Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Dân số và vấn đề phát triển việc làm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.17 KB, 34 trang )

I.

Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang tiến hành “công ngiệp hóa, hiện đại hóa” trong bối

cảnh nền kinh tế thế giới đang ở trong giai đoạn hội nhập toàn cầu hóa.
Thế giới có nhiều sự nghiệp thay đổi như thị trường quốc tế cạnh tranh
ngày càng gay gắt, sự phát triển của công nghệ thông tin, lao động tri
thức và văn hóa công ty. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực trở thành một
trong những vấn đề cấp thiết ngày nay.
Đại hôi X của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định “ … nguồn
nhân lực của con người- yếu tố cơ bản để phát triển nhanh xã hội, và tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững”, “… Con người và nguồn nhân lực là
nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước …” . Nguồn nhân lực con người là điểm cốt yếu
của nội lực, do đó phải bằng mọi cách phát huy yếu tố con người và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực.
Mặt khác nhằm thu hút nguồn nhân lực đẩy mạnh công nghiệp hóa
thông qua việc hình thành các khu KXC, KCN là 1 vấn đề có tính quy
luật chung của nhiều quốc gia hiện nay.
Tình hình đáp ứng nguồn nhân lực cho các KCN, KCN, nhất là lao
động chất lượng cao có nhu cầu tăng trưởng rất nhanh từ năm 2000 cho
tới nay. Việc cung ứng nguồn nhân lực, nhất là nguồn lao động chất
lượng cao nhằm đáp ứng sự phát triển của KCX, KCN gặp rất nhiều khó
khăn. Từ đó đã đặt ra cho chúng ta cần phải xem xét tìm hiểu nguyên
nhân, để có những giải pháp chiến lược phù hợp. Đó cũng xhinhs là lý do
mà em mạnh dạn chọn đề tài “ Dân số và vấn đề phát triển việc làm”.
Quá trình đô thị hóa đã và đang diễn ra gay gắt ảnh hưởng mạnh
mẽ trên phạm vi cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng. Ở tầm vĩ mô,

1




một mặt đô thị hóa là một trong những những giải pháp quan trọng nhất
trong chiến lược phát triển kinh tế thị trường theo hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đáp ứng mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát triển mạnh các nghành công nghiệp và thương mại-dịch vụ mà Đảng
và Nhà Nước đã đề ra trong giai đoạn từ nay cho đến năm 2020. Mặt
khác đô thị hóa cũng là một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh
đến sự quan trọng của đất nước đó là phát triển và tồn tại. Tuy nhiên bên
cạnh những tác động tích cực vẫn còn không ít những bất cập, tồn tại đặt
ra cần phải giải quyết, đặc biệt là vấn đề lao động – việc làm đối với một
bộ phận lớn dân cư nông thôn bị rơi vào tình trạng thất nghiệp và thiếu
việc làm khi bị thu hồi đất đai, phục vụ mục tiêu đô thị hóa.

II. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề lao động - việc làm, chuyển dịch cơ cấu việc làm và cơ cấu lao
động nông nghiệp, nông thôn được chú ý nghiên cứu từ nhiều năm nay,
đặc biệt là các công trình nghiên cứu của Viện Khoa học Lao động & Xã
hội- Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Viện Chiến lược phát triểnBộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương,
Trường Đại học Lao Động – Xã Hội, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
và nhiều nhà nghiên cứu khác. Trong đó, có thể kể đến các công trình
nghiên cứu có liên quan sau:
- Thực trạng thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi
để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia.( Đề tài độc lập
cấp nhà nước 12/2005). Nghiên cúư này được thực hiện tại 8 tỉnh/TP: Hà

2



Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bắc Ninh, Hà Tây, Cần Thơ
và Bình Dương với mục tiêu:
+ Đánh giá thực trạng thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất
bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế, xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia hiện nay,
chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân hạn chế của vấn đề này.
+ Đề xuất các quan điểm, phương hướng, giải pháp và các điều kiện
giải quyết thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây
dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia những năm tới
- Nghiên cứu đề xuất phương án đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
nông thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá gắn với công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn thành phố Hà Nội. ( Đề tài khoa học
và công nghệ cấp thành phố - 2005). Cùng với xu thế khách quan và tất
yếu của đô thị hoá là sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động
ở các vùng bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp, trong đó vấn đề giải
quyết việc làm cho người lao động thuần nông gặp phải những trở ngại
lớn khi họ buộc phải chuyển đổi từ việc làm nông nghiệp không cần đến
trình độ chuyên môn kĩ thuật sang việc làm phi nông nghiệp đòi hỏi phải
có trình độ chuyên môn kĩ thuật. Nghiên cứu này hướng đến đề xuất
những giải pháp phát triển nguồn nhân lực nông thôn với phương án khả
thi và mô hình phù hợp với xu thế đô thị hoá nhanh và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngoại thành Hà Nội.
- Về vấn đề giải quyết việc làm đề tài cấp Bộ (2000) “Những
biện pháp chủ yếu giải quyết lao động thiếu việc làm ở vùng thuần nông”
do Trung tâm Nghiên cứu Dân số và Nguồn lao động - Viện Khoa học
Lao động và Xã hội thực hiện, đã đưa ra nhận định: Khả năng tạo việc
3



làm ở khu vực nông thôn hiện nay rất phong phú và đa dạng, tạo việc làm
phi nông nghiệp ngay tại địa phương, tăng cường dạy nghề cho lao động
nông thôn, ưu tiên các dự án quốc gia và quốc tế cho việc giải quyết việc
làm, dạy nghề và nâng cao dân trí.
- TS. Nguyễn Hữu Dũng và các tác giả khác (1997) trong nghiên
cứu "Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam” đã đề cập đến chính
sách giải quyết việc làm của nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH
đất nước. Về mặt lý luận nghiên cứu đã nêu khá chi tiết về phương pháp
luận, cách tiếp cận về chính sách việc làm, hệ thống khái niệm về lao
động – việc làm và phương pháp tính. Đặc biệt công trình nghiên cứu đã
bước đầu đề cập đến khái niệm thị trường lao động, mối quan hệ giữa
cung- cầu lao động và vai trò đối với giải quyết sức ép về việc làm. Về
mặt thực tiễn các tác giả đã phân tích đánh giá thực trạng vấn đề việc làm
ở nước ta nói chung, trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng và những
nguyên nhân chủ yếu; khái quát dòng di chuyển lao động trên thị trường
lao động, nhất là di chuyển từ nông thôn ra thành thị tìm việc làm. Trên
cơ sở đó đưa ra hệ thống quan điểm giải quyết việc làm trong quá trình
đẩy mạnh CNH-HĐH ở nước ta. Giải pháp cơ bản cho khu vực nông
thôn đó là giải quyết nạn thiếu việc làm còn rất phổ biến và nghiêm
trọng, việc làm kém hiệu quả và thu nhập thấp thông qua chuyển dịch cơ
bản cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng CNH- HĐH.
- Trường Đại học Kinh tế quốc dân trong đề tài độc lập cấp nhà
nước KX.01 -2005 đã đề cập đến vấn đề “việc làm và thu nhập cho lao
động bị thu hồi đất trong quá trình CNH-HĐH và đô thị hoá”. Về mặt lý
luận nghiên cứu đã đề cập đến sự cần thiết phải thu hồi đất, CNH-HĐH
và đô thị hoá tất yếu sẽ dẫn đến thu hồi đất nông nghiệp và do đó một bộ
phân dân sẽ mất việc làm trong nông nghiệp. Đây vừa là cơ hội, vừa là
4



thách thức đối với nước ta trong quá trình phát triển. Về mặt thực tiễn
nghiên cứu chỉ ra những bất cập về vấn đề đảm bảo thu nhập, đời sống,
việc làm của người có đất bị thu hồi. Việc thu hồi đất là điều kiện chuyển
dịch cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ nhưng kế hoạch thu hồi đất
không gắn với kế hoạch đào tạo nghề nên người dân mất đất không có
việc làm và thu nhập, đời sống người dân tiềm ẩn sự bất ổn bên trong.
Nghiên cứu dự báo nhu cầu thu hồi đất và đưa ra khung chính sách đồng
bộ bao gồm: Chính sách đền bù, bồi thường thiệt hại; Chính sách tạo việc
làm; Chính sách tái định cư; Chính sách về trách nhiệm và nghĩa vụ của
các đơn vị được nhận đất thu hồi sử dụng vào các mục đích phát triển các
khu công nghiệp, khu đô thị và các chính sách xã hội liên quan để đảm
bảo việc làm và thu nhập cho đối tượng bị thu hồi đất.
Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu chuyên sâu nào về mối quan hệ tương tác
giữa đô thị hoá với sự dịch chuyển về cơ cấu lao động, việc làm cả các hộ
gia đình trong khu vực quy hoạch đô thị hoá. Chính vì vậy, nghiên cứu đề
tài này là rất cần thiết nhằm phát hiện ra các tác động của quá trình đô thị
hoá đối với cơ cấu lao động, việc làm của các hộ gia đình nằm trong vùng
đô thị hoá. Kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần vào việc hoạch định
chiến lược đô thị hoá trong thời gian tới ở Việt Nam.

III. Một số khái niệm
Khái niệm về lao động ,việc làm
Lao động : là hoạt động của con người sử dụng công cụ lao động nhằm
thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu
Lực lượng lao động: là khái niệm dùng để chỉ tập hợp gồm tất cả những
người trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động .

5



Nghề nghiệp: là những việc làm và công việc mà cá nhân thực hiện từ
thấp đến cao về kĩ năng, kĩ xảo trong quá trình lao động xã hội. Mỗi nghề là một
loại hình riêng biệt và được biểu hiện ở việc làm. Có nghề chưa chắc đã có việc
làm, có việc làm chưa chác đã có nghề. Để có nghề cần phải có thời gian học
tập và đào tạo.
Thu nhập: là nhận được tiền bạc, của cải vật chất từ một hoạt đọng nào
đó. Như vậy thu nhập của người lao đông được biểu hiện bằng một số lượng
tiền tệ của một người lao động trong một ngày, trong một tháng hoặc mọt năm.
Việc làm: là công việc mà người lao động tiến hành nhằm tiến hành thu
nhập bằng tiền hoặc hiện vật.
Tại điều 13 của bộ luật lao động được Quốc hội thông qua ngày
26/03/1994 ghi: “ Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật
cầm, đều được thừa nhận là có việc làm.
Người có việc làm: là người đang làm việc trong lĩnh vực ngành nghề và
dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật nghiêm cấm, đem lại thu nhập để
nuôi sống bản thân với gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội.
Theo các xác định của một số nước: người có việc làm là người thuộc lục
lượng lao đọng mà người đó trong vòng một tuần trước cuộc điều tra thỏa mãn
các điều kiện:
+ Làm việc ít nhất một giờ đẻ lấy tiền công hoặc lợi nhuận.
+ Làm việc ít nhất 15 giờ không lấy tiền công ở gia đình.
+ Tạm thời không làm việc vì ốm đau, nghỉ phép hay những lí do tưng
tự.
Còn theo cuốn tình hình thanh niên Việt Nam thì người có việc làm là người từ
đủ tuổi từ 15 trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, mà trong tuần lễ
trước điều tra:

6



- Đang làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận
bằng tiền lương hay hiện vật
- Đang làm công việc không được trả tiền lương, tiền công hay lợi
nhuận tronh các công việc sản xuất kinh doanh của hộ gia đình mình.
- Đã có công việc trước đó, sang tuần lễ trước điều tra tạm thời không
làm việc và sẽ trở lại tiếp tục làm việc sau thời gian tạm nghỉ việc.
Các dạng làm việc bao gồm:
+ Người chủ(thuê một hoặc nhiều lao động)
+ Người làm thuê
+ Người tự làm việc trong hộ gia đình, góp phần tạo ra thu nhập nhưng
không hưởng lương.
+ Người làm công ăn lương(cán bộ, công nhân viên)
+ Thành viên, lực lượng vũ trang
Các loại nghề nghiệp:
- Nghề nông nghiệp: là việc mà người lao động thực hiện hoạt động
lao động trồng trọt hoặc chăn nuôi( chăn nuôi ở quy mô không lớn, và chủ yếu
là các giống gia súc gia cầm), hoặc kết hợp cả trồng trọt và chăn nuôi.
Một người được goi là nông nghiệp nếu thu nhập từ nông nghiệp chiếm
70% trở lên trong tổng thu nhập của họ.
-

Nghề phi nông nghiệp: là việc làm mà người lao động tách

khỏi sản xuất nông nghiệp và người lao động phải có chuyên môn kỹ thuật, tay
nghề, bậc thợ…
Một người được gọi là làm phi nông nghiệp nếu thu nhập từi các nghề
phi nông nghiệp chiếm 70% trở lên trong tổng thu nhập của họ.
Chia nghề phi nông nghiệp thành các nhóm nghề sau:

7



+ Nhóm buôn bán-dịch vụ: Nếu một người có thu nhập từ buôn
bán-dịch vụ chiếm trên 70% tổng thu nhập của họ thì họ thuộc nhóm buôn bándịch vụ.
+ Nhóm lành nghề: Nếu một người có thu nhập từ một nghề nào
đó thuộc phi nông nghiệp chiếm trên 70% tổng thu nhập của họ thì họ thuộc
nhóm lành nghề.
+ Nhóm hỗn tạp: Nếu một người làm nhiều nghề thuộc phi nông
nghiệp và thu nhập từ mỗi nghề dưới 70% tổng thu nhập thò người đó thuộc
nhóm hỗn tạp.
- ề hỗn hợp: Là việc làm mà người lao động đồng thời thực hiện hoạt
động lao động nông nghiệp và phi nông nghiệp. Trong đó có thể là sự kết hợp
của một hoặc hai nghề trong nông nghiệp với một hoặc nhiều ngành nghề trong
phi nông nghiệp.
Một ngươid được gọi là làm hỗn hợp nếu thu nhập từ nông nghiệp chiếm
từ 31% đến 69% trong tổng thu nhập của họ
Thất nghiệp: là người đang có nhu cầu làm việc và tích cực tìm việc
nhưng chưa được làm việc hoặc đang chờ làm việc.
Các loại hình thất nghiệp như:
+ Thất nghiệp lâu dài: Người có khả năng lao động nhưng không
thể tìm được việc làm, không có hy vọng sớm tìm được việc làm
+ Thất nghiệp mang tính tạm thời: một số trường hợp do chuyển
hướng sản xuất hoặc chuyển hướng trong một số ngành nghề.

IV. Nội dung của vấn đề
1) Thực trạng

8



Dân số Việt Nam hiện nay là hơn 85,7 triệu người, trong đó khoảng 19
triệu thanh thiếu niên đang trong độ tuổi lao động, mỗi năm bình quân tăng hơn
một triệu người. Với tốc độ tăng dân số như vậy, lao động việc làm luôn là vấn
đề cấp bách, nhất là trong bối cảnh Việt Nam mở cửa hội nhập nền kinh tế hiện
nay
Hiện thị trường lao động Việt Nam có 43,8 triệu người lao động, trong đó
70% là ở nông thôn. Theo báo cáo gần đây nhất thì vào đầu măm nay, con số
mất việc đã vào khoảng 80 nghìn người, tập trung chủ yếu ở những nơi có nhiều
khu công nghiệp, khu chế xuất như : thành phố HCM, Hà Nội, Bình Dương,
Đồng Nai, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc…
Hà Nội sau khi mở rộng có quy mô dân số lớn thứ 2 toàn quốc (sau
TPHCM). Số người bước vào tuổi lao động hàng năm khoảng 80 nghìn người.
Số lao động dư dả do mất việc làm, do chuyển đổi mục đích sử dụng đất nộng
nghiệp khoảng 30 nghìn người 1 năm, Số dân cần tìm việc làm hằng năm
khoảng 120 nghìn người.
Một thực trạng lao động ở nước ta nói chung là thừa lao động nhưng lại
thiếu lao động có chuyên môn tay nghề, đáp ứng được yêu cầu của công việc.
VD như Hà Nội là nơi thu hút nhiều lao động tiwf các vùng, nhất là từ nông
thôn trong đó lao động nữ rất nhiều (85-90%), thực trạng này đã đặt ra cho
chúng ta nhiều vấn đề cần giải quyết như nhà ở, đời sống, kinh tế, văn hóa
Nước ta có gần 44 triệu lao động, trong đó có khoảng 10 triệu làm kinh tế
phi chính thức, tức là làm các nghề như buôn bán, dịch vụ, không công nghiệp
cũng chẳng nông nghiệp, càng không phải doanh nghiệp doanh nhân
. Lao động phi chính thức này làm ra 20% GDP
Theo các chuyên gia Xã Hội Học, tại các nước Châu Á, trong đó cí Việt
Nam, thu nhập từ khu vực việc làm phi chính thức chiếm 30-60% tổng thu nhập
quốc gia. Đối với những người nghèo, dân nhập cư, không bằng cấp, hộ khẩu,
9



tay nghề thấp thì việc được chấp nhận vào làm việc trong các donh nghiệp phi
chính thức là bướ khởi đầu khả thi nhất để cho họ thấy có thể cải tạo thu nhập,
học tập nâng cao trình độ tay nghề
Tuy nhiên hiện nay đối tượng lao động này vẫn chưa được Xã Hội công
nhận đúng mức về cả pháp lý lẫn tâm lý. Sự đánh giá của nhiều “ người Thành
Phố” đối với “ dân nhập cư”, hàng rong,trẻ đường phố vẫn còn xem thường,
thương hại.
Nguyên nhân của khu vực kinh tế phi chính thức gắn liền với hiện tượng
đô thị hóa chóng mặt ở VN. Đô thị hóa đã lấy đi một diện tích khá lớn đất đai
nông nghiệp, cộng hưởng với chính sách chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn
chưa tốt, đã và đang trực tiếp tác động đến cuộc sống hàng chục triệu nông dân
khắp cả nước. Mất đất canh tác, người dân buộc phải xa rời đồng quê, bỏ con
trâu cái cày lên đô thị kiếm sống. mất nghề cày cấy, người dân ko còn nhiều.
Lựa chọn ngoài các công việc giản đơn và tuyệt đại đa số, là “ phi chính thức”
như cách Xã Hội thường gặp.
Nguồn lao động ở nước ta có quy mô lớn và tăng rất nhanh. Số người
bước vào độ tuổi lao động hàng năm tăng lên không ngừng. Năm 1990 là 1,448
nghìn người, năm 1995 là 1,6 nghìn người, dự báo năm 2010 là 1,83 nghìn
người và tổng số người trong độ tuổi lao động của nước ta vẫn tăng lên liên tục.
Giải quyết việc làm này cho đội quân lao động khổng lồ này là một thách thức
lớn cho nền kinh tế, một vấn đề kinh tế xã hội nan giải.
Xét về mặt cơ cấu nghề nghiệp, trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước lao động công nghiệp có xu hướng giảm dần, lao động trong khu
vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng lên, song điều đó đến nay Việt Nam
vẫn có lao động theo ngành hết sức lạc hậu: Lao động chủ yếu làm trong khu
vực nông, lâm ngư nghiệp. Việc cải thện các câu lạc bộ này diễn ra rất chậm
chạp.
10



Mỗi năm tăng thêm từ 1 triệu đến 1,4 triệu lao động. Để đảm bảo đủ việc
làm cho số lao động này là một việc khó khăn. Trong nông nghiệp tuy còn 10
triệu ha đất cần lao động này là một việc khó khăn. Trong công nghiệp muốn có
việc làm cho 1,3 triệu người trong điều kiện kỹ thuật tthaaps kém như hiện nay
cần tăng tổng mức đầu tư của toàn xã hội lên từ 5000 tỉ đồng hiện nay lên đến
15000 tỉ đồng hằng năm. Điều này không dễ dàng, đấy là chư kể đến trang bị kỹ
thuật, công nghệ hiện đại hơn thì số tiền đầu tư vào cho một chỗ làm việc sẽ
tăng lên gấp 10 lần hiện nay hoặc cao hơn.
Cả nước còn có khá nhiều thanh niên chưa có việc làm ổn định. Những
con số 70% thanh nieen đô thị và 94,7% thanh niên nông thôn không có việc
làm ổn định, không có chuyên môn nghiệp vụ… đủ cho thấy mức báo động về
công tác đào tạo nghề cho thanh niên. Mặc dù so với chục năm về trước, hệ
thống các trường chuyên nghiệp và đại học đã tăng lên gấp nhiều lần nhưng
chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường lao động. Trong
khi ở cả nông thôn và thành phó , số thanh niên chưa có việc làm thì khá nhiều
doanh nghiệp vẫn thiếu lao động trầm trọng. Gần đây qua các hội chợ việc làm
có thể thấy, chỉ có khoảng 20% lao động đáp ứng đc nhu cầu tuyển dụng của
các doanh nghiệp. Đó là chưa kể đến phần đông thanh niên còn yếu về ngoại
ngữ và ít được tiếp cận với công nghệ thông tin. Nhiều người đã qua các trường
lớp đào tạo nghề nhưng kỹ năng vẫn còn kém.
Vài ba năm trở lại đây cả nước có trên 120 nghìn lao động đi làm việc ở
nước ngoài. Mặc dù các đối tác yêu cầu tuyển dụng lao động cho nhiều ngành
nghề nhưng lao động Việt Nam chủ yếu phù hợp với ngành xây dựng. Nhờ xuất
khẩu lao động bình quân hàng năm các doanh nghiệp nhà nước thuộc bộ xây
dựng thu khoảng 30 triệu USD. Nhưng theo các nhà quản lý lao động, krrts quả
trên có thể còn cao hơn nhiều, nếu lao động được đào tạo nghề trước khi ra
nước ngoài làm việc.
11



Do yêu cầu phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, đẩy mạnh công
nghiệp hóa ,hiện đại hóa và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, việc xây dựng
các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị…nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển là một thực tế khách quan, tuy nhiên, quá trình trên cũng đã và đang làm
nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế, xã hội rất bức xúc ở ác địa phương có tốc độ công
nghiệp hóa và đo thị hóa diễn ra nhanh chóng. Trong vấn đề việc làm của người
nông dân sau khi bị thu hồi đất được coi là vấn đề bức xúc nhất. Đây cũng chính
là thách thức đối với chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn nói riêng,
phát triển đất nước nói chung
Theo Bộ Lao Động, Thương binh và Xã hội, từ năm 1990 đến 2003, diện
tích đất bị thu hồi để phục vụ cho các mục ddichs sử dụng lên tới 697.410 ha,
những năm sau đó, trung bình mỗi năm cả nước ,mất khoảng50 nghìn ha đất
nông nghiệp cho các nhu cầu phi công nghiệp. Tính bình quân cứ 1 ha đất bị thu
hồi sẽ làm cho 13 lao động nông nghiệp bị mất việc; riêng vùng đồng bằng sông
Hồng là 15 người. Trong 5 năm (2001-2004), số người bị mất việc do bị thu hồi
đất phục vụ cho các nhu cầu trên ở Hà Nội là gần 800.000 người; Hà Nam:
12.360 người; Hải Phòng: 13.274 người; Hải Dương: 11.964 người; Bắc Ninh:
2.222 người; Tiền Giang: 1.459 người; Quảng Ninh: 997 người v.v... Theo tính
toán của Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, giai đoạn từ 2006-2010,
tổng diện tích đất nông nghiệp sẽ bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp,
khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi
ích quốc gia sẽ là 192.212 ha và theo đó sẽ 2.498.756 lao động nông thôn mất
việc.
Trên thực tế, diện tích đất nông nghiệp chỉ có hơn 9 triệu ha, chiếm
khoảng 28% diện tích của cả nước, lực lượng lao động ở khu vực nông thôn
hiện có khoảng 33.971 ngàn người (chiếm 75,03% tổng lao động cả nước) và
sau mỗi năm lại tăng thêm khoảng 45 vạn người. Vì vậy, những lao động nông
12



thôn đã bị thu hồi đất có rất ít cơ hội được cấp lại đất để tiếp tục sinh sống bằng
nghề cũ. Do đó, hàng triệu người, chủ yếu là nông dân lâm vào cảnh không có
hoặc thiếu việc làm, thu nhập giảm hoặc không có hoặc thu nhập. Điều đáng
chú ý trong số những người bị mất việc nhóm người bị ảnh hưởng nhiều nhất ở
độ tuổi từ 35 tuổi trở lên (chiếm khoảng 50%) - là nhóm người thường có trách
nhiệm tạo thu nhập chính cho gia đình, và ở độ tuổi của họ vấn đề học và
chuyển đổi nghề mới không dễ dàng. Đây là một bài toán khó, một thách thức
lớn đối với phát triển.
Trong những năm qua, Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ
cho người dân những vùng bị thu hồi đất như chính sách định cư tại chỗ, hỗ trợ
đào tạo nghề, chuyển đổi nghề, nhưng do nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan nên số lượng nông dân mất việc làm, thiếu việc làm vẫn chưa thể khắc
phục triệt để.
Trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nền kinh
tế nước ta phải chấp nhận một “sân chơi” bình đẳng trong quan hệ kinh tế quốc
tế - sẽ không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ nội địa và nhập
khẩu; phải mở cửa thị trường, bảo hộ hạn chế, dỡ bỏ hàng rào thuế quan và tiến
tới sự minh bạch trong dự báo chính sách thương mại v.v... Đây là những thách
thức lớn đối với các ngành sản xuất và dịch vụ trong nước, đặc biệt đối với sản
xuất nông nghiệp.
Công nghệ tiên tiến ngày càng thâm nhập vào lĩnh vực nông nghiệp, quy
mô sản xuất lớn và đại trà, tạo ra sức cạnh tranh khốc liệt làm cho các cơ sở sản
xuất trong nước trong đó có những hộ kinh doanh cá thể nhỏ, lẻ, manh mún hạn
chế về trình độ công nghệ, phương pháp quản lý dễ dàng lâm vào thế yếu, bị
phá sản hoặc thu hẹp sản xuất. Quá trình này sẽ dẫn tới sự cạnh tranh về cơ hội
việc làm giữa lực lượng lao động mới, có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn
với lực lượng lao động không có chuyên môn và trình độ kỹ thuật, tay nghề.
13



Một phần trong số đó trở thành lao động dư thừa do sự đào thải và nhu cầu của
thị trường.
Thực tế hiện nay cho thấy, việc làm của người nông dân đang biến
chuyển theo các hướng: (I) việc làm thuần nông vẫn tiếp tục được duy trì theo
thời vụ, nhưng đang giảm dần về số lượng; (II) một số chuyển hẳn sang thực
hiện mô hình kinh tế nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn (phát triển nông trại,
phát triển các loại cây nông, công nghiệp hàng hoá), tuy nhiên số này còn rất ít;
(III) một số khác chuyển sang tìm kiếm cơ hội việc làm phi nông nghiệp ngoài
thời vụ nông nghiệp hoặc chuyển hẳn sang ngành nghề khác thông qua việc
tham gia các chương trình đào tạo nghề; (IV) trở thành nguồn lực lao động xuất
khẩu của quốc gia.
Người nông dân hiện vẫn làm các công việc mang tính chất thủ công và
thời vụ. Đúng vụ sản xuất nông nghiệp thì công việc của họ là thuần nông,
ngoài thời vụ kể trên phần lớn là họ chuyển sang các lao động phổ thông khác
như gia công thêm một số mặt hàng thủ công truyền thống (đối với những vùng
nông thôn có làng nghề), buôn bán nhỏ - tham gia lưu thông hàng hoá từ nông
thôn ra thành thị (bán buôn, bán lẻ các mặt hàng rau quả, lương thực, thực
phẩm), tham gia vào các chợ lao động ở những thành phố lớn như: Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh với các nghề phổ biến như: chuyên chở vật liệu xây
dựng, giúp việc gia đình, chăm người ốm ở bệnh viện, phụ việc ở các công trình
xây dựng và bất kể các công việc khuân vác, tạp vụ nào mà họ được thuê mướn,
hoặc cũng có một số tham gia vào thị trường xuất khẩu lao động, nhưng chưa
nhiều và mức độ đáp ứng các yêu cầu của thị trường này chưa cao... Do tính
chất công việc phổ thông, mang tính sự vụ nên thu nhập của họ không cao và
không ổn định. Thực tế này tạo nên sự thiếu bền vững và tiềm ẩn những bất ổn
về việc làm đối với lực lượng lao động nông thôn nói chung, nông dân nói

14



riêng. Nông dân thiếu việc làm ngày càng tăng về số lượng mà chất lượng cũng
chưa được cải thiện.
Thực trạng trên nếu không được khắc phục sớm sẽ trở thành lực cản đối
với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; gia tăng
các vấn đề kinh tế - xã hội...
Hiện nay nước ta có khoảng hơn 40 triệu người trong độ tuổi lao động,
trong đó có khoảng 28 triệu thanh niên, nhưng tỉ lệ thất nghiệp của lao động
thanh niên lại cao gấp rưỡi so với tỉ lệ thất nghiệp chung của toàn xã hội.
Theo ông Hoàng Hiệp - Trưởng ban Thanh niên công nhân, đô thị Trung
ương Đoàn, hiện nay xu thế thanh niên từ nông thôn ra thành thị để tìm việc làm
tăng rất mạnh. Có những tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng, lực lượng thanh
niên rời quê hương đi làm ăn xa lên tới 80%. Sự ra đi này có rất nhiều lý do mà
cơ bản là do thu nhập từ nông nghiệp quá thấp.
Một bộ phận lớn lại bị mất đất do sự mở rộng các khu công nghiệp, khu
chế xuất. Đặc biệt chỉ có một bộ phận rất nhỏ được vào làm khu chế xuất, còn
lại hầu hết những thanh niên nông thôn khi nhận được tiền đền bù mất đất đều
đem số tiền đó phục vụ cho nhu cầu ăn chơi tạo ra một lớp người thất nghiệp
mới.
Cũng theo ông Hiệp thì tình hình lao động việc làm của thanh niên hiện
nay vô cùng bức xúc. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn diễn ra phổ
biến ở khắp mọi nơi và tập trung nhiều nhất vẫn là ở lực lượng lao động trẻ.
Tỉ lệ thất nghiệp của lao động thanh niên cao gấp rưỡi so với tỉ lệ thất
nghiệp chung của toàn xã hội. Tỉ lệ thất nghiệp này còn đặc biệt cao đối với khu
vực đô thị và thanh niên lứa tuổi từ 15-24. Đối với khu vực đô thị thì thanh niên
lứa tuổi từ 15-19 rơi vào tình trạng thất nghiệp cao gấp 3,5 lần so với tình trạng
chung. Ở nhóm 20-24 tuổi tỉ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao gấp 2,2 lần.

15



Điều đáng nói là tình trạng thất nghiệp của thanh niên đô thị không phải
là do không có việc để làm mà là do không chịu làm việc hoặc không muốn làm
những công việc có thu nhập thấp. Bên cạnh những đối tượng thất nghiệp do
lười lao động thì vẫn còn rất nhiều thanh niên có khả năng lao động, sẵn sàng
làm việc nhưng lại không tìm được việc làm, một số lượng lớn khác thiếu việc
làm hoặc có việc nhưng trong công việc không sử dụng hết năng lực của mình,
hoặc buộc phải làm việc không đúng chuyên môn.
Nhiều người tốt nghiệp cử nhân, đại học nhưng chỉ được sắp xếp những
công việc như thư ký văn phòng, nhân viên bán hàng. Những người có bằng
dược sĩ lại chỉ đi làm tiếp thị thuốc; những người học cao đẳng, trung cấp chỉ
làm những việc đơn giản của người chỉ cần đào tạo ngắn hạn từ 2-6 tháng...
Bên cạnh đó còn khá phổ biến tình trạng chia việc để làm, dừng việc,
nghỉ việc. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo, có trình độ chuyên môn vô cùng thấp
(chỉ khoảng 10%) cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp. Đó
là bức tranh toàn cảnh của tình trạng thanh niên thiếu việc làm hiện nay mà ông
Hiệp đã khẳng định .

*) Liên hệ với tình hình kinh tế xã hội xã Vĩnh Phú
Vĩnh Phú. Diện tích tự nhiên toàn xã là 3.669 ha, trong đó diện tích sản
xuất nông nghiệp 3.614 ha, diện tích sản xuất vụ 3 là 3.059 ha với 6 tiểu vùng
sản xuất lúa 3 vụ (UBND xã Vĩnh Phú, 2005).
Vĩnh Phú là xã có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp, nơi đây đã hình
thành vùng chuyên canh cây lúa 3 vụ do có đê bao khép kín và đạt năng suất
cao, trung bình 17,6 tấn/ha/năm.
Dân số: Xã Vĩnh Phú hiện có 11329 nhân khẩu, về giới tính nam là
5.473 người; nữ là 5.766 người, về dân tộc: Kinh là 11.224 người; Khơme là 15
người (Niên giám thống kê huyện Thoại Sơn năm 2006).

16



Tốc độ gia tăng dân số hàng năm là 1,2%; Tỷ lệ sinh hàng năm: 1,65%;
tỷ lệ tử hàng năm là 0,46%; Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng là 21,91%; Chương
trình tiêm chủng mở rộng đạt 100%.
Về trồng trọt: cây trồng chủ yếu là cây lúa, các loại hoa màu khác không
đáng kể, tổng diện tích xuống giống cả năm là 8.183 ha đạt 96,4% so với kế
hoạch (do xả lũ 3 tiểu vùng VP4b, VP5, VP6), trong đó tổng diện tích hoa màu
chỉ có 50,3 ha diện tích trồng hoa màu các loại và 32 ha trồng nấm rơm
(Nguyễn Thị Kim Chi và Lê Hồng Lam, 2007).
Chăn nuôi: nuôi trồng thủy sản phát triển với các loại hình như nuôi cá
ao hầm như cá lóc, cá rô.., chăn nuôi gia súc với qui mô nhỏ và phát triển chậm.
Trong những năm gần đây khi mùa nước nổi tràn về mang lượng cá tự
nhiên rất dồi dào như: cá lóc, cá rô, cá chốt, cá linh, trắm cỏ, cá mè, cá sặc...
Người dân đánh bắt cá tự nhiên như câu, chày, giăng lưới, đặt vến,... tạo thêm
nguồn thu nhập và giải quyết việc làm cho người dân. Nhưng gần đây lượng cá
tự nhiên không còn nhiều nữa do có đê bao ngăn lụt, phục vụ cho sản xuất vụ 3
nên phần lợi thế mùa nước nổi cũng giảm đáng kể (Nguyễn Thị Kim Chi và Lê
Hồng Lam, 2007).
Cơ sở vật chất: Đường giao thông, trường học, y tế, chợ… tương đối
phát triển đáp ứng được nhu cầu đi lại, trao đổi, lưu thông hàng hóa, giáo dục và
chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân trong xã.
Tôn giáo:Vĩnh Phú là địa bàn rất đa dạng về tôn giáo với 4 tôn giáo
chính đó là: Phật Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài và Thiên Chúa, nhưng chủ
yếu là Phật giáo Hòa Hảo với 1.727 hộ (chiếm 72,55%), Phật giáo 306 hộ
(chiếm 12,85%), Đạo Hiếu nghĩa 109 hộ (chiếm 4,6%) và còn lại là các tôn giáo
khác (UBND xã Vĩnh Phú, 2003).

17



Các tổ chức, hiệp hội như hội nông dân, hội phụ nữ, hội người cao tuổi,
hội chữ thập đỏ, đoàn thanh niên… đã có những đóng góp quan trọng trong phát
triển kinh tế xã hội của xã
Hiện xã Vĩnh Phú có tổng số hộ là 2.492 hộ, số người tham gia lao động
là 7.069 người, trung bình chiếm 2,236 người/hộ. Phân bố theo các ngành nghề
như nông nghiệp có 2.089 hộ tương ứng 6.267 người lao động; thủy sản có 24
hộ tương ứng 36 người; lâm nghiệp có 9 hộ tương ứng 22 người; công nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp có 52 hộ tương ứng 114 người; còn lại 318 hộ tương
ứng 630 người chưa có việc làm
có thể thấy lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ rất cao 90,5%, còn lao động
phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ khá nhỏ 9,5%. Trong khi đó, số người trong độ tuổi
lao động chiếm 73,5% còn độ tuổi dưới 15 chiếm 26,5%. Từ nguồn số liệu trên
cho thấy, xã Vĩnh Phú có lực lượng lao động đông đảo và lực lượng này có khả
năng lao động.
Chỉ tính trong năm 2006, số hộ có việc làm là 2.174 hộ (84,2%) và việc
làm ở đây chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, số hộ chưa có việc làm
318 hộ (12,8%)
Kết quả khảo sát thực tập cho thấy Vĩnh phú là xã có thế mạnh về sản
xuất nông nghiệp, đặc biệt là chuyên canh cây lúa 3 vụ đạt năng suất cao, do có
đầy đủ các điều kiện thuận lợi về tự nhiên và xã hội. Đây cũng là hoạt động
chính tạo thu nhập của người dân. Vấn đề việc làm và thu nhập của người dân
nơi đây vì vậy phụ thuộc hoàn toàn vào việc trồng lúa với những đặc trưng cơ
bản: thu nhập thấp và thời gian nông nhàn nhiều.
+ Thu nhập thấp: thu nhập chính của hộ lao động làm thuê trung
bình 40 - 50 ngàn đồng/người/ngày. Tuy nhiên, thu nhập của họ phụ thuộc vào
lúc cao điểm ở đầu và cuối mỗi vụ gieo trồng, thu hoạch và xuống giống. Do
18


độc canh cây lúa, mọi chi phí trong cuộc sống chỉ dựa vào đây, vì vậy người dân

cần có một nghề phụ ngoài sản xuất lúa để tăng thêm thu nhập.
+ Thời gian nông nhàn thấp: lao động nông hộ chỉ tập trung vào
thời điểm xuống giống và thu hoạch nên thời gian còn lại thì nông hộ không có
việc làm. Theo kết quả khảo sát, họ có khoảng 6 tháng nông nhàn. Thời gian
này không có việc làm dẫn đến không có thu nhập, điều kiện sống bấp bênh.
Nhu cầu việc làm trong thời gian này vì thế trở nên là nhu cầu bức bách. Qua
kết quả khảo sát hiện trong xã có một lực lượng lao động không có điều kiện
tham gia các hoạt động lao động chiếm tỷ lệ 18,2 % trong tổng số hộ lao động.
Ngoài ra, các hoạt động dịch vụ và thương mại khác hầu như không phát
triển, nhu cầu sử dụng lao động vì thế rất thấp. Điều này làm cho lực lượng lao
động nông thôn không được coi là nguồn lực mà là gánh nặng, tạo ra sức ép lớn
về mặt xã hội, đòi hỏi không chỉ riêng vùng nông thôn mà cả nước cùng giải
quyết (Trần Minh Tâm, 2006).
Vì vậy nhu cầu học nghề và giải quyết việc làm hiện đang trở thành nhu
cầu bức xúc cho người dân tại địa phương.
Theo dự báo về dân số của UBND xã năm 2003, với tốc độ gia tăng dân
số là 1,2% như hiện nay thì dự báo đến năm 2010 dân số xã Vĩnh Phú là 12.142
người, tổng số hộ là 2.633 hộ. Như vậy trong điều kiện dân số xã tăng lên như
thế, nếu không có một giải pháp tạo công ăn việc làm ổn định cho người dân thì
tỷ lệ thất nghiệp sẽ ngày càng gia tăng. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến tình
hình kinh tế của xã, đời sống dân cư mà còn kéo theo tệ nạn xã hội, môi trường
bị suy thoái…
Hiện ở xã, công tác đào tạo nghề đã được xác định là mục tiêu trọng
điểm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội địa phương và đã có những
bước chuyển biến tích cực trong những năm gần đây.

19


Công tác tạo việc làm trong mùa nước nổi cũng được chú trọng, những

thanh niên không có việc làm được cán bộ xã kêu gọi tham gia vào đội bảo vệ
đê với mức lương trung bình 500.000 đồng/tháng (Nguyễn Thị Kim Chi và Lê
Hồng Lam, 2007). Ngoài ra, trong năm 2006 - 2007 UBND xã còn tổ chức các
lớp dạy nghề để đào tạo nghề cho thanh niên trong độ tuổi lao động không có
việc làm như: 2 lớp thêu rua, 2 lớp may công nghiệp, 2 lớp trồng nấm rơm, 1
lớp điện dân dụng. Giải quyết 450 lao động, trong đó tại địa phương và trong
huyện là 255 lao động; ngoài huyện là 145 lao động; ngoài tỉnh 150 lao động, và
xuất khẩu 10 lao động đi nước ngoài (Nguyễn Thị Kim Chi và Lê Hồng Lam,
2007).
Trung tâm hoạt động cộng đồng của xã đã kết hợp với các ngành mở 3
lớp dạy nghề thu hút 95 học viên, trong đó gồm 1 lớp may công nghiệp, 1 lớp
thêu rua, và 1 lớp thợ hồ; Xã cũng đã kết hợp hợp với trung tâm khuyến nông
mở 4 lớp chuyển giao kỹ thuật trồng nấm rơm cho 127 người (UBND xã Vĩnh
Phú, 2007).
Về giải quyết việc làm: Năm 2007 xã đã giới thiệu giải quyết việc làm
cho 468 lao động làm việc tại các doanh nghiệp, trong đó lao động làm việc
trong huyện Thoại Sơn là 184 người, lao động làm việc trong tỉnh An Giang là
123 người, lao động liên tỉnh làm việc tại Thành Phố Hồ Chí Minh là 161
người. Xuất khẩu lao động có 18 trường hợp, trong đó: có 6 lao động định
hướng làm việc tại Long Xuyên, 10 người tham gia hội chợ việc làm tại huyện
Chợ Mới, 2 lao động xuất khẩu sang Hàn Quốc (UBND xã Vĩnh Phú, 2007).
Hiện tại những lao động này làm việc tại các doanh nghiệp và có cuộc sống ổn
định.
Có thể thấy qua những nổ lực, cố gắng từ phía chính quyền địa phương
và các ban ngành đoàn thể, đã giải quyết được một lượng lao động đáng kể là
468 lao động. Tuy nhiên số lao động thất nghiệp trong xã vẫn còn cao 630
20


người, điều này cho thấy công tác đào tạo nghề còn mang tính hình thức, chưa

đa dạng và chưa đáp ứng nhu cầu thực tế.

2) Nguyên nhân
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp có nhiều, trong đó có việc
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp phục vụ cho quá trình đô thị
khiến một bộ phận lao động di chuyển từ nông thôn ra đô thị, tạo nên sức ép lớn
về niệc làm. Yếu tố mức sinh ở nông thôn luôn luôn cao khoảng gấp đôi ở thành
phố. Do vậy lao động tích tụ ở đây ngày càng cao và tỉ trọng giảm chậm, mắc
dù diễn ra luồng di dân mạnh mẽ từ nông thôn ra đô thị, kèm theo sựu chuyển
đổi nghành nghề trong nông nghiệp, trong khi số dân và lao động ở khu vực này
tăng lên nhanh chóng thì quỹ đất canh tác là có hạn. hơn nữa quá trình công
nghiệp hóa đất nước đang diễn ra mạnh mẽ thì đất nông nghiệp phải chuyển
giao cho công nghiệp dịch vụ, các công trình dịch vụ khác. Diện tích đất nông
nghiệp không ngừng giảm xuống trong thời gian qua. Năm 1981 bình quân
0,42ha/người/năm, năm 1993 còn 0,098ha/người. Bình quân hộ giàu ở nông
thôn mới có 1,2 ha đất canh tác trong khi ở Mỹ là 80ha, ở Châu Âu là 9ha.
Sức ép dân số, lao động lên đất đai hạn hẹp gây ra tình trạng thiếu việc
làm phổ biến. lao động nông nghiệp làm việc theo mùa vụ mà ruộng đất là tư
liệu sản xuất chính có ít nên số ngày công của lao động trong năm thường rất
thấp (187 ngày/năm).
Ngoài ra còn có một nguyên nhân cơ bản khác, đó là số người lao động ở
độ tuổi 15-32 chưa qua đào tạo nghề chiếm tỷ lệ rất lớn trong lực lượng thanh
niên hiện nay.
Theo nhận định của các chuyên gia về lĩnh vực này, ở ta hệ thống trường,
lớp dạy nghề còn quá mỏng, chương trình đào tạo nghề lại còn quá chú trọng lý

21


thuyết, ít quan tâm đến thực hành. Mặt khác, tính chủ động, sáng tạo của người

học lại chưa cao. Cho đến bây giờ sau gần 20 năm đổi mới, việc hệ thống quy
hoạch đào tạo bậc học chuyên nghiệp đang kéo theo sự mất đi cân đối nghiêm
trọng giữa đào tạo “thầy” và “ thợ”. Điều đáng quan tâm là khoảng cách về trình
độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ giữa thanh niên nông thôn và thanh niên đô
thị còn quá lớn.
Qua khảo sát thực tế, hiện thanh niên có tay nghề chỉ mới chiếm hơn
10% tổng số người trong độ tuổi. Nghĩa là trong số 27,5 triệu người ở lứa tuổi
thanh niên, thì số người không có chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ vẫn còn
chiếm đến 90%. Đây là điều đáng lo ngại, bởi so với yêu câu CNH-HĐH đất
nước, nhất là khi nước ta đang tiến lên trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế
thì tỷ lệ thanh niên có tay nghề như thế thì quá thấp.
Chuyển đổi mục đích đất khiến cho lao động mất việc làm. Dân lao động
tăng nhanh chóng
Mất cân bằng nghiêm trọng giữa đào tạo thầy và thợ.
Mất cân đối trong đào tạo ngành và nghề.
VD: Ngày nay sinh viên thì đổ xô vào các ngành nghề khác như
maketinh
Mất cân bằng giới tính trong những lĩnh vực ra quyết định. Phụ nữ không
được tham gia vào các lĩnh vực chính trị.
Ở VN chưa có nhiều chính sách giúp bà con nông dân. Đặc biệt người
nghèo còn khó tiếp cận hay phổ cập thông tin về vốn, thông tin kiến thức. Chưa
được học cách sử dụng vốn.
Dân số phát triển nhanh dẫn đến phân bố chất lượng việc làm chưa hợp
lý.
Khủng hoảng kinh tế xúc tiến đến việc làm.

22


Cơ chế giá, lương, tiền. Cho nên họ sắn sàng bỏ việc nơi này đến nơi

khác cao hơn. Dẫn đến việc làm bị thừa thiếu, lãng phí thời gian lao động
Lạm phát, tham nhũng hoành hành. Bao nhiêu đầu tư đều bị kém hiệu
quả.

3) Giải pháp
Giảm lượng cung lao động, cần tiếp tục duy trì chương trình dân số kế
hoạch hóa gia đình. Việc đưa chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình về
nông thôn nhằm thực hiện chỉ tiêu tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,1% vào 2010,
từ đó giảm số lượng nguồn nhân lực. Muốn thực hiện được thì trước hết phải hỗ
trợ cho họ có thể tiếp cận được các phương tiện truyền thông để họ hiểu được
pháp lệnh dân số và biện pháp kế hoạch hóa gia đình. Cần hỗ trợ cho họ các loại
thuốc và dụng cụ tránh thai không phải trả tiền. Cần phải có các chính sách về
lợi ích vật chất, để khuyến khích họ sinh đẻ đúng kế hoạch.
Phải sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn lực đất đai. Cần hoàn thiện
chính sách và pháp luật về quản lý đất đai, để biến đất đai thành nguồn vốn quan
trọng cho phát triển kinh tế và tạo thêm việc làm. Mỗi địa phương phải xây
dựng và thực hiện nghiêm túc quy hoạch dài hạn sử dụng đất. Trong nông
nghiệp phải thay đổi cơ cấu về diện tích cây trồng trên cơ sở lựa chọn đúng cơ
cấu cây trồng vật nuôi thích hợp, phải đẩy nhanh thâm canh tăng vụ, nâng cao
hệ số sử dụng ruộng đất, tăng nhanh giá trị sản lượng trên một đơn vị diện tích.
Phải tiếp tục thực hiện giao đất giao rừng cho nhân dân để gắn đất đai với lao
động, đất rừng phải có chủ. Hoàn thành giao đất cho những hộ dân không có đất
sản xuất và kèm theo những điều kiện hỗ trợ về khuyến nông để giúp họ sản
xuất và khắc phục tình trạng sử dụng kém hiệu quả đất đai của các doanh
nghiệp nông lâm nghiệp. Trong xây dựng đô thị và kết cấu hạ tầng quan trọng
phải trên cơ sở quy hoạch tránh lãng phí. Tạo ra thị trường đất đai ở khu vực
nông thôn sẽ làm cho sự minh bạch về giá, giúp cho quá trình sử dụng nguồn
23



vốn này tốt hơn, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung đất đai, từ đó góp phần
thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Xác định
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
và xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá lớn. Vì thế cần phát triển mạnh công
nghiệp và dịch vụ ở khu vực nông thôn. Tiếp theo là phát triển mạnh lâm nghiệp
và thuỷ sản nhằm thay đổi cơ cấu giữa nông- lâm- thuỷ sản. Trong nội bộ ngành
nông nghiệp cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, và tất nhiên là thay đổi
cơ cấu cây trồng giảm tỷ trọng cây lương thực, tăng tỷ trọng cây màu cây công
nghiệp.
Củng cố thị trường đã có, mở rộng thị trường mới để tiêu thụ nông
sản phẩm và dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn.
Hoàn chỉnh quy hoạch sản xuất nông lâm thuỷ sản và ngành nghề dịch vụ
ở nông thôn theo hướng hàng hoá gắn với thị trường.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần. Cải tiến và đổi mới cơ chế huy động
vốn, sử dụng và quản lý vốn đầu tư. Một mặt tăng tỷ lệ đầu tư từ ngân sách
nhưng chủ yếu cho kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp nông thôn. Có cơ chế và
chính sách phù hợp như chính sách miễn giảm thuế, chính sách tín dụng..., để
kêu gọi khuyến khích đầu tư từ nhiều nguồn vốn khác nhau vào nông nghiệp
nông thôn, đặc biệt là nguồn vốn FDI vẫn là nguồn vốn quan trọng để thúc đẩy
sự phát triển và chuyển giao công nghệ trong ngành nông -lâm- thuỷ sản.
Cần thúc đẩy sự hoạt động của hệ thống tài chính ngân hàng vào khu vực
thị trường nông thôn, nơi tỷ lệ rủi ro cao. Tạo ra những thuận lợi nhất để nông
dân có thể tiếp cận với các nguồn tài chính. Đẩy nhanh việc cổ phần hoá, hình
thành thị trường vốn và vận hành tốt loại thị trường này nhằm nhanh chóng huy
động vốn và di chuyển vốn dễ dàng giữa các khu vực, các ngành kinh tế từ đó
tạo vốn cho khu vực nông thôn.
24



Tăng nguồn vốn trung hạn và dài hạn hỗ trợ cho nhân dân, đặc biệt với
nông dân trong quá trình tạo việc làm và chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn.
Thúc đâỷ quá trình đô thị hóa nông thôn cùng với việc xây dựng các
khu công nghiệp nhỏ ở nông thôn. Quá trình này được thực hiện bằng việc
hình thành các thị trấn thị tứ, các khu công nghiệp nhỏ và vừa, gia tăng các
hoạt động dịch vụ ở nông thôn. Đây là cơ sở cho việc đẩy nhanh quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động ở nông thôn. Nhà nước
kích thích quá trình này bằng cách hỗ trợ xây dựng các công trình cấu trúc
hạ tầng như cấp điện, giao thông, thông tin liên lạc, các trung tâm thương
mại dịch vụ. Khuyến khích dân cư nông thôn tự tạo việc làm ngay tại quê
hương mình theo phương châm "Li nông bất li hương”. Khôi phục và phát
triển các làng nghề truyền thống. Chẳng hạn trước đây số lao động trẻ của
tỉnh Quảng Nam di chuyển đến các đô thị tìm việc làm rất lớn thì hiện tại với
chương trình khôi phục làng nghề truyền thống của tỉnh đã thu hút rất nhiều
lao động trẻ.
Nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực ở nông thôn. Cần thực hiện
cơ chế nhà nước và nhân dân cùng làm để tăng cường đầu tư cho giáo dục
nâng cao trình độ văn hoá cho các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng Tây
Nguyên, Tây Bắc và đồng bằng sông Cửu Long sớm phổ cập giáo dục cơ sở.
Điều chỉnh mạng lưới cơ sở đào tạo cho phù hợp với yêu cầu quy
hoạch phát triển kinh tế xã hội của từng vùng nông thôn. Xây dựng một số
cơ sở sản xuất nông nghiệp có trình độ kỹ thuật công nghệ cao trong các
vùng nông nghiệp trọng điểm nhằm kết hợp khuyến nông, đẩy mạnh hoạt
động phổ biến chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân. Trong việc đào
tạo nghề nông nghiệp cho nông dân cần chú ý cả phương tiện kỹ thuật và kỹ
năng quản lý, không chỉ chú trọng các loại hình chính quy trên cơ sở phát
25



×