Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Môn báo chí và dư luận xã hội -TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG VÀ DƯ LUẬN XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.24 KB, 23 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: BÁO CHÍ VÀ DƯ LUẬN XÃ HỘI
Đề tài:

TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG VÀ DƯ LUẬN XÃ HỘI


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 : TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG VÀ DƯ LUẬN XÃ
HỘI...........................................................................................1
1.1. Mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội.....................1
1.1.1. Truyền thông đại chúng: chủ thể khơi nguồn dư luận xã hội..................1
1.1.2. Dư luận xã hội - đối tượng phản ánh của truyền thông đại chúng.........3
1.1.3. Truyền thông đại chúng định hướng dư luận xã hội...............................8
1.2. Cơ chế tác động của truyền thông đại chúng vào dư luận xã hội.............10
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA BÁO CHÍ VÀ DƯ LUẬN XÃ HỘI
TRONG VỤ VIỆC “NỖI GIAN TRUÂN KHI LÀM SỔ ĐỎ” (BÁO ĐIỆN
TỬ DÂN TRÍ)................................................................................................14
2.1. Chùm tác phẩm “Nỗi gian truân khi làm sổ đỏ” – Sự kết hợp của dư luận
xã hội và báo chí..............................................................................................14
2.2. Vai trò của Dư luận xã hội đóng góp trong vụ việc..................................15
2.3. Thành công của báo chí trong việc phản ánh vụ việc..............................17
2.3.1. Báo chí khơi nguồn và truyền dẫn Dư luận xã hội...............................17
2.3.2. Báo chí cung cấp kiến thức nâng cao hiểu biết.....................................18
2.3.3. Tác động đến các cơ quan chức năng...................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................21


CHƯƠNG 1
TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG VÀ DƯ LUẬN XÃ HỘI
1.1. Mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội


DLXH có từ khi loài người hình thành đời sống xã hội, khi cá nhân đặt
trong mối quan hệ với cộng đồng. Thực chất, đó là sự trao đổi, bàn luận, lan
toả trong cộng đồng nhóm nhỏ hay lớn những cách đánh giá, nhìn nhận trước
những vấn đề xã hội nảy sinh. Truyền thông đại chúng ra đời sau này, như
một sản phẩm của xã hội văn minh, kết nối cộng đồng, là sự ứng dụng các
thành tựu khoa học kĩ thuật vào đời sống. Với bản chất hoạt động là truyền
tải thông tin, nhận định, bàn luận về các sự kiện - hiện tượng mới xảy ra có ý
nghĩa với đời sống xã hội, truyền thông đại chúng và DLXH có những mối
quan hệ rất mật thiết và sâu sắc.
1.1.1. Truyền thông đại chúng: chủ thể khơi nguồn dư luận xã hội
DLXH là phản ứng của dư luận, các nhóm xã hội khác nhau trước
những sự kiện vấn đề thời sự. Những sự kiện, vấn đề ấy lại là đối tượng phản
ánh của truyền thông đại chúng. Cho nên, trong xã hội hiện đại, phần lớn
DLXH được châm ngòi từ truyền thông đại chúng. DLXH cũng là một sản
phẩm cơ bản, quan trọng của truyền thSông đại chúng khi tác động vào các
thiết chế và nhận thức xã hội.
Nhìn lại lịch sử truyền thông đại chúng thế giới, người ta thấy tác
phẩm “Mười ngày rung chuyển thế giới” của nhà báo Mỹ Giôn Rít đã lay
động thế giới phương Tây, khơi dư luận tích cực khi nhìn nhận về cuộc Cách
mạng Tháng 10 Nga, tạo cho cuộc cách mạng và chính thể Xô Viết những
thuận lợi nhất định khi đứng giữa vòng vây của các thế lực thù địch quốc tế.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta, nhiều tác phẩm truyền
thông đại chúng của các nhà báo quốc tế đã đem đến những thông tin nóng
hổi, khách quan về tội ác của đế quốc Mỹ, làm bùng lên làn sóng phản chiến
ngay trong lòng nước Mỹ và lan ra khắp thế giới. Chính cuộc chiến tranh thứ
1


hai - từ phía dư luận quốc tế đã góp phần quan trọng thúc đẩy cuộc chiến
chính nghĩa của nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi, buộc Mỹ phải ngồi vào

đàm phán và rút quân về nước.
Những năm đổi mới đất nước, sức mạnh của truyền thông đại chúng
thật sự được thể hiện qua việc khơi nguồn dư luận vào cuộc đấu tranh chống
tư duy quan liêu, bao cấp, cản trở sự phát triển, biểu dương cái mới, cái sáng
tạo. Truyền thông đại chúng đã thực sự xung trận và xung trận một cách đầy
dũng cảm, hiệu quả, chủ động tạo dựng DLXH tích cực cho công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới tư duy là khâu đầu tiên. Loạt bài
“Những việc cần làm ngay” của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh trên báo
Nhân dân có sức công phá mạnh mẽ, thể hiện thái độ chống tiêu cực đến
cùng, “đã tắm thì tắm từ đầu trở xuống, chứ không tắm từ vai”… Hiệu ứng
của nó là sự bùng nổ mạnh mẽ của DLXH, niềm tin tưởng phấn khởi chống
cái sai, cái xấu, không e ngại, né tránh…
Một tác phẩm khác cũng đã đi vào lịch sử của truyền thông đại chúng
thời đổi mới là tác phẩm “Cái đêm hôm ấy đêm gì” của tác giả Phùng Gia
Lộc, đăng trên báo Văn Nghệ. Bài bút ký đăng trang trọng trên trang nhất tờ
báo Hội Nhà văn đã gây một tiếng vang lớn, thổi bùng DLXH phẫn nộ về sự
quan liêu, mất dân chủ ở nông thôn, cùng với tệ “cường hào mới” ức hiếp,
chà đạp lên con người. Có được hiệu ứng đó, phải ghi nhận cách đưa tổ chức
thông tin đầy sáng tạo và bản lĩnh của Tổng bỉên tập - nhà văn Nguyên Ngọc,
khi ngay sau “Cái đêm hôm ấy đêm gì”, toà soạn đã cho đăng một bức thư
“phản hồi”, lời lẽ đầy cay độc và trù úm của một cán bộ về hưu ở Quảng
Ngãi, lên án Phùng Gia Lộc bôi xấu đất nước, bôi xấu chế độ…
Khi những con người bình thường, hiền hậu bị dồn đến chân tường, số
phận và sự lên tiếng của họ vẫn chưa làm nhiều cán bộ vốn quen bệnh quan
liêu, xa dân tỉnh ngộ, thì bức xúc của dư luận đã được khơi nguồn, trào dâng
lên cao độ. Liên tiếp những số báo sau, báo Văn Nghệ đăng hàng trăm bức
thư, ý kiến của bạn đọc đồng cảm với Phùng Gia Lộc, lên án nạn cường hào
2



mới và đồng minh với nó là bệnh quan liêu, xa dân. Nhiều bức thư còn phanh
phui những hiện tượng xấu xa, sai trái trong tầng lớp cán bộ thoái hoá, biến
chất, cơ chế gò bó, bất hợp lý ở quê mình, nơi mình chứng kiến…
“Cái đêm hôm ấy, đêm gì” thực sự là một minh chứng sống động về
khả năng khơi nguồn DLXH của truyền thông đại chúng. Khi truyền thông đại
chúng biết thổi bùng lên khát vọng sống tốt đẹp, khơi gợi công lý và lòng
nhân ái, truyền thông đại chúng có khả năng định hướng đúng đắn DLXH,
góp phần giải quyết triệt để và nhanh chóng các vấn đề nóng bỏng phát sinh…
1.1.2. Dư luận xã hội - đối tượng phản ánh của truyền thông đại chúng
Tại sao truyền thông đại chúng phải phản ánh DLXH? Truyền thông
đại chúng phản ánh đời sống xã hội. DLXH là một hiện tượng có ý nghĩa
trong đời sống xã hội, do đó nó cũng là một đối tượng quan trọng để truyền
thông đại chúng phản ánh.
Đó là một cách lý giải đúng nhưng chưa phản ánh hết tầm mức của
vấn đề. Bởi vì DLXH không chỉ thuần tuý là một hiện tượng xã hội có ý
nghĩa. Sâu xa hơn, nó gắn bó chặt chẽ với dòng thông tin thời sự, gắn bó với
những sự kiện nóng bỏng của đời sống xã hội. Đó là đối tượng trung tâm mà
truyền thông đại chúng có nhiệm vụ phản ánh. Mặt khác, DLXH biểu lộ thái
độ, tình cảm, nhận thức của công chúng trong xã hội về những vấn đề cụ thể.
Truyền thông đại chúng chính là kênh thông tin có thẩm quyền, có khả năng
và lãnh trách nhiệm chuyển tải thái độ, nhận thức, tình cảm ấy đến bộ máy
công quyền nhằm phát ra thông điệp cần thiết, giúp bộ máy ấy điều chỉnh, xử
lý những vấn đề dư luận quan tâm.
Về bản chất, bộ máy công quyền tuân theo pháp luật, lấy pháp luật làm
căn cứ xử lý mọi vấn đề. Xã hội hiện đại thì việc “thượng tôn pháp luật”
càng được đề cao. Công quyền không thể xử lý công việc chỉ vì áp lực của
DLXH. Thế nhưng, trên thực tế, DLXH lại có sức mạnh to lớn. Nó thể hiện
lý trí và tình cảm, thái độ và quyết tâm của cả một cộng đồng to lớn trước
những sự kiện quan trọng, những vấn đề nhạy cảm của đời sống xã hội.
3



Không cơ quan công quyền nào dám làm ngơ trước một sức mạnh lớn lao
như vậy. Truyền thông đại chúng khi chuyển tải các sự kiện này cũng không
bỏ qua cơ hội đặt vấn đề lên đúng tầm vóc của nó bằng cách nhấn mạnh vào
sự quan tâm của DLXH, coi đó như một tiêu chí, một nguyên nhân chính
đáng để truyền thông đại chúng phản ánh sâu hơn, kĩ lưỡng hơn một hay một
vài vấn đề nào đó phát sinh trong thực tiễn.
Truyền thông đại chúng phản ánh DLXH trên những bình diện nào?
Có thể nói, truyền thông đại chúng phản ánh mọi nội dung, khía cạnh của
DLXH. Cũng bởi DLXH thể hiện cách nhìn nhận đánh giá về các sự kiện,
hiện tượng trong đời sống xã hội ; sự kiện đã đa dạng, cách đánh giá còn đa
dạng hơn nữa cho nên việc phản ánh DLXH trên truyền thông đại chúng
cũng hết sức phong phú, sinh động với nhiều cấp độ khác nhau.
- Cấp độ thứ nhất, DLXH là khởi nguồn cho việc điều tra, tìm kiếm
thông tin và phản ánh sự kiện của truyền thông đại chúng. Trong trường hợp
này, từ một nguồn tin, từ một hoặc nhiều ý kiến phản ánh đến toà soạn báo
hay thông qua các kênh truyền thông khác, nhà báo và cơ quan truyền thông
đại chúng tìm thấy vấn đề dư luận quan tâm để tiếp tục khai thác đến cùng sự
kiện đó.
Cách xử lý thông tin kiểu này khá phổ biến, vì suy cho cùng DLXH
xuất phát từ nguồn gốc ban đầu là “cái có thật”, nên việc tìm hiểu khai thác
sâu hơn, kĩ hơn bản chất sự thật ấy là nhiệm vụ của truyền thông đại chúng.
Cấp độ thứ hai, DLXH được phản ánh như một phần nội dung thông
tin về sự kiện trong tác phẩm truyền thông đại chúng.
Khi một sự kiện mới diễn ra, công chúng quan tâm đến hai vấn đề: 1.
Bản chất sự kiện ấy là gì và nó ảnh hưởng như thế nào đến đời sống xã hội?
2. Cơ quan có trách nhiệm sẽ xử lý như thế nào?
Ở cả hai nội dung này, truyền thông đại chúng đều có trách nhiệm
thông tin và thông tin đầy đủ. Nhiều khi, thái độ xử lý của cơ quan công

quyền còn được công chúng quan tâm hơn cả bản thân sự kiện vì nó nói lên
4


được nhiều điều. Chẳng hạn, vụ việc các công trình cho thuê sai quy định ở
công viên vườn thú Thủ Lệ đang là điểm nóng gây gức xúc trong dư luận.
Công chúng rất quan tâm đến việc sai phạm như thế nào, ở mức độ nào. thế
nhưng có lẽ việc quan tâm đến bao nhiêu diện tích bị lấn chiếm, bao nhiêu
nhà hàng, đơn vị kinh doanh mọc lên lấn át không gian của thú nuôi và
không gian thư giãn của du khách khi đến tham quan không quan trọng bằng
sự quan tâm đến thái độ và biện phát xử lý của cơ quan chức năng, cụ thể là
UBND TP Hà Nội và UBND quận Ba Đình. Bởi lẽ, sâu xa đây là thể hiện kỉ
cương, phép nước, thể hiện quyết tâm của lãnh đạo thành phố trong việc làm
thay đổi trật tự đô thị, lập lại kỉ luật và kỉ cương cho thủ đô văn hiến. Cho
nên, bên cạnh việc thông tin về tiến trình xử lý của cơ quan chức năng, nhiều
tờ báo còn đưa đậm phản hồi của dư luận, ý kiến của người dân và cán bộ
quản lý, tạo sức ép cho cơ quan công quyền giải quyết rốt ráo vấn đề. Tương
tự như vậy là vụ “cắt ngọn” các công trình sai phép trên địa bàn Hà Nội đầu
năm 2007 cũng được truyền thông đại chúng đưa đậm nét ý kiến bạn đọc,
công chúng, bàn luận xung quanh các quyết định này… Sự phản ánh DLXH
như một phần của tác phẩm truyền thông đại chúng đã tạo ra thông tin thú vị,
thúc đẩy cách giải quyết của cơ quan chức năng theo đúng chiều hướng và
mức độ cần thiết của nó. Báo cũng là “kênh” để bạn đọc, công chúng giải toả
bức xúc, thể hiện vai trò “diễn đàn quần chúng nhân dân của truyền thông
đại chúng”
- Cấp độ thứ ba, DLXH là đối tượng phản ánh duy nhất trong tác
phẩm truyền thông đại chúng. Đây là trường hợp những sự việc gây bức xúc
dư luận, dư luận cần thiết phải lên tiếng, hoặc còn nhiều ý kiến trái chiều gây
tranh cãi. Truyền thông đại chúng có thể dành hẳn một hoặc một số trang
mục để bạn đọc, công chúng lên tiếng. Ví dụ như sự kiện một cô gái đi làm

thuê không công hơn mười năm trời bị chủ quán phở hành hạ, đánh đập tàn
nhẫn. DLXH bức xúc, lên án kẻ dã tâm, thú tính, đồng thời phê phán lối sống
lạnh lùng, vô cảm, “mũ ni che tai” của những người xung quanh. Bên cạnh
5


đó, một luồng ý kiến khác cũng tập trung mạnh mẽ phê phán thái độ tắc trách
của hệ thống chính quyền cơ sở khi để sự việc xảy ra khá lâu mà không bị
phát giác. Sự đa dạng của các luồng DLXH đủ “dung lượng” và tư liệu để
truyền thông đại chúng dành đất cho những trang báo, những tác phẩm
truyền thông đại chúng hoàn chỉnh. Giữa hàng trăm, hàng nghìn cháu bé đi
làm thuê, giúp việc các gia đình, giữa bao nhiêu cảnh ngộ éo le, cô bé bị
hành hạ chỉ là một trường hợp cụ thể và bản chất câu chuyện cũng chỉ
“khuôn” lại ở đó, thông tin vụ việc đã lập tức được làm sáng tỏ khi cơ quan
công an vào cuộc, kẻ thủ ác đã khai nhận tất cả tội lỗi. Thế nhưng, chính sự
nối dài của dư luận đã mở rộng biên độ vấn đề ra rất nhiều hướng, tạo nên
nhiều lớp nghĩa, nhiều suy luận khác nhau… Chính DLXH cũng là một
nguồn thông tin quan trọng, làm sự kiện thêm sống động, góp phần mở ra
những hướng giải quyết mới, thúc đẩy sự phát triển xã hội theo hướng tích
cực và nhân văn hơn.
Từ những phân tích trên, có thể thấy việc phản ánh DLXH là một công
việc thường xuyên của truyền thông đại chúng. DLXH là thước đo nhịp đập,
chính kiến và tâm lý xã hội ở những thời điểm khác nhau, trước những sự
kiện khác nhau. Truyền thông đại chúng phản ánh đời sống xã hội, phản ánh
các sự kiện nóng bỏng trong đời sống nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin đa
dạng của xã hội - trong đó có cả nhu cầu thông tin phục vụ việc xây dựng và
đề ra chính sách của các cơ quan quản lý. Việc phản ánh DLXH trước hết
giúp các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan hoạch định chính sách có
thêm thông tin để điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp với nhu cầu,
nguyện vọng của công chúng trong xã hội. Hơn thế, khi DLXH được thể

hiện công khai trên mặt báo, nó trở thành một quyền lực thực sự, có khả
năng áp chế, điều chỉnh hành vi xã hội theo hướng tích cực, phù hợp với các
chuẩn mực có tính cộng đồng… Đây là một phần của tính dân chủ hoá đời
sống xã hội, một phần nhất quán của tính công khai, minh bạch mà chúng ta
đang hướng tới.
6


Không phải luồng DLXH nào cũng là chính xác và đúng đắn. Song khi
mở rộng nhiều cánh cửa, với sự nhạy cảm và trách nhiệm của nhà báo và cơ
quan truyền thông đại chúng, thì DLXH chính là nguồn sinh lực cần thiết để
thổi vào sự kiện những góc cạnh mới mẻ, làm sống dậy những suy tư, trăn
trở, những tranh luận có trách nhiệm và lý trí, nhằm lột tả đầy đủ tầm vóc,
quy mô sự kiện. Từ đây, các giải pháp được đưa ra, các xu hướng được dự
báo và ý thức cộng đồng, ý thức tuân thủ các giá trị chuẩn mực đạo đức đích
thực được đề cao. Nhà báo không phản ánh DLXH một cách thuần tuý mà
còn tạo động lực thúc đẩy DLXH theo hướng tích cực, hướng dẫn DLXH đi
theo lằn ranh phù hợp, tránh những xáo trộn, đổ vỡ, mất phương hướng. Ở
đây, vai trò của tài năng và nhân cách nhà báo có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Bởi chỉ cần một chút thiên lệch, vấn đề có thể được đẩy đi rất xa bản
chất của nó, xã hội hoang mang, chuẩn mực bị xô lệch. Một mặt, xã hội ghi
nhận và biểu dương vai trò của truyền thông đại chúng trong phản ánh kịp
thời DLXH một cách chính xác và có trách nhiệm, nhưng mặt khác, cũng cần
cảnh giác với hiện tượng nhân danh DLXH để đưa ra những đánh giá chủ
quan, thiên kiến, làm sai lệch bản chất vấn đề. Thậm chí có cả những trường
hợp lấy “DLXH” chung chung không xác thực để hướng công chúng vào
những con đường hẹp của nhận thức, đề cao khuynh hướng cực đoan, ngụy
biện chỉ có lợi cho cá nhân một số người… Có thứ “DLXH” được nguỵ tạo
để “bắt bí”, vùi dập người lương thiện. Tất cả những hiện tượng đó đều cho
thấy DLXH có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội và với sự

“nối dài” của truyền thông đại chúng, sự bùng nổ của nó còn mạnh mẽ hơn
nữa, ghê gớm hơn nữa… Phản ánh DLXH, người làm báo phải có trách
nhiệm với ngòi bút của mình, phải có thêm những công cụ khoa học cần thiết
để làm sáng tỏ và khai thác DLXH với tư cách là “trí tuệ, nhận thức” chứ
không phải là một tập hợp khó xác định và hoàn toàn chỉ đo đếm bằng cảm
tính giản đơn.

7


1.1.3. Truyền thông đại chúng định hướng dư luận xã hội
Truyền thông đại chúng phản ánh DLXH nhưng sự phản ánh ấy không
thụ động mà có ý thức rõ ràng, hướng tới mục tiêu cụ thể. Mục tiêu cuối
cùng và cao nhất chính là định hướng DLXH.
Thế nhưng, trên thực tế, vẫn còn tồn tại một số cách nhìn nhận chưa
đầy đủ về vai trò này của truyền thông đại chúng. Có người cho rằng truyền
thông đại chúng đơn thuần có nhiệm vụ đưa tin còn nhận thức là vấn đề của
cá nhân không ai áp đặt được. Dư luận đầy lý trí không cần ai định hướng
hay hướng dẫn. Còn nếu họ lầm lạc, nhận thức sai, hành động không chuẩn
xác thì đã có sự điều chỉnh của pháp luật chứ không phải trách nhiệm của
truyền thông đại chúng hay các phương tiện truyền thông khác.
Quan điểm này có vẻ như được không ít người tiếp thu và cổ suý vì nó
mị dân, đánh giá cao “giá trị nhận thức cá nhân”, đề cao trí tuệ và nhận thức
xã hội. Song trên thực tế, truyền thông đại chúng không thể chỉ phản ánh đơn
thuần mà luôn phản ánh có mục đích. Mục đích của thông tin trước hết là
nhằm để công chúng “biết” đến sự thật đang diễn ra xung quanh mình,
nhưng sâu xa hơn còn nhắm đến tích cực hoá đời sống xã hội, bởi nếu DLXH
được phản ánh, sự thật được công chúng biết đến làm xã hội rối loạn, kỉ
cương bị phá vỡ, sinh mệnh con người không được bảo đảm thì sự phản ánh
thuần tuý đó liệu có ích lợi gì?

Thực tiễn hoạt động của truyền thông đại chúng các nước phương Tây
cũng cho thấy, vai trò định hướng DLXH của nhà báo cũng như trách nhiệm
xã hội của các phương tiện truyền thông cũng luôn được coi trọng và nhấn
mạnh. Trong suốt chiến tranh vùng Vịnh, các phương tiện truyền thông Mỹ
không hề đưa ra những hình ảnh về “đầu rơi máu chảy”- những hình ảnh vốn
rất dễ tạo làn sóng dư luận phản kháng. Trái lại là hình ảnh những người dân
hân hoan khi được giải phóng khỏi chế độ “độc tài”, sự phô trương sức mạnh
quân sự qua những vũ khí tối tân hiện đại thể hiện tầm vóc một cường quốc

8


văn minh luôn tự nhận vai trò “lãnh đạo thế giới”, luôn thực hiện các cuộc
“chiến tranh sạch” cả về mục đích lẫn phương pháp quân sự…
Như thế, mục đích định hướng DLXH, dù được gọi dưới những cái tên
khác nhau vẫn luôn là điều truyền thông đại chúng chú ý tuân thủ.
DLXH như đã phân tích ở trên có cả yếu tố chân lý được nhận thức,
chứa đựng sự thật của đời sống hiện thực. Song sự thật ấy còn bị chi phối bởi
nhiều yếu tố từ nhận thức chủ quan của cá nhân đến lợi ích cụ thể của từng
nhóm người trong xã hội. Mặt khác, sự kiện diễn ra rất nhanh, thời gian để
định lượng đánh giá không đủ độ dài cần thiết, dư luận lại dễ bị thổi phồng,
nương theo chiều hướng mong muốn tiếp nhận những thông tin “độc” hơn,
giật gân hơn nên dễ có chiều hướng thiếu chính xác, thiên lệch. Ngay cả
những thông tin chính xác thì cũng cần phải điều chỉnh dưới góc độ lợi ích
xã hội và bảo vệ các giá trị cơ bản, nhân văn của con người. Do đó, bên cạnh
việc phản ánh DLXH, truyền thông đại chúng còn có nhiệm vụ quan trọng là
định hướng đúng đắn DLXH, “chỉnh” cho dòng chảy ấy đi thuận chiều, góp
phần tích cực giải quyết các nhiệm vụ xã hội đặt ra.
Khi xảy ra vụ việc sai phạm ở PMU18, DLXH phẫn nộ vì hành vi
đánh bạc, sa đọa về đạo đức ở một số cán bộ được giao trọng trách của ngành

giao thông vận tải, cụ thể là một đơn vị quản lý giải ngân hàng tỷ đô la đầu
tư là PMU18. Sự bức xúc của dư luận làm bùng lên làn sóng phẫn nộ, đòi hỏi
phải xử lý nghiêm người sai phạm và cả những cá nhân bao che sai phạm.
Khi người dân và DLXH ý thức sâu sắc và lên án hành vi tiêu cực, đó là cơ
sở tích cực để phanh phui và xử lý dứt điểm những tiêu cực ấy, trả lại môi
trường lành mạnh và sự phát triển cho đơn vị, rộng ra là cho cả lĩnh vực kinh
tế trọng yếu ấy. Song, ở một góc độ khác, việc dư luận bùng phát mạnh mẽ
mà thiếu những cơ sở thông tin đầy đủ, dẫn đến hiểu không đúng bản chất
vấn đề, thổi phồng sự việc có thể lại gây ra những ảnh hưởng không tốt đến
môi trường xã hội. Cách nhìn định kiến “cán bộ xây dựng nào cũng tham
nhũng, dự án giao thông nào cũng có tiêu cực” đã tạo nên áp lực rất nặng nề
9


lên bộ máy hoạt động của ngành giao thông. Mặc dù kết luận của cơ quan
điều tra sau đó đã làm rõ, vụ PMU 18 không nghiêm trọng đến như một số
cơ quan truyền thông đã hào hứng mô tả, nhưng hơn một năm sau khi vụ
việc xảy ra, trên diễn đàn quốc hội, tân bộ trưởng bộ giao thông vận tải vẫn
phải thừa nhận “di chứng của PMU 18 là rất lớn”, vì rất nhiều dự án giải
ngân chậm, do nhà thầu và chủ đầu tư “e dè” khi xuất vốn và nghiệm thu.
Thái độ “thủ thế”, sợ đủ bề, né tránh trách nhiệm một phần rất quan trọng là
do áp lực DLXH, áp lực của các cơ quan giám sát, cơ quan quản lý nhà nước
và tâm lý tự thân những người có trách nhiệm khi bị dư luận “quan tâm” săn
sóc kĩ lưỡng, đánh giá khắt khe, vượt quá tầm mức thật sự của vấn đề.
Vấn đề đặt ra là, truyền thông đại chúng cần phải có trách nhiệm định
hướng đúng đắn DLXH (có người dùng cụm từ hướng dẫn DLXH). Song
định hướng như thế nào cho hiệu quả lại cần sự nghiên cứu, xem xét thấu
đáo, tránh tư duy giản đơn, áp đặt.
1.2. Cơ chế tác động của truyền thông đại chúng vào dư luận xã hội
Mối quan hệ mật thiết giữa truyền thông đại chúng và DLXH là một

sản phẩm tự nhiên, tất yếu trong điều kiện xã hội phát triển dựa trên những
liên kết chung, nảy sinh những mối quan tâm giống nhau về những vấn đề có
liên quan giữa nhiều người; mặt khác truyền thông đại chúng phát triển làm
cầu nối cho những thông tin được quan tâm có điều kiện lan toả đi rất xa.
DLXH với đặc thù của nó là phản ứng của cộng đồng rộng rãi trước những
vấn đề thời sự nóng bỏng nảy sinh luôn rất nhạy cảm với nguồn thông tin từ
các loại hình truyền thông đại chúng.
Cơ chế, theo từ điển tiếng Việt là “cách thức theo đó một quá trình
thực hiện”. PGS, TS Nguyễn Văn Dững cho rằng: “Cơ chế có thể được hiểu
là một quá trình và cách thức diễn ra hay thực hiện của một hiện tượng xã
hội, quá trình và cách thức ấy bao gồm các công đoạn và mối quan hệ giữa
chúng theo một trật tự logic nhằm hướng tới một mục tiêu nào đó” (1).

10


Như vậy, nghiên cứu cơ chế tác động của truyền thông đại chúng vào
DLXH chính là tìm hiểu cách thức, con đường và khả năng tác động vào
DLXH của truyền thông đại chúng - phương tiện truyền thông phổ biến và
năng động nhất hiện nay.
Theo PGS, TS. Tạ Ngọc Tấn, "DLXH là thành tố quan trọng của ý
thức xã hội. Nó chính là phản ứng của dư luận trước những vấn đề thời sự"
[56, tr.54]. Như vậy, muốn tìm hiểu DLXH trước hết phải tìm hiểu bản chất
sự kiện và cách thức, nội dung thông tin, sự kiện mà công chúng tiếp nhận
được. Cùng một sự kiện hoàn toàn có thể tạo ra những phản ứng khác nhau
từ phía dư luận tùy thuộc vào góc độ, tính chất thông tin mà công chúng tiếp
nhận. Khả năng tác động của truyền thông đại chúng vào DLXH chính là ở
vai trò chọn lựa thông tin hay góc độ nào đó của thông tin, nhằm tác động có
lợi hay không có lợi cho đối tượng nào đó, tùy mục đích của nhà truyền
thông và nhóm chính trị mà nhà truyền thông ấy phục vụ. Ngoài ra, cách

đánh giá, phân tích cũng tạo nên hiệu ứng khác nhau, khi quan điểm của mỗi
nhà truyền thông có những khác biệt trên cùng một vấn đề, một sự kiện.
PGS, TS. Mai Quỳnh Nam cho rằng: “Các phân tích về cơ chế từ tác
động truyền thông đối với hành động của con người cho thấy: bằng việc
cung cấp thông tin, kiến thức, thông qua các kênh, hay một con đường nào
đó đến với đối tượng tiếp nhận, đối tượng tiếp nhận hiểu và có khả năng làm
theo sự chỉ dẫn của thông tin đã tạo nên hành động của các cá nhân và các
tập đoàn người” (3).
Để định hướng DLXH, theo PGS, TS. Mai Quỳnh Nam, các phương
tiện truyền thông địa chúng có những nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, tăng cường và phát triển dân chủ hoá các mặt của đời sống xã
hội; tổ chức và động viên nhân dân tham gia vào các hoạt động quản lý xã hội.
Thứ hai, thông tin cho nhân dân về tình trạng của DLXH trên các vấn
đề đang tạo nên mối quan tâm chung của toàn thể xã hội, nhất là các vấn đề
có tính cấp bách.
11


Thứ ba, tác động lên các thiết chế xã hội và đề xuất các phương án
hoạt động.
Thứ tư, hình thành DLXH về một vấn đề nào đó nhằm thúc đẩy hoặc
hạn chế sự phát triển của thực tế đó.
Thứ năm, xây dựng lòng tin, thế giới quan và ý thức quần chúng.
Thứ sáu, điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội, làm tăng
cường tính tích cực chính trị- xã hội của quần chúng. (2)
Như vậy, chìa khoá của vấn đề ở đây là vấn đề “nhận thức”. Thông tin
chính là điều kiện để thay đổi, định hướng, hoặc làm sâu sắc thêm nhận thức
của đối tượng, và từ nhận thức (hiểu), mỗi cá nhận và cộng đồng sẽ hành
động theo cách nhận thức của mình, phù hợp với nguồn thông tin và hướng
thông tin được tiếp nhận.

PGS, TS Nguyễn Văn Dững nhận xét: "Có ba tiêu chí cho một tác
phẩm truyền thông đại chúng hay, hấp dẫn công chúng. Thứ nhất, tác phẩm
đề cập được sự kiện, vấn đề bức xúc, nóng hổi, nổi cộm trong DLXH, đang
được công chúng đón đợi, muốn biết và cần được giải thích giải đáp; thứ hai
là tác phẩm được cấu thành, được xây dựng từ những chi tiết sống động,
những số liệu xác thực, tin cậy; thứ ba là cách thức diễn đạt, trình bày ngắn
gọn, sáng rõ, cuốn hút. Tuy nhiên, tính hấp dẫn cũng như cơ chế tiếp nhận
của tác phẩm báo in, báo phát thanh, truyền hình và báo mạng Internet có
những yêu cầu đặc thù khác nhau mà trong phạm vi bài viết này chưa có dịp
đề cập tới" (1).
Từ sự phân tích đó, PGS, TS. Nguyễn Văn Dững đưa ra quan điểm về
"bộ lọc thông tin" mà Picattso cũng đã đề cập. "Thứ nhất là sự kiện ấy có
thật không ? (tức là sự kiện phải xác thực, không được bịa đặt, thêm thắt...);
thứ hai là thật rồi nhưng có hấp dẫn không ?; và thứ ba là hấp dẫn nhưng có
ích lợi gì không? Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã căn dặn các nhà báo luôn
luôn xác định viết cái gì, viết cho ai và sau đó là viết như thế nào?" (1).

12


Đồng tình với quan điểm trên, nhưng PGS, TS Mai Quỳnh Nam đồng
thời lại nhấn mạnh thêm “khả năng ứng dụng rộng rãi của truyền thông”:
“Những tính chất cơ bản mà thông điệp truyền thông cần phải có như tính
kịp thời, trung thực, có sức thuyết phục và đặc biệt là khả năng ứng dụng
rộng rãi cần được các nhà truyền thông coi trọng trong hoạt động chuyên
môn của họ” (3).
DLXH được xem là một hiện tượng phát triển từ sự tác động của
truyền thông đại chúng. Nhưng, mặt khác, DLXH tiếp tục tác động trở lại với
truyền thông đại chúng, đòi hỏi truyền thông đại chúng cung cấp thông tin
đầy đủ, kĩ lưỡng và rõ ràng hơn. Cả DLXH và truyền thông đại chúng đều

tạo áp lực giải quyết vấn đề, tạo áp lực về tiến độ, mức độ giải quyết, thậm
chí có thể đặt ra yêu cầu xem xét vấn đề theo hướng khác. Quan điểm đánh
giá của truyền thông đại chúng hay của DLXH, trong chừng mực nào đó sẽ
tác động đến chiều hướng xử lí vấn đề, sự kiện của những người có trách
nhiệm.
Theo chúng tôi, truyền thông đại chúng tác động vào DLXH bằng hai
con đường: lý trí và tình cảm, trong đó tác động vào tình cảm là quan trọng
và tác động vào lý trí là cơ bản. Trên nền tảng lý trí, nhận thức, DLXH sẽ
được tạo dựng bền vững và sâu sắc. Nhưng để tác động nhanh chóng, tạo
hiệu quả tức thì, việc nhấn mạnh yếu tố cảm xúc, tình cảm cá nhân là một
“kênh” hỗ trợ cực kì hiệu quả. Truyền thông đại chúng phải quan tâm thích
đáng đến cả hai con đường tác động này khi hướng tới mục tiêu định hướng
DLXH cho hiệu quả.

13


CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA BÁO CHÍ VÀ DƯ LUẬN XÃ HỘI
TRONG VỤ VIỆC “NỖI GIAN TRUÂN KHI LÀM SỔ ĐỎ”
(BÁO ĐIỆN TỬ DÂN TRÍ)
2.1. Chùm tác phẩm “Nỗi gian truân khi làm sổ đỏ” – Sự kết hợp của dư
luận xã hội và báo chí
Vụ việc “Nỗi gian truân khi làm sổ đỏ” của tác giả Vũ Văn Tiến (Báo
điện tử Dân trí) gồm 1 số bài viết đã thực hiện để thấy được hành trình bền bỉ
của người làm báo cũng như nỗi gian truân khi đi làm sổ đỏ đã là một câu
chuyện “không của riêng ai” ra sao: Những nỗi đau của người dân Từ Liêm
quanh câu chuyện sổ đỏ; Hà Nội: Gần 7000 tổ chức và 98.800 hộ dân chưa
được cấp sổ đỏ; Luật sư “trần tình” nỗi khổ khi đi làm sổ đỏ; Muốn rụng rời
cả chân tay khi làm sổ đỏ; 89% ý kiến cho rằng nên khoán định mức đối với
với cán bộ làm sổ đỏ; Cần phải tố cáo hành vi sách nhiễu với các cấp chính

quyền…. Vụ việc được bắt đầu từ “sức nóng” của diễn đàn, dư luận xã hội
bức xúc, chia sẻ về trường hợp của chính mình khi gặp nhiều khó khăn khi
làm sổ đỏ.
Chính những ý kiến của người dân gửi đến báo điện tử Dân trí về những
khó khăn của mình khi làm sổ đỏ, đặc biệt tại khu vực Từ Liêm và Quận
Hoàng Mai, Quận Ba Đình đã khiến cho toà soạn quyết định đi sâu tìm hiểu
thực tế. Nhà báo Vũ Văn Tiến đã thực hiện loạt bài phản ánh về những câu
chuyện: Những nỗi đau của người dân Từ Liêm quanh câu chuyện sổ đỏ, Quận
Hoàng Mai kiểm điểm nhiều cá nhân liên quan đến cấp sổ đỏ. Từ loạt bài ấy,
toà soạn đồng thời đã xây dựng diễn đàn để đón nhận luồng dư luận xã hội với
những ý kiến khác nhau của người dân về việc làm sổ đỏ hiện nay. Điều đó đã
tạo nên được sức nặng cho vấn đề khiến nhiều cơ quan chức năng quan tâm.
Đặc biệt là Thủ tướng chính phủ đã ra Chỉ thị số 1474/CT-TTg ngày 24/8/2011
về thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách để chấn chỉnh việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất
14


(gọi chung là “sổ đỏ”). “Tin vui” này, thiết nghĩ, không chỉ dành cho những
người đang quan tâm đến cải thiện cung cách, thủ tục làm sổ đỏ, mà ở góc độ
nào đó, có thể coi là một “chiến thắng” của người làm báo.
2.2. Vai trò của Dư luận xã hội đóng góp trong vụ việc
Có thể nói, thành công của chùm bài “Nỗi gian truân khi làm sổ đỏ”
đầu tiên phải kể đến đó là việc hàng loạt những ý kiến của bạn đọc gửi đến
cho Tòa soạn báo Dân trí. Thực tế chức minh rằng, sự tương tác của công
chúng có tác động rất lớn tới cơ quan báo chí. Đối với báo mạng điện tử, nhờ
sự hỗ trợ của công nghệ cao, các độc giả không chỉ gửi thư mà còn qua email
gửi ý kiến phản hồi tới tòa soạn. Nhà báo Vũ Văn Tiến là trưởng ban Bạn đọc
từ những ý kiến này đã xây dựng thành công diễn đàn chia sẻ sôi nổi để người
dân cùng bàn về việc làm sổ đỏ.

Chie ():
Thông qua các bài phản ánh trên Dân trí ta thấy rằng người đi làm sổ đỏ đã
tìm hiểu rất rõ luật, hỏi người thân về những vướng mắc, giấy tờ cần chuẩn
bị trước để rút ngắn thời gian đi lại. Tuy nhiên việc hành dân của phòng địa
chính được coi là việc tất yếu mà lâu nay vẫn xảy ra, không ai bàn cãi. Có ý
kiến thì cũng chỉ được trả lời gọi là có một cách rất vòng vo, vì thế người dân
không biết kêu ai. Còn nói về thu nhập thấp mà việc lại quá nhiều thì càng vô
lý hơn. Cán bộ địa chính phường chỉ giải quyết công tác đất đai, còn dịch
bệnh, vệ sinh đã có công ty môi trường đô thị và thú y lo, đâu phải cán bộ địa
chính cáng đáng hết. Đến cấp huyện càng rõ trong việc phân công chức
năng, nhiệm vụ của từng ban, các tổ, nhóm trong phòng ban. Còn lương thì
làm nhà nước ai chẳng giống ai, mà có thể lấy lý do đó. Việc coi thường pháp
luật gây khó dễ cho dân chỉ với một mục đích duy nhất là ăn chặn những
đồng tiền mồ hôi công sức của người dân mà thôi.
Duyz ():
Không thể đổ lỗi do nhân lực ít, công việc nhiều, thu nhập thấp, thời gian bị
bó buộc, trình độ bị hạn chế không có thời gian học thêm, nghiên cứu thêm.
Bởi học thêm, nghiên cứu thêm là việc riêng cá nhân của anh, anh có thể lo
15


liệu sắp xếp ngoài giờ làm việc, chẳng có ai bố trí việc ít để anh ngồi học
thêm và nghiên cứu, nghe bất hợp lý quá.
Bạn nói thái độ làm việc “hành dân”, theo tôi, có một số cán bộ tuy có trình
độ nhưng muốn hành dân để kiếm tiền (việc đó có). Một số thì nói thực là
không có đủ trình độ để tìm ra một lúc tất cả các thiếu sót trong hồ sơ (họ là
con em, người thân hoặc đã bỏ tiền để kiếm chỗ làm tốt, học vấn chưa cao
những sẽ tìm cách làm đầy đủ hồ sơ bằng các khóa học ngắn hạn hoặc bất kỳ
một hình thức nào đó…).
Như tôi đây chẳng hạn có gần 30 năm làm trong cơ quan, khi tôi đến 2 cấp

xã và huyện làm thừa kế, tôi làm rất kỹ và hỏi cán bộ địa chính rất cặn kẽ cần
bổ sung những giấy tờ gì tôi đều phúc đáp. Nhưng mỗi lần đến cứ bổ sung
thêm, cái đã làm trước thì cứ lần lượt trả lại bảo là thừa. Tôi bực mình đề
nghị hồ sơ tôi thiếu những gì cần bổ sung nói cụ thể, các ông địa chính đổ lỗi
do thế này, thế khác v.v.. và v.v…
Quang Minh ():
Trong các thủ tục để cấp sổ đỏ, có nhiều điều bất cập đến mức rất đáng...
"cười": Ví dụ, một thửa đất do ông nội tôi để lại cho cha tôi và các chú tôi,
nay muốn cấp sổ đỏ phải khai tông chi. Ông tôi sinh năm 1895, bà tôi sinh
năm 1897, nếu khuyết mất giấy tờ chứng minh rằng ông, bà tôi đã mất thì sẽ
không được cấp sổ. Nếu giấy tờ chứng tử của cả ông bà tôi đầu thất lạc (do
chiến tranh, do không làm chứng tử...) thì khi nào sẽ được cấp sổ? Có thể nói
luôn: không bao giờ ! Một phép tính đơn giản, nếu ông bà tôi còn sống thì đã
lập kỷ lục thế giới về tuổi thọ rồi. Và nếu bà tôi ở tuổi này mà còn sinh đẻ thì
cả thế giới phải biết. Vậy mà chưa có chứng tử thì coi như còn sống! Nên
chăng, cần có những "độ thoáng" nhất định thì tiến trình cấp sổ đỏ mới
nhanh hơn được.
Thảo Nguyên ():
Nghĩ tới quãng thời gian gia đình tôi khó nhọc đi làm sổ đỏ (đã được 2 năm)
và đến nay vẫn chưa xong... mà hằng đêm tôi rơi nước mắt. Nhất là những
hôm gia đình tôi đến hạn nộp tiền thuê nhà, rồi trời mưa, nhà trọ giột nước
16


ngay trên mặt khi đang ngủ... Nghĩ tới cảnh biết bao giờ làm xong sổ đỏ để
có nhà ở mà tôi thức trắng đêm!
Dân tỉnh lẻ ra ngoài này mưu sinh, mua được nhà đã khó
còn bị người chủ cũ chiếm đoạt nhà, chính quyền muốn can
thiệp giúp nhưng phải có sổ đỏ. Mà đi làm sổ đỏ thì lúc cán
bộ bảo thiếu cái này, lúc bảo thiếu cái kia. Mỗi lần nghỉ việc

để đi làm thì lại bớt lương đi, màu mè thì không biết kiếm
đâu ra... Và cứ thế!
Nỗi oán giận những cán bộ gây phiền hà, sách nhiễu trong quá trình tôi đi
làm sổ đỏ cứ tăng lên... như chứa cả nỗi căm tức và thất vọng! Bởi những lý
do cán bộ đưa ra với người học luật như tôi tôi thấy coi thường.
Tôi đề nghị các cơ quan chức năng có thẩm quyền nhanh chóng can thiệp
ngay nỗi bức xúc của người dân nghèo khi đi làm sổ đỏ. Chứ nhiều khi, tôi
như mất hết niềm tin.
2.3. Thành công của báo chí trong việc phản ánh vụ việc
Trong vụ việc này, báo chí và dư luận xã hội đã có những tương tác,
tác động qua lại lẫn nhau rất tích cực để tạo nên thành công trong phản ánh
vấn đề.
2.3.1. Báo chí khơi nguồn và truyền dẫn Dư luận xã hội.
Nắm bắt rất nhanh những ý kiến của người dân, tòa soạn báo Dân trí đã
lập lực đăng tải những phản hồi đó lên thành những diễn đàn để những người
đọc khác tiếp tục chia sẻ quan điểm riêng của mình về vấn đề quy trình và
khó khăn làm sổ đỏ. Nếu không từ Báo chí để xây dựng diễn đàn, thì những
người dân khác nhau sẽ khó có thể cùng chia sẻ ý kiến và có những quan
điểm va đập nhau, cũng như không thể đưa ra những giải pháp khuyến nghị
với vấn đề này.
Cũng nhờ những khả năng tương tác, báo mạng điện tử thiết lập các
diễn đàn hay thực hiện các cuộc bỏ phiếu giúp cho những giá trị thông tin,
giá trị của dư luận xã hội trở nên ý nghĩa cao. Ở bài viết này, tòa soạn cũng
17


đã thực hiện những cuộc vote cho người đọc để đánh giá quan điểm. Chính
bạn đọc đã gợi ý cho Báo Dân Trí đã mở đợt thăm dò về vấn đề làm sổ đỏ
nên được khoán định mức cho các cán bộ phải hoàn thành, thay vì để dân
phải đi “xin” cấp sổ đỏ như hiện nay. Kết quả: đã có 59.813 (89%) ý kiến

đồng tình với gợi ý trên; 4.524 (7%) ý kiến không đồng tình; 2.510 (4%) ý
kiến khác….”.

2.3.2. Báo chí cung cấp kiến thức nâng cao hiểu biết
Qua những diễn đàn được tòa soạn đăng tải, những thông tin bài báo
được nhà báo nhanh nhạy khai thác vấn đề từ dư luận xã hội chúng đã giúp
cung cấp thông tin cho người dân về những khó khăn thực tế khi phải đi làm
sổ đỏ cũng như những quy định, nguyên tắc thực tế được Nhà nước quy định
khi người dân làm sổ đỏ:
Ví dụ như: Về thủ tục cấp sổ đỏ thời điểm trước ngày 23/10/2008 tách
thành hai thủ tục: Thực hiện giao đất, cho thuê đất riêng và cấp sổ đỏ riêng
là chưa phù hợp, thời gian giải quyết có một số trường hợp kéo dài. Thời
gian giải quyết việc cấp sổ đỏ đối với một số tổ chức còn chậm so với quy
định.
Bộ TN&MT đề nghị UBND TP. Hà Nội chỉ đạo Sở TN&MT và cơ quan liên
quan thực hiện đúng thủ tục, trình tự và thời hạn cấp GCNQSDĐ và sở hữu

18


nhà ở theo đúng quy định; rà soát lại quy trình đăng ký, chỉnh lý hồ sơ địa
chính, cấp sổ đỏ cho tổ chức; Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ cụ thể cho
các đơn vị chuyên môn thuộc Sở, và tăng cường công tác lập, quản lý, chỉnh
lý hồ sơ địa chính, cấp sổ đỏ cho các tổ chức trên địa bàn Thành phố theo
quy định; Nghiêm túc kiểm điểm, khắc phục một số tồn tại đối với cơ quan, cá
nhân có liên quan theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở thực hiện Chỉ thị số 34/CT-TTg ngày 20/1/2010 của Thủ
tướng Chính phủ chỉ đạo Sở TN&MT tiếp tục rà soát các tổ chức sử dụng đất
trên địa bàn Thành phố chưa được cấp sổ đỏ, xây dựng kế hoạch cụ thể để tổ
chức thực hiện và hoàn thành công tác cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở

và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định hiện hành.
2.3.3. Tác động đến các cơ quan chức năng
Chúng ta thường biết, báo chí có chức năng quản lý, giám sát và phản
biện xã hội, và đây là chức năng rất có tác động lớn đến đời sống xã hội. Vai
trò tham gia quản lý xã hội của báo chí trước hết là đảm bảo thông tin hai
chiều từ người dân và những người quản lý, đảm bảo cho những quyết định
quản lý thông suốt và thực tế. Báo chí là diễn đàn nhân dân bởi vậy cũng cần
đưa ra những vấn đề then chốt, bức xúc của nhân dân với các vấn đề quản lý
xã hội. Từ đó, báo chí đưa ra những phản biện của dư luận xã hội tới những
cơ quan chức năng. Trong chùm bài “Nỗi gian truân khi làm sổ đỏ”, tòa soạn
báo đã nhanh chóng không chỉ đẩy bài và diễn đàn tích cực (với 20 bài viết),
mà tòa soạn đồng thời đã gửi đến các cơ quan chức năng để tiếp thu và nắm
bắt vụ việc. Thủ tướng chính phủ đã đưa ra chỉ thị về việc cấp sổ yêu cầu các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải thực hiện rà soát để sửa đổi hoặc
bãi bỏ các quy định về sổ đỏ của địa phương không còn phù hợp với pháp luật
hiện hành; tăng cường cải cách thủ tục cấp Giấy chứng nhận nhằm rút ngắn
thời gian thực hiện và công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại
chúng để người dân thực hiện, giám sát; đồng thời thông báo số điện thoại
nóng để người dân phản ánh tình hình… Ngoài ra, Chỉ thị trên nhấn mạnh:
19


“Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương có trách nhiệm tổ chức thực hiện Chỉ thị này, báo cáo kết quả thực hiện
theo định kỳ 6 tháng, hàng năm về Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Đó chính là thành công rất lớn, tác động rất lớn mà chùm bài viết cũng
như tòa soạn đã đem đến. Vấn đề đã được lên tiếng, được Thủ tướng chính
phủ đưa ra chỉ thị giải quyết và có thể từ đây, việc đi làm sổ đỏ sẽ không còn
bị phiền nhiễu, người dân sẽ không còn gặp khó khăn.


20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Dững (1994), Báo chí và dư luận xã hội – các hình
thức của mối quan hệ tác động, Luận án tiến sĩ, khoa Báo chí, trường Đại học
Tổng hợp quốc gia Lômônôxốp, Matxcova
2. Nguyễn Văn Dững (2007), “Cơ chế tác động của báo chí”, Tạp chí
Đại học Quốc gia, HN
3. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí và dư luận xã hội, Nxb Lao
động , HN
4. Lương Khắc Hiếu (Chủ biên), (1999), Dư luận xã hội trong sự
nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H
5. Mai Quỳnh Nam (1996), “Truyền thông đại chúng và dư luận xã
hội”, Tạp chí Xã hội học, Số 1 (53)
6. Mai Quỳnh Nam (1996), “Mấy vấn đề DLXH trong công cuộc đổi
mới”, Tạp chí Xã hội học, Số 2 (54)
7. Mai Quỳnh Nam (2007), “Truyền thông và phát triển”, Tạp chí
Người làm báo, (11).

21



×