Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

quyền của trẻ em theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.29 KB, 55 trang )

Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

 

ĐỀ TÀI:
QUYỀN CHĂM SÓC SỨC KHỎE TRẺ EM
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM, THỰC TIỄN
TẠI TỈNH ĐỒNG THÁP

Giáo viên hướng dẫn:
Ths. Dương Văn Học

Sinh viên thực hiện:
Bùi Kim Hiếu
MSSV: CD1232M243
Lớp: Luật CD1232M1-Đồng Tháp

Cần Thơ 12/2016

GVHD Th.S Dương Văn Học

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc tới:


Ban giám hiệu cùng toàn thể thầy cô trường Đại Học Cần Thơ.
Quý thầy cô Khoa Luật đã tận tình giảng dạy, truyền đạt lại những kiến thức
giúp tôi thực hiện đề tài này.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự nhiệt tình của người hướng dẫn
tôi hoàn thành luận văn này Thầy ThS. Dương Văn Học người đã hướng dẫn và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập cũng như thời gian thực hiện đề tài.
Cuối cùng xin cảm ơn gia đình và bạn bè gần xa đã luôn ở bên động viên, giúp
đỡ cũng như ủng hộ tôi trong suốt những năm học tại trường.

GVHD Th.S Dương Văn Học

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

BẢNG CÁC
CHỮ
VIẾT TẮT

01
BVCSGD
02
03
04

NQ


CEADW

05

CRC

06

HDI

07

HIV

08

UNDP

09
10

LHQ
GDI

11

UDHR

12


ICESCR

13
14
15
16
17

TIẾNG VIỆT

TIẾNG ANH

Bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục
Nghị quyết
Trung ương
Công ước loại bỏ mọi hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ (Convention on
the Elimination of all Forms of
Discrimination against Women)
Công ước Quyền trẻ em (Child
Right Convention)
Chỉ số phát triển con người (Human
Development Index)
Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc
phải

người
(human

immunodeficiency virus infection /
acquired immunodeficiency syndrome)
Chương trình Phát triển Liên Hợp
Quốc (United Nations Development
Programme)
Liên hiệp quốc
Chỉ số phát triển giới (The Genderrelated Development Index)
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
(universal declaration of human rights)
Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh
tế, Xã hội và Văn hóa (International
Covenant on Economic, Social and
Cultural Rights)

BHYT
Bảo hiểm y tế
LĐ – TB&XH Lao động – Thương binh
và Xã hội
TECHCĐB
Trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt.
UBND
Uỷ ban nhân dân
TNCS
Thanh niên cộng sản

GVHD Th.S Dương Văn Học

SVTH Bùi Kim Hiếu



Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

18

CNVCLĐ

19
20

TN
ASEAN

21

CSSK

Công nhân viên chức lao
động
Tuyên ngôn
Hiệp hội các Quốc gia
Đông Nam Á (Association
of
Southeast
Asian
Nations)
Chăm sóc sức khoẻ

GVHD Th.S Dương Văn Học


SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN

GVHD Th.S Dương Văn Học

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.........................................................2
3. Phạm vi nghiên cứu..................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................2
5. Kết cấu đề tài...............................................................................................2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ QUYỀN CHĂM SÓC SỨC KHỎE TRẺ EM................................4
1.1. Quyền con người...............................................................................................4
1.1.1. Khái niệm về quyền con người....................................................................4
1.1.2. Đặc điểm của quyền con người...................................................................6
1.2. Pháp luật quốc tế về quyền con người.............................................................7
1.2.1. Hiến chương Liên hiệp quốc.......................................................................7
1.2.2. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948...........................................8

1.2.3. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và Công ước quốc tế
về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội..............................................................10
1.2.4. Một số điều ước quốc tế khác về quyền con người...................................11
1.3. Sơ lược pháp luật Việt Nam về quyền con người..........................................12
1.4. Quyền trẻ em...................................................................................................16
1.4.1. Khái niệm về trẻ em...................................................................................16
1.4.2. Quyền trẻ em..............................................................................................17
1.5. Quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em...................................................21
1.5.1. Khái niệm về chăm sóc sức khỏe...............................................................21
1.5.2. Quyền được chăm sóc sức khỏe theo pháp luật Việt Nam........................22
1.5.3. Quyền chăm sóc sức khỏe cuả trẻ em......................................................24
1.5.3.1. Chăm sóc sức khỏe ban đầu...............................................................24
1.5.3.2. Nơi khám chữa bệnh cho trẻ em.........................................................24
1.5.3.3. Chăm sóc sức khỏe học đường...........................................................25
KẾT LUẬN CHƯƠNG I...........................................................................................27

GVHD Th.S Dương Văn Học

i

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN QUYỀN CHĂM SÓC SỨC KHỎE TRẺ EM Ở TỈNH
ĐỒNG THÁP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN............................................................28
2.1. Chủ thể có nghĩa vụ đảm bảo quyền trẻ em........................28
2.1.1. Trách nhiệm Nhà nước:............................................................................28
2.1.2. Trách nhiệm của Nhà trường...................................................................29

2.1.3. Trách nhiệm của gia đình.........................................................................29
2.1.4. Trách nhiệm của xã hội............................................................................30
2.2. Khái quát chung về tỉnh Đồng Tháp.........................................31
2.3. Tình hình chăm sóc sức khỏe trẻ em tại tỉnh Đồng Tháp
................................................................................................................................. 32
2.4. Kết quả chăm sóc sức khỏe trẻ em ở tỉnh Đồng Tháp..................................33
2.4.1. Về công tác tiêm chủng.............................................................................33
2.4.2. Về công tác cấp và sử dụng thẻ bảo hiểm y tế...........................................34
2.4.3. Về công tác khám chữa bệnh....................................................................36
2.4.4. Về công tác y tế học đường........................................................................37
2.5. Bất cập và hướng hoàn thiện..........................................................................38
2.5.1. Bất cập.......................................................................................................38
2.5.1.1. Về công tác tiêm chủng.......................................................................38
2.5.1.2. Về công tác Bảo hiểm y tế...................................................................39
2.5.1.3. Về công tác Khám chữa bệnh.............................................................40
2.5.1.4. Về công tác y tế học đường.................................................................40
2.5.2. Hướng hoàn thiện.....................................................................................41
KẾT LUẬN CHƯƠNG II.........................................................................................43
KẾT LUẬN................................................................................................................44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................44

GVHD Th.S Dương Văn Học

ii

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, trên thế giới trẻ em nói chung và vấn đề chăm sóc sức khoẻ trẻ em
nói riêng đã được chú trọng và quan tâm, đặc biệt trong đó có Việt Nam, vì tương lai
của mỗi đất nước đều phụ thuộc vào thế hệ trẻ đó là trẻ em. Tình trạng trẻ em vô gia
cư, tự kiếm sống, nhất là bị bốc lột sức lao động, bị lừa gạt, bị hành hạ có chiều
hướng gia tăng. Do đó, hệ thống pháp luật Việt Nam cần cấp thiết giải quyết vấn đề
quyền trẻ em nhằm bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi để trẻ em Việt Nam phát triển,
gánh vác đất nước về sau.
Việt Nam sớm cam kết thừa nhận tính chất pháp lý về quyền trẻ em. Bằng
chứng là Việt Nam đã sớm có Luật BVCSGD trẻ em năm 2004 để cam kết thực hiện
CRC. Bên cạnh đó, vấn đề về quyền trẻ em và công tác BVCSGD trẻ em đã được sự
chú ý, quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua, nhằm điều chỉnh, bảo
vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em.
Đảng và chính phủ Việt Nam cũng đã thể hiện trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc,
giáo dục trẻ em thông qua hiến pháp và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan. Luật BVCSGD trẻ em năm 2004 đã quy định: “Công tác bảo vệ, chăm sóc
trẻ em phải coi trọng việc phòng ngừa, ngăn chặn trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt;
kịp thời giải quyết, giảm nhẹ hoàn cảnh đặc biệt của trẻ em; kiên trì trợ giúp trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt phục hồi sức khỏe, tinh thần và giáo dục đạo đức; phát hiện,
ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi để trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt”. 1
Nhiều văn bản pháp lý có những thay đổi về quyền trẻ em nhưng chưa đồng bộ
và thiếu thống nhất trong giải quyết và thực tiễn dẫn đến nhiều tồn tại, vướng mắc.
Mỗi năm trên cả nước có rất nhiều vụ kiện liên quan đến quyền trẻ em nhưng chưa
được cấp có thẩm quyền giải quyết thoã đáng. Do đó, các vụ án này thường được xử
nhiều lần mà không có tính thuyết phục cao, không đảm bảo được quyền và lợi ích
hợp pháp của trẻ em khi bị xâm hại.
Thời gian qua, nhiều văn kiện của Đảng ra đời nhằm mục tiêu cải cách tư pháp
và hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em như: Nghị
quyết số 48/NQ/TƯ ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số
49/NQ/TƯ ngày 2/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Văn kiện
đã chỉ rõ một số nhiệm vụ quan trọng của công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác
định được nhiệm vụ, mục tiêu và sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật trong
1

Điều 41 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.

GVHD Th.S Dương Văn Học

1

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

thời kì đổi mới, trong đó những vấn đề về quyền trẻ em trong các văn bản pháp lý
chuyên ngành đang là vấn đề cấp thiết.
Qua những nhận định trên tôi chọn đề tài “Quyền chăm sóc sức khoẻ trẻ em
theo pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp” để nhgiên cứu, phân tích
làm rõ hơn những yếu tố liên quan đến quyền trẻ em trong các quy định pháp luật
của nhà nước nói chung và của tĩnh Đồng Tháp nói riêng nhằm đưa ra được một số
kiến nghị để hoàn thiện các quy định về quyền chăm sóc sức khoẻ trẻ em.

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Vì tầm quan trọng của vấn đề quyền trẻ em và tính cấp thiết của đề tài, người
viết muốn đặt ra được mục tiêu nghiên cứu như sau: Tìm hiếu những vấn đề chung
nhất về quyền trẻ em , trên cơ sở phân tích một cách tổng quát các quy định của Nhà
nước và thực tiển áp dụng ở nước ta trong thời gian qua. Qua đó rút ra được những tồn

tại thiếu sót cần khắc phục.
Hoàn thiện các quy phạm pháp luật về quyền chăm sóc sức khoe trẻ em theo
pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng cho tĩnh Đồng Tháp.
3. Phạm vi nghiên cứu
Các văn bản luật và dưới luật về vấn đề quyền chăm sóc sức khoẻ trẻ em
theo pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các Phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp luận: Người viết sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhìn nhận sự vật, hiện tượng theo hướng luôn biến đổi,
nằm trong mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa, vận động và phát triển theo những
quy luật nhất định.
Phương pháp phân tích, tổng hợp.
Phương pháp thống kê, điều tra, tổng hợp số liệu thực tế.
5. Kết cấu đề tài
Kết cấu luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Lý luận chung về quyền con người và pháp luật Việt Nam về
quyền chăm sóc sức khoẻ trẻ em. Vấn đề trong chương này thể hiện được quyền con
người theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam; quyền trẻ em và các quyền về
chăm sóc sức khỏe của trẻ em.
Chương 2: Thực tiễn quyền chăm sóc sức khoẻ trẻ em ở tỉnh Đồng Tháp và
hướng hoàn thiện. Trong thời gian qua, cùng với sự nỗ lực hết mình của tập thể cán

GVHD Th.S Dương Văn Học

2

SVTH Bùi Kim Hiếu



Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

bộ và hội viên, Hội Y tế tỉnh Đồng Tháp đã thực hiện nhiều chương trình và hoạt động
thiết thực, góp phần chung tay chăm lo sức khỏe cho cộng đồng, người dân ở tỉnh
Đồng Tháp. Đặc biệt là sự quan tâm chăm lo cho trẻ em với các vấn đề như: Về công
tác tiêm chủng, bảo hiểm y tế, việc chăm sóc sức khỏe nơi khám chữa bệnh và vấn đề
y tế học đường cũng được các ngành các cấp quan tâm.

GVHD Th.S Dương Văn Học

3

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ QUYỀN CHĂM SÓC SỨC KHỎE TRẺ EM
1.1. Quyền con người
1.1.1. Khái niệm về quyền con người
Có rất nhiều định nghĩa về quyền con người (nhân quyền), mỗi định nghĩa là
một sự biểu hiện khác nhau ở góc độ nhìn nhận về vấn đề nhân quyền. Tuy nhiên, tổng
hợp lại có thể chia thành ba nhóm quan niệm chủ yếu về quyền con người như sau:
Quan niệm thứ nhất: Bắt nguồn từ chỗ coi con người là một thực thể tự nhiên,
nên quyền con người phải là quyền "bẩm sinh", là "đặc quyền", nghĩa là quyền con
người, quyền lợi của con người với tư cách là người, gắn liền với cá nhân con người,
không thể tách rời. Xuất phát từ quan điểm này, Jacques Mourgon (giáo sư đại học
khoa học xã hội Toulouse) đưa ra định nghĩa: "Quyền con người là những đặc quyền
được các quy tắc điều khiển mà con người giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình

với các cá nhân và với chính quyền" 2. Định nghĩa này chủ yếu đề cập đến quyền con
người ở khía cạnh tự nhiên của nó.
Quan niệm thứ hai: Đặt con người và quyền con người trong mối quan hệ xã
hội. Quan niệm này cho rằng, con người chỉ là một thực thể xã hội, nên quyền của nó
chỉ được xác định trong mối tương quan với các thực thể xã hội khác và vì là quan hệ
xã hội nên nó được chế độ nhà nước, pháp luật điều chỉnh bảo vệ. Cơ sở của quyền
con người ở đây chính là trình độ phát triển của nền kinh tế, văn hóa, xã hội và do chế
độ kinh tế, chế độ xã hội quyết định.
Quan niệm thứ ba: Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề quyền
con người. Xuất phát từ quan niệm coi con người vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là sản
phẩm của xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng vấn đề quyền con người: "Về bản
chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội"3.
Xét về mặt tự nhiên, C.Mác cho rằng, con người là "động vật xã
hội"4 có khả năng "tái sinh ra con người", con người là động vật cao cấp nhất trong
quá trình tiến hóa. Do đó, về mặt này quyền con người trước hết là một thuộc tính tự
nhiên. Quyền con người không phải là một "tặng vật", do giai cấp thống trị ban phát
thông qua nhà nước mà quyền con người trong hình thức lịch sử tự nhiên của nó mang
bản chất tự nhiên, được thể hiện ở quyền được sống, quyền tự do, quyền được sáng
tạo, phát triển, quyền được đối xử như con người, xứng đáng với con người.

2

Jacques Mourgon (1995), Quyền con người, Nxb Đại học Pháp, Hà Nội, tr 12.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1986), Toàn tập, tập III, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr 12.
4
C.Mác - Ph.Ăngghen (1986), Toàn tập, tập III, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr 855.
3

GVHD Th.S Dương Văn Học


4

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

Xét về mặt xã hội, con người mặc dù là động vật cao cấp nhất của tự nhiên,
nhưng ngay khi tiến hóa trở thành động vật cao cấp, con người đã sống thành bầy đàn
và trở thành sản phẩm của lịch sử xã hội. Trong luận cương thứ VI về Phoi-ơ-bắc,
C.Mác cho rằng: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội"5. Do đó xét về khía cạnh xã hội, thì "quyền con người, ngay từ khi có
xã hội loài người, bên cạnh bản tính tự nhiên còn in đậm bản tính xã hội" 6. Theo Mác:
"Quyền con người là những đặc quyền chỉ có ở con người mới có, với tư cách là con
người, là thành viên xã hội loài người"7.
Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa khác nhau về quyền con người. Học giả
Nguyễn Bá Diến cho rằng: "Quyền con người là các khả năng của con người được
đảm bảo bằng pháp luật (luật quốc gia và luật quốc tế) về sử dụng và chi phối các
phúc lợi xã hội, các giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng quyền tự do trong
xã hội trong phạm vi luật định và quyền quyết định các hoạt động của mình và của
người khác trên cơ sở pháp luật"8. Định nghĩa này mới chỉ đề cập đến quyền con
người với tư cách là phạm trù luật học.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập quyền con người trong bản Tuyên ngôn độc lập
ngày 2 tháng 9 năm 1945. “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa
cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Và sự thật là như vậy, vì trước
đó nhân dân nằm dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nếu không giải phóng đất nước
thoát khỏi ách thống trị này thì con người Việt Nam không thể có quyền con người
được. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, nguyên tắc tôn trọng các quyền con
người được thể chế hóa trong đạo luật cơ bản của Nhà nước: “Ở nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và
xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công và được quy định trong Hiến pháp
và luật”.9
Có một định nghĩa đang được sử dụng phổ biến trong giảng dạy, nghiên cứu về
nhân quyền ở nước ta hiện nay: "Nhân quyền (hay quyền con người) là những năng
lực và nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người, với tư cách là thành viên cộng đồng

5

C.Mác - Ph.Ăngghen (1986), Toàn tập, tập III, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr 21.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1986), Toàn tập, tập III, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr 13.
7
C.Mác - Ph.Ăngghen (1998), Về quyền con người, Nxb CTQG, Hà Nội, tr 14.
8
Nguyễn Bá Diến (1993), Về quyền con người - trong tập chuyên khảo "quyền con người, quyền công
dân", Tập 1, Trung tâm nghiên cứu quyền con người - Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr. 30 56.
9
Điều 57 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung 2001.
6

GVHD Th.S Dương Văn Học

5

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

nhân loại, được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc

tế"10.
Như vậy, có thể hiểu quyền con người là một phạm trù tổng hợp, vừa là "chuẩn
mực tuyệt đối" mang tính phổ biến, vừa là "sản phẩm tổng hợp của một quá trình lịch
sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát triển". Quyền con người "không thể tách rời",
đồng thời cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội...
Quyền con người là một tổng thể những quyền gắn bó với nhau trong mối tương quan
biện chứng, đó là quyền cá nhân và quyền của dân tộc cộng đồng, quyền chính trị dân sự và kinh tế văn hóa xã hội, quyền của cá nhân đi đôi với nghĩa vụ đối với xã
hội...
1.1.2. Đặc điểm của quyền con người
Theo quan điểm được cộng đồng quốc tế thừa nhận thì quyền con người có một
số đặc điểm là:
Thứ nhất, quyền con người mang tính phổ biến. Đặc điểm trên thể hiện ở chỗ
quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình
đẳng cho tất cả mọi thành viên của xã hội, không có sự phân biệt đối xử vì bất kỳ lý
do gì, chẳng hạn như về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần
xuất thân v.v. Liên quan đến đặc điểm này cần được hiểu rằng bình đẳng về quyền con
người thì không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ các quyền mà phải là bình
đẳng về tư cách chủ thể của quyền con người.
Thứ hai, quyền con người là quyền không thể chuyển nhượng được. Cần phải
hiểu rằng quyền con người là một quyền nhân thân do vậy không thể bị tướt đoạt hay
hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào kể cả các cơ quan và quan chức Nhà
nước trừ một số trường hợp đặc biệt như bị hạn chế một số quyền nhân thân khi bản
thân người đó phạm tội.
Thứ ba, quyền con người là một quyền không thể phân chia. Đặc điểm này
cũng có liên quan tới đặc điểm thứ hai như đã phân tích. Bởi vì đây là quyền không thể
chuyển nhượng được nên cũng không thể phân chia được. Đặc điểm trên thể hiện ở
chỗ các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, về nguyên tắc thì không có
quyền nào là quan trọng hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con
người nào đều có tác động tiêu cực tới nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con
người. Tuy nhiên, đặc điểm này cũng có một số lưu ý khi thể hiện trong thực tế đó là

tùy những bối cảnh cụ thể và với những đối tượng cụ thể mà có thể ưu tiên thực hiện
một số quyền nhất định, miễn là phải dựa trên những cơ sở và yêu cầu thực tế của việc
10

Học viện CTQG Hồ Chí Minh (1993), Tập bài giảng lý luận về quyền con người, Nxb Sự thật, Hà
Nội, tr 10.

GVHD Th.S Dương Văn Học

6

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

đảm bảo các quyền đó chứ không phải dựa trên sự đánh giá về giá trị của các quyền
đó. Ví dụ, trong bối cảnh dịch bệnh đe dọa hoặc với những người bị bệnh thì được
quyền ưu tiên chăm sóc y tế hơn so với các đối tượng khác. Ở phạm vi rộng hơn,
CEADW và CRC đã đặt ra một số quyền ưu tiên cần được đảm bảo đối với phụ nữ, trẻ
em. Những ưu tiên như vậy không có nghĩa là các quyền ưu tiên có giá trị cao hơn mà
là các quyền đó trong thực tế thường bị bỏ qua, có nguy cơ bị đe dọa hoặc vi phạm
nhiều hơn các quyền khác.
Thứ tư, quyền con người có tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau 11. Đặc điểm này
thể hiện ở chỗ việc đảm bảo các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong
mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiến hoặc
gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực hiện các quyền khác và ngược lại, sự
tiến bộ trong việc đảm bảo một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến
việc đảm bảo các quyền khác. Thực tế cho thấy, trong hầu hết các trường hợp, rất khó
hoặc không thể thực hiện được việc đảm bảo thành công trong việc thực hiện một

quyền nào đó mà không có sự tác động hỗ trợ của các quyền khác. Ví dụ khi thực
quyền bầu cử, ứng cử thì cần phải đảm bảo được các quyền về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, văn hóa khác có liên quan như quyền được giáo dục, quyền được chăm
sóc y tế, quyền có mức sống thích đáng v.v. vì nếu không thì các quyền bầu cử, ứng cử
sẽ không có ý nghĩa đối với những người đói khổ, bệnh tật hay mù chữ v.v.
1.2. Pháp luật quốc tế về quyền con người
1.2.1. Hiến chương Liên hiệp quốc
Hiến chương LHQ được thông qua ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết
thúc vào năm 1945. Hiến chương đã đặt nền móng đầu tiên cho việc thiết lập một cơ
chế pháp lý quốc tế để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên thế giới. Đây là điều
ước quốc tế rất quan trọng và là điều ước quốc tế đầu tiên trải qua hơn 60 năm tồn tại
vẫn giữ nguyên giá trị pháp lý và các ý nghĩa xã hội, đặc biệt là các điều khoản quy
định về bảo vệ và thực hiện “quyền con người cho tất cả mọi người”.
Ngay lời mở đầu của Hiến chương đã khẳng định: “Tuyên bố một lần nữa lòng
tin tưởng ở những quyền cơ bản của con người, ở phẩm giá và giá trị của con người, ở
quyền bình đẳng giữa nam, nữ và ở quyền bình đẳng giữa các nước lớn và nhỏ”. Như
vậy quyền con người là một trong những nội dung chính yếu của Hiến chương LHQ
Tại khoản 3 Điều 1 Hiến chương đã kêu gọi các quốc gia trên thế giới thực hiện
sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết những vấn đề quốc tế về kinh tế, văn hóa, xã
hội và nhân đạo. Bên cạnh đó còn thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng quyền con
người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người mà không phân biệt chủng tộc,
11

United Nations, Human Rights, A Basic Handbook for UN Staff, pg.3

GVHD Th.S Dương Văn Học

7

SVTH Bùi Kim Hiếu



Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

màu da, giới tính hay tôn giáo v.v. Qua đó, Hiến chương kêu gọi tất cả các nước hành
động phối hợp với LHQ để đạt được việc tôn trọng và thực hiện quyền con người trên
phạm vi toàn thế giới.
Với những mục đích hoạt động đã được thể hiện trong Hiến chương, trong đó
vấn đề bảo vệ quyền con người là một trong những mục đích chính của LHQ nên trong
hầu hết các điều khoản của Hiến chương đều có những quy định nhằm thúc đẩy,
khuyến khích bảo vệ quyền con người từ các cơ quan chuyên trách của LHQ đến nghĩa
vụ của cộng đồng quốc tế, các quốc gia. Chẳng hạn như tại Điều 61 Hiến chương quy
định Hội đồng kinh tế xã hội có thể đưa ra những kiến nghị nhằm đảo bảo sự tôn trọng
thật sự nhân quyền và những quyền tự do cơ bản cho mọi người.
Có thể thấy rằng, tuy Hiến chương chỉ mới dừng lại ở mức độ là những tuyên
bố, khuyến nghị, thúc đẩy của LHQ đối với các tổ chức trực thuộc hoặc các quốc gia
để nhằm bảo vệ và thực thi quyền con người trên phạm vi toàn thế giới nhưng đây
chính là bước tiền đề, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho các quốc gia trên thế giới có
thể dựa vào đó ký kết và thực hiện các điều ước quốc đế đa phương cũng như song
phương, khu vực hay toàn thế giới về quyền con người.
1.2.2. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948
TN thế giới về nhân quyền được thông qua và tuyên bố theo nghị quyết số
217A (III) ngày 10-12-1948 của Đại hội đồng LHQ. Đây là lần đầu tiên mà các quyền
cơ bản và tự do của con người được cộng đồng quốc tế công nhận, được đảm bảo bằng
một văn kiện pháp lý chính thức. Mặc dù không phải là một văn bản có giá trị pháp lý
ràng buộc cũng như không có cơ chế đảm bảo và hệ thống chế tài đối với các hành vi
vi phạm nhưng TN đã được toàn thế giới chấp nhận là nền tảng pháp lý cho việc xây
dựng các công ước quốc tế về quyền con người, làm cơ sở hình thành hệ thống pháp
luật quốc tế về quyền con người hiện nay. Kể từ năm 1948 đến nay, đã có rất nhiều
công ước và các văn kiện khác nhau về quyền con người được xây dựng dựa trên các

nguyên tắc của TN. Đây cũng là văn kiện được trích dẫn nhiều nhất về vấn đề quyền
con người và hiện đã được dịch ra 337 ngôn ngữ khác nhau và đã trở thành hòn đá
tảng cho mọi hành động của các chính phủ, mọi người dân và các tổ chức phi chính
phủ12.
TN gồm Lời nói đầu và 30 Điều ghi nhận thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài
vì phẩm giá và các quyền của con người với nội dung đã quán triệt ý tưởng cao đẹp:
phòng ngừa cho những thế hệ tương lai khỏi thảm họa chiến tranh; TN sự tin tưởng

12

“Kỷ niệm 60 năm Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền”, Tạp chí Điện tử của chương trình Thông tin
quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 11/2008.

GVHD Th.S Dương Văn Học

8

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị con người, ở quyền bình đẳng giữa nam
và nữ, giữa các nước lớn và nhỏ.
Để bảo vệ quyền con người một cách hiệu quả nhất là ngay từ lời nói đầu, TN
đã kêu gọi các quốc gia cùng hợp tác để phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu
những nhân quyền và quyền tự do cơ bản và điều cốt yếu đó chính là sự hợp tác hữu
nghị tương quan giữa các quốc gia với nhau.
Tại Điều 1 của TN đã khẳng định mạnh mẽ rằng: “Mọi người sinh ra đều tự do
và bình đẳng về phẩm giá và các quyền. Họ được phú cho lí trí và lương tâm và cần

đối xử với nhau trong tình anh em”. Tiếp đó, Điều 2 TN khẳng định rõ hơn rằng mọi
người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do được nêu trong TN không có một sự
phân biệt nào giữa người với người, giữa các quốc gia với nhau. Hai quy định trên
được xem là hai nguyên tắc nền tảng của TN bởi vì xuất phát từ nhận thức rằng con
người vốn không bình đẳng với nhau về các quyền và phẩm giá đã dẫn tới việc xâm
phạm các quyền và phẩm giá của con người. Từ chỗ nhận thức không bình đẳng ở
phạm vi cá nhân đã dẫn tới hình thành nhận thức ở quy mô quốc gia, dân tộc và từ đó
làm phát sinh hiện tượng bất bình đẳng lẫn nhau, nguyên nhân của việc xâm phạm
nhân quyền. Chính vì vậy Điều 1 và Điều 2 của Hiến chương như một lời xác nhận
khẳng định rằng: “Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và các
quyền”.
Từ những tuyên bố chung về quyền con người thì tại các Điều còn lại của TN đi
vào quy định các quyền con người cụ thể, có thể chia làm hai nhóm chính (từ Điều 3
đến Điều 29) là nhóm các quyền dân sự- chính trị và nhóm các quyền kinh tế- văn hóaxã hội. Như đã phân tích ở phần 1.4 thì đây được xem là hai nhóm quyền cơ bản, từ
chính những quy định trên đã tạo tiền đề, cơ sở cho việc hình thành hai Công ước quốc
tế quan trọng sau này là Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (năm
1966) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (năm 1966) sẽ
được trình bày ở phần tiếp theo. Tinh thần của TN nhân quyền 1948 đã được cụ thể
hóa thành hai Công ước trên, đóng góp vào quá trình thực hiện và bảo vệ quyền con
người trên phạm vi toàn thế giới.
Có thể nói TN Thế giới về nhân quyền có ý nghĩa đạo đức và chính trị mà ít văn
kiện nào sánh được. TN là kim chỉ nam cho các hành động hiện thời và tư tưởng tiến
bộ cho việc thực hiện quyền con người sau này ở các quốc gia. Các chuẩn mực của TN
ngày càng được thể chế hóa tại các nước và được coi là cơ sở cho các Đạo luật quốc tế
về nhân quyền và các hiệp định khác về các quyền cơ bản của con người. Ngoài ra TN
còn là cơ sở hết sức linh hoạt cho việc không ngừng phát triển sâu rộng hơn khái niệm

GVHD Th.S Dương Văn Học

9


SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

cơ bản nhất về các quyền con người. TN thế giới về nhân quyền chính là xuất phát từ
sự khao khát muốn có một hệ thống chuẩn mực mới về nhân quyền trên toàn cầu13.
1.2.3. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và Công ước quốc tế về
các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội
TN thế giới về Nhân quyền ra đời như một dấu mốc quan trọng trong việc bảo
vệ và thực thi quyền con người trên khắp thế giới. Trong quá trình nghiên cứu và thực
thi pháp luật quốc tế về nhân quyền đã nảy sinh nhiều khác biệt giữa các nền văn hóa,
“các nước phương Đông và phương Tây, các nước phát triển và các nước đang phát
triển v.v. có các cách hiểu và giải thích khác nhau về giá trị các quyền đã được xác
định trong TN”14. Nhận thức được sự khác biệt này, vào năm 1952, LHQ đã quyết định
soạn thảo cùng lúc hai văn kiện quan trọng là Công ước về các quyền dân sự và chính
trị và Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Mãi đến năm 1966 thì hai
Công ước trên mới được Đại hội đồng LHQ thông qua chính thức và đến năm 1976 thì
mới có hiệu lực sau khi đủ các điều kiện có hiệu lực của Công ước.
Hai công ước này (kèm theo hai nghị định thư bổ sung là Nghị định thư không
bắt buộc thứ nhất của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và
Nghị định thư không bắt buộc thứ hai của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị nhằm xóa bỏ án tử hình năm 1989) cùng TN thế giới về nhân quyền đã tạo
thành một bộ luật quốc tế về quyền con người xem như là hoàn chỉnh.
Nội dung chính của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm
1966 tập trung vào việc quy định các quyền con người cơ bản, gắn liền với nhân thân
ở một số lĩnh vực chính trị và dân sự. Gồm 6 phần với 53 Điều trong đó phần III là
phần nội dung chính của Công ước quy định cụ thể các quyền dân sự và chính trị mà
theo đó, các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ thực hiện nhằm đảm bảo cho mọi

người có thể thực hiện được các quyền cơ bản của mình như quyền bầu cử, ứng cử,
quốc tịch v.v. Các quyền được liệt kê trong Công ước là các quyền mang tính phổ biến
tới toàn thể nhân loại, không phân biệt con người đó thuộc dân tộc, tầng lớp, màu da
hay giới tính.
Còn Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 tập
trung vào quy định các quyền về việc làm (có việc làm, hưởng điều kiện làm việc công
bằng, thuận lợi), quyền được hưởng an toàn và phúc lợi xã hội (bao gồm cả quyền
được giáo dục, đào tạo và hưởng lợi ích do áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mà thực
tiễn đem lại), ngoài ra còn quy định một số quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong các
13

Xem “Kỷ niệm 60 năm Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền”, Tạp chí Điện tử của Chương trình
Thông tin quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 11/2008.
14
Xem PTS. Chu Hồng Thanh, “Quyền con người và luật quốc tế về quyền con người”, NXB Chính trị
quốc gia, năm 1997, tr.68.

GVHD Th.S Dương Văn Học

10

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

quan hệ gia đình. Công ước gồm 5 phần với 31 Điều khoản có nhiều quy định, quan
điểm tiến bộ nhưng một số quyền đã nêu khó có thể được đảm bảo trong thực tế và chỉ
dừng lại ở mức độ ý tưởng chủ quan. Chẳng hạn quyền đủ ăn, đủ mặc và có nhà ở
(Điều 11), quyền đạt tới một tiêu chuẩn về sức khỏe về thể chất, tinh thần cao nhất

(Điều 12) v.v. Do vậy, việc thực hiện các quyền nêu trong Công ước phụ thuộc chặt
chẽ vào nhiều điều kiện mà đặc biệt là điều kiện kinh tế của quốc gia thành viên và
việc thực hiện được các quyền này là hoàn toàn khác nhau ở các quốc gia thành viên.
Hai Công ước trên được xem như là những thỏa thuận về quyền con người đầu
tiên của LHQ có tính chất pháp lý ràng buộc chặt chẽ dưới hình thức Công ước – là
những trụ cột đầu tiên của pháp luật quốc tế về quyền con người. Cả hai Công ước tựu
chung đều thể hiện được ba điểm chung đó là: Khẳng định quyền tự quyết của dân tộc
(dẫn tới việc phi thực dân hóa và nhiều quốc gia được độc lập rồi trở thành thành viên
của Liên hiệp quốc); khẳng định nguyên tắc bình đẳng giới và không phân biệt đối xử
dựa trên chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo; và đặc điểm quan trọng đó là tạo được
sự liên kết giữa các nhóm quyền với nhau.
Tóm lại, hai Công ước trên là bổ sung hỗ trợ cho nhau bởi vì không thể thực
hiện được nhóm quyền này nếu bỏ qua nhóm quyền kia. Khi thực hiện tốt các quyền
dân sự và chính trị sẽ tạo tiền đề cho phát triển kinh tế, tạo khả năng thực hiện các
quyền về kinh tế, văn hóa xã hội và ngược lại, khi các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
được đảm bảo thì sẽ tạo điều kiện cho việc thực hiện đầy đủ hơn, sâu sắc hơn các
quyền dân sự, chính trị.
1.2.4. Một số điều ước quốc tế khác về quyền con người
Từ năm 1948 đến nay, TN thế giới về quyền con người đã được sử dụng làm
nền tảng cơ sở cho việc xây dựng và thông qua hàng loạt các công ước khác về quyền
con người của LHQ về cấm và trừng trị những tội ác chống loài người như Công ước
về trấn áp và trừng trị tội diệt chủng năm 1948; Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các
hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965; Nghị định thư về sửa đổi Công ước về chế độ
nô lệ năm 1953; Công ước về trấn áp việc buôn người và bóc lột mại dâm người khác
năm 1949; Công ước bổ sung về xóa bỏ chế độ nô lệ, buôn bán nô lệ và các thể chế,
tập tục tương tự như chế độ nô lệ năm 1956; Công ước về tra tấn và những hành động
đối xử hoặc trừng phạt mang tính độc ác, vô nhân đạo hay hạ nhục năm 1984.
Bên cạnh đó, LHQ cũng đã thông qua những Công ước và Nghị định thư về bảo
vệ quyền con người của những nhóm dân cư dễ bị tổn thương, lạm dụng và bóc lột
gồm: Công ước về vị thế người tị nạn năm 1951; Công ước về xóa bỏ tất cả các hình

thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ năm 1979; Công ước về quyền trẻ em năm
1989; Công ước quốc tế về bảo vệ các quyền của tất cả các người lao động di cư và
GVHD Th.S Dương Văn Học

11

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

thành viên của họ năm 1990; Công ước về quyền của người tàn tật năm 2006 v.v.
Ngoài ra, LHQ cũng đã thông qua hàng trăm văn kiện khác gồm các tuyên bố, TN, quy
ước đạo đức, quy tắc, nguyên tắc liên quan đến việc bảo vệ và thực hiện quyền con
người.
Ngoài những điều ước quốc tế trên phạm vi thế giới thì một số khu vực cũng đã
có những thỏa thuận có tính chất ràng buộc pháp lý như Công ước Châu Âu về quyền
con người năm 1950; Công ước Châu Mỹ về quyền con người năm 1969; Hiến chương
Châu Phi về quyền con người và quyền của các dân tộc năm 1981; Hiến chương Ả rập
về quyền con người năm 1994; Về phía Châu Á thì ASEAN cũng đã thông qua Hiến
chương ASEAN và đã được 10 quốc gia trong hiệp hội phê chuẩn, trong đó Hiến
chương cũng đề cập tới các vấn đề bảo đảm tôn trọng và thúc đẩy quyền con người.
1.3. Sơ lược pháp luật Việt Nam về quyền con người
Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người
được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Ở
Việt Nam, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được tôn
trọng và bảo đảm.
Cùng với việc ghi nhận quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 Đảng và Nhà nước ta
đã thực thi nhiều chính sách bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của

công dân và tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền con người như Công ước
quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Công ước quốc tế về
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân
sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ năm 1979, Công ước về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về quyền của
người khuyết tật năm 2006 v.v… và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, to lớn,
góp phần xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh”, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hòa
bình và tiến bộ xã hội của toàn nhân loại.
Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp đầu tiên của nước ta được xây dựng và thông
qua sau cuộc Cách mạng Tháng 8 thành công. Hiến pháp đã dành hẳn 18 Điều trong
chương II quy định về “Quyền và nghĩa vụ của công dân” để ghi nhận tương đối đầy
đủ, toàn diện và bao quát, không hạn chế quyền công dân, trong đó nổi bật lên những
phương diện chủ yếu của quyền con người, đó là quyền bình đẳng về mọi phương diện
(chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa ở Điều 6 Hiến pháp 1946); quyền bình đẳng dân tộc,
bình đẳng giới và bình đẳng trước pháp luật; quyền tự do trong các quan hệ chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; quyền dân chủ trong mọi quan hệ mà trước hết là dân
GVHD Th.S Dương Văn Học

12

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

chủ về chính trị. Bên cạnh các quyền của công dân được nêu thì trong Hiến pháp cũng
quy định nghĩa vụ cơ bản của công dân đó là nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc, nghĩa vụ đi lính,
nghĩa vụ tôn trọng Hiến pháp và tuân theo pháp luật. Như vậy, quyền và nghĩa vụ của
công dân luôn phải đi đôi với nhau và phù hợp với lợi ích xã hội, hoàn cảnh đất nước

lúc bấy giờ. Với Hiến pháp 1945, nhân dân ta từ một đất nước thuộc địa bị chiếm đóng
đã chiến đấu để khẳng định mình là người chủ của đất nước, được pháp luật bảo đảm
đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của một con người.
Hiến pháp 1959 là thời kỳ phát triển mới của quyền con người ở Việt Nam. Nếu
chế định quyền công dân ở Hiến pháp 1946 còn mang đậm tính tuyên ngôn thì đến
Hiến pháp 1959 là sự cụ thể hóa một quyền có tính nguyên tắc thành những quyền
khác nhau và ở từng quyền có sự đảm bảo cho việc thực thi trên thực tế. Chẳng hạn
quyền làm việc (Điều 30), quyền nghỉ ngơi (Điều 31), quyền người lao động được
giúp đỡ về vật chất khi bệnh tật, mất sức lao động (Điều 32) v.v. Có thể nói đến Hiến
pháp 1959 thì chế định quyền công dân Việt Nam có bước phát triển dài, thể hiện rõ
cách tiếp cận chế định quyền công dân hiện đại và có tính phổ biến trong cộng đồng
quốc tế.
Trên cơ sở nền tảng của Hiến pháp 1959 thì Hiến pháp 1980 đã có sự bổ sung,
hoàn thiện, cụ thể hóa hơn nữa các quy định, biện pháp để bảo đảm việc thực hiện
quyền con người, quyền công dân trên thực tế được tốt hơn. Như vậy, Hiến pháp 1980
đã nâng chế định quyền công dân lên bước phát triển mới, tạo khuôn khổ pháp lý rộng
rãi để đáp ứng nhu cầu của người dân trong việc sử dụng các quyền công dân của mình
để phục vụ thời kỳ phát triển mới của đất nước.
Trải qua một thời gian, Hiến pháp 1992 ra đời và được sửa đổi bổ sung năm
2001 đã thực sự khẳng định được chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước trong
việc thực thi và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Với 34 Điều trong tổng số
147 Điều thì Hiến pháp 1992 đã quy định chặt chẽ các quyền và nghĩa vụ của công
dân, điểm nổi bật của Hiến pháp 1992 so với ba Hiến pháp trước là đã quy định cân
nhắc tới tính khả thi khi quy định các quyền và nghĩa vụ của công dân trong chương V
Hiến pháp cho phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước trong tình
hình đất nước hiện nay. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, Hiến pháp 1992 đã ghi
nhận quyền con người trong Hiến pháp tại Điều 50. Với việc ghi nhận như vậy, Hiến
pháp 1992 đã thể hiện một bước tiến mới về tư duy lý luận và thái độ tiếp thu những
tiến bộ tư tưởng của thế giới về nhân quyền. Điều 50 Hiến pháp 1992 thể hiện sự hài
hóa hóa pháp luật quốc gia với các điều ước quốc tế về quyền con người, cụ thể là

Hiến chương Liên hiệp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 và hai
Công ước năm 1966 trong thời kỳ hội nhập với thế giới hiện nay. Như các bản Hiến

GVHD Th.S Dương Văn Học

13

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

pháp trước đã quy định và một lần nữa được nhắc lại trong Hiến pháp 1992 là “Quyền
của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân” (Điều 51). Quy định trên nhằm
khẳng định rằng, Nhà nước sẽ tạo mọi điều kiện có thể để công dân có thể thực hiện
được quyền công dân, quyền con người của mình nhưng đồng thời công dân phải có
nghĩa vụ ngược lại với Nhà nước vì xét cho cùng, khi quyền lợi của Nhà nước được
đảm bảo sẽ tạo điều kiện cho công dân thực thi được quyền của mình một cách tốt
nhất. Trong tổng số các quy định của Hiến pháp, có một số quy định mới như quyền tự
do kinh doanh (Điều 57), quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài trở về theo quy định
của pháp luật (Điều 68), quyền tự do thông tin (Điều 69), quyền bình đẳng trước pháp
luật giữa các tôn giáo (Điều 70), Quyền thân thể không bị truy bức, nhục hình, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm (Điều 71), quyền được coi là vô tội và không phải chịu hình
phạt cho tới khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 72) và một
số quy định khác ghi nhận quyền con người của công dân.
Hiến pháp 2013 một lần nữa lại khẳng định việc thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người một cách mạnh mẽ, rõ ràng và hiện đại nhất.
Mục tiêu quan trọng nhất của Hiến pháp 2013 là tiếp tục phát huy dân chủ, bảo
đảm quyền công dân, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền công dân,
đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ trong tư duy lý luận của Đảng và Nhà nước ta trong

một loạt vấn đề của Đảng và sự nghiệp đổi mới đất nước trong đó có vấn đề quyền con
người, quyền công dân. Chỉ thị số 12/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng năm
1992 về vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta xác định
quyền con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển, là bản chất của chế độ ta, Chỉ
thị xác định: “Đối với chúng ta, vấn đề quyền con người được đặt ra xuất phát từ mục
tiêu của Chủ nghĩa xã hội, từ bản chất của chế độ ta và bao quát rộng rãi nhiều lĩnh
vực, từ chính trị, tư tưởng, văn hóa đến kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng...”. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát
triển năm 2011) cũng chỉ rõ: “quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát
triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người,
tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết”. Khẳng định mạnh
mẽ bản chất nhà nước ta là nhà nước thực hiện chủ quyền nhân dân, thực hành dân
chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân và bảo đảm quyền lực của nhân dân,
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ. Tất cả quyền
Nhà nước thuộc về nhân dân….”.

GVHD Th.S Dương Văn Học

14

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

Nếu Hiến pháp năm 1992 (Điều 6) quy định nhân dân sử dụng quyền lực nhà
nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân, nghĩa là chỉ thông qua hình thức dân
chủ đại diện thì Hiến pháp năm 2013 (Điều 6) quy định rõ những cách thức để nhân

dân thực hiện quyền lực nhà nước là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Quy định
này của Hiến pháp năm 2013 đặt nền tảng cho việc hoàn thiện một hình thức dân chủ
cao nhất là chế định bầu cử, qua đó, thực hiện đầy đủ hơn, thực chất hơn quyền bầu cử
của công dân và trách nhiệm của đại biểu dân cử. Hiến pháp năm 2013 quy định Hội
đồng bầu cử quốc gia như một thiết chế hiến định độc lập để thực hiện quyền công dân
quan trọng này. Nếu như tại Điều 83 của Hiến pháp năm 1992 trước đây quy định:
“Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” và Điều 147 quy định:
“Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp” thì từ nhận thức mới về quyền lập
hiến, chủ quyền nhân dân, quyền con người và quyền công dân, Hiến pháp năm 2013
đã bỏ nội dung trên và thay vào đó là quy định về sự kết hợp giữa thẩm quyền lập hiến
của Quốc hội, sáng kiến lập hiến của các cơ quan Nhà nước, của đại biểu Quốc hội với
quyền lập hiến của nhân dân dưới hình thức trưng cầu ý dân về Hiến pháp tại khoản 4
Điều 120 “…việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”. Như
vậy, Hiến pháp năm 2013 mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, khẳng định mạnh mẽ chủ
quyền nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân (hay chủ quyền nhân dân) đã được ghi
nhận ngay từ Hiến pháp năm 1946, đến Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định và cụ
thể hóa tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân thông qua một loạt quy định: Trong
Lời nói đầu nêu rõ chủ thể xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp là nhân dân; Điều 2
Hiến pháp năm 2013 khẳng định nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân
dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân… Những nội dung này tạo
nền tảng vững chắc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân ở nước ta.
Hiến pháp năm 2013 thúc đẩy việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước pháp quyền phải là nhà
nước mà trong đó các quyền con người được ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm.
Theo nghĩa đó, thúc đẩy nhà nước pháp quyền cũng có nghĩa là thúc đẩy sự tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm các quyền con người
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) đã bổ sung tại Điều 2 một nội dung
quan trọng, đó là cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước: “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI năm 2011 của Đảng khẳng định sự cần thiết phải xác
định rõ ràng thiết chế tổ chức quyền lực và cần thiết bổ sung nội dung kiểm soát quyền
lực vào thành một yếu tố mới của cơ chế quyền lực nhà nước ở nước ta. Hiến pháp
GVHD Th.S Dương Văn Học

15

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

năm 2013 đã hiến định nội dung mới này, xác định rõ ba bộ phận của quyền lực nhà
nước, trong đó Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất, thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp và giám sát tối cao
đối với hoạt động của Nhà nước; Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất,
thực hiện quyền hành pháp; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư
pháp. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Đáng chú ý là khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung “kiểm soát” vào thiết
chế tổ chức quyền lực để bảo đảm tổ chức bộ máy được tổ chức có hiệu lực, hạn chế
lạm quyền dẫn đến vi phạm quyền con người, quyền công dân: “Quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Hiến pháp năm 2013 xác định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện
quyền tư pháp, sứ mệnh của Tòa án nhân dân được xác định là bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đây là những điểm mới có
ý nghĩa quan trọng trong lịch sử lập hiến Việt Nam, khẳng định những nguyên tắc của
một nền tư pháp hiện đại vì con người, cụ thể là nguyên tắc hai cấp xét xử mà thực

chất là một bảo đảm để thúc đẩy quyền của người bị buộc tội được yêu cầu xem xét lại
bản án; nguyên tắc về quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp
pháp của đương sự; nguyên tắc về sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân. Những
nguyên tắc trên đây phản ánh tính dân chủ và đề cao quyền tiếp cận công lý của người
dân, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp.
Nhìn chung qua các bản Hiến pháp đã cho thấy được sự nhất quán trong đường
lối , quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về nhân quyền. Theo dòng chảy
lịch sử và phát triển của đất nước mà các bản Hiến pháp sau được ban hành ngày càng
hoàn thiện hơn với các điều ước quốc tế về quyền con người.
1.4. Quyền trẻ em
1.4.1. Khái niệm về trẻ em
Trong các văn bản quốc tế và các chương trình của Liên Hợp quốc sử dụng
đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. Điều 1 Công ước của
Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em có quy định như sau: Trong phạm vi của Công ước
này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với
trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn. Và tại Điều 2 trong Công ước số 182 Công ước Nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em
tồi tệ nhất, năm 1999 có quy định: Trong Công ước này, thuật ngữ “trẻ em” sẽ áp
dụng cho tất cả những người dưới 18 tuổi.
GVHD Th.S Dương Văn Học

16

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

Theo quy định tại Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông
qua ngày 15 tháng 6 năm 2004 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm

2005 (sau đây gọi là Luật BVCSGD trẻ em năm 2004) thì trẻ em là công dân Việt
Nam dưới mười sáu tuổi.
Trẻ em theo quy định của pháp luật không phân biệt gái, trai, con trong giá
thú, con ngoài giá thú, con đẻ, con nuôi, con riêng, con chung; không phân biệt dân
tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, chính kiến của cha mẹ hoặc
người giám hộ, đều được BVCSGD, được hưởng các quyền theo quy định của pháp
luật.
Đối với trẻ em - chủ thể pháp luật đặc biệt, pháp luật Việt Nam quy định một
cách cụ thể về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của trẻ em ở từng độ tuổi nhằm thể hiện
nguyên tắc BVCSGD người chưa thành niên nói chung và trẻ em nói riêng. 15 “Trẻ em
là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi nhất định trong
giai đoạn đầu của sự phát triển con người”. Trẻ em là những người chưa trưởng
thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần được BVCSGD đặc
biệt.
Khái niệm trẻ em được quốc tế sử dụng thống nhất và đã được đề cập trong
Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ năm 1924, Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền trẻ em
năm 1959, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1968, Công ước quốc tế về
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị năm 1966, Công ước CRC năm 1989, Công ước 138 của tổ chức lao
động quốc tế về tuổi tối thiểu làm việc năm 1976.
1.4.2. Quyền trẻ em
Quyền trẻ em được thể hiện cụ thể qua các đặc điểm sau: 16
Khái niệm quyền trẻ em gắn liền với khái niệm quyền con người.
Các quyền trẻ em là quyền con người - tôn trọng nhân phẩm mà không quan
tâm đến vấn đề tuổi tác.
Cũng như quyền con người, quyền trẻ em mang tính phổ biến và khái quát.
Chính vì vậy, quyền trẻ em không thể chuyển nhượng, có nghĩa là chúng được áp
dụng ở khắp nơi và không thể lấy đi.
15


Dương Bạch Long, Nguyễn Văn Hiển, Nguyễn Xuân Anh: Hỏi đáp pháp luật về bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 7.
16
Tài liệu giáo dục về quyền con người: “Tìm hiểu về quyền con người” của Trung tâm đào tạo và
nghiên cứu về quyền con người và dân chủ Châu Âu (ETC), chủ biên Wolfgang Benedek, 2006, bản
dịch của Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2008.

GVHD Th.S Dương Văn Học

17

SVTH Bùi Kim Hiếu


Quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em theo Pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại tỉnh Đồng Tháp

Các quyền trẻ em chuyển sự tập trung quan tâm từ cá nhân trẻ sang nhìn nhận
trẻ em với tư cách là một nhóm trong xã hội. Sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đối với thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước, khi mà chưa có
một luật riêng về các nhóm tuổi nào khác, nhưng đã có một đạo luật riêng để bảo vệ
trẻ em. Chính vì vậy, Luật BVCSGD trẻ em năm 1991 được ban hành và hiện nay là
Luật BVCSGD trẻ em 2004 để bảo vệ quyền trẻ em.
Các quyền trẻ em là tổng hợp và có liên quan lẫn nhau - sẽ không có tự do
ngôn luận nếu không có sự nghiêm cấm bạo lực, sẽ không có quyền giáo dục nếu
không có quyền được hưởng mức sống thỏa đáng.
Các quyền trẻ em là những quyền mang tính pháp lý - chúng làm rõ các trách
nhiệm và đối tượng chịu trách nhiệm.
Các quyền của trẻ em đem lại quyền năng cho các em - chúng đòi hỏi phải có
một nền văn hóa tương tác mới với trẻ, dựa trên sự thừa nhận các em là chủ thể và
người sở hữu quyền.

Việc “Tạo dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh mà ở đó tất cả trẻ em đều
được bảo vệ. Chủ động phòng ngừa, giảm thiểu, loại bỏ các nguy cơ gây tổn hại sưc
khỏe cho trẻ em, giảm thiểu tình trạng trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt. Trợ giúp,
phục hồi kịp thời cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt về sức khỏe đó là một trong những
mục tiêu quan trọng, là mối quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước ta, của toàn xã hội
và của mỗi gia đình.
Cùng với việc phát triển kinh tế, trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chính sách, văn bản pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến bảo vệ
các quyền trẻ em. Từ các bản Hiến pháp, các bộ luật, luật đến các văn bản dưới luật đã
tạo thành một hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ em phù hợp với các công ước quốc tế và
truyền thống văn hoá của dân tộc.
Song song với việc phát triển kinh tế thì Đảng và Nhà nước ta cũng đặc biệt chú
trọng quan tâm cho công tác chăm sóc cho trẻ em đảm bảo cho trẻ em được hưởng các
quyền lợi của mình như:
Thứ nhất, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng
Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, để phát triển thể chất, trí tuệ, tinh thần
và đạo đức17. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm
sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc
học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở
thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội18, theo đó:
17
18

Điều 12 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004
Khoản 1 Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

GVHD Th.S Dương Văn Học

18


SVTH Bùi Kim Hiếu


×