ và kỹ năng làm việc đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển của đất
nước trong dài hạn mà thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và phát triển kinh
tế trí thức yêu cầu. Cơ chế giáo dục đại học và trên đại học cần thiết phải tạo
ra được các cộng đồng sinh viên được tổ chức sao cho trên cái nền kiến thức
11


giáo dục cơ bản thật sự khuyến khích tính linh hoạt và sáng tạo của sinh viên,

nghiên cứu sinh; tạo ra cho mỗi chủ thể sinh viên một môi trường học tập,
nghiên cứu mà họ có thể tự đào tạo, tự vươn lên phù hợp với những biến đổi
của xã hội luôn thay đổi trong điều kiện khoa học, kinh tế, kỹ thuật, công
nghệ thay đổi nhanh chóng ở thế kỷ 21. Muốn vậy cần phải thay đổi cách
dạy trong các cơ sở đào tạo đại học. Dạy ở bậc đại học và trên đại học không
chỉ là truyền đạt những gì đã biết mà quan trọng hơn là dạy cho sinh viên,
nghiên cứu sinh cách duy trì việc cập nhật kiến thức, phương pháp tư duy,
cách xử lý các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn... để họ có thể biết cách làm
mới kỹ năng làm việc của mình để thích ứng với môi trường, điều kiện luôn
thay đổi.
Hiện nay, nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế, chính trị toàn
cầu. Nhu cầu về nhân lực ngày càng lớn, do đó giáo dục đại học của nước ta
phải làm sao nhanh chóng đáp ứng yêu cầu này. Ngoài những kỹ năng
chuyên môn cấp thiết phải tăng số lượng và trình độ ngoại ngữ. Đây quả thật
là một thách thức lớn đối với giáo dục của nước ta. Cùng với việc xây dựng
các trung tâm đào tạo có chất lượng quốc tế, cần thiết có những chính sách
để đưa nhiều sinh viên học tập ở nước ngoài, có chiến lược và những cơ chế,
chính sách trọng dụng nhân tài, kể cả các nhân tài quốc tế đến làm việc, cống
hiến cho đất nước Việt Nam.
Dạy nghề đáp ứng nhu cầu phát triển
Để đất nước phát triển nhanh và bền vững, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng
và triển khai nhiều chương trình, chiến lược kinh tế - xã hội, các chính sách
an sinh xã hội, bảo vệ môi trường. Đặc biệt đầu tư rất lớn cho giáo dục, đào
tạo để phát triển nguồn nhân lực. Trong điều kiện toàn cầu hóa và kinh tế thế
giới cạnh tranh quyết liệt thì như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận định:
Nguồn lực con người là lợi thế cạnh tranh dài hạn, là yếu tố quyết định sự
phát triển của quốc gia... Do đó cần phải tập trung sức phát triển giáo dục và
đào tạo, nhất là đào tạo đại học và dạy nghề để có nguồn nhân lực chất lượng

12



cao, cơ cấu hợp lý nhằm đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và
chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Như vậy, việc tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng,
trước hết là nâng cấp cơ cấu công nghiệp, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
theo chiều sâu nhằm sản xuất ra những sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia
tăng cao hơn, nhanh chóng thích nghi với những công nghệ mới và phương
pháp quản lý hiện đại đòi hỏi phải có một hệ thống giáo dục dạy nghề hiệu
quả hơn và rộng lớn hơn. Nhu cầu về nguồn nhân lực được đào tạo nghề
ngày càng trở nên cấp thiết song giáo dục dạy nghề lại chưa đáp ứng cả về số
lượng và kỹ năng nghề nghiệp.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chất lượng nguồn nhân lực của Việt
Nam chỉ đạt 3,79 trên thang điểm 10, xếp hạng thứ 11 trong 12 quốc gia
được khảo sát tại khu vực châu Á. Ở Việt Nam chưa có trường dạy nghề nào
được định chuẩn là đáp ứng tiêu chuẩn quốc gia và khu vực. Một số doanh
nghiệp Việt Nam đã phải thuê lao động có kỹ năng từ nước ngoài... Tuy vậy,
điều ghi nhận những cố gắng của đào tạo nghề ở nước ta là quy mô đào tạo
nghề tăng khá nhanh. Trong vòng 10 năm từ 1998 đến 2008, tỷ lệ sinh viên
theo học tại các trường trung học và cao đẳng, đại học dạy nghề đã tăng gấp
bốn lần. Năm 2009 đạt con số 1,7 triệu người và năm 2010 có tới gần một
nửa số quận, huyện trong cả nước có ít nhất một trung tâm đào tạo nghề. Từ
năm 1997, tỷ lệ công nhân được đào tạo nghề tăng từ 10% lên 30%.
Hạn chế chính của đào tạo nghề ở nước ta trong thời gian qua là thiếu một
đội ngũ giáo viên giỏi và sự quản lý công tác dạy nghề yếu kém, chưa thống
nhất vào một ngành mà phân tán, mạnh ai nấy làm đã làm cho chất lượng dạy
và cơ sở vật chất dành cho giảng dạy xuống cấp. Vấn đề quan trọng hàng đầu
đối với dạy nghề cho nguồn nhân lực của nước ta là kỹ năng và kiến thức
nghề. Để đạt được những yêu cầu ấy người được đào tạo nghề phải trải
nghiệm trong công việc (học trong công việc và làm việc) và kiến thức từ

quá trình đào tạo chính thức. Theo đó các trung tâm dạy nghề cần phải cung
cấp cho người học nghề cả việc học nghề thực hành và hướng dẫn lý thuyết.
13


Chính vì vậy sự hợp tác giữa các trường, trung tâm dạy nghề với các công ty,
doanh nghiệp là yêu cầu thường xuyên. Chỉ thông qua việc hợp tác này mới
có thể tạo ra nguồn nhân lực được đào tạo với nghề nghiệp thích ứng yêu cầu
sản xuất, kinh doanh, gắn kết được nhu cầu của thực tiễn với đào tạo nghề
của các trường và các cơ sở dạy nghề.
Động lực lớn và điều kiện thuận lợi cho công tác dạy nghề hiện tại là thực
hiện công nghiệp hóa nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới theo chính
sách tam nông của Đảng. Chương trình đào tạo nghề cho nhân lực ở nông
thôn đang được triển khai với mục tiêu mỗi năm đào tạo một triệu nhân công
nông thôn bao gồm cả các viên chức làm việc ở khu vực nông thôn. Sự chỉ
đạo quyết liệt của Chính phủ và các cấp, ngành hữu quan yêu cầu mỗi quận,
huyện và cấp xã phải có một cán bộ chuyên trách chịu trách nhiệm về giáo
dục dạy nghề và dạy nghề miễn phí cho thanh niên có hoàn cảnh khó khăn
mà sẵn sàng đi làm việc ở nước ngoài đã tạo ra những điều kiện tốt cho công
tác đào tạo nghề ở nông thôn. Để chương trình đào tạo nghề ở nông thôn thật
sự hiệu quả, thiết nghĩ các chương trình đào tạo nghề nên coi trọng dạy nghề
nông hơn nữa. Nên khuyến khích các chương trình đào tạo nghề, tạo việc
làm tại những khu vực nông thôn thông qua sự đa dạng hóa ngành, nghề và
cách thức tổ chức lao động, quản lý của doanh nghiệp gắn liền với đặc điểm
của địa phương và nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội tại địa bàn.
Với lợi thế về cơ cấu dân số trẻ, chỉ số phát triển người cao, nguồn nhân lực
dồi dào có học vấn và được đào tạo kỹ năng nghề nghiệp, trình độ chuyên
môn, chúng ta có cơ sở để đất nước phát triển nhanh và bền vững.
4. Vấn đề môi trường
Chính phủ Việt Nam được sự giúp đỡ của các tổ chức Quốc tế đã xác

định 8 vấn đề môi trường bức bách nhất cần được ưu tiên giải quyết là:


Nguy cơ mất rừng và tài nguyên rừng đang đe doạ cả nước, và trong thực
tế tai hoạ mất rừng và cạn kiệt tài nguyên rừng đã xảy ra ở nhiều vùng, mất rừng
là một thảm hoạ quốc gia.

14




Sự suy thoái nhanh của chất lượng đất và diện tích đất canh tác theo đầu
người, việc sử dụng lãng phí tài nguyên đất đang tiếp diễn.



Tài nguyên biển, đặc biệt là tài nguyên sinh vật biển ở ven bờ đã bị suy
giảm đáng kể, môi trường biển bắt đầu bị ô nhiễm, trước hết do dầu mỏ.



Tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên sinh vật, các hệ sinh
thái v.v... đang được sử dụng không hợp lý, dẫn đến sự cạn kiệt và làm nghèo tài
nguyên thiên nhiên.



Ô nhiễm môi trường, trước hết là môi trường nước, không khí và đất đã
xuất hiện ở nhiều nơi, nhiều lúc đến mức trầm trọng, nhiều vấn đề về vệ sinh

môi trường phức tạp đã phát sinh ở các khu vực thành thị, nông thôn.



Tác hại của chiến tranh, đặc biệt là các hoá chất độc hại đã và đang gây ra
những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng đối với môi trường thiên nhiên và con
người Việt Nam.



Việc gia tăng quá nhanh dân số cả nước, sự phân bố không đồng đều và
không hợp lý lực lượng lao động giữa các vùng và các ngành khai thác tài
nguyên là những vấn đề phức tạp nhất trong quan hệ dân số và môi trường.



Thiếu nhiều cơ sở vật chất - kỹ thuật, cán bộ, luật pháp để giải quyết các
vấn đề môi trường, trong khi nhu cầu sử dụng hợp lý tài nguyên không ngừng
tăng lên, yêu cầu về cải thiện môi trường và chống ô nhiễm môi trường ngày
một lớn và phức tạp.
Pierre Gourou, nhà địa lý học nổi tiếng trên thế giới, chuyên gia về các
vùng nhiệt đới ẩm, đã đề xuất một khái niệm về văn minh của loài người. Ông
cho rằng,Việt Nam có truyền thống hàng nhiều thế kỷ về PTBV. Một nền văn
hoá có hiệu suất cao về mật độ, không gian và thời gian (Pierre Gourou, 1982).
Với khái niệm này nền văn hoá đồng nghĩa với khả năng duy trì cuộc sống của
con người. Sự duy trì này không hoàn toàn phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên
được duy trì. Các châu thổ các sông tại các vùng nhiệt đới khác nhau trên thế
giới hầu như có điều kiện đất đai, thuỷ văn, khí hậu tương tự như nhau, nhưng
có khả năng duy trì rất khác nhau. Mật độ dân số trung bình của các châu
thổ nhiệt đới ở Châu Phi và Nam Mỹ là 14 người/km 2, ở Châu Á là 170

15


người/km2. Tại Đồng Bằng Sông Hồng (ĐBSH), mật độ này là 430 người vào
năm 1931; 650 người vào năm 1975 và vào khoảng 1.238 người/km 2 hiện nay.
ĐBSH rộng 15.000 km2. Khả năng duy trì cuộc sống lâu dài này đã lôi cuốn sự
chú ý của nhiều nhà nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau: địa lý;
lịch sử; nhân học; kinh tế... Ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài "nền văn hoá
sông Hồng", "nền văn minh lúa nước", “phương thức sản xuất Châu Á”...là
thuật ngữ đã được dùng để chỉ rõ đặc trưng về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và
mối quan hệ giữa con người với tài nguyên thiên nhiên trên ĐBSH. Đó là do:
- Người dân đã sử dụng các công nghệ với những đặc điểm tiêu tốn
ít năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo của mặt trời, thuỷ lực, gió, thuỷ triều;
sử dụng vật liệu tái tạo, tìm được tại chỗ hoặc gần nơi sản xuất; sử dụng, tái chế
tất cả các phế thải, phụ phẩm của quá trình sản xuất và tiêu dùng. Trong vườn
nhà của người nông dân ĐBSH tài nguyên đất được sử dụng 2-3 vụ mỗi năm,
nguồn nước được sử dụng nhiều lần từ dùng để uống, đun nấu, rửa đến tưới
vườn, ruộng. Năng lượng mặt trời được dùng để phơi sấy, năng lượng thuỷ triều
để tưới tiêu, gió để đẩy thuyền; nhiệt lượng từ không khí để biến thực phẩm qua
lên men. Nhiều vật liệu xây dựng lấy từ cây cỏ, tre nứa. Nước bẩn từ nhà bếp,
nhà vệ sinh chảy về vườn, ruộng.
- Sự tạo lập nên những giá trị văn hoá đề cao sự tự tôn trong lao
động sản xuất, tiết kiệm trong tiêu thụ và sử dụng tài nguyên, tránh những hành
động can thiệp vào cân bằng và hài hoà của thiên nhiên. Trong xã hội truyền
thống ở Việt Nam, người có học được đặt vào vị trí cao nhất (nhất sĩ) người
nông dân được đặt ở vị trí thứ hai(nhì nông). Kham khổ, tiết chế trong ăn, mặc,
ở, được xem là đức tính quan trọng, ăn chay, cấm sát sinh là những tập quán phổ
biến trong tín đồ phật giáo.
- Một hệ thống xã hội phát triển tinh thần đoàn kết, tương trợ trong nhân
dân, tạo nên khả năng huy động tài sản của cộng đồng hoặc của cá nhân nhằm

đảm bảo cho những việc công ích, kể cả việc khai thác tài nguyên thiên nhiên,
phòng chống thiên tai và bảo vệ môi trường (BVMT) đang là cơ sở tổ chức xã
hội này.
16


- Từ kinh nghiệm nhiều thế kỷ tại ĐBSH có thể thấy rằng PTBV là có khả
năng hiện thực. Tính hiện thực này dựa trên sự tổ hợp của lựa chọn đúng đắn
điều kiện thiên nhiên, sử dụng công nghệ "sạch" thích hợp và hình thành một
nền văn minh hoá PTBV.
Chiến lược PTBV do IUCN, UNEP, WWWF soạn thảo xác định: "Đạo
đức tạo nên một cơ sở cho PTBV". Dựa trên nền tảng này, các tổ chức trên đề
nghị:
"Phải đề cao đạo đức của thế giới về PTBV; mở rộng và tăng cường
giáo dục môi trường; thừa nhận và cải tiến ý thức tập thể và cộng đồng về
PTBV; chấp nhận luật pháp và sáng kiến củng cố các biện pháp
PTBV"(IUCN,UNEP, WWF,1989).
Gần đây, quốc tế lại đánh giá cao về hệ thống lúa nước có tưới và
xem là một hệ thống canh tác bền vững nhất do người Việt Nam sáng tạo. Đó là
do:
1. Là một hệ canh tác bền vững, ổn định về năng suất và an toàn để
đầu tư thâm canh. Hệ thống tưới tiêu đã nhân tạo hoá một phần điều kiện tự
nhiên để canh tác lúa nước.
2. Hạn chế lũ lụt: đê điều nhằm bảo vệ các cánh đồng lúa khỏi bị
ngập lụt, nhưng mặt khác cần thấy tác động ngược lại là chính cánh đồng lúa đã
góp phần hạn chế lũ lụt. Có thể xem vai trò các cánh đồng lúa như các hồ chứa
nước và BVMT có giá trị tương đương như các hồ chứa nước nhất là các cánh
đồng cao, ít bằng phẳng.
3. Duy trì tài nguyên nước: Các cánh đồng lúa luôn lưu giữ lớp
nước trên bề mặt trải rộng trên diện tích lớn của lãnh thổ, nhờ đó đã tác động

tích cực đến chế độ nước ngầm. Nước ngầm được cánh đồng lúa duy trì đã góp
phần ổn định lưu lượng các dòng sông mùa cạn và duy trì mực nước ngầm cho
các giếng nước sinh hoạt.
4. Làm trong sạch môi trường (đất và khí quyển) và tạo cảnh quan
đẹp cho vùng quê. Các cánh đồng lúa và kể cả cánh đồng màu, các vườn cây đã
tiêu thụ, phân giải các rác thải góp phần giảm thiểu ô nhiễm đất. Đối với việc
17


làm sạch không khí ngoài chức năng điều tiết khí CO 2, các cánh đồng lúa còn
hấp thu các khí độc như SO2 và NO2. Các hệ thống canh tác RVAC, nông lâm
nghiệp kết hợp, xen canh, luân canh, làm ruộng bậc thang ở những vùng cao đều
là những sáng tạo truyền thống của các dân tộc Việt Nam trong sử dụng bền
vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên và BVMT.
Như vậy, định hướng chiến lược để PTBV ở Việt Nam rất phù hợp với
truyền thống của người dân Việt Nam và nếu có những giải pháp phù hợp sẽ
khơi dậy mạnh mẽ truyền thống cao đẹp này.

18


II. HIỆN TRẠNG CÁC HOẠT ĐỘNG VỀ PTBV CỦA VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Trong quá trình hội nhập quốc tế, vào năm 1991, Việt Nam đã
thông qua " Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển lâu bền 1991-2000".
Tiếp đó, đây là một trong những hoạt động đầu tiên ở tầm quốc gia về PTBV.
Ngày 17/8/2004 Chính phủ đã ra quyết định số 153/2004/TTg ban hành văn bản
"Định hướng Chiến lược về phát triển bền vững ở Việt Nam - (Chương trình
nghị sự 21 của Việt Nam)". Nội dung của Định hướng chiến lược về PTBV bao
gồm mục tiêu dài hạn, những nguyên tắc, những lĩnh vực ưu tiên,những định

hướng về chính sách và biện pháp tổ chức thực hiện PTBV. Định hướng chiến
lược đề ra khung chính sách để các ngành, các địa phương, các tổ chức xã hội
thiết kế và thực hiện chương trình hành động tiến tới PTBV của mình.
Định hướng chiến lược đã đề ra một số giải pháp nhằm tổ chức
thực hiện chính như sau:
1. Phát triển hệ thống thể chế phù hợp với những yêu cầu PTBV,
bao gồm hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách và các văn bản pháp luật và xây
dựng cơ chế phối hợp hoạt động giữa các Bộ, Ngành, địa phương.
2. Tăng cường năng lực quản lý PTBV của đội ngũ cán bộ.
3. Huy động toàn dân tham gia thực hiện PTBV, thấm nhuần
phương châm " PTBV là sự nghiệp của toàn dân"
4.Xây dựng và thực hiện chương trình hành động về PTBV của
ngành và địa phương.
5. Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực PTBV và
BVMT.
Chương trình nghị sự 21 của Việt nam (CTNS21) đánh dấu một thời kỳ
mới thực hiện quan điểm của Nhà nước Việt Nam. Đó là "Phát triển nhanh, hiệu
quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội và bảo vệ môi trường". Đối với Việt Nam, đây là một cách tiếp cận mang
tính hệ thống, dài hạn, bảo đảm sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội,môi trường
theo hướng bền vững.
19


Thời gian qua, để đưa những định hướng của chiến lược vào cuộc sống
được sự hỗ trợ của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Cơ quan
phát triển Quốc tế Đan Mạch (DANIDA), Cơ quan Phát triển quốc tế Thụy Điển
(SIDA) cùng các tổ chức quốc tế khác, Dự án "Hỗ trợ xây dựng và thực hiện
Chương trình nghị sự 21 quốc gia của Việt nam - VIE/01/021 do Bộ Kế hoạch
và Đầu tư chủ trì thực hiện với sự phối hợp của các Bộ, Ngành, địa phương đã

triển khai nhiều hoạt động đến các tỉnh, thành và huyện, nhiều phương pháp tiếp
cận, xây dựng và đánh giá định lượng các mô hình PTBV đã ra đời, trong đó
phải kể đến các phương pháp xây dựng ma trận: "Động lực - Áp lực - Hiện trạng
- Đáp ứng" đã trở thành phổ biến trong đánh giá tiến bộ về PTBV. Bên cạnh đó,
Dự án VIE/01/021 đã lần lượt ban hành 10 chuyên đề, bước đầu kiến nghị Bộ
chỉ tiêu khởi đầu VN0 ở 2 cấp Quốc gia và các địa phương.
Ở cấp quốc gia, gồm:
- 12 chỉ tiêu (CT) về lĩnh vực kinh tế
- 17 CT về lĩnh vực xã hội
- 12 CT về lĩnh vực tài nguyên- môi trường và
- 3 CT về lĩnh vực thể chế nhằm PTBV
Ở cấp các địa phương, gồm:
- 7 CT về lĩnh vực kinh tế
- 14 CT về lĩnh vực xã hội
- 6 CT về tài nguyên- môi trường và
- 2 CT về lĩnh vực thể chế
Năm 2006, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt
Nam(VACNE), với sự hỗ trợ của Dự án VIE/01/21 bước đầu phát hiện các loại
mô hình trong nhiều lĩnh vực và tiến hành mô tả chi tiết và kiến nghị khả năng
mở rộng nếu có điều kiện (bảng1)

20


Bảng 1. Các mô hình về Phát triển Bền vững ở Việt Nam
Lĩnh vực

Mô hình

Số lượng mô hình Khả năng mở

đã

được

nghiên rộng mô hình

cứu
Công nghiệp Sản xuất sạch hơn

4

120

Nông

(cơ sở sản xuất)
Làng sinh thái

3

18

nghiệp
Cộng đồng

Cộng đồng tham gia

4

3.000


Thành phố

BVMT, PTBV(xã)
PTBV thành phố

3

100

3

23

1

20

Vùng

(thành phố)
ven PTBV vùng

biển

biển(tỉnh,

Lưu
sông


phố)
vực PTBV

ven
thành

lưu

vực

sông(lưu vực)
Nguồn: Hội BVTN và MT Việt Nam, 2006
Nhìn lại quá trình gần 5 năm thực hiện những nhiệm vụ đã nêu

trong định hướng, Hội BVTN&MT Việt Nam với tư cách là tổ chức phản biện
phi Chính phủ nhận thấy, kể từ khi Quyết định 153 của Chính phủ được ban
hành, Việt Nam đã đạt được bước tiến khá dài trên con đường đi tới mục tiêu
phát triển bền vững (PTBV). Có thể kể ra đây những kết quả chính như sau:
1. Phát triển hệ thống thể chế phù hợp với yêu cầu PTBV
Chủ trương PTBV được các cơ quan lãnh đạo Đảng và Quốc Hội
tích cực hưởng ứng và PTBV đã trở thành một quan điểm chủ đạo trong đường
lối và chính sách phát triển dài hạn của Việt Nam thông qua việc lồng ghép một
số chỉ tiêu cơ bản vào kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2006-2010. Một số
biện pháp về tổ chức và thể chế cho PTBV đã được thành lập: sự hình thành Hội
đồng PTBV quốc gia theo quyết định số 1032/QĐ/TTg ngày 27/9/2005 của Thủ
tướng Chính phủ và Văn phòng PTBV đặt trong Bộ KH&ĐT(Văn phòng 21) có

21



nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, hướng dẫn và chỉ đạo thống nhất
việc thực hiện trong phạm vi cả nước Chiến lược PTBV.
2. Tăng cường năng lực quản lý PTBV của đội ngũ cán bộ
Trong những năm qua nhiều cuộc hội thảo, lớp tập huấn đã được tổ
chức ở tất cả các vùng, miền trong cả nước để phổ biến nội dung của Định
hướng Chiến lược PTBV. Đặc biệt ở 6 tỉnh tiến hành thí điểm (Thái Nguyên,
Sơn La, Ninh Bình, Quảng Nam, Lâm Đồng, Bến Tre).
3. Huy động được một bộ phận dân chúng tham gia thực hiện PTBV
Thời gian qua các Tổ chức Quốc tế quan tâm giúp đỡ nhiều tài liệu,
mở các lớp tập huấn, các Dự án lớn cùng với những phương tiện thông tin đại
chúng đã tham gia tích cực vào công tác tuyên truyền PTBV. Kiến thức về
PTBV cũng được hệ thống hoá và bước đầu đưa vào giảng dạy trong một số cơ
sở đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt của bộ máy nhà nước như Học viện chính trị
HCM, Học viện Hành chính quốc gia; đã tổ chức và giao cho ĐHQG Hà Nội và
Học viện chính trị tại Tp.HCM biên soạn 2 tài liệu về PTBV mang tính nghiên
cứu, bước đầu đã sử dụng những tài liệu này để giảng dạy và tham khảo ở các
đơn vị này.Ngoài ra, Liên hiệp các Hội Khoa Học& Kỹ thuật Việt Nam
(VUSTA) phối hợp với VACNE đã biên soạn tài liệu tập huấn bao gồm chủ đề
về PTBV và đã tiến hành các lớp tập huấn ở một số tỉnh thành trong cả nước
cho các Hội viên của Hội.
4. Xây dựng và thực hiện chương trình hành động về PTBV của ngành và
địa phương
Cụ thể, Thông tư hướng dẫn các Ngành và địa phương xây dựng
Chương trình nghị sự 21 cấp Ngành và địa phương đã được Bộ KH &ĐT ban
hành 2005 (Thông tư 01/2005/TT-BKH ngày 9/3/2005). Theo tinh thần của
Thông tư này, 6 tỉnh nói trên đã được Dự án VIE/01/021- Bộ KH&ĐT triển
khai thí điểm thực hiện quy trình mẫu xây dựng CTNS21 của tỉnh. Các tỉnh còn
lại, trong đó có Hà Nội, một số cũng đã và đang tiến hành xây dựng CTNS21
của địa phương mình. Tại các tỉnh làm thí điểm đã thành lập Uỷ Ban PTBV do 1
Phó Chủ tịch tỉnh làm chủ nhiệm, Giám đốc Sở KH&ĐT làm Phó Chủ nhiệm.

22


Tại những địa phương, hoặc ngành này nhiều mô hình trình diễn về PTBV đã
được thực hiện và VACNE đã tổng kết để phổ biến (bảng 1).
Cụ thể, mô hình xây dựng Hương ước làng bản về PTBV, phổ biến
các mô hình nông nghiệp kết hợp với bảo vệ rừng ở tỉnh Sơn La; phổ biến các
phương thức thực hiện nông nghiệp bền vững trong việc trồng trọt và chế biến
chè sạch ở 2 tỉnh Thái Nguyên và Lâm Đồng; xây dựng Quy ước cộng đồng để
thực hiện du lịch sinh thái bền vững ở Ninh Bình; phổ biến quy trình tạo năng
lượng sạch trong cộng đồng nghèo ở Quảng Nam; phương thức nuôi tôm sinh
thái ở Bến Tre; kết hợp phát triển ngành nghề để xoá đói giảm nghèo với việc
bảo tồn các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng...
5. Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực PTBV và BVMT
Với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhiều Dự án quan trọng
đang thực hiện nhằm xoá đói giảm nghèo, nâng cao bình đẳng giới, BVMT,
giảm nhẹ tác động của thiên tai, cải cách thể chế và quản trị...
6. Xu hướng tích cực trong chính sách đảm bảo công nghiệp hoá sạch
Xu hướng tích cực trong chính sách đảm bảo công nghiệp hoá sạch
là sản xuất sạch hơn đã được chú ý thúc đẩy áp dụng ở quy mô cả nước. Chỉ thị
số 08/CT-BCN ngày 10/7/2007 của Bộ trưởng Bộ công nghiệp về việc áp dụng
sản xuất sạch hơn trong các cơ sở công nghiệp đã chỉ đạo các tập đoàn, tổng
công ty và doanh nghiệp công nghiệp nghiên cứu, phổ biến và áp dụng. Đến nay
đã có hơn 30% số cơ sở công nghiệp áp dụng. Tuy chưa kèm theo những công
cụ điều chỉnh pháp lý, khuyến khích kinh tế và hỗ trợ kỹ thuật để hiện thực hoá
Chỉ thị, song đây là bước tiến về nhận thức của giới lãnh đạo công nghiệp với
vai trò sản xuất sạch hơn.

7. Văn kiện Định hướng Chiến lược PTBV đặt phát triển bền vững nông
nghiệp và nông thôn như là một lĩnh vực ưu tiên hàng đầu

Bên cạnh đó, Đề án " Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân"
được Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 7 (năm 2008) thông qua đã vạch ra
23


những kết quả, những tồn tại và giải pháp. Tuy có nhiều khó khăn thực hiện
PTBV ở nông thôn do chủ yếu sản xuất tiêu nông, nhưng trong những năm gần
đây đã gặt hái nhiều thành công trong chuyển giao công nghệ, trong xây dựng
các mô hình sản xuất bền vững như VAC, mô hình canh tác bền vững trên đất
dốc (SALT), mô hình làng kinh tế sinh thái...và phong trào làm hầm biogas đã
cải thiện đáng kể bộ mặt nông thôn và ở mức độ nào đó đã thể hiện tính bền
vững.

24


III. NHỮNG THÁCH THỨC
1. Phát triển hệ thống thể chế phù hợp với yêu cầu PTBV
Quá trình thực hiện PTBV đã bắt đầu được các cơ quan nhà nước
và chính quyền địa phương chú ý và đã có những bước tiến đáng kể. Tuy vậy,
tiến độ thực hiện còn chậm so với mong đợi và vì vậy tình hình phát triển kinh
tế vẫn đang tiếp tục gây suy thoái môi trường và nhiều lĩnh vực xã hội yếu kém
vẫn chưa được cải thiện. Những ví dụ điển hình là các vụ gây ô nhiễm môi
trường trầm trọng của Công ty Vedan Việt Nam, Công ty Miwon, gần 1500 làng
nghề nông thôn phát triển không bền vững, vẫn tiếp tục sản xuất theo phương
thức cũ gây ô nhiễm môi trường. Một số trung tâm làng nghề ở Bắc Ninh, Hưng
Yên đã hình thành, nhưng công tác quản lý yếu kém dẫn đến việc các hộ chuyển
cả gia đình ra sống ở các trung tâm và chiếm dụng luôn đất đai.
Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng này là hệ thống
cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hiện PTBV còn rất thiếu và hiệu lực thực hiện rất

yếu. Mới có rất ít văn bản chính sách nhằm trực tiếp hỗ trợ thực hiện. Ở cấp
Trung ương có một số văn bản trực tiếp liên quan là:
- Quyết định số 685/QĐ-BKH ngày 28/6/2004 của Bộ KH&ĐT về
việc thành lập văn phòng PTBV.
- Quyết định số 1032/QĐ-TTg ngày 27/9/2005 của Thủ tướng
Chính Phủ về việc thành lập Hội đồng PTBV Quốc gia.
- Quyết định số 248/QĐ-TTg ngày 24/2/2009 của Thủ tướng Chính
phủ về việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng
PTBV Quốc gia.
- Thông tư số 01/2005/TT-BKH ngày 09/3/2005 của Bộ KH&ĐT về
việc triển khai thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Định hướng
chiến lược PTBV ở Việt Nam.
2. Về tổ chức
Văn phòng PTBV đã qua 4 năm hoạt động, nhưng đội ngũ cán bộ
mỏng và năng lực yếu. Văn phòng chưa thực hiện được tất cả các chức năng
quản lý cũng như triển khai thực hiện, đặc biệt là công tác đôn đốc, giám sát,
25


×