Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

kiem tra mon my thuat 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.21 KB, 7 trang )

Thời kỳ Phục hưng bắt đầu vào khoảng thế kỷ 14 ở một số nước Châu Âu, nó
được coi là cuộc tái sinh các giá trị nghệ thuật, tư tưởng, khoa học của thời kỳ Cổ đại và
sự sống lại, phát triển rực rỡ của nền văn minh phương Tây. Nó cũng đánh dấu giai
đoạn chuyển tiếp của Châu Âu từ thời kỳ Trung cổ sang thời kỳ Cận đại, cũng như từ
thời kỳ Phong kiến sang thời kỳ Tư bản. Thành tựu rực rỡ của Văn hóa Phục Hưng thể
hiện trên rất nhiều các lĩnh vực, đặc biệt là nghệ thuật. Trong đó không thể không nhắc
tới hội họa.
Thời kỳ Phục Hưng là thời kỳ mà nhân loại đã chứng kiến nhiều phát minh mới
trong nghệ thuật tạo hình. Sự xuất hiện chất liệu sơn dầu với khả năng tả khối, tả chất
cao đã giúp cho các hoạ sỹ Phục Hưng có trong tay một phương tiện để biểu đạt thành
công vẻ đẹp của cuộc sống. Kiến trúc sư kiêm nhà văn Lê-ôn-Bát-tít-sta An-béc-ti (1404
- 1472) đã phát minh ra phép phối cảnh, một hệ thống toán học đã diễn tả không gian ba
chiều trên mặt phẳng hai chiều. Chính điều đó đã làm cho các hoạ sỹ Phục Hưng đặc
biệt say mê môn phối cảnh này. Đến Lê-ô-na-đờ-Vanh-xi, luật phối cảnh (còn gọi là Luật
xa gần) được nghiên cứu một cách cẩn thận và hoàn thiện. Nhờ có sự nghiên cứu đó
các hoạ sỹ Phục Hưng đã diễn tả được chiều sâu thăm thẳm của không gian thực trên
mặt phẳng hai chiều nhỏ bé, hữu hạn. Tất cả các phát minh trên kết hợp với tư tưởng
thẩm mỹ tiến bộ đã giúp các hoạ sỹ đi sâu, nghiên cưú tìm ra cách thể hiện tranh với
nhiều phẩm chất tốt đẹp. Cái đẹp của tranh thời kỳ Phục Hưng là cái đẹp của sự cân
đối, hài hoà. Hình tượng con người được coi là kiểu mẫu cho tất cả.
Tác phẩm La-giô-công-đơ của Lê-ô-na-đờ-Vanh-xi là một đại diện xuất sắc cho
tư tưởng thẩm mỹ của thời đại. Khi xem tranh, công chúng thưởng thức nghệ thuật vô
cùng khâm phục khả năng xử lý chất liệu sơn dầu của Lê-ô-na-đờ-Vanh-xi. Chân dung
La-giô-công-đơ sống động đến mức chúng ta có cảm giác như đang đối diện với một
con người bằng xương, bằng thịt và thế giới tâm hồn phong phú ẩn sâu bên trong. Các
nhà phê bình nghệ thuật đã tốn không ít giấy mực để ngợi ca tác phẩm này. Đứng ở
góc độ nghệ thuật, đây là một bức chân dung đặc tả tính cách nhân vật thành công. Tác
phẩm là đỉnh cao trong sự thể hiện tư tưởng thẩm mỹ của thời đại về một mẫu người
công dân có nội tâm phong phú. Vẻ đẹp ngoại hình kết hợp với vẻ đẹp nội tâm đã tạo
nên sự hài hoà, cân bằng cho hình tượng nghệ thuật. Ngoài việc diễn tả chất da thịt
sống động, tác phẩm còn thành công ở việc diễn tả gương mặt của La-giô-công-đơ. Đặc


biệt nhất là nụ cười của nhân vật. Hoạ sỹ đã nhấn mạnh hai khoé môi, kết hợp với
đường cong lên của mắt, mũi, miệng đã tạo được một nụ cười đặc biệt, tồn tại theo thời
gian, làm say đắm lòng người. Phía sau nhân vật là phong cảnh núi non xa xa trập
trùng, mờ ảo. Tất cả điều đó đã biểu hiện rõ ràng lý tưởng thẩm mỹ của thời đại. Con
người luôn được coi là trung tâm của vũ trụ, là báu vật của thiên nhiên. Ngày nay, vẽ
chân dung một phụ nữ là một việc làm bình thường của các hoạ sỹ, không gây nên sự
xáo động nào của xã hội vì người phụ nữ là hiện thân của cái đẹp, là nguồn cảm hứng
vô tận của người hoạ sỹ. Nhưng với tranh của các hoạ sỹ thời Phục Hưng nói chung và
của Lê-ô-na-đờ-Vanh-xi nói riêng thì việc làm của họ thực sự là một cách mạng trong tư
tưởng thẩm mỹ, trong nghệ thuật.
Suốt thời trung cổ, trên các bức tranh ta chỉ thấy những gương mặt gầy guộc,
má hóp với đôi mắt mở to ngơ ngác như đang chìm đắm vào một thế giới mênh mông
nào đó. Đến thời Phục Hưng, bên cạnh những hình tượng tôn giáo, con người thực với
vẻ đẹp mà tạo hoá ban cho đã được đưa vào tranh hết sức đẹp đẽ, thánh thiện. Điều
này hoàn toàn chưa được thể hiện trong nghệ thuật thời kỳ trung cổ. Tác phẩm La-giô-
công-đơ, ngoài những giá trị về mặt nghệ thuật, thể hiện tài năng của hoạ sỹ, còn có
một giá trị góp phần làm cho tác phẩm sống mãi với thời gian, đó là giá trị về mặt nội
dung, tư tưởng thẩm mỹ, tính nhân văn cao cả. Lê-ô-na-đờ-Vanh-xi đã sử dụng một
cách biểu hiện mới mà người Ý gọi là phương pháp " Sfumato". Có nghĩa là mọi thứ
không diễn tả quá rõ ràng để khơi gợi trí tưởng tượng phong phú cho người xem tranh.
Cách biểu hiện đó đã góp phần tăng thêm sức hấp dẫn cho tác phẩm, tạo sự thu hút
đặc biệt với người xem. Cách biểu hiện tâm trạng, nụ cười của La-giô-công-đơ chính là
một minh chứng cho việc sử dụng phương pháp "Sfumato'. Nụ cười của La-giô-công-đơ
gợi cảm giác gần ta nhưng cũng rất xa ta. Nhân vật đang vui hay buồn ta khó có thể
đoán được. Tất cả ẩn dấu sau đôi mắt, khoé miệng, nụ cười được giấu đi, song vẫn có
thể được bộc lộ rõ ràng nếu tâm trạng người ngắm tranh vui hoặc có thể ngược lại. Vẻ
đẹp của La-giô-công-đơ vừa rõ ràng vừa ẩn dấu, vừa thân quen lại vừa xa vời vợi. Vì
vậy càng ngắm tranh càng phát hiện ra nhiều điều thú vị mà nếu chỉ lướt qua ta không
thể nhận ra được. Đó chính là sức hấp dẫn của tác phẩm khiến nó sống mãi, vượt qua
thời gian, không gian, chinh phục lòng người ở mỗi thời đại.

Tác phẩm Đức mẹ của đại công tước của Ra-pha-en được vẽ theo yêu cầu của
một vị đại công tước. Vị đại công tước này đã coi tác phẩm như một báu vật. Đức mẹ
của đại công tước đạt đến một vẻ đẹp mẫu mực, hoàn mỹ về đề tài tôn giáo. Ở đây Ra-
pha-en đã tạo ra hình tượng đức mẹ và chúa hài đồng đẹp, thực sự sinh động và tràn
ngập sức sống.
Nói tới Ra-pha-en không thể không nhắc tới tác phẩm Trường học A-ten. Trong
tác phẩm hoạ sỹ đã ca ngợi triết học Hy Lạp cổ đại. Tác phẩm được thể hiện trong
Phòng chữ ký của toà thánh Va-ti-căng. Căn phòng với vòng cung lớn. Ở chính giữa
tranh là hai nhà triết học P-la-tôn và A-rít-xtốt. P-la-tôn là sự hiện thân của Lê-ô-na-đờ-
Vanh-xi đang chỉ tay lên trời, A-rít-xtốt lại chỉ tay xuống đất. Điều này thể hiện tư tưởng
triết học duy tâm khách quan của P-la-tôn và sự dung hợp giữa triết học duy tâm và duy
vật của A-rít-xtốt. Trong tranh, Ra-pha-en đã thể hiện hai nhà triết học cổ đại đang từ
trong phòng bước ra, trước sự chờ đón của mọi người. Tác giả đã đưa vào trong tranh
một số lượng nhân vật khá đông. Họ là những học giả, nhà triết học, những đại biểu của
khoa học và nghệ thuật từ thời kỳ cổ đại đến thời kỳ Phục Hưng. Trong đó cũng có sự
hiện diện của Lê-ô-na-đờ-Vanh-xi, Ra-pha-en cùng nhiều nhân vật khác. Tất cả được
sắp xếp hợp lý trên các bậc cấp. Với cách xử lý các mảng màu, bố cục chặt chẽ tác giả
đã diễn tả các nhân vật nổi bật trên nền kiến trúc. Phía sau A-rít-xtôt và P-la-tôn là
khung cửa với bầu trời xanh tạo vẻ độc đáo, tự nhiên và đậm chất hiện thực. Mặc dù bố
cục tranh được bó gọn trong không gian kiến trúc nhưng tác giả vẫn tạo được chiều sâu
thẳm trên mặt phẳng hai chiều.
Tác phẩm Đa-vít của My-ken-lăng-giơ, sáng tác từ năm 1501 -1504, với khối đá
cẩm thạch, My-ken-lăng-giơ đã tạo ra một pho tượng người anh hùng Đa-vít của dân
Hebreuk đã chiến thắng người khổng lồ Gô-li-át. Pho tượng Da-vít có thể coi như đồng
nghĩa với sự hoàn thiện, hoàn mỹ về tỷ lệ, sự hài hoà giữa vẻ đẹp thể chất và vẻ đẹp
tinh thần. Đá cẩm thạch dưới bàn tay tài hoa của nhà điêu khắc đã biến thành chất da
thịt sống động. Những đường gân, mạch máu được diễn tả chính xác, nhất là trên đôi
bàn tay. Mọi chi tiết của tượng Đa-vít có thể nói đều đạt tới sự mẫu mực, chính xác. Tác
phẩm là một chuẩn mực hoàn thiện của vẻ đẹp cơ thể con người. Từ các khối hình:
mắt, mũi, tai, miệng, tay, chân…cho đến ngày nay vẫn là những chuẩn mực để các hoạ

sỹ, các nhà điêu khắc tiếp tục kế thừa, học hỏi.
Những tác phẩm phân tích trên đây là đỉnh cao cho tư tưởng thẩm mỹ thời đại
Phục Hưng. Một thời đại mà cái đẹp hướng vào chính bản thân con người và thiên
nhiên. Đứng trước những tác phẩm đó người ta luôn tin rằng con người là mạnh nhất và
con người có thể vượt qua mọi trở ngại của cuộc sống. Nếu ở thời kỳ trung cổ, hình
tượng con người được diễn tả với đôi mắt mở to như nhìn vào cõi hư vô, tư thế cúi
xuống để thể hiện sự cầu xin, ngước lên để sám hối, gương mặt hốc hác, thân hình kéo
dài ra thì trong nghệ thuật Phục Hưng con người được diễn tả đẹp đẽ, trong sáng với
sự cân xứng hài hoà giữa vẻ đẹp ngoại hình và chiều sâu của nội tâm. Nếu tư tưởng
thẩm mỹ của thời kỳ trung cổ lấy thánh thần làm đích để đánh giá và phấn đấu thì tư
tưởng thẩm mỹ Phục Hưng lấy chính con người, coi con người là thước đo mọi giá trị, là
trung tâm của vũ trụ. Nghệ thuật tạo hình thời kỳ này thực sự là bản anh hùng ca ca
ngợi vẻ đẹp hoàn thiện, hoàn mỹ của con người. Nghệ thuật không những được tái sinh
mà còn phát triển đến đỉnh cao trên nền của một hoàn cảnh xã hội mới. Cái đẹp của
nghệ thuật tạo hình Phục Hưng là cái đẹp của sự hài hoà và cân đối. An-béc-ti từng nói:
"Sẽ khó đạt cái đẹp nếu không có sự hài hoà". Mục tiêu của phong trào văn hoà Phục
Hưng là đấu tranh cho sự giải phóng con người. Kẻ thù của các nhà tư tưởng nhân văn
và nghệ sỹ thời kỳ Phục Hưng là sự nghèo đói và dốt nát. Lý tưởng thẩm mỹ Phục
Hưng là lý tưởng về sự hoàn thiện, hoàn mỹ. Sự cân đối, hài hoà là cơ sở xây dựng cái
đẹp. Như vậy, nét nổi bật trong tư tưởng thẩm mỹ Phục Hưng chính là đời sống tâm
hồn con người và tính hiện thực trong nghệ thuật.
La-giô-công-đơ - Tranh sơn dầu trên gỗ - Le-ô-na-đờ-vanh-xi.
Trường học A-ten - Tranh bích họa ( 1510 - 1512 ) của Ra-pha-en.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×