Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

skkn một số BIỆN PHÁP rèn kĩ NĂNG đọc CHO học SINH lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.44 KB, 35 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC
CHO HỌC SINH LỚP 1


MỤC LỤC
Nội dung
ĐẶT VẤN ĐỀ
1-Vị trí, tầm quan trọng của việc rèn đọc cho học sinh
2- Tình hình của việc dạy đọc cho học sinh hiện nay
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận của việc dạy đọc cho học sinh lớp 1
2. Thực trạng về dạy đọc cho học sinh lớp 1
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
4. Hiệu quả SKKN
PHẦN KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Ý kiến đề xuất
TÀI LIỆU THAM KHẢO

trang
1
1
2
4
4
8
12
23
28
28


29
31


ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Vị trí, tầm quan trọng của việc rèn đọc cho học sinh
Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực
hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể
hiện trong bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng: Nghe,
nói, đọc, viết. Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng
thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó.
Dạy đọc cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt
và những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người, về văn hoá, văn học của
Việt Nam và thế giới.
Dạy đọc là bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn
sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con
người Việt Nam XHCN.
Người giáo viên có vai trò quan trọng, quyết định phần lớn chất lượng
dạy học. Để dạy đọc có hiệu quả, giáo viên phải nắm vững nội dung và
phương pháp tổ chức dạy học, sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, tiết
học nhẹ nhàng, tự nhiên, không gò ép, áp đặt thì học sinh mới chủ động nắm kiến
thức. Cái chính là giáo viên phải gây được hứng thú cho học sinh từ đó các em
cảm thấy ham thích đọc.
Một tiết Tập đọc đạt kết quả cao thì trong tiết học đó, học sinh phải
hoạt động tích cực, tự giác, học sinh đọc to, lưu loát, diễn cảm và cảm thụ
được cái hay, cái đẹp trong bài Tập đọc đó.
Trong một tiết Học vần, Tập đọc, giáo viên không chỉ sử dụng một
phương pháp nhất định mà phải kết hợp nhiều phương pháp, phù hợp với nội
dung bài dạy và đối tượng học sinh như : phương pháp thuyết trình, phương
pháp hỏi- đáp, phương pháp trực quan, phương pháp đóng vai.


1


Cuối cùng tiết Tập đọc phải đạt được cả ba yếu tố về kiến thức, kĩ
năng và giáo dục.
Vì những lí do trên, dạy đọc có một ý nghĩa to lớn ở Tiểu học. Đọc trở
thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với người đi học. Đầu tiên là trẻ phải
học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh một ngôn ngữ
để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học các môn học khác,
tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Như
vậy, đọc có một ý nghĩa vô cùng to lớn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo
dưỡng, giáo dục và phát triển.
2. Tình hình của việc dạy đọc cho học sinh hiện nay:
Từ năm học 2002- 2003 đến nay, học sinh lớp 1 được học chương
trình thay SGK lớp 1 mới. Chương trình Tiếng Việt 1 là một bộ phận của
chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học, chương trình này kế thừa và phát
triển những thành tựu về dạy học Tiếng Việt lớp 1 ở nước ta; khắc phục một
số tồn tại của dạy học Tiếng Việt lớp 1 trong giai đoạn vừa qua; thực hiện
những đổi mới về dạy học Tiếng Việt ở lớp 1 nói riêng, ở Tiểu học nói chung
để đáp ứng những yêu cầu giáo dục và đào tạo trong giai đoạn công nghiệp
hoá và hiện đại hoá đất nước đầu thế kỉ XXI. Đây là chương trình có nhiều
ưu điểm, đáp ứng được nhu cầu dạy học hiện nay. Tuy Trường Tiểu học
Chính Nghĩa ở gần trung tâm thành phố nhưng vẫn còn một số gia đình còn
khó khăn nên sự quan tâm đến việc học tập của con em còn hạn chế. Nhiều
em khi vào lớp 1 chưa qua mẫu giáo nên chưa nhận biết được mặt chữ cái
hoặc phát âm chưa chuẩn. Một phần phụ huynh học sinh còn chưa thực sự
quan tâm đến việc học của các em, dẫn đến tình trạng học sinh chưa tự giác
luyện đọc ở nhà. Vì thế nhiều em còn đọc chậm, phát âm sai, chưa cảm thụ
tốt nội dung bài đọc. Học sinh ít có điều kiện tiếp cận với sách báo nguồn tri


2


thức vô cùng phong phú, quý giá vừa để các em tự rèn luyện đọc, vừa trau
dồi kiến thức.
Về phía giáo viên, nhiều giáo viên mới chỉ chú ý đến việc dạy đúng,
dạy đủ, chưa tìm tòi, sáng tạo làm cho giờ học trở nên sinh động, cuốn hút
học sinh.
Một số ít giáo viên còn lúng túng khi dạy môn Tập đọc, lựa chọn kiến
thức chưa trọng tâm để truyền thụ, nghèo nàn trong việc sử dụng phương
pháp dạy học.
Tôi nhận thấy việc dạy cho học sinh đọc tốt hết sức cần thiết, vì đọc
tốt là con đường quan trọng tạo cho mình một cuộc sống giàu có về nhận
thức và phát triển trí tuệ.
Từ vị trí, yêu cầu của phân môn tập đọc và thực tế rèn luyện kĩ năng
đọc cho học sinh vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn, để góp phần nâng
cao chất lượng giờ tập đọc hơn nữa nên tôi đã mạnh dạn chọn SKKN:
“Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1’’.

3


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận của việc dạy tập đọc
1.1 Cơ sở ngôn ngữ học:
Ngôn ngữ học nói chung, Tiếng Việt nói riêng có quan hệ mật thiết với
phương pháp dạy học Tiếng Việt. Từ mối quan hệ này có ý kiến cho rằng
phương pháp dạy học Tiếng Việt là ngôn ngữ học ứng dụng. Ngôn ngữ nói
chung, Tiếng Việt nói riêng tạo nên nền tảng của môn học Tiếng Việt và lôgíc

khoa học của ngôn ngữ quyết định lôgíc môn học Tiếng Việt. Phương pháp
dạy học Tiếng Việt phải phát hiện được những quy luật riêng, đặc thù của
dạy học Tiếng Việt.
Các bộ phận của ngôn ngữ học (bao gồm ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp,
phong cách) có vai trò quan trọng trong việc xác định nội dung và phương
pháp dạy học. Ngữ âm trong quan hệ qua lại với chữ viết là cơ sở của việc
soạn thảo phương pháp dạy học đọc, viết, cơ sở của việc hình thành kĩ năng
đọc sơ bộ.
Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức
chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc
thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn
vị nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm).
Đọc không chỉ là công việc giải mã gồm hai phần chữ viết và phát âm,
nghĩa là nó không phải chỉ là sự “đánh vần” lên thành tiếng theo đúng như
các kí hiệu chữ viết mà còn là một quá trình nhận thức để có khă năng thông
hiểu những gì được đọc. Trên thực tế nhiều khi người ta không hiểu khái
niệm “ đọc” một cách đầy đủ. Nhiều chỗ, chỉ nói đến đọc như nói đến việc
sử dụng bộ mã chữ - âm, còn việc chuyển từ âm sang nghĩa đã không được
chú ý đúng mức.

4


Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học,
tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời
phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người
không thể tiếp thụ nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc
sống bình thường, có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện
đại. Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây ta
biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên xã hội,

tư duy. Biết đọc con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá
cơ bản giúp họ giao tiếp với thế giới bên trong của người khác, thông hiểu tư
tưởng, tình cảm của người khác. Đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương,
con người không chỉ được thức tỉnh nhận thức mà còn rung động tình cảm,
nảy nở những ước mơ tốt đẹp, khơi dậy những năng lực hành động, sức
mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn. Không biết đọc, con
người sẽ không có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dã dành cho
họ, không thể hình thành được một nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời
đại bùng nổ thông tin thì biết đọc ngày càng quan trọng vì nó giúp cho người
ta sử dụng các nguồn thông tin. Đọc chính là học, học nữa, học mãi, đọc để
tự học, học cả đời.
Vì những lẽ trên, dạy đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với
mỗi người đi học. Trước hết là trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học.
Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó
là công cụ để học tập các môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động cơ học
tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả
đời. Nó là một khả năng không thể thiếu được của con người trong thời đại
văn minh.
Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng cũng là bốn yêu cầu về chất
lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh (đọc trôi chảy, lưu loát), đọc có ý

5


thức(thông hiểu được nội dung những điều mình được đọc hay còn gọi là đọc
hiểu)và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình thành từ hai hình thức đọc:
đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn
nhau. Sự hoàn thiện một trong những kĩ năng này sẽ có tác động tích cực đến
những kĩ năng khác .
1.2. Cơ sở tâm lí giáo dục học

Vào lớp Một, học sinh bắt đầu chuyển từ hoạt động chủ đạo vui chơi
là chính sang hoạt động học tập, đó là một khó khăn đối với các em. Đặc biệt
vào lớp một, các em bắt đầu tiếp xúc với một dạng hoạt động ngôn ngữ mới,
hoàn toàn khó đó là hoạt động đọc. Nhiều em còn chưa được đi học mẫu
giáo, nói còn ngọng, còn nói lắp. Giáo viên cần hiểu rõ những khó khăn của
học sinh Tiểu học, đặc điểm lứa tuổi của các em để tổ chức dạy học theo một
chiến lược dạy học lạc quan, nhấn mạnh vào mặt thành công của trẻ.
1.3. Mục tiêu của việc dạy tập đọc ở lớp 1
Như chúng ta đã biết, đổi mới mục tiêu nội dung chương trình Tiểu
học và cách đánh giá kết quả học tập của học sinh, vì vậy phương pháp dạy
học cũng phải đổi mới theo.
Chương trình môn Tiếng Việt lớp 1 được đổi mới nhằm đáp ứng mục
tiêu, nội dung chương trình bậc Tiểu học. Học sinh được tăng cường luyện
tập thực hành, chú ý đến cả 4 kĩ năng : nghe, nói, đọc, viết. Việc vận dụng
linh hoạt, phù hợp các phương pháp dạy học là yếu tố quan trọng quyết định
chất lượng giờ dạy.
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại hoá, thay thế các
phương pháp, phương tiện dạy học đơn điệu, hạn chế khả năng, hứng thú của
học sinh bằng phương tiện hiện đại, đa dạng, phong phú, hấp dẫn học sinh,
giúp học sinh ham thớch, tự giác trong học tập.
1.4. Nội dung chương trình

6


Sách giáo khoa Tiếng Việt 1(2 tập)gồm hai phần: Học vần và Luyện
tập tổng hợp.
Phần Học vần được dạy trong 24 tuần, phần Luyện tập tổng hợp dạy
trong 11 tuần, mỗi phần có đặc trưng riêng, nhưng xuyên suốt các bài học là
mạch kiến thức và mạch kĩ năng được thực hiện từ đơn giản đến phức tạp.

Có lặp lại nhưng lặp lại đồng thời với nâng cao. Cụ thể:
* Phần Học vần gồm 103 bài (83 bài thuộc tập một và 20 bài thuộc tập
hai) với 3 dạng bài cơ bản sau :
- Làm quen với cấu tạo đơn giản của tiếng (âm tiết) Tiếng Việt qua âm
và chữ thể hiện âm e, b cùng các dấu ghi thanh(dấu thanh)
- Học âm và chữ thể hiện âm mới hoặc vần mới.
- Ôn tập nhóm âm hoặc nhóm vần.
Đến bài 27, học sinh đã học được toàn bộ các âm và các chữ thể hiện
các âm của Tiếng Việt; Học sinh cũng làm quen (một cách tự nhiên) kiểu âm
tiết mở (âm tiết kết thúc bằng nguyên âm) ia, ua, ưa.
Từ bài 29 đến bài 90, học sinh được ôn lại các âm và các chữ thể hiện
vần mới (theo trình tự : vần kết thúc bằng bán âm (i, y, o, u) ; vần kết thúc
bằng phụ âm vang (n, ng, nh, m) ; vần kết thúc bằng phụ âm không vang (t,
c, ch, p)) ; Học sinh cũng làm quen với các kiểu âm tiết mới là âm tiết nửa
mở, nửa khép và khép.
Từ bài 91 đến bài 103, học sinh được ôn lại một lần nữa các âm và các
chữ thể hiện các âm của Tiếng Việt qua việc học một loại vần mới – vần có
âm đầu (o hoặc u); Học sinh cũng được ôn (một cách tự nhiên) các kiểu âm
tiết của Tiếng Việt.
Phần Luyện tập tổng hợp được bố trí các bài theo tuần với 3 chủ
điểm: Nhà trường, Gia đình, Thiên nhiên đất nước. Mỗi tuần có 6 tiết (3 bài)
Tập đọc. Các bài của mỗi tuần tập trung vào một chủ điểm, ở mỗi loại bài

7


trong phân môn Tập đọc học sinh được luyện tập kĩ năng đọc. Qua nội dung
các bài học, học sinh vừa được ôn kiến thức đã học (các âm, các vần, các chữ
thể hiện âm, vần), vừa được học kiến thức mới.
Nói cách khác, hệ thống các bài tập đọc trong sách Tiếng Việt được tổ

chức theo mô hình các vòng đồng tâm phát triển. Có thể nói mô hình này đã
làm cho việc dạy học đọc cho học sinh lớp 1 được tự nhiên, nhẹ nhàng, kĩ
lưỡng do đó nó đã đảm bảo được tính hiệu quả tất yếu của hoạt động.
2. Thực trạng dạy – học tập đọc ở lớp 1
2.1. Khái quát về đặc điểm trường Tiểu học Chính Nghĩa năm học
2012- 2013:
Trường Tiểu học Chính Nghĩa nằm trên địa bàn phường Tiên Cátthành phố Việt Trì. Đây là một phường nằm ở trung tâm thành phố, nhưng
mặt bằng kinh tế không đồng đều. Bố mẹ các em học sinh đa số là lao động
tự do hoặc làm nông nghiệp. Vì vậy sự quan tâm đến việc học tập của con
em mình là rất ít, chưa thường xuyên. Mặt khác, trường thuộc địa bàn có
nhiều người dân nhập cư ở nơi khác đến sinh sống, vì vậy phương ngữ cũng
có sự khác nhau.
Trường tiểu học Chính Nghĩa có 3 lớp Một với tổng số học sinh là :67
em. Các em đều học 2 buổi / ngày.
Qua quá trình thực dạy học đọc ở lớp cùng với sự tìm hiểu nắm bắt
tình hình chung của các lớp khác tôi thấy việc học đọc đối với các em là khó
khăn.
Yêu cầu cơ bản của việc dạy tập đọc cho học sinh lớp 1 là đọc đúng
được các âm, vần, tiếng, từ, câu. Đọc ngắt nghỉ đúng, biết đọc phân vai theo
nhân vật, hiểu được nội dung của đoạn văn bản đó .
Trong thực tế, việc dạy đọc cho học sinh lớp Một của giáo viên
Trường Tiểu học Chính Nghĩa còn hạn chế, mang tính hình thức. Học sinh

8


chỉ cần đọc được âm, vần, tiếng, từ, câu, hoặc đọc được một bài tập đọc là
được mà giáo viên chưa sửa lỗi triệt để như đọc ngọng, phát âm sai, đọc chưa
gọn tiếng hay ngắt nghỉ chưa đúng cho học sinh. Trong giờ đọc một số giáo
viên chỉ gọi học sinh đọc bài mà không theo trình tự một tiết luyện đọc cho

học sinh, học sinh đọc mà không nắm bắt được nội dung chính của bài đó. Vì
vậy mà chất lượng các giờ rèn đọc chưa cao, chưa tạo được hứng thú đối với
học sinh.
2.2. Đánh giá thực trạng và nguyên nhân của thực trạng:
*.Đánh giá thực trạng:
Qua trao đổi với các bạn đồng nghiệp trong trường, tôi thấy đa số giáo
viên đã nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng đọc đối
với học sinh, hiểu được vai trò và tầm quan trọng của nó đối với quá trình
học tập sau này. Giáo viên xác định được đúng đắn mục đích yêu cầu của tiết
tập đọc. Tuy nhiên khi dạy họ còn gặp khó khăn trong việc lựa chọn các
phương pháp, hình thức dạy học để làm tăng hiệu quả của việc rèn đọc, kích
thích, tạo hứng thú cho học sinh. Bên cạnh đó, có một số bộ phận giáo viên
chưa nghiên cứu kĩ bài dạy chưa xác định đúng mục tiêu, vai trò của việc rèn
đọc nên còn coi nhẹ. Một số giáo viên khác cũng đã quan tâm đến các
phương pháp dạy học nhưng chưa đạt hiệu quả cao.
* Nguyên nhân của thực trạng
Nguyên nhân chủ quan:
Nhận thức của giáo viên về rèn kĩ năng đọc chưa thật đầy đủ. Nhiều
giáo viên chưa hiểu mục đích trọn vẹn của việc rèn kĩ năng này. Đọc có ý
thức sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của người
đọc. Việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng
yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lôgic cũng
như biết tư duy có hình ảnh .

9


Đọc đúng với học sinh lớp một là yêu cầu, mục đích mà dạy học
hướng tới. Đọc đúng trước hết cần đọc đúng chính âm. Chính âm là các
chuẩn mực phát âm của một ngôn ngữ có giá trị và hiệu lực về mặt hội.

Chính âm sẽ quy định nội dung luyện phát âm ở chương trình lớp 1. Để
luyện phát âm đúng cho học sinh, trước hết thực chất phải giải quyết vần đề
về phương ngữ. Mỗi giáo viên tiểu học cần phải xác định được các trường
hợp phát âm lệch chuẩn chữ viết của học sinh mỗi vùng phương ngữ mình
đang dạy học.
Trường Chính Nghĩa nằm trên địa bàn phường Tiên Cát cũng giống
như các địa phương khác của thành phố Việt Trì còn một số học sinh thường
mắc lỗi phát âm sai l / n . Những lỗi kể trên sẽ là nội dung thứ nhất của mục
luyện đọc đúng trong giáo án. Có điều cần lưu ý là trong các tài liệu dạy hiện
nay chỉ ghi các từ cần luyện đọc mà không nói rõ khi đọc học sinh đọc như
thế nào mới xem là lỗi để luyện đọc các từ đó, tức là không nói rõ chuyển từ
cách đọc nào về cách đọc nào.
Ngoài ra một số giáo viên chưa thực sự đầu tư nghiên cứu tài liệu, bài
dạy. Nhiều giáo viên chỉ xem qua giáo án trước khi lên lớp mà không đọc kĩ
bài học này cần rèn kĩ năng phát âm nào, học sinh hay phát âm sai ở đâu, hay
cần sử dụng phương pháp nào khác để sửa lỗi triệt để cho học sinh. Chính vì
vậy việc rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh còn nhiều hạn chế.
Nguyên nhân khách quan:
Sự chưa quan tâm của phụ huynh học sinh đến học đọc ít nhiều ảnh
hưởng đến việc rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh. Qua tìm hiểu một số phụ
huynh, nhiều người cho rằng các cháu chỉ cần rèn chữ viết đẹp là đủ, còn
việc đọc trước sau các cháu cũng đọc được không cần rèn. Nhưng họ đâu có
hiểu kĩ năng đọc đúng rất quan trọng với mỗi học sinh khi ở ngưỡng cửa đầu
tiên của việc học. Có đọc đúng thì học sinh mới viết đúng theo chuẩn, mới có

10


thể hoàn thành các môn học khác. Việc đọc đúng còn bổ sung cho tư duy ngôn
ngữ, nói năng lưu loát giúp cho con người có thể diễn đạt được tâm tư, nguyện

vọng, cũng như những suy nghĩ của mình. Và nó là một trong những yếu tố
giúp cho chúng ta thành công trong cuộc sống.
Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 1, tôi thấy đa số các em mới vào lớp 1
rất thích học đọc. Khi bắt đầu đi học nhiều em chưa biết chữ cái nên khi giáo
viên dạy cho em đọc các chữ cái đầu tiên và từ đó biết cách ghép thành vần,
tiếng, từ, câu để đọc thì đó là sự khám phá mới mẻ nguồn thông tin đầu tiên
của các em. Nhiều em khi mới biết đọc thường nhìn thấy bất cứ ở đâu có chữ
là em đọc rất thích thú. Tuy nhiên nhiều em do bản tính nhút nhát, sợ đọc sai
các bạn cười nên đọc rất bé, đọc lí nhí vì vậy giáo viên thường hay bỏ qua
lỗi của những em này. Đồng thời vì thời gian luyện đọc có giới hạn trong một
tiết học nên giáo viên cũng không thể rèn đọc đúng cho tất cả những học sinh
trong lớp được. Như ở phần học vần, thời gian hình thành âm, vần và luyện
đọc ở tiết 1 chỉ là 20- 22 phút, thời gian luyện đọc ở tiết 2 là 10- 12 phút cho
cả luyện đọc bảng, đọc câu mới, đọc sách.
Từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên, tôi thấy trên thực
tế việc rèn đọc cho học sinh lớp 1 chưa thực sự được quan tâm đúng mức.
Trước những yêu cầu của việc dạy học tập đọc và thực trạng của việc
rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 còn là một khoảng cách khá xa. Nếu cứ
tiếp tục dạy học một cách thụ động như vậy thì sẽ không đáp ứng được
những yêu cầu mới của xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
sự thử thách trước nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi đổi
mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới cơ bản về phương pháp dạy học. Đây
không phải là vấn đề riêng của một địa phương, một trường, một giáo viên
nào.

11


Đây là một khó khăn cơ bản đặt ra với thầy và trò. Trước mục đích,
yêu cầu của việc rèn đọc ở lớp 1, đồi hỏi người giáo viên phải năng động tìm

hiểu nghiên cứu phương pháp giảng dạy rèn kĩ năng đọc cho học sinh ở lớp
1.
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
3.1. Các nguyên tắc xây dựng biện pháp
Tập đọc với tư cách là một phân môn của môn Tiếng Việt nhằm phát
triển năng lực đọc cho học sinh. Đây là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ
quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh, chú ý rèn
luyện các thao tác tư duy và bồi dưỡng các năng lực, phẩm chất tư duy cho
học sinh như so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp. Vận dụng những kiến
thức đó để rèn luyện kỹ năng đọc và viết, phát triển vốn Tiếng Việt. Khi biết
đọc, biết viết các em có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, sử dụng SGK,
sách tham khảo… từ đó có điều kiện học tốt các môn học khác có trong
chương trình.
Để rèn kĩ năng đọc cho người học sinh thì người giáo viên phải có kĩ
năng đọc kết hợp với các phương pháp dạy học Tiếng Việt và phương pháp
rèn kĩ năng đọc cho học sinh.
3.2. Kĩ năng đọc của giáo viên:
Kĩ năng đọc của giáo viên có vai trò quan trọng trong tiết học âm vần
và tập đọc của học sinh lớp 1.
Kĩ năng đọc là một yêu cầu bắt buộc đối với mỗi giáo viên tiểu học nói
chung và giáo viên lớp 1 nói riêng. Đó là phương tiện đầu tiên để chuyển
những nội dung bài học đến cho mỗi học sinh đặc biệt học sinh lớp 1 là trẻ
mới đến trường, hoạt động học tập còn rất mới mẻ. Vì vậy kĩ năng đọc của
cô là một chuẩn mực để học sinh noi theo. Phần học vần kĩ năng chủ yếu của
giáo viên là đọc đúng , phát âm đúng chuẩn chữ viết, còn ở phần luyện tập

12


tổng hợp có phân môn Tập đọc thì người giáo viên phải đọc đúng và đọc

diễn cảm. Kĩ năng đọc của giáo viên phần nhiều do công phu luyện tập mới
có được. Để có được điều này thì người giáo viên cần luyện tập về nhiều
mặt:
- Trước mỗi bài dạy người giáo viên phải nghiên cứu kĩ bài học tìm
hiểu được mục tiêu, yêu cầu nội dung của bài.
- Người giáo viên phải nắm được tinh thần chung của bài học.
- Nắm vững được toàn bộ diễn biến, tình tiết đặc biệt của bài đọc, hành
động lời nói tâm trạng của các nhân vật (đối với các bài có hội thoại).
- Phải phát âm đúng chuẩn chữ viết của Tiếng Việt.
- Phải lựa chọn giọng đọc cho cả bài hay cho từng chi tiết của bài như:
Tha thiết, trang trọng, âu yếm, dịu dàng, châm chọc, mệt mỏi. Giáo viên cần
tránh lối đọc đều đều, hoặc giữ một giọng điệu suốt bài đọc sẽ tạo cho học
sinh tâm trạng chán ngán, buồn ngủ.
- Sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ phụ trợ cho lời đọc. Người giáo
viên biết kết hợp giữa lời đọc với nét mặt , ánh mắt, sẽ lôi cuốn được học
sinh sự thích thú với bài học.
3.3. Các phương pháp dạy học Tiếng Việt lớp 1
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã vận dụng các phương pháp sau để
dạy học Tiếng Việt.
3.3.1. Phương pháp trực quan
Là phương pháp cho học sinh quan sát vật thật, tranh ảnh hay việc làm
mẫu của giáo viên. Dựa vào đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học nhận
thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Các em quen với việc
trực giác toàn bộ sự vật, nhìn tổng thể sự vật. Trong các bài Học vần hay Tập
đọc, giáo viên thường cho học sinh quan sát tranh hoặc vật thật để học sinh
hình dung được từ khoá, nội dung câu ứng dụng, bài tập đọc.

13



Ví dụ 1 : Bài 85 : ăp - âp
Khi dạy từ khoá “cải bắp”, giáo viên cho học sinh quan sát 1 cái bắp
cải, học sinh nhận ra ngay vật rất quen thuộc nên dễ dàng gọi tên chính xác
vật đó. Thêm phần đọc mẫu của giáo viên thì đương nhiên học sinh sẽ đọc
đúng từ “cải bắp”, hơn thế học sinh còn hiểu được nghĩa của nó.
Ví dụ 2 : Bài “Chú công”
Trước tiên, giáo viên đọc mẫu toàn bài nhằm giới thiệu, gây xúc cảm,
tạo hứng thú và tâm thế đọc cho học sinh. Sau đó, giáo viên mới đọc mẫu và
hướng dẫn đọc từng câu. Ví dụ ở câu 2 :
Sau vài giờ,/ công đã có động tác xoè cái đuôi nhỏ xíu / thành hình rẻ
quạt.
Qua việc lắng nghe giáo viên đọc mẫu, học sinh nắm được cách phát
âm tiếng, từ khó như : xoè, rẻ quạt ; và biết ngắt hơi sau dấu phẩy, sau tiếng
“xíu”.
Ví dụ 3 : Bài tập đọc : Hồ Gươm
Khi tìm hiểu nội dung đoạn 1 của bài với câu hỏi : “Từ trên cao nhìn
xuống, mặt Hồ Gươm trông như thế nào?”
Học sinh sẽ đọc kĩ đoạn 1 để trả lời câu hỏi. Sau khi học sinh trả lời
xong, giáo viên đưa tranh cảnh hồ Gươm trong SGK phóng to, đồng thời
giảng giải sẽ khơi gợi trí tưởng tượng của các em hình dung ra vẻ đẹp của
mặt hồ, thấy được cái hay của câu văn.
3.3.2. Phương pháp hỏi - đáp
Phương pháp hỏi - đáp là giáo viên xây dựng một hệ thống câu hỏi gợi
mở để học sinh trả lời. Thông qua những câu hỏi, học sinh hiểu được nội
dung bài. Từ đó, học sinh nảy sinh những cảm xúc để cảm thụ tốt bài đọc,
giúp học sinh đọc diễn cảm hơn.
Ví dụ : Bài “Bàn tay mẹ”

14



Giáo viên xây dựng câu hỏi như sau :
- Bàn tay mẹ làm những việc gì cho chị em Bình?
- Đôi bàn tay mẹ như thế nào?
- Bình có tình cảm như thế nào với đôi bàn tay mẹ?
- Em hãy đọc những câu văn diễn tả tình cảm của Bình với đôi
bàn tay mẹ.
Qua việc trả lời các câu hỏi này, học sinh phần nào cảm nhận được
tình cảm yêu thương, chăm sóc của người mẹ đối với những đứa con. Đến
khi giáo viên hướng dẫn đọc diễn cảm, học sinh cảm thụ dễ dàng hơn và
nhanh chóng nắm được giọng đọc của bài này.
3.3.3. Phương pháp đóng vai
Chỉ những bài tập đọc có nhân vật, có hội thoại học sinh mới sử dụng
phương pháp này. Học sinh sẽ được đóng lại các tình huống trong bài đọc
trong vai các nhân vật để đọc một cách diễn cảm lời nhân vật đó, có thể thêm
cử chỉ, điệu bộ cho sinh động.
Ví dụ : Bài “Chuyện ở lớp”
Giáo viên cho một nhóm 3 học sinh đóng những vai sau, kèm theo hướng
dẫn:
- Người dẫn truyện: giọng chậm dãi, rõ ràng.
- Bạn nhỏ: giọng nhí nhảnh, hào hứng.
- Người mẹ: giọng dịu dàng, trìu mến nhưng nghiêm khắc.
Học sinh lên trước lớp thể hiện.
Thông qua hoạt động đóng vai, học sinh sẽ rất hứng thú, tạo được
không khí sôi nổi trong giờ học. Điều này rất quan trọng, khiến học sinh
thích thú và tự giác luyện đọc.
3.3.4. Phương pháp thực hành giao tiếp.

15



Phương pháp thực hành giao tiếp là giáo viên tổ chức các hoạt động
trong giờ học sao cho mỗi học sinh trong lớp đều được đọc (đọc thành tiếng,
đọc thầm, đọc cá nhân, đọc theo nhóm), được trao đổi nhận thức riêng của
mình cùng với thầy cô, bạn bè.
Ví dụ : Bài “Đầm sen”
Giáo viên đưa lần lượt từng từ khó, hay những tiếng học sinh trong lớp
dễ phát âm sai có trong bài như: xoè ra, ngan ngát, thanh khiết, xanh thẫm,
thuyền nan. Học sinh luyện đọc lần lượt từng từ. Sau đó, giáo viên chỉ bảng
theo thứ tự và không theo thứ tự cho nhiều học sinh đọc lại giúp các em sang
luyện đọc câu không bị vấp. Giáo viên kết hợp giải nghĩa từ: ngan ngát,
thanh khiết.
Sang phần luyện đọc câu, học sinh sẽ được đọc những câu khó trong
bài. Song phần luyện đọc câu, học sinh được luyện đọc đoạn. Bài văn chia
thành 3 đoạn, học sinh đọc lần lượt từng đoạn. Sau đó, giáo viên gọi 1 vài
nhóm 3 em đọc nối tiếp đoạn. Cuối cùng, học sinh mới luyện đọc cả bài.
Như vậy, học sinh được thực hành luyện đọc từ đơn vị nhỏ là tiếng, từ
rồi mới nâng cao dần. Học sinh được đọc rất nhiều và 100% học sinh trong
lớp đều được đọc, làm cho học sinh đọc lưu loát, phát âm đúng và biết ngắt
hơi sau dấu phẩy, nghỉ hơi sau dấu chấm. Luyện đọc nhiều cũng khiến học
sinh nhớ được bài đọc, giúp cho việc học thuộc lòng bài đọc (nếu có) trở nên
dễ dàng.
Trong lúc học sinh đọc, giáo viên và cả lớp phải luôn chú ý theo dõi,
sau đó nhận xét, động viên. Học sinh nào đọc sai, sai ở đâu, giáo viên cần
sửa ngay để học sinh khác tránh mắc phải.
Học sinh được rèn kĩ năng đọc thầm trong lúc giáo viên đọc mẫu, học
sinh đọc, và trong phần tìm hiểu bài.
3.4. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1

16



Xuất phát từ những khó khăn và các nguyên nhân thực tế về nội dung
chương trình và các đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh lớp 1. Giáo viên
phải là người đi sâu đi sát, nắm đặc điểm đối tượng học sinh nghiên cứu nội
dung, phương pháp giảng dạy để vận dụng theo hướng đổi mới phương pháp
nâng cao chất lượng hiệu quả giảng dạy.
3.4.1. Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 trong giờ Học
vần
Học vần là môn học khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh chữ viết,
một công cụ giúp học sinh nhận thức được một cách đầy đủ hơn thế giới
xung quanh mình. Hiện nay một tiết học vần được tiến hành như sau:
TIẾT 1
1. Kiểm tra bài cũ (3-5’)
2. Dạy bài mới (20’-22’)
a. Nhận diện âm,vần
* Nhận diện âm, vần thứ nhất.
- Giáo viên giới thiệu âm, vần.
- Giáo viên đọc mẫu âm, vần.
- Học sinh đọc trơn âm, vần, cài thanh cài âm vần đó.
- Học sinh phân tích, đánh vần, đọc trơn âm vần.
- Học sinh đọc tiếng, phân tích tiếng, đánh vần tiếng, đọc trơn
tiếng.
- Đọc từ khoá.
* Nhận diện âm, vần thứ hai tương tự.
- Học sinh đọc từ ứng dụng.
b. Hướng dẫn viết âm vần.
TIẾT 2
a. Luyện đọc(10- 12’)


17


- Đọc lại bài tiết 1.
- Giáo viên hướng dẫn đọc câu - Học sinh đọc.
- Giáo viên hướng dẫn đọc trong sách giáo khoa - Học sinh đọc.
b. Luyện viết (15-17’)
- Luyện nói (5 - 7’)
3. Củng cố, dặn dò(3-5’)
Trong 1 tiết học vần dù ở tiết 1 hay tiết 2 thì thời gian học sinh được
đọc đều không nhiều vì vậy người giáo viên phải có thao tác nhanh gọn để
thời gian cho học sinh được luyện đọc nhiều, em nào cũng được đọc.
Phần học âm vần, đây là phần quan trọng để học sinh biết cách phát
âm và phát âm chuẩn. Vì vậy, giọng đọc hay khuôn miệng khi phát âm của
giáo viên là trực quan cụ thể đối với học sinh. Khi phát âm mẫu, giáo viên
phải nhắc học sinh quan sát khuôn miệng cô giáo, tai lắng nghe để học sinh
phát âm cho chuẩn. Ví dụ khi dạy âm “l” giáo viên hướng dẫn: lưỡi cong lên
chạm lợi, hơi đi ra phía hai bên rìa, xát nhẹ. Sau đó giáo viên phát âm: l, để
học sinh được quan sát và tai lắng nghe âm thanh.
Là địa phương hay sai khi phát âm l/n thì giáo viên đặc biệt chú ý học
sinh cách phát âm theo chuẩn chữ viết đồng thời sửa lỗi sai cho học sinh kịp
thời trong khi đọc và ngay trong giao tiếp hàng ngày.
Với những học sinh đọc nhỏ, lí nhí, giáo viên nên khuyến khích học
sinh bằng những lời động viên khích lệ, bằng những tràng pháo tay của các
bạn. Điều đó sẽ giúp cho học sinh đọc tiến bộ hơn từ đó cũng dễ dàng hơn
trong việc sửa sai cho học sinh.
Giáo viên không nên có những lời nói hoặc biểu lộ bằng thái độ không
bằng lòng khi học sinh đọc sai vì khi đó học sinh sẽ ngày càng ngại đọc hoặc
đọc nhỏ đi, học sinh sẽ mất đi sự tự tin khi đọc, khi học.


18


Trong tiết hai, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc câu ứng dụng. Trước
khi giáo viên đọc mẫu cần phải hướng dẫn học sinh đọc đúng ở những âm
hay sai, cách ngắt nghỉ theo nhịp. Giọng đọc mẫu của giáo viên phải rõ ràng,
nhưng đồng thời phải thể hiện ngữ điệu của bài đọc. Mặc dù ở lớp 1, đặc biệt
là ở phần học vần không yêu cầu học sinh đọc diễn cảm nhưng khi giáo viên
đọc đúng, đọc diễn cảm sẽ tạo cho học sinh sự thích thú được “bắt chước”
giống giọng đọc của cô giáo. Như vậy người giáo viên đã tạo cho học sinh
bước đầu biết đọc diễn cảm.
Nếu giáo viên rèn đọc kĩ cho học sinh ở phần học vần thì sẽ tạo tiền đề
tốt cho học sinh đọc đúng, đọc hay ở phần tập đọc.
3.4.2. Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 trong giờ Tập
đọc
Hiện nay một tiết tập đọc được tiến hành như sau:
*TIẾT 1
1. Kiểm tra bài cũ(3-5’)
2. Bài mới (20-22’)
- Giới thiệu bài
- Luyện đọc
+ Giáo viên đọc mẫu - Học sinh đọc thầm.
+ Luyện đọc tiếng, từ
+ Luyện đọc câu
+ Luyện đọc đoạn
+ Đọc cả bài
- Ôn luyện vần (8 - 10’)
* TIẾT 2
1. Luyện đọc(10-12’)
- Giáo viên đọc mẫu - Học sinh rèn đọc


19


2. Tìm hiểu nội dung(8-10’)
- Học sinh đọc to, đọc thầm để trả lời câu hỏi
- Giáo viên đọc mẫu cả bài- Học sinh đọc.
3. Luyện nói (8-10’)
4. Củng cố dặn dò(3-5’)
a) Tổ chức dạy đọc thành tiếng:
* Chuẩn bị cho việc đọc:
Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc
cần ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm trong khoảng 30 35 cm, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi. Ở lớp, khi
được cô giáo gọi đọc, học sinh phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay.
Trước khi nói về việc rèn đọc đúng cần nói về tiêu chí cường độ và tư
thế ngồi đọc, tức là rèn đọc to, đọc đàng hoàng. Trong hoạt động giao tiếp,
khi đọc thành tiếng, người đọc một lúc đóng hai vai: một vai - và mặt này
thường được nhấn mạnh - là người tiếp nhận thông tin bằng chữ viết, vai thứ
hai là người trung gian để truyền thông tin, đưa văn bản viết đến người nghe.
Khi giữ vai thứ hai này, người đọc đã thực hiện việc tái sinh văn bản. Vì vậy,
khi đọc thành tiếng, người đọc có thể đọc cho mình hoặc cho người khác
hoặc cho cả hai. Đọc cùng với phát biểu trước lớp là hai hình thức giao tiếp
trước đám đông đầu tiên của trẻ em nên giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn
bị để đảm bảo sự thành công, tạo cho các em sự tự tin cần thiết. Khi đọc
thành tiếng các em phải tính đến người nghe. Giáo viên cần cho các em hiểu
rằng các em đọc không chỉ cho mình cô giáo mà để cho tất cả các bạn cùng
nghe nên cần đọc đủ lớn cho tất cả những người này nghe rõ. Nhưng như thế
hoàn toàn không có nghĩa là đọc to quá hoặc gào lên. Để luyện cho những
học sinh đọc quá nhỏ " lí nhí", giáo viên cần tập cho các em đọc to chừng
nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe thấy mới thôi.


20


* Luyện đọc đúng:
Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác,
không có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không sót từng âm, vần, tiếng.
Đọc đúng phải thể hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính
âm. Nói cách khác là không đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn.
Đọc đúng bao gồm việc đọc đúng các âm, thanh (đúng các âm vị), nghỉ ngắt
hơi đúng chỗ (đọc đúng ngữ điệu).
Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị
Tiếng Việt.
- Đọc đúng các phụ âm đầu: ví dụ có ý thức phân biệt để không đọc:
“con châu", "ná cây", “lước lon",... mà phải đọc: "con trâu", "lá cây", "nước
non".
- Đọc đúng các âm chính: ví dụ có ý thức phân biệt để không đọc:
"con cìu", "uống riệu", "con hiêu",... mà phải đọc: "con cừu", "uống rượu",
"con hươu".
- Đọc đúng các âm cuối: ví dụ có ý thức phân biệt để không đọc:
"ngào ngạc", "ngang ngác",... mà phải đọc: "ngào ngạt", "ngan ngát".
- Đọc đúng bao gồm cả đúng tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điệu câu.
Cần phải dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi
cho đúng. Khi đọc các bài thơ mà mỗi dòng thơ có 4 tiếng, học sinh dễ đọc
thành bài đồng dao, ngắt nhịp thơ theo nhịp 2/2. Giáo viên cần hướng dẫn
các em ngắt nhịp một cách rõ ràng. Ví dụ khi hướng dẫn đọc đúng bài Kể
cho bé nghe
Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ
lâu hơn ở dấu chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu: lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ
giọng ở cuối câu kể..

Như vậy đọc đúng cũng bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm.

21


Trước khi lên lớp giáo viên phải dự tính để ngăn ngừa các lỗi khi đọc.
Tuỳ đối tượng học sinh, giáo viên xác định các lỗi phát âm mà học sinh địa
phương dễ mắc phải để định ra các âm, tiếng, từ, câu... khó để luyện đọc
trước.
* Luyện đọc nhanh:
Đọc nhanh (còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy) là nói đến phẩm chất
đọc về mặt tốc độ, là việc đọc không ê a, ngắc ngứ. Vấn đề tốc độ đọc chỉ đặt
ra sau khi đã đọc đúng.
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ đọc bằng cách đọc
mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để đọc nhanh là cụm từ,
câu, đoạn, bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ bằng cách giữ nhịp đọc. Ngoài ra
còn có biện pháp đọc tiếp nối trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra của thầy, của
bạn để điều chỉnh tốc độ. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách xem trước bài
xem bài đó có số tiếng là bao nhiêu để dự tính về thời gian đọc. Định tốc độ
như thế nào còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc.
Tổ chức dạy đọc thầm:
Đọc thầm có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng ở chỗ nhanh hơn đọc
thành tiếng từ 1, 5 đến 2 lần. Nó có ưu thế hơn hẳn để tiếp nhận, thông hiểu
nội dung văn bản vì người ta không phải chú ý đến việc phát âm mà chỉ tập
trung để hiểu nội dung điều mình đọc.
Chuẩn bị cho việc đọc thầm: Cũng như khi ngồi đọc thành tiếng, tư thế
ngồi đọc thầm phải ngay ngắn, khoảng cách giữa mắt và sách là 30 - 35 cm.
Tổ chức quá trình đọc thầm: Kỹ năng đọc thầm phải được chuyển dần
từ ngoài vào trong, từ đọc to đến đọc nhỏ đến đọc mấp máy môi (không
thành tiếng) rồi đọc hoàn toàn bằng mắt, không mấp máy môi (đọc thầm),

giai đoạn cuối lại gồm hai bước: di chuyển mắt theo que trỏ hoặc ngón tay
rồi đến chỉ có mắt di chuyển. Giáo viên phải tổ chức chính quá trình chuyển

22


từ ngoài vào trong này. Cần kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh bằng
cách quy định thời gian đọc thầm cho từng đoạn và bài.
Đọc hiểu: Hiệu quả của việc đọc thầm được đo bằng khả năng thông
hiểu nội dung văn bản đọc. Do đó, dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức,
đọc hiểu: kết quả đọc thầm phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu,
đoạn, bài, tức là toàn bộ những gì được đọc, ví dụ đọc thầm và trả lời câu
hỏi: Hương hoa lan thơm như thế nào?
* Đọc thuộc lòng: ở những bài có yêu cầu học thuộc lòng, giáo viên
cần cho học sinh luyện đọc kỹ hơn.
Phương pháp dạy học rất đa dạng, phong phú. Trong quá trình giảng
dạy, giáo viên cần sử dụng linh hoạt các phương pháp cũng như lựa chọn các
hình thức tổ chức phự hợp với từng bài, tiết học sẽ nhẹ nhàng, hiệu quả cao.
4 . Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
4.1. Những công việc tiến hành:
Theo những biện pháp đã đề ra, tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm tại
lớp 1B của trường Tiểu học Chính Nghĩa với giáo án như sau:
Giáo án thực nghiệm
TẬP ĐỌC
Đầm sen
I – Mục tiêu
- HS đọc trơn cả bài, phát âm đúng các tiếng, từ khó : lá sen, xoè ra, sáng sáng,
thuyền nan,
- Ôn vần : en- oen
- Hiểu từ : đài sen, thanh khiết . Nói được vẻ đẹp của lá sen, hoa , hương sen.

- Giáo dục học sinh biết yêu vẻ đẹp của các loài hoa .
II- Đồ dùng dạy học :
- Tranh : đầm sen

23


×