Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Nghiên cứu việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.7 KB, 75 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Nước ta là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống,
trong đó dân tộc Kinh là dân tộc đa số, 53 dân tộc thiểu số. Dân số 53 dân tộc
thiểu số chiếm tỷ lệ 14,3% dân số của cả nước. Hầu hết các dân tộc thiểu số ở
nước ta sinh sống ở miền núi, bao gồm 19 tỉnh miền núi, vùng cao, 23 tỉnh có
miền núi[30]. Đây là khu vực rộng lớn có địa hình hiểm trở, bị chia cắt, thường
xuyên bị thiên tai, lũ lụt, kinh tế còn nhiều khó khăn, kém phát triển. Đồng thời
đây cũng là khu vực biên giới, cửa ngõ thông thương với các quốc gia khác. Do
đó, việc phát triển kinh tế cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ
mang lại những ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế mà còn cả về chính trị,quốc
phòng an ninh của đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, công tác dân tộc, quan
điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta trong lãnh đạo thực hiện công tác dân
tộc và chính sách dân tộc là “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”[1].

Trong những chính

sách mà Nhà nước đang thực hiện thì phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc
thiểu số là một chủ trương lớn và được thực hiện thông qua hàng loạt chính
sách. Trong những năm qua, việc đề ra và tổ chức thực hiện nhiều chính sách hỗ
trợ, ưu đãi của Nhà nước đã tạo cho các khu vực đồng bào dân tộc thiểu số trong
cả nước có sự chuyển biến nhất định về nhiều mặt. Kinh tế vùng dân tộc và miền
núi có bước phát triển đáng kể, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm cao. Nền
kinh tế nhiều thành phần bước đầu hình thành và phát triển, chuyển dịch theo
hướng sản xuất hàng hoá. Công tác xoá đói giảm nghèo đạt được kết quả to lớn.
Hàng năm tỷ lệ đói nghèo ở vùng dân tộc và miền núi giảm từ 3 - 4%. Đời sống


của đồng bào các dân tộc được cải thiện đáng kể. Mặt bằng dân trí được nâng
cao.


Khánh Sơn là huyện miền núi và bán sơn địa nằm ở cực Tây tỉnh Khánh
Hòa với 15 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó các dân tộc thiểu số là
25.058 người, chiếm tỉ lệ 73,7%[16,tr.1]. Hiện nay, Khánh Sơn là một trong hai
huyện nghèo nhất của tỉnh Khánh Hòa, kinh tế còn nhiều khó khăn, chậm phát
triển. Trong những năm qua, Khánh Sơn luôn cố gắng thực hiện tốt các chính
sách của Đảng và Nhà nước cũng như của địa phương nhằm phát triển kinh tế
xã hội nói chung và kinh tế cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn nói
riêng và đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Đời sống của đồng bào các
dân tộc thiểu số đã được nâng cao, kinh tế đã bước đầu phát triển.Tuy nhiên
những kết quả ấy vẫn chưa thực sự xứng đáng với với những tiềm năng, lợi thế
sẵn có của Khánh Sơn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới việc các chính sách
trên địa bàn chưa đạt được hiệu quả cao mà những khó khăn, bất cập trong công
tác tổ chức thực hiện chính sách có thể xem là một trong những nguyên nhân
lớn, ảnh hưởng trực tiếp tới tính hiệu quả của các chính sách.
Từ các lý do kể trên, tác giả chọn đề tài “ Nghiên cứu việc thực hiện
chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Khánh
Sơn, tỉnh Khánh Hòa” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp để nghiên cứu, tìm hiểu
sâu hơn về vấn đề này. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác tổ chức thực hiện chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc
thiểu số trên địa bàn huyện.
2.

Tình hình nghiên cứu

Từ lâu, dân tộc là một đề tài lớn và trở thành đối tượng nghiên cứu của rất
nhiều ngành khoa học như Sử học, Văn hóa học, Triết học, Nhân chủng học... và

trong đó có cả quản lý nhà nước. Bởi thế,có rất nhiều nghiên cứu, công trình
xung quanh đề tài về dân tộc.
Trong lĩnh vực quản lý nhà nước thì dân tộc và quản lý nhà nước về dân tộc
là một vấn đề mang tính chiến lược bởi nó không chỉ góp phần quan trọng trong
việc giữ vững ổn định trật tự thực hiện mục tiêu chung về phát triển kinh tế - xã
hội. Chính vì thế, vấn đề dân tộc là một vấn đề không mới, đã có nhiều học giả,


nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Có thể khái lược một số công trình
sau:
- Phan Hữu Dật (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan
đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Viện Nghiên cứu Chính sách dân tộc và Miền núi (2002), Vấn đề dân tộc
và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Lê Ngọc Thắng (2005), Một số vấn đề về dân tộc và phát triển, NXB.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Viện dân tộc (2006), Giải pháp cải thiện đời sống cho đồng bào các dân
tộc thiểu số, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Ủy ban dân tộc (2006), Phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền
núi Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Thúy ( 2012), Luận văn Thạc sỹ Thực hiện chính sách dân
tộc trên địa bàn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên hiện nay, Trung tâm đào tạo,
bồi dưỡng giáo viên lý luận chính trị.
- Nguyễn Lâm Thành (2014), Luận án Tiến sĩ Chính sách phát triển vùng
dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam, Học viện Hành chính.
Các các nghiên cứu này đã đề cập, tập trung phân tích, đánh giá tới hệ
thống chính sách của nhà nước ta đối vấn đề dân tộc với các kết quả thực hiện
các chương trình nói chung, nêu ra những giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu lực
của hệ thống chính sách đồng thời cũng nghiên cứu tới vấn đề phát triển kinh tế

cho vùng DTTS.
Như vậy có thể nói lĩnh vực chính sách phát triển kinh tế cho vùng đồng
bào dân tộc thiểu số đã được nghiên cứu. Tuy nhiên hiện nay chưa có một công
trình nào nghiên cứu tới khía cạnh tổ chức thực hiện chính sách này trong thực
tế trên địa bàn cụ thể. Và tại huyện Khánh Sơn cũng chưa có đề tài nào nghiên


cứu về vấn đề này. Do đó đề tài “Nghiên cứu việc thực hiện chính sách phát
triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh
Hòa” là một đề tài có tính chất mới và không trùng lắp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, từ đó nghiên cứu thực trạng công tác tổ chức thực hiện chính sách này
trên địa bàn huyện Khánh Sơn nhằm đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu
quả việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu
số trên địa bàn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, khóa luận thực hiện các nhiệm vụ dưới
đây:
- Nghiên cứu hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách phát triển kinh tế
vùng đồng bào dân tộc thiểu số;
- Đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phát triển kinh tế vùng
đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa, nêu
lên những mặt đã làm được, chưa làm được cùng các nguyên nhân của công tác
này;
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện
chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện
Khánh Sơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác thực hiện chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc
thiểu số tại huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu


- Về thời gian: Từ năm 2006 đến năm 2013.
- Về không gian: Huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, tác giả tiếp cận đối tượng nghiên cứu bằng phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, lấy học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc nói chung, cụ thể về
các chính sách phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số nói riêng làm phương
pháp luận nghiên cứu.
Trong quá trình triển khai nội dung nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương
pháp cụ thể sau:
- Thu thập, nghiên cứu, phân tích tài liệu: Trên cơ sở các văn bản của Trung
ương và địa phương đã ban hành liên quan đến đề tài nghiên cứu, tác giả đã thu
thập và tiến hành phân tích, sử dụng những thông tin cần thiết làm cơ sở cho đề
tài;
- Phân tích – tổng hợp là phương pháp được sử dụng xuyên suốt trong quá
trình nghiên cứu để tìm hiểu, xem xét những nghiên cứu trước đây về nội dung
đề tài. Qua đó, rút ra những nội dung cần bổ sung, làm sáng tỏ mà những nghiên
cứu trước chưa đề cập;
- Phương pháp quan sát, được vận dụng thường xuyên trong quá trình
nghiên cứu đề tài.
6. Đóng góp của khóa luận
Đề tài nghiên cứu trên một lĩnh vực rộng bên cạnh rất nhiều đề tài về công
tác dân tộc và quản lý nhà nước về dân tộc. Khóa luận hướng đến mục tiêu
chung là nghiên cứu lý luận chung về chính sách phát triên kinh tế vùng đồng

bào dân tộc thiểu số, tìm hiểu thực trạng công tác tổ chức thực hiện chính sách
này trên địa bàn huyện Khánh Sơn, đánh giá những mặt đã làm được, chưa làm
được đồng thời đưa ra nguyên nhân của những hạn chế đó và đề xuất những giải


pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hiện chính sách. Bởi vậy, khóa luận
hoàn thành sẽ có những ý nghĩa ứng dụng sau:
Thứ nhất, khóa luận nghiên cứu quá trình tổ chức thực hiện chính sách do
đó đóng góp trực tiếp đầu tiên là nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách
phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Khánh Sơn.
Thứ hai, khóa luận nghiên cứu lý luận về chính sách dân tộc nói chung và
chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng bởi vậy
khi khóa luận hoàn thành sẽ góp phần hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về
dân tộc.
Thứ ba, khóa luận hoàn thành sẽ là tư liệu tham khảo trong công tác nghiên
cứu quản lý nhà nước về dân tộc và nghiên cứu chính sách nói chung, thực thi
chính sách trong khoa học Hành chính nói riêng, đồng thời cũng là nguồn tài
liệu cho các nghiên cứu về công tác tổ chức thực hiện chính sách dân tộc trên
địa bàn huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa sau này.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, phần chính
của đề tài được bố cục thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp lý của chính sách phát triển kinh tế vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
Chương 2. Thực trạng công tác thực hiện chính sách phát triển kinh tế vùng
đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thực hiện chính sách phát triển
kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Khánh Sơn, tỉnh
Khánh Hòa.


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ


1.1. Chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số
1.1.1. Khái niệm
Trong hệ thống công cụ quản lý được nhà nước dùng để điều hành hoạt
động kinh tế xã hội thì chính sách được coi là công cụ nền tảng định hướng cho
các công cụ khác. Trên phạm vi vĩ mô, chính sách công là công cụ quản lý quan
trọng. Thông qua việc ban hành và tổ chức thực thi các chính sách công, những
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội được hiện thực hóa… Vậy chính sách công là
gì?
Trong Đại cương về chính sách công (2014), Nguyễn Hữu Hải cho rằng:
“Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan đến nhau do nhà
nước ban hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết một vấn đề
công nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng nhất định [23,tr.21].
Chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS là một chính sách trong
hệ thống chính sách công nói chung và hệ thống chính sách dân tộc nói riêng.
Đối tượng của chính sách hướng tới là đồng bào DTTS, vùng DTTS. Theo điều
4, Nghị định số 05/ NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về công
tác dân tộc thì DTTS là “những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số
trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và “dân tộc
đa số là dân tộc có số dân chiếm trên 50% tổng dân số của cả nước, theo điều
tra dân số quốc gia” [2,tr.4].
Đồng bào DTTS cư trú thành những cộng đồng, những vùng dân tộc gọi là
vùng DTTS. “Vùng DTTS là địa bàn có đông các dân tộc thiểu số cùng sinh
sống ổn định thành cộng đồng trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”[2,tr.4].
Chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS ra đời trên cơ sở các
chính sách về dân tộc và chính sách phát triển của Đảng và nhà nước ta. Trong

đó, “chính sách dân tộc là những quyết sách của Đảng, Nhà nước được thực thi
thông qua bộ máy hành pháp nhằm quản lý và phát triển kinh tế, chính trị, văn


hoá, xã hội đối với các dân tộc và vùng dân tộc nhằm thiết lập sự bình đẳng và
hoà nhập phát triển, củng cố, tăng cường đoàn kết thống nhất của cộng đồng
các dân tộc” [24 ].
Chính sách phát triển là “tổng thể các nguyên tắc hoạt động, cách thức
thực hiện và phương pháp quản lý hành chính và ngân sách nhà nước làm cơ sở
và tạo lập môi trường cho sự phát triển” [24].
Ở đây, chúng ta có thể hiểu “ phát triển là kết quả của những thay đổi về
giá trị, gắn liền với các thay đổi trong các hoạt động kinh tế và xã hội liên quan
đến tăng cường sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống. Phát triển dựa trên
4 trụ cột là: nhân lực, kinh tế, thể chế chính trị và xã hội” [24].
Trên cơ sở nghiên cứu các khái niệm về các chính sách liên quan, trong nội
dung khóa luận tác giả xin đưa ra khái niệm chính sách phát triển kinh tế vùng
đồng bào dân tộc thiểu số như sau:
Chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS là chính sách công do
Nhà nước ban hành, bao gồm tổ hợp những chính sách hướng tới mục tiêu phát
triển về kinh tế cho vùng có đông đồng bào DTTS sinh sống, thường gắn với
điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.
Chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS hướng tới vai trò tạo
dựng nền tảng phát triển cho các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng cùng phát triển, phát huy năng lực nội sinh, hài hòa quan hệ các dân
tộc. Bốn cách thức nhà nước trợ giúp phát triển qua chính sách gồm: Cung cấp
các nguồn lực, cơ sở vật chất cho các vùng, hộ gia đình... Cách thức tổ chức để
tăng cường hoạt động của các tổ chức kinh tế, xã hội, tổ chức nghề nghiệp hoặc
năng lực tự tổ chức của cá nhân trong quá trình phát triển. Giáo dục giúp người
dân nâng cao dân trí, có thêm kiến thức, thông tin, kinh nghiệm cần thiết. Bảo
đảm thực thi tốt các chính sách y tế và các chính sách an sinh xã hội khác.

Mục tiêu chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS là tạo ra sự
bền vững về phát triển kinh tế đồng thời với phát triển xã hội, văn hóa và về môi


trường. Đẩy nhanh tốc độ tăng tưởng kinh tế, tăng cường ứng dụng, chuyển giao
các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, thay đổi tập quán sản xuất lạc hậu,
tạo sự chuyển biến mạnh về sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, tăng cường cải
thiện sinh kế, nâng cao đời sống cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bảo vệ tốt
các nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái, nhất là tài nguyên rừng
và khoáng sản[24].
Thực tiễn tình hình nước ta hiện nay cho thấy, phần lớn đồng bào DTTS có
đời sống gặp nhiều khó khăn, kinh tế tại các vùng DTTS còn nghèo nàn, chậm
phát triển do đó ban hành và tổ chức thực hiện chính sách phát triển kinh tế vùng
đồng bào DTTS là điều vô cùng cần thiết và cấp bách.
1.1.2.

Sự cần thiết phải thực hiện chính sách phát triển kinh tế vùng

đồng bào dân tộc thiểu số
Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc, mỗi dân tộc có đặc điểm tiềm
năng kinh tế, bản sắc văn hoá, ngôn ngữ riêng nhưng cùng có chung truyền
thống đoàn kết xây đắp ngay từ thủa dựng nước và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa ngày nay.
Các dân tộc thiểu số ở nước ta hầu hết cư trú và sinh sống ở vùng miền núi,
một số ít ở đồng bằng, trải rộng trên 3/4 diện tích cả nước. Đây là nơi đầu nguồn
của nhiều sông suối, có tiềm năng lớn về thuỷ lợi, thuỷ điện, là vùng có nhiều tài
nguyên khoáng sản, là nơi có điều kiện đất đai phát triển nhiều loại cây công
nghiệp, cây ăn quả, đặc sản, chăn nuôi và phát triển nghề rừng, là nơi cung cấp
lâm thổ sản cho miền xuôi và xuất khẩu, các dân tộc vững vàng dũng cảm bảo
vệ dải biên giới đất liền với 3 nước Trung Quốc, Lào và Campuchia

Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, các văn kiện, Nghị quyết đã xác
định vị trí quan trọng của vùng đồng bào dân tộc và miền núi trong chiến lược
giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những chủ trương, chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ cách mạng từng bước hoàn chỉnh
và dần dần được thể chế vào Hiến pháp của nước ta. Nhà nước đã đầu tư mở


mang vùng miền núi và cải thiện đời sống đồng bào các dân tộc, nhất là từ sau
Nghị quyết 22 -TW của Bộ Chính trị khoá 6 (tháng 11/1989) và quyết định 72HĐBT năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về một số chủ
trương, chính sách lớn phát triển kinh tế -xã hội miền núi, nên việc đầu tư cho
miền núi và vùng dân tộc đã có bước chuyển biến căn bản cả về lượng và chất.
Đến nay, bộ mặt miền núi và vùng dân tộc đã có những thay đổi đáng kể : Đời
sống vật chất, tinh thần đồng bào các dân tộc được cải thiện, nhiều vùng đồng
bào đã thoát cảnh đói như trước đây, tình trạng du canh du cư của đông bào một
số vùng nay đã từng bước ổn định, nhiều hộ đồng bào đã trở nên giàu có...
Tuy nhiên, trên thực tế sự phát triển kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số thời gian qua vẫn trong nhịp độ chậm, chưa đồng đều ở mọi vùng, nhất là
đồng bào ở vùng cao, biên giới, vùng sâu xa, tình trạng khó khăn, nghèo đói vẫn
còn chiếm tỷ lệ cao, vẫn còn khoảng cách chênh lệch về đời sống giữa các vùng
và các dân tộc. Hiện nay phần lớn các dân tộc thiểu số ở nước ta có mức sống
thấp, tỷ lệ đói nghèo cao, chậm phát triển hơn so với dân tộc đa số. Một số dân
tộc vẫn còn trong tình trạng tự cung tự cấp, du canh du cư. Đời sống của đồng
bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa gặp rất nhiều khó khăn
trong quá trình phát triển kinh tế. Do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là
những nguyên nhân lịch sử để lại và do điều kiện địa lý, tự nhiên khắc nghiệt ở
địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc, nên trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
các dân tộc không đồng đều. Một số dân tộc đã phát triển kinh tế - xã hội tương
đối cao, nhưng còn nhiều dân tộc vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, chậm phát
triển.
Chính vì thế, việc phát triển kinh tế, chăm lo đời sống cho đồng bào dân tộc

thiểu số là một trong những nhiệm vụ cấp thiết mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra.
Yêu cầu lúc này là phải nhanh chóng phát triển kinh tế, nâng cao đời sốngvật
chất cho đồng bào dân tộc thiểu số, xóa đói, giảm nghèo đặc biệt là ở vùng sâu,
vùng xa, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Đặc biệt cần phải xây dựng chính sách
phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhằm nâng cao chất lượng


cuộc sống cho bà con, rút hẹp khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa
các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi.
Thực hiện chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số
không chỉ thể hiện sự quan tâm của Đảng và nhà nước đối với đồng bào dân tộc
thiểu số mà còn là một trong những yếu tố quan trọng đóng góp to lớn trong tiến
trình phát triển nói chung của đất nước.
1.1.3.

Vai trò của chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc

thiểu số
Chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số là một trong
những chính sách lớn của Đảng và nhà nước ta. Thực hiện chính sách này có
hiệu quả trong thực tế sẽ mang lại nhiều lợi ích cho đối tượng thụ hưởng trực
tiếp là đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng khác trong xã hội.
Thứ nhất, chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và góp phần ổn định xã hội. Thông qua việc thực
hiện chính sách và cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế sẽ làm giảm nhanh tỷ
lệ nghèo đói, nâng cao thu nhập, mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số, đặc
biệt là khu vực miền núi, vùng còn nhiều khó khăn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
bền vững, góp phần ổn định xã hội.
Thứ hai, thực hiện chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc
thiểu số sẽ từng bước thực hiện công bằng xã hội và nâng cao vị thế của đồng

bào. Nếu các chỉ tiêu cần đạt được thành công sẽ hạn chế được tốc độ gia tăng
khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, miền, giữa các nhóm dân cư;
cải thiện đáng kể khả năng tiếp cận của đồng bào DTTS về các dịch vụ phát
triển sản xuất, dịch vụ xã hội cơ bản và nâng cao vị thế của đồng bào DTTS.
Thứ ba, thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS
góp phần không nhỏ bảo vệ môi trường sống. Chúng ta đều biết, nghèo đói,
kinh tế chậm phát triển có mối quan hệ chặt chẽ với bảo vệ môi trường, một khi
nghèo đói được giải quyết, kinh tế phát triển thì môi trường cũng được bảo vệ và


phát triển tốt hơn, đặc biệt là khu vực có có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống
thường là khu vực miền núi, nơi có diện tích rừng lớn.
Thứ tư,chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số tạo
điều kiện nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ. Thông qua thực hiện
chính sách với hàng loạt cơ chế, dự án và cách tiếp cận đa ngành để giải quyết
vấn đề phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số, kết hợp với các hoạt
động đào tạo cán bộ theo phương pháp mới, chắc chắn năng lực của đội ngũ cán
bộ các cấp sẽ được nâng cao đặc biệt là cán bộ làm công tác phát triển kinh tế ở
cấp cơ sở.
Có thể thấy khi các chính sách này được đưa vào thực hiện trong đời sống
xã hội nó sẽ mang lại lợi ích không nhỏ không chỉ về kinh tế, mà còn mang lại
những ý nghĩa quan trọng cả về chính trị, quốc phòng, an ninh bởi đa số đồng
bào DTTS cư trú tại miền núi, vùng sâu, biên giới, hải đảo. Thực hiện tốt chính
sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số là góp phần thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh mà Đảng và nhà
nước ta đang theo đuổi.
1.2. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân
tộc thiểu số
1.2.1.


Khái niệm

Theo nguyên lý triết học, xung quanh chúng ta là các dạng vật chất tồn tại
khách quan với những chức năng nhất định. Chức năng là lý do tồn tại của các
dạng thức vật chất nhất định. Chính sách là một dạng thức vật chất đặc biệt nên
nó cũng cần thực hiện các chức năng để tồn tại. Muốn thực hiện chức năng,
chính sách phải tham gia vào quá trình vận động như các dạng thức vật chất
khác. Nghĩa là sau khi ban hành chính sách phải được đem vào thực hiện trong
thực tế đời sống xã hội. Do đó, tổ chức thực hiện (thực thi) chính sách là tất yếu
khách quan để duy trì sự tồn tại của công cụ chính sách theo yêu cầu quản lý của


Nhà nước và cũng là để đạt được mục tiêu đề ra của chính sách[21,tr.76]. Từ
cách tư duy này có thể hiểu khái niệm tổ chức thực hiện chính sách như sau:
Tổ chức thực hiện (thực thi) chính sách là toàn bộ quá trình chuyển ý chí
của chủ thể trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm
đạt được mục tiêu định hướng [21,tr.77].
Chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số là một chính
sách nằm trong hệ thống các chính sách của Nhà nước. Nó muốn tồn tại, muốn
phát huy tác dụng của mình thì cũng phải được đem vào thực thi, thực hiện trong
thực tế đời sống.
Tổ chức thực thi chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu
số là toàn bộ quá trình biến ý chí của Nhà nước thành hiện thực bao gồm các
hoạt động triển khai, phối hợp thực hiện, kiểm tra đôn đốc và hiệu chỉnh cùng
các biện pháp tổ chức thực thi nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.
Như vậy có thể thấy tổ chức thực hiện chính sách công nói chung và chính
sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng là một tất yếu
khách quan, đáp ứng yêu cầu của thực tế đời sống xã hội.
1.2.2.


Vị trí, ý nghĩa của thực hiện chính sách

Chúng ta đều biết, tổ chức thực hiện chính sách là một khâu hợp thành chu
trình chính sách. Nếu thiếu vắng công đoạn này thì chu trình chính sách không
thể tồn tại vì nó là bước trung tâm kết nối các bước trong chu trình chính sách
thành một hệ thống, nhất là với hoạch định chính sách.Chúng ta đều biết hoạch
định một chính sách tốt là hết sức khó khăn và trải qua nhiều giai đoạn nhưng
cho dù chính sách có tốt đến mấy nhưng nếu không được được tổ chức thực hiện
hay thực thi kém thì nó cũng không mang lại hiệu quả, không đạt được mục tiêu
mà uy tín của nhà nước cũng bị ảnh hưởng. So với các khâu khác trong chu trình
chính sách, tổ chức thực hiện có vị trí đặc biệt quan trọng, vì đây là bước thực


hiện hóa chính sách trong đời sống xã hội. Chính sách có hiệu quả hay không
phụ thuộc rất nhiều vào quá trình thực hiện chính sách [21,tr.77].
Tổ chức thực thi chính sách để từng bước thực hiện mục tiêu chính sách và
mục tiêu chung. Mục tiêu của chính sách có liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều
lĩnh vực nên không thể cùng giải quyết hết tất cả mà phải lần lượt, và việc thực
thi chính sách giải quyết mối quan hệ biện chứng với mục tiêu chung do đó nó
có thể giải quyết các vấn đề đặt ra.Trong thực tế,mục tiêu chính sách chỉ có thể
đạt được thông qua thực thi chính sách, đồng thời các mục tiêu của chính sách
có quan hệ và ảnh hưởng đến mục tiêu chung.
Thực hiện chính sách cũng góp phần thể hiện sự đúng đắn của chính
sách.Qua thực thi giúp chính sách ngày càng hoàn chỉnh bởi trong quá trình thực
hiện sẽ khắc phục những hạn chế của chính sách do quá trình hoạch định.
Những luận giải đó cho ta thấy vị trí quan trọng của thực thi chính sách, từ
đó có ý thức tự giác trong thực thi chính sách. Có thể thấy vai trò, vị trí của thực
hiện chính sách qua sơ đồ [21,tr.32]:
Sơ đồ 1. Chu trình chính sách


Xác định vấn đề

Hoạch định CS

Thực hiện CS

Phát hiện mâu
thuẫn

Phân tích CS

Duy trì CS

Đánh giá CS

( Nguồn: Giáo trình Hoạch định và phân tích chính sách)


Chú thích:

Chỉ sự luân chuyển trong chu trình chính sách
Chỉ mối liên hệ trực tiếp

Từ vị trí của thực thi chính sách chúng ta đã nắm rõ được vị trí của nó trong
chu trình chính sách cũng như tầm quan trọng của thực hiện chính sách tới hiệu
quả của chính sách. Vậy quy trình tổ chức thực hiện chinh sách bao gồm các
bước nào?
1.2.3.


Các bước tổ chức thực hiện

Do tầm quan trọng của giai đoạn hiện thực hóa chính sách, nên các cơ quan
nhà nước, các cấp chính quyền địa phương cần đặc biệt quan tâm chỉ đạo sát sao
công tác tổ chức thực hiện. Để tổ chức điều hành có hiệu quả công tác thực thi
chính sách, cán bộ công chức nhà nước cần thực hiện nhiều nội dung quản lý
khác nhau, nhưng trước hết cần tuân thủ các bước thực hiện chính sách bao gồm
07 bước. Chúng ta có thể khái quát quy trình qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2. Các bước tổ chức thực hiện chính sách
Xây dựng KH
triển khai

(1)

Phổ biến, tuyên
truyền CS

Phân công, phối
hợp thực hiện

(2)

(3)
Duy trì Chính
sách

(4)

Đánh giá, tổng
kết


(7)
Chú giải:

Theo dõi, KT,
đôn đốc TH

(6)

Điều chỉnh Chính
sách

(5)

Chỉ sự luân chuyển trong thực hiện chính sách.

Tổ chức thực hiện chính sách là một chuỗi các bước từ xây dựng kế hoạch
cho tới đánh giá, tổng kết. Theo đó, bước đầu tiên – lập kế hoạch thực hiện
chính sách chính là bước quan trọng nhất, bởi đó là bước đầu tiên làm cơ sở cho


các bước tiếp theo. Bước này cũng đã dự kiến cả việc triển khai thực hiện kế
hoạch phân công thực hiện, tuyên truyền, kiểm tra…Tuy nhiên điều này không
có nghĩa là các bước còn lại trong thực hiện chính sách không quan trọng. Mỗi
bước đóng vai trò nhất định trong quy trình và đều có ảnh hưởng tới kết quả và
hiệu quả của chính sách. Về mặt lý thuyết, điều này có nghĩa là trong quá trình
tổ chức thực hiện chính sách, bắt buộc phải thực hiện đầy đủ các bước, không
được bỏ qua một bước nào hay chỉ chú trọng một bước mà không làm tốt các
bước còn lại. Giữa các bước có mối quan hệ khăng khít, gắn bó với nhau, thực
hiện tốt bước này là tiền đề để bước sau hoàn thành tốt. Do đó, một yêu cầu

trong thực hiện chính sách đó chính là thực hiện đủ và đúng trình tự các bước.
Tuy nhiên, do thực hiện chính sách là một quá trình thực tiễn nên trong
quá trình triển khai tất yếu sẽ có những thay đổi để phù hợp với tình hình thực
tế. Nghĩa là trong thực tiễn, quá trình triển khai chính sách vẫn thực hiện đầy đủ
các bước trong quy trình nhưng thứ tự một số bước có thể sẽ được thay đổi hoặc
thực hiện xem kẽ nhau,
Các bước trong thực hiện chính sách được tiến hành thường xuyên, muốn thực
hiện có hiệu quả cần phải nắm rõ nội dung cụ thể từng bước trong quá trình, nội
dung cụ thể của 07 bước thực hiện chính sách như sau [21,tr.81].
1.2.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
Đây là bước đầu tiên trong quá trình thực hiện. Các cơ quan nhà nước từ
trung ương tới địa phương phải tiến hành lập kế hoạch để có thể tiến hành một
cách chủ động hoàn toàn. Kế hoạch được xây dựng bao gồm:
- Kế hoạch về tổ chức, điều hành.
- Kế hoạch cung cấp nguồn vật lực.
- Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện.
- Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách.
- Dự kiến những nội dung, quy chế về tổ chức, điều hành…


Sau khi được quyết định thông qua, kế hoạch thực thi chính sách có giá trị
pháp lý, được mọi người chấp hành.
1.2.3.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách
Tuyên truyền phổ biến chính sách là khâu tiếp theo trong quy trình tổ chức
thực hiện chính sách. Đây là hoạt động quan trọng, có ý nghĩa đối với cả cơ
quan nhà nước và đối tượng chính sách.
- Tuyên truyền vận động nhân dân tham gia thực hiện chính sách,hiểu rõ
mục đích, yêu cầu của chính sách; về tính đúng đắn của chính sách để họ tự giác
thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước.
- Muốn tuyên truyền tốt chúng ta phải được đầu tư về trình độ chuyên môn,

phẩm chất chính trị, trang thiết bị kỹ thuật…
- Tuyên truyền, vận dụng thực thi chính sách được thực hiện thường xuyên,
liên tục bằng nhiều hình thức như trực tiếp tiếp xúc, trao đổi với đối tượng tiếp
nhận; gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng… ngay cả khi chính
sách đang được thi hành nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất cho kết quả thực hiện.
1.2.3.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách
Sau khi đã thông qua kế hoạch thực hiện chính sách và phổ biến, tuyên
truyền chính sách tới đối tượng, cần tiến hành phân công, phối hợp việc thực
hiện. Chính sách được thực hiện trên phạm vi lớn, vì thế số lượng các nhân và
các cơ quan tham gia thực thi là rất lớn, các hoạt động cũng rất phong phú, phức
tạp theo không gian và thời gian. Do đó, muốn tổ chức thực thi chính sách có
hiệu quả phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý ngành,
các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham gia thực thi chính sách và các
quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách.
Hoạt động phân công, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách
một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách.


1.2.3.4. Duy trì chính sách
Duy trì chính sách là làm cho chính sách tồn tại được và phát huy tác
dụng trong môi trường thực tế. Muốn cho chính sách được duy trì đòi hỏi phải
có sự đồng tâm, hợp lực của cả người tổ chức, người thực thi và môi trường tồn
tại.
Đối với các cơ quan nhà nước – Người chủ động thực hiện chính sách thì
cần thường xuyên quan tâm tuyên truyền, vận động các đối tượng chính sách và
toàn xã hội tích cực tham gia thực thi chính sách.
Đối với người chấp hành chính sách có trách nhiệm tham gia thực hiện theo
yêu cầu của Nhà nước và vận động lẫn nhau tích cực chấp hành chính sách của
Nhà nước.

1.2.3.5. Điều chỉnh chính sách
Điều chỉnh chính sách là một hoạt động cần thiết diễn ra thường xuyên
trong tiến trình tổ chức thực hiện chính sách. Nó được thực hiện bởi cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền để cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản
lý và tình hình thực tế.Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính sách thì có
quyền điều chỉnh, bổ sung chính sách, nhưng trên thực tế việc thực hiện điều
chỉnh các biện pháp, cơ chế chính sách diễn ra rất linh hoạt, miễn là không là
thay đổi mục tiêu chính sách.
Hoạt động điều chỉnh chính sách đòi hỏi phải chính xác, hợp lý nếu không sẽ
làm biến dạng chính sách, làm cho chính sách kém hiệu quả thậm chí không tồn tại
được. Muốn đáp ứng được những đòi hỏi chính đáng trên đây, cơ quan Nhà nước,
các cấp, các ngành phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra đôn đốc việc thực thi thì
mới kịp thời phát hiện ra những chênh lệch, sai sót để điều chỉnh,bổ sung.
1.2.3.6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách
Thực thi chính sách diễn ra trên địa bàn rộng và do nhiều tổ chức, cơ quan
tham gia. Các điều kiện kinh tế, xã hội, môi trường ở mỗi địa phương cũng
không giống nhau,năng lực thực thi của đội ngũ cán bộ công chức cũng không


đồng đều do đó các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành theo dõi kiểm tra việc
thực thi chính sách. Việc theo dõi, kiểm tra sẽ giúp nhà quản lý nắm được tình
hình thực hiện chính sách từ đó đưa ra được những đánh giá chính xác, giúp
phát hiện những sai sót trong quá trình hoạch định cũng như thực thi, tiến hành
bổ sung, điều chỉnh kịp thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách.
1.2.3.7. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm
Tổ chức thực thi chính sách được tiến hành liên tục trong quá trình duy trì
chính sách. Đánh giá, tổng kết là quá trình xem xét về chỉ đạo – điều hành và
chấp hành của các đối tượng chính sách.
Đối tượng được xem xét về chỉ đạo điều hành thực thi chính sách là các cơ
quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Ngoài ra còn xem xét vai trò của các tổ

chức chính trị - xã hội trong việc thực thi chính sách.Bên cạnh đó còn đánh giá
sự tham gia của các đối tượng chính sách vào quá trình thực thi chính sách bao
gồm các đối tượng thụ hưởng trực tiếp và thụ hưởng gián tiếp từ chính sách,
nghĩa là toàn bộ thành viên xã hội với tư cách là công dân.
1.2.4.

Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực thi

Quá trình tổ chức thực hiện chính sách diễn ra trong thời gian dài và liên
quan đến nhiều tổ chức, cá nhân, vì thế kết quả tổ chức thực thi chính sách cũng
sẽ chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Nắm chắc được các yếu tố tác động,
người chỉ đạo điều hành có thể thúc đẩy những yếu tố tác động tích cực, ngăn
chặn hay hạn chế các yếu tố tiêu cực đến việc tổ chức thực thi chính sách. Đồng
thời có thể tạo lập môi trường thuận lợi cho các yếu tố đó vận động phù hợp với
yêu cầu định hướng. Chúng ta có thể phân loại các yếu tố ảnh hưởng tới quá
trình thực thi chính sách như sau[ 21,tr.90]:
1.2.4.1. Yếu tố khách quan
Yếu tố khách quan là những yếu tố xuất hiện và tác động đến tổ chức thực
thi chính sách từ bên ngoài, độc lập với ý muốn của chủ thể quản lý. Các yếu tố
này tồn tại và vận động theo quy luật khách quan, ít tạo ra những biến đổi thất


thường, do đó không gây được sự chú ý của các chủ thể quản lý.Nhưng tác động
của chúng đến quá trình thực thi chính sách lại rất lớn, vì cơ chế tác động giữa
chúng với các vấn đề chính sách được hình thành trên cơ sở của quy luật
[14.tr 91].Những yếu tố khách quan có thể kể ra đó là:
 Tính chất của vấn đề chính sách
Yếu tố gắn liền với mỗi vấn đề chính sách. Có tác động đến việc giải quyết
vấn đề bằng chính sách và tổ chức thực thi chính sách. Nếu vấn đề chính sách là
đơn giản, liên quan đến ít đối tượng chính sách thì công tác tổ chức thực thi sẽ

thuận lợi hơn nhiều so với các vấn đề có tính phức tạp và có quan hệ lợi ích với
nhiều đối tượng trong xã hội[21,tr.91].
Chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS là một chính sách lớn,
vấn đề chính sách tương đối phức tạp bởi liên quan đến nhiều dân tộc, nhóm dân
tộc cũng như phạm vi thực hiện rộng lớn. Bởi thế, công tác tổ chức thực hiện
chính sách này sẽ gặp không ít khó khăn. Tính chất cấp bách của vấn đề chính
sách Phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS cũng tác động rất lớn đến kết quả
tổ chức thực thi chính sách. Đây không phải là vấn đề bức xúc, nhưng là vấn đề
mang tính chiến lược quan trọng, cần được giải quyết ngay. Do đó nhà nước sẽ
ưu tiên các nguồn lực để thực hiện chính sách này trong thời gian sớm nhất.
Trong điều kiện hiện nay Nhà nước ta đang ưu tiên cho chính sách phát triển
kinh tế cho bà con DTTS để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu về chất lượng của
đời sống của đồng bào, nhất là ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa , vùng đặc
biệt khó khăn. Qua đó có thể thấy, tính chất của vấn đề chính sách là yếu tố
khách quan có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ chức thực thi chính sách nhanh
hay chậm, thuận lợi hay khó khăn…
 Môi trường thực thi chính sách
Môi trường thực thi chính sách là yếu tố liên quan đến các hoạt động kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, môi trường tự nhiên và quốc
tế…các hoạt động này diễn ra theo quy luật trong những điều kiện cụ thể nên nó


độc lập với quá trình thực thi chính sách. Theo nghĩa rộng, môi trường thực thi
chính sách chứa đựng toàn bộ các thành phần vật chất và phi vật chất tham gia
thực thi chính sách như các nhóm lợi ích có được từ chính sách trong xã hội, các
điều kiện kinh tế kỹ thuật trong nền kinh tế, bầu không khí chính trị, xã hội trật
tự, quan hệ quốc tế rộng mở[21,tr.92].
Ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xã hội ổn định,
không biến đổi về mặt chính trị đưa đến sự ổn định trong hệ thống hệ thống
chính sách, cũng góp phần thuận lợi cho thực hiện chính sách phát triển kinh tế

vùng đồng bào DTTS. Mặt khác, trình độ tổ chức điều hành của các cơ quan
Nhà nước, với cơ chế chính sách đang tồn tại thì có tác dụng thúc đẩy các hoạt
động tổ chức thực thi chính sách.
 Mối quan hệ giữa các đối tượng thực thi chính sách
Mối quan hệ giữa các đối tượng thực thi chính sách thể hiện sự thống nhất
hay không về lợi ích của các đối tượng trong quá trình thực hiện mục tiêu chính
sách[21,tr.93]. Mục tiêu chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS là
phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất do đó đáp ứng được nguyện vọng
của đồng bào DTTS. Do không có mâu thuẫn về lợi ích nên khi chính sách này
được tổ chức thực hiện các đối tượng của chính sách mà cụ thể là DTTS thì bà
con hết sức ủng hộ, tham gia thực hiện chính sách nghiêm túc và tự giác. Không
chỉ mâu thuẫn lợi ích giữa các đối tượng chính sách làm ảnh hưởng đến công
tác tổ chức thực hiện, mà còn sự không đồng nhất giữa các cơ quan chỉ đạo, điều
hành thực thi chính sách.
 Tiềm lực của các đối tượng chính sách
Tiềm lực được hiểu là thực lực và tiềm năng mà mỗi nhóm có được trong
mối quan hệ so sánh với cá nhóm đối tượng khác. Tiềm lực của nhóm lợi ích
được thể hiện trên các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội…cả về quy mô lẫn
trình độ[21,tr.93].


Đồng bào DTTS hầu hết đều đang sống trong tình trạng nghèo đói, đời
sống còn nhiều khó khăn, tiềm lực kinh tế chưa thực sự mạnh, trình độ dân trí
còn thấp. Họ chưa có nguồn vốn để tự phát triển sản xuất mà phải phụ thuộc vào
các chính sách của Nhà nước. Bên cạnh đó, do xuất phát điểm thấp cộng với
việc chưa nắm vững khoa học kỹ thuật nên năng suất sản xuất còn thấp… Đây
là một trong những tác nhân gây cản trở tới quá trình thực hiện chính sách phát
triển kinh tế vùng đồng bào DTTS.
 Đặc tính của đối tượng chính sách
Là những tính chất đặc trưng mà các đối tượng có được từ bản tính cố hữu

hoặc do môi trường sống tạo nên qua quá trình vận động mang tính lịch sử.
Những đặc tính này thường có liên quan đến tính tự giác, tính kỷ luật, tính sáng
tạo, lòng quyết tâm, tính truyền thống... Đặc tính gắn liền với mỗi đối tượng
thực thi chính sách nên các chủ thể tổ chức điều hành cần biết cách khơi gợi hay
kiềm chế nó để có được kết quả tốt nhất cho quá tình thực thi chính
sách[21,tr.94].
Thực tế ở nước ta cho thấy trong quá trình thực hiện các chính sách dân
tộc, những người làm quản lý phải am hiểu về đối tượng của họ. Đồng bào
DTTS có tính cộng đồng rất cao, già làng là những người có uy tín, được đồng
bào tôn trọng. Bởi vậy, việc tranh thủ uy tín của những người này với đồng bào
sẽ tạo nên hiệu quả không nhỏ trong quá trình thực thi chính sách.
1.2.4.2. Yếu tố chủ quan
Các yếu tố khách quan có tác động rất lớn đến quá trình tổ chức thực hiện
chính sách công nói chung và chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS
nói riêng, nên Nhà nước luôn quan tâm nghiên cứu ứng phó với các tác động của
các yếu tố này. Đối với các yếu tố này chúng ta không thể cải biến tính khách
quan của nó, mà chỉ tìm cách điều chỉnh các hoạt động quản lý điều hành cho
phù hợp với quy luật vận động trong mỗi điều kiện không gian và thời gian.
Những hoạt động như vậy hoàn toàn mang tính chủ ý của người tổ chức thực thi


chính sách. Các yếu tố thuộc về công quyền, do cán bộ - công chức chủ động chi
phối đến quá trình thực thi chính sách được coi là những yếu tố chủ quan. Dưới
đây là một số những yếu tố chủ quan chi phối đến quá trình tổ chức thực thi
chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS [21,tr.94].


Thực hiện đúng, đầy đủ các bước trong quy trình tổ chức thực

hiện chính sách.

Quy trình thực thi chính sách được coi là những nguyên ý khoa học được
đúc rút từ thực tế cuộc sống. Việc tuân thủ quy trình cũng là một trong những
nguyên tắc hành động của các nhà quản lý. Mỗi bước trong quy trình đều có vị
trí, ý nghĩa to lớn đối với quá trình thực thi chính sách. Điều này có nghĩa là quá
trình thực hiện chính sách sẽ bị ảnh hưởng nếu chúng ta không tuân thủ đúng
quy trình tổ chức thực hiện chính sách, không thực hiện đầy đủ các bước trong
quy trình hay làm sai thứ tự các bước [21,tr.95].
Với chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS cũng vậy, nếu
chúng ta không tuyên truyền, phổ biến vận động chính sách tới đồng bào DTTS
thì họ sẽ không nhận thức được đầy đủ mục tiêu chính sách, đồng thời cũng
không thấy được lợi ích mang lại từ chính sách. Nếu chúng ta tuyên truyền sâu
rộng về chính sách này cho bà con thì sẽ củng cố thêm niềm tin của mình vào
chính sách của nhà nước.
Sau khi làm rõ lợi ích của chính sách đối với đời sống của bà con, các cơ
quan nhà nước tiếp tục vận động đồng bào DTTS tích cực thực hiện. Kết hợp
với các hoạt động phổ biến, tuyên truyền chính sách với vận động thực thi sẽ
giúp bà con nêu cao tinh thần tự nguyện, tự giác trong thực hiện chính sách.
Đồng thời họ còn vận động lẫn nhau chấp hành chính sách, tạo thành những
phong trào thi đua thực hiện chính sách.Như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động tổ chức thực thi chính sách.


 Năng lực thực thi của đội ngũ cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý Nhà nước là yếu tố chủ quan có
vai trò quyết định đến kết quả tổ chức thực hiện chính sách. Năng lực thực thi
của đội ngũ cán bộ công chức là thước đo bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về
đạo đức công vụ, về năng lực thiết kế tổ chức, năng lực thực tế, năng lực phân
tích, dự báo để có thể chủ động ứng phó với các tình huống phát sinh trong
tương lai… Các cán bộ, công chức trong cơ quan công quyền khi được giao
nhiệm vụ tổ chức thực thi chính sách cần nêu cao tinh thần trách nhiệm và chấp

hành kỷ luật công vụ trong lĩnh vực này mới đạt hiệu quả thực thi. Tinh thần
trách nhiệm và ý thức chấp hành được biểu hiện thành năng lực thực tế. Đây là
yêu cầu quan trọng đối với mỗi cán bộ công chức để thực hiện việc chuyển tải ý
đồ chính sách của Nhà nước vào cuộc sống. Nếu thiếu năng lực thực tế, các cơ
quan có thẩm quyền tổ chức thực thi chính sách sẽ đưa ra những kế hoạch dự
kiến không sát với thực tế, làm lãng phí nguồn lực huy động, làm giảm hiệu lực,
hiệu quả của chính sách, thậm chí còn làm biến dạng chính sách trong quá trình
thực hiện…năng lực thực tế và đạo đức công vụ của cán bộ công chức còn thể
hiện ở thủ tục giải quyết các vấn đề trong quan hệ giữa các cơ quan nhà nước
với các cá nhân và tổ chức trong xã hội. Nhìn chung, cán bộ , công chức có năng
lực thực thi chính sách tốt, không những chủ động điều phối được các yếu tố chủ
quan tác động theo định hướng, mà còn khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực
của các yếu tố khách quan để công tác tổ chức thực thi mang lại hiệu quả thực
sự [21,tr.96]
 Điều kiện vất chất cần cho quá trình thực thi chính sách
Chúng ta đều biết, điều kiện vất chất cần cho quá trình thực thi chính sách
là yếu tố ngày càng có vị trí quan trọng để cùng nhân sự và các yếu tố khác thực
hiện thắng lợi chính sách của Nhà nước. Theo quy luật phát triển, các hoạt động
kinh tế xã hội ngày càng được tăng cường về quy mô và trình độ để thỏa mãn
nhu cầu ngày càng cao của đời sống xã hội. Quy mô các hoạt động trên không


chỉ tăng về lượng mà còn lan tỏa trên một không gian rộng, vượt ra khỏi phạm
vi biên giới quốc gia đồng thời đa dạng, phức tạp hơn[21,tr.97].
Điều đó nghĩa là trong quá trình thực hiện chính sách phát triển kinh tế
vùng đồng bào DTTS Nhà nước phải tăng cường nguồn lực vật chất và nhân sự,
trong đó nguồn lực vật chất cần tăng nhanh về số lượng và chất lượng. Chính
sách này sẽ không thể thực hiện nếu thiếu vốn đầu tư, hoặc quá trình giải ngân
vốn chậm, điều này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện chính sách
đồng thời tăng chi phí phát sinh, ảnh hưởng tới hiệu quả chung của chính sách.

Bên cạnh đó, nếu trong quá trình thực hiện các điều kiện kinh tế kỹ thuật,
máy móc không đáp ứng yêu cầu cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chính sách
nói chung.Ví dụ như đầu tư hệ thống loa phát thanh sẽ giúp quá trình tuyên
truyền, phổ biến chính sách tới đồng bào DTTS một cách thường xuyên hơn,
giúp họ nắm rõ chính sách hơn và tự giác thi hành chính sách hơn.
Trong thực tế, chỉ cần thiếu các điều kiện vật chất kỹ thuật cho công tác
tuyên truyền, phổ biến chính sách thì cơ quan nhà nước khó chuyển tải nội dung
chính sách đến đối tượng một cách thường xuyên, quá trình thực hiện chính sách
cũng vì thế mà bị ảnh hưởng rất lớn.
 Sự đồng tình ủng hộ của dân chúng
Là nhân tố có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành bại của
chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào dân DTTS. Mục tiêu của Nhà nước
là làm thay đổi trạng thái kinh tế xã hội theo nhu cầu của đời sống của xã hội.
Đây là vấn đề hết sức lớn lao, cần có sự đóng góp sức người, sức của trong thời
gian lâu dài[21,tr.97].Trên thực tế, các cơ quan quản lý nhà nước chịu trách
nhiệm điều hành còn nhân dân cụ thể là đồng bào các DTTS mới là người thực
hiện chính sách. Như vậy, đồng bào vừa là người trực tiếp tham gia hiện thực
hóa mục tiêu chính sách, vừa trực tiếp thụ hưởng những lợi ích từ chính sách.
Chính sách phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS đã đáp ứng nhu cầu của xã
hội về mục tiêu và biện pháp thừa hành bởi vậy nó nhận được sự ủng hộ nhiệt


×