Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Sự tác động của toàn cầu hoá đối với cuộc đấu tranh cho hoà bình, hợp tác giữa các quốc gia trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.24 KB, 27 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Tính cấp thiết:
Ngày nay, nền kinh tế thế giới đã bước vào giai đoạn phát triển mới, giai
đoạn toàn cầu hoá và khu vực hoá do sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học – công nghệ và sự phát triển nhanh chóng của lực lượng
sản xuất trong nền kinh tế. Nó đòi hỏi các quốc gia đang phát triển hoặc
chậm phát triển muốn tồn tại và phát triển thì phải tiến tới sự hoà nhập vào
nhau trong môi trường quốc tế mà ở đó mỗi quốc gia đều có những vị trí
nhất định của quá trình xác nhập mỗi quan hệ ứng xử những tiêu chí và luật
lệ, cơ chế và trật tự công cụ.
Toàn cầu hoá với hệ quả là sự gắn bó chặt chẽ của các mối quan hệ quốc
tế đã tạo điều kiện cho thông tin nhanh chóng và rộng khắp thế giới ngày
nay trở nên thống nhất hơn. Nói một cách khác, là ngày nay tại mọi nơi trên
thế giới tầm nhìn đều được mở rộng ra qui mô thế giới và các mối liên quan
về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá - tư tưởng và môi trường đều gắn
quyện với nhau thành một thể thống hơn.
Trong tình hình thế giới như hiện nay, luôn có diễn biến phức tạp và
luôn có sự biến đổi sâu sắc trong quá trình toàn cầu hoá; công cuộc đổi mới
vì độc lập dân tộc và tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
hiện nay của nhân dân Việt Nam, cũng như của các nước khác trên thế giới
đã và đang diễn ra trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi to lớn, sâu sắc
và rất phức tạp. Điều đó đặt ra những yêu cầu mới ngày càng cao đối với
chính sách đối ngoại nhằm phát huy nội lực. Đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế, tạo ra môi trường cho hoà bình, điều kiện quốc tế thắng lợi phục
vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh của các lực lượng cách mạng và các lực lượng tiến bộ trên thế
giới vì hoà bình, hợp tác, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội trong
giai đoạn hiện nay.
1



Vì vậy, nghiên cứu đề tài về “Sự tác động của toàn cầu hoá đối với cuộc
đấu tranh cho hoà bình, hợp tác giữa các quốc gia trong giai đoạn hiện nay”
là rất cần thiết. Vì thông qua việc nghiên cứu đề tài này nó sẽ góp phần vào
việc nhận thức đúng đắn hơn về quan điểm của toàn cầu hoá, sự tác động
của nó đối với cuộc đấu tranh cho hoà bình và hợp tác trong giai đoạn hiện
nay của các quốc gia. Một mặt, qua việc nghiên cứu đó nó góp phần giúp
cho tác giả nâng cao trình độ, nhận thức của bản thân về lý luận bộ môn
chuyên ngành.
2. Tình hình nghiên cứu:
Trên thế giới hiện nay, có tình hình diễn biến rất phức tạp và luôn có sự
biến đổi nhanh chóng do ảnh hưởng của sự tác động của toàn cầu hoá giữa
các nước hoà nhập vào nhau, nó làm nảy sinh rất nhiều vấn đề bức xúc và
nóng bỏng như: khủng bố quốc tế, môi trường suy thoái, dân số tăng nhanh
và các vấn đề xã hội khác(phụ nữ, trẻ em, giáo dục, HIV/AIDS, ma
tuý…)đã trở thành vấn đề toàn cầu.
Cùng với tình hình đã nêu trên, tác giả nghiên cứu đề tài này cũng là
một trong những đề tài rất mới của các vấn đề đã đặt ra trong giai đoạn hiện
nay. Do vậy, vì có ít tài liệu bàn sâu về vấn đề để tham khảo; cho nên tác
giả còn mắc rất nhiều hạn chế về nội dung liên quan tới vấn đề của mình
nghiên cứu. Nhưng đề tài này cũng sẽ góp phần đầy đủ về mặt nội dung
liên quan của đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài này tập trung phân tích sự tác động của toàn cầu hoá đối với cuộc
đấu tranh cho hoà bình, hợp tác giữa các quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
Qua đó tìm hiểu về ảnh hưởng tích cực - tiêu cực của việc toàn cầu hoá và
cuộc đấu tranh cho hoà bình - hợp tác giữa các quốc gia trong tình hình thế
giới hiện nay.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:

2



Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này là hệ thống hoá những nội dung về
của cuộc đấu tranh cho hoà bình, hợp tác giữa các quốc gia ở giai đoạn hiện
nay trong quá trình thực hiện toàn cầu hoá. Từ đó để khẳng định được tính
hai mặt của toàn cầu hoá, nhận thức được nội dung và hình thức cuộc đấu
tranh cho hoà bình – hợp tác giữa các quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
5. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài này, do thời gian cũng như khả năng của tác giả còn
hạn chế; và cũng là một đề tài rất mới về lý luận của thời đại ngày nay. Cho
nên cũng là một khó khăn cho việc nghiên cứu vấn đề liên quan của tác giả.
Vì vậy, tác giả chỉ tập trung vào nghiên cứu về “Sự tác động của toàn cầu
hoá đối với cuộc đấu tranh cho hoà bình, hợp tác giữa các quốc gia trong
giai đoạn hiện nay”
6. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài này, tác giả có sử dụng những phương pháp như:
phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp phân tích tài liệu.
7. Bố cục của đề tài:
Đề tài này, tác giả thực hiện gồm có 3 phần:
Phần mở đầu:
Phần nội dung:
I. Nhận thức chung về toàn cầu hoá:
II. Sự tác động của toàn cầu hoá đối với cuộc đấu tranh cho hoà bình,
hợp tác giữa các quốc gia trong giai đoạn hiện nay:
III. Ý nghĩa của sự tác động của toàn cầu hoá:
Phần kết luận:

3



B. PHẦN NỘI DUNG:
I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ TOÀN CẦU HOÁ:

1. Các quan điểm cơ bản về toàn cầu hoá:
Toàn cầu hoá trước hết là chủ yếu toàn cầu hoá về kinh tế và toàn cầu
hoá nó tác động mạnh mẽ đến các mặt khác nhau của đời sống xã hội loài
người. Nội dung cơ bản cốt lõi của toàn cầu hoá chủ yếu là kinh tế: “Khi
mà sản xuất kinh tế phát triển nó dẫn đến lực lượng sản xuất tính chất cá
nhân làm ra sự xuất hiện của xã hội hoá tư liệu sản xuất” dẫn tới quốc tế
hoá toàn cầu hoá lực lượng sản xuất.
Toàn cầu hoá là một khái niệm dùng để chỉ một quá trình điều chỉnh
biến đổi nhanh chóng diễn ra trên phạm vi toàn cầu dựa trên cơ sở ứng
dụng nhanh chóng của sự tiến bộ khoa học – công nghệ. Đi kèm theo đó là
sự tác động mạnh mẽ của lực lượng sản xuất được xã hội hoá xét trên phạm
vi toàn cầu đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội.
Toàn cầu hoá là quá trình loại bỏ tình trạng biệt lập, khép kín giữa các
quốc gia, tiến tới hoà nhập vào nhau trong môi trường quốc tế mà ở đó mỗi
quốc gia đều có những vị trí nhất định của quá trình xác lập mỗi quan hệ
ứng xử những tiêu chí và luật lệ, cơ chế và trật tự công cụ. Toàn cầu hoá là
một quá trình khách quan không thể nào đào ngược được và nó là sự tiếp
nối và hoàn thiện các khuynh hướng đã hình thành trong lịch sử thế giới.
Mặt khác, nó là một hiện tượng mới, bắt đầu bằng toàn cầu hoá về kinh tế,
rồi dần dần cuốn theo toàn cầu hoá về văn hoá sau đó nó tác động mạnh mẽ
đến chính trị và xã hội.
2. Những đặc điểm và xu hướng phát triển của toàn cầu hoá:
2.1 Những đặc điểm cơ bản của toàn cầu hoá:
Động lực của toàn cầu hoá là sự liên kết mạnh mẽ của các công ty tư
bản xuyên quốc gia và siêu quốc gia hoà nhập vào nhau nhằm vươn lên

4



ngày càng mạnh mẽ để chiếm lấy lĩnh vực thị trường của kinh tế thế giới
với qui mô ngày càng lớn và ngày càng cao.
Lực lượng xu khích của toàn cầu hoá là sự ứng dụng tiến bộ của cuộc
cách mạng về kỹ thuật – khoa học – công nghệ vào sản xuất, kinh doanh và
quản lý trong nền kinh tế thế giới.
Toàn cầu hoá nó diễn ra trên mọi mặt của đời sống xã hội như: kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hoá…nhưng toàn cầu hoá về kinh tế được coi là cốt
lõi và toàn cầu hoá kinh tế nó sẽ dẫn đến toàn cầu hoá các mặt đời sống xã
hội khác.
Toàn cầu hoá nó tạo ra một thể chế kinh tế toàn cầu, trong đó người có
công nhất và người thu lợi nhiều nhất(chủ yếu nhất là nhà tư bản). Toàn cầu
hoá trong điều kiện Chủ nghĩa Tư bản nó làm cho hỗ sâu ngăn cách giữa
giàu và nghèo, phát triển với chậm phát triển, tiến bộ với lạc hậu…có sự
ngăn cách ngày càng lớn. Theo Mác đó là sự bầm hoá hai cực.
2.2 Xu thế của toàn cầu hoá hiện nay:
Với sự phát triển của nền đại công nghiệp và quá trình quốc tế hoá đến
cuối thế kỷ XX đã đạt đến mức độ đòi hỏi phải thay đổi toàn bộ cơ sở kỹ
thuật của nền kinh tế cùng với cơ cấu và thể chế kinh tế. Nhu cầu đó đã
thúc đẩy cuộc cách mạng khoa học – công nghệ mới và cách mạng công
nghiệp lần thứ ba. Hai cuộc cách mạng này hầu như diễn ra đồng thời đã
đưa đến sự hình thành giai đoạn đầu của nền kinh tế tri thức vào thập kỷ
80. Nếu kinh tế tri thức thay thế nền kinh tế công nghiệp, nhưng đều là kinh
tế thị trường ở giai đoạn khác nhau. Nếu trước đây, nền kinh tế công nghiệp
đã từng là cơ sở của quá trình quốc tế hoá thì bây giờ nền kinh tế tri thức là
cơ sở của toàn cầu hoá. Nếu sức sản xuất của nền kinh tế công nghiệp đưa
quan hệ quốc tế phát triển ở mức độ song phương, đa phương và khu vực
(quá trình toàn cầu hoá) thì sức sản xuất của nền kinh tế tri thức đẩy quan
hệ quốc tế lên mức độ toàn cầu (quá trình toàn cầu hoá). Chỉ có sức sản

xuất của nền kinh tế tri thức mới đủ sức phủ sóng toàn cầu.
5


Sự phát triển của toàn cầu hoá trong giai đoạn hiện nay chủ yếu thông
qua lĩnh vực kinh tế và bộ phận của lĩnh vực khác như: văn hoá, chính trị,
xã hội…liên quan đến kinh tế do kinh tế thúc đẩy.
II. SỰ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ ĐỐI VỚI CUỘC ĐẤU TRANH
CHO HOÀ BÌNH, HỢP TÁC CỦA CÁC QUỐC GIA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY:

Trong giai đoạn hiện nay, việc nghiên cứu về sự tác động của toàn cầu
hoá đang được triển khai ở nhiều quốc gia. Vì quá trình thực hiện toàn cầu
hoá nó có tác động tích cực và tiêu cực đến công cuộc phát triển ở mỗi
quốc gia.
1. Những tác động tích cực của toàn cầu hoá:
Nhìn chung, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho
các quốc gia mở rộng thương mại quốc tế, thu hút đầu tư và các nguồn lực
bên ngoài, phát huy có hiệu quả nguồn lực trong nước của mỗi nước và sử
dụng nguồn lực quốc tế theo nguyên lý lợi thế so sánh của D. Ricardo đã
nêu.
Thứ nhất, tác động của toàn cầu hoá đến việc tăng trưởng kinh tế. Toàn
cầu hoá và tự do hoá thương mại tạo cơ hội để các nước mở rộng thương
mại quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng thương mại. Toàn cầu hoá và tự do hoá
thương mại nó làm giảm các chi phí đầu vào của quá trình sản xuất kinh
doanh và góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ.
Toàn cầu hoá nó làm thúc đẩy quá trình thu hút đầu tư và phát triển công
nghệ tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kích thích tăng trưởng. Toàn
cầu hoá và tự do hoá thương mại nó tạo điều kiện thúc đẩy quá trình
chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường.

Ngoài ra, toàn cầu hoá còn có một số tác động gián tiếp đối với tăng
trưởng kinh tế thông qua các nhân tố như: tiếp cận được những thành tựu
khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý, tiếp thị tiên tiến; tạo sức ép cạnh
tranh của mỗi quốc gia nhằm nâng cao khả năng của hàng hoá và dịch vụ

6


trong nước; mạng lưới thông tin và giao thông vận tải bao phủ toàn cầu,
góp phần làm cho giá thành sản xuất thuyên giảm, năng suất, hiệu quả tăng
cao, giao lưu thuận tiện; mở ra nhiều cơ hội nâng cao trình độ lao động,
tiếp cận thông tin qua đó phát triển vốn con người, đến lượt nó tác động
tích cực lên tăng trưởng bền vững.
Thứ hai, tác động của toàn cầu hoá đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Hội nhập kinh tế quốc tế tác động tích cực đến việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế làm tăng tỷ trọng của lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ
trọng nông nghiệp trong GDP. Tác động của hội nhập được thể hiện là làm
tăng cơ hội để các nước tiếp cận các nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng,
kinh tế – xã hội của đất nước; tạo điều kiện hình thành và phát triển những
ngành kinh tế mũi nhọn là cơ sở để hình thành nền công nghiệp hiện đại;
giúp việc chuyển giao và tiếp thu công nghệ hiện đại góp phần vào thúc
đẩy đầu tư theo chiều sâu nhằm hiện đại hoá nền kinh tế; giúp đào tạo tốt
hơn nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Thứ ba, tác động của toàn cầu hoá đến xuất khẩu của các quốc gia. Việc
ký kết các hiệp định thương mại đa phương, khu vực và song phương thì
các quốc gia sẽ có cơ hội tiếp cận các thị trường thế giới; có cơ hội mở
rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu. Quá trình này không làm tăng
kim ngạch xuất, nhập khẩu mà còn làm phân tán rủi ro thương mại.
Thứ tư, tác động của toàn cầu hoá đến lao động việc làm và các vấn đề
xã hội. Toàn cầu hoá tạo điều kiện cho người lao động nhanh chóng tiếp

nhận được thông tin, trí thức mới, góp phần nâng cao dân trí và là động lực
quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua việc
tiếp cận những thành tựu của khoa học – công nghệ. Toàn cầu hoá tạo điều
kiện, cơ hội thuận lợi cả cho việc phân công, hợp tác lao động do vậy phát
huy được thế mạnh, lợi thế so sánh trong hoạt động khoa học – công nghệ;
thị trường việc làm được mở rộng và đa dạng, cơ hội việc làm tăng lên, giá
trị lao động được đánh giá và đền bù một cách thoả đáng hơn.
7


Toàn cầu hoá còn giúp cho dân tộc các quốc gia nghèo và chậm phát
triển có cơ hội để nhận được sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế trong việc
hỗ trợ cho các đối tượng xã hội và trong công tác xoá đói giảm nghèo,
phòng chống các tệ nạn xã hội.
Thứ năm, tác động của toàn cầu hoá đến phát triển khoa học – công
nghệ. Thúc đẩy mạnh hơn sự phát triển và đổi mới hoạt động khoa học –
công nghệ trong nước cho tương thích, tiếp cận nhanh với hoạt động khoa
học – công nghệ quốc tế. Rút ngắn được nhanh hơn khoảng cách về trình
độ phát triển của bản thân ngành khoa học – công nghệ cũng như trình độ
công nghệ sản xuất của đất nước so với trình độ của thế giới và khu vực
nếu biết tận dụng và chủ động các hoạt động trong quá trình toàn cầu hoá.
Thứ sáu, tác động của toàn cầu hoá đến việc hình thành nền kinh tế độc
lập tự chủ của đất nước. Tạo động lực để nâng cao hiệu quả và năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp; tạo cơ hội cho đất nước
tiếp cận huy động các nguồn vốn, các công nghệ mới, chất xám và kỹ năng
cao cấp từ bên ngoài; tăng cường xuất khẩu và tích luỹ nguồn dự trữ quốc
gia; thúc đẩy đất nước phải cải cách hệ thống ngân hàng, lành mạnh hoá
nền tài chính quốc gia.
Thứ bảy, tác động toàn cầu hoá đến môi trường sinh thái. Nhờ hội nhập
các dòng đầu tư ngoài vào, tạo điều kiện cho đất nước có thể đạt tới một

công nghệ tiên tiến, xanh và thân thiện với môi trường; các quốc gia có thể
học hỏi được kinh nghiệm, cũng như tiếp thu những thông tin, kiến thức từ
các nước khác trong việc bảo vệ môi trường. Để có thể tránh được nguy cơ
gây ô nhiễm môi trường trong tương lai.
Từ những cơ hội và thuận lợi trên để mỗi quốc gia trên quá trình toàn
cầu hoá có được trật tự, hoà bình và hợp tác với nhau. Để có điều kiện phát
triển đất nước.
2. Những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá:

8


Quá trình toàn cầu hoá cũng không ít những tác động tiêu cực và đặt ra
nhiều thách thức đối với quá trình phát triển của các quốc gia như:
Một là, toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại có thể tác động gián tiếp
tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế nếu chính sách kinh tế vĩ mô có liên
quan đến thương mại, đầu tư không được quản lý, hoạch định một cách
thích hợp, hiệu quả. Các tác động tiêu cực có thể của toàn cầu hoá đối với
tăng trưởng kinh tế là: tác động xấu đến cán cân vãng lai; làm gia tăng nợ
nước ngoài; có xu hướng làm hao hụt dự trữ ngoại hối, đặc biệt là nếu
chính phủ thực thi chính sách tỷ giá cố định; làm thất thu ngân sách; làm
gia tăng thất nghiệp trong các ngành được bảo hộ cao, có năng suất lao
động thấp; làm gia tăng bọn đầu cơ phá rối thị trường tài chính dẫn đến mất
ổn định kinh tế và xã hội.
Hai là, khi các quốc gia tham gia vào quá trình toàn cầu hoá thì nền
công nghiệp phải hội nhập vào một thị trường quốc tế cạnh tranh gay gắt
quyết liệt. Điều này đặt ra một bài toán khó khăn trong việc lựa chọn mục
tiêu, bước đi, hình thức, cách thức để tồn tại, trưởng thành và xác lập vị thế
của mình trên trường quốc tế.
Ba là, tham gia vào quá trình toàn cầu hoá sẽ phụ thuộc nhiều vào xu

hướng giá cả thế giới của các hàng hoá, vào viễn cảnh nền kinh tế thế giới
và phụ thuộc vào chính sách của các nước phát triển và của các công ty đa
quốc gia chi phối.
Bốn là, tác động của toàn cầu hoá đến lao động việc làm và các vấn đề
xã hội như: tính cạnh tranh chưa cao của lực lượng lao động tiếp tục là
những thách thức lớn trong quá trình toàn cầu hoá. Đòi hỏi các quốc gia
phải có những cố gắng lớn hơn trong chiến lược giáo dục và phát triển
nguồn nhân lực cho phù hợp với yêu cầu của thời đại. Cơ hội phát triển của
từng cá nhân, từng cộng đồng, từng vùng được mở rộng dẫn đến kết quả tất
yếu là tình trạng phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội, sự phát triển
không đồng đều giữa các quốc gia, các vùng. Tạo ra cơ hội cho các vấn đề
9


xã hội như: tệ nạn xã hội, văn hoá đồi truỵ, tội phạm và buôn lậu quốc tế…
có cơ hội phát triển và lây lan.
Năm là, toàn cầu hoá ảnh hưởng đến phát triển khoa học – công nghệ
của các quốc gia chậm phát triển như: Việt Nam, Lào, Campuchia…Thông
qua việc đầu tư trang thiết bị mới, đổi mới công nghệ có nguồn từ các nước
ngoài có thể dẫn đến hậu quả; khoa học – công nghệ trong nước không
được sử dụng và nghiên cứu khoa học không gắn với thực tiễn sản xuất
kinh doanh dẫn đến nguy cơ hẫng hụt ngày càng lớn về trình độ khoa học –
công nghệ so với trình độ chung của thế giới và khu vực; sự phụ thuộc
ngày càng nhiều về công nghệ của các nước công nghiệp phát triển làm
giảm cơ hội điều kiện phát triển khoa học – công nghệ trong nước; năng
lực nội sinh của khoa học – công nghệ đất nước khó theo kịp tốc độ và xu
hướng phát triển khoa học – công nghệ chung của thế giới.
Sáu là, toàn cầu hoá làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia
trên nhiều phương diện, đặc biệt là về kinh tế; từ đó làm suy giảm hạn chế
sự độc lập tự chủ về kinh tế của các nước. Mặt khác, toàn cầu hoá và hội

nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy phân công lao động quốc tế theo hướng mỗi
nước tập trung vào các ngành lĩnh vực họ có ưu thế và hiệu quả kinh tế cao,
và do vậy nếu không định hướng chính sách tốt về cơ cấu kinh tế thì phải
đối mặt với nguy cơ mất cân đối nghiêm trọng về cơ cấu của nền kinh tế do
vậy càng làm cho nền kinh tế của đất nước lại càng thiếu độ an toàn, dễ bị
tổn thương và phụ thuộc nhiều vào thị trường thế giới.
Bảy là, một tác động của toàn cầu hoá nữa đó là về vấn đề môi trường.
Vấn đề tiêu chuẩn môi trường đối với hàng hoá trong thương mại cũng là
một thách thức rất lớn trong giai đoạn hiện nay mà các quốc gia phải nhanh
chóng tìm đến những giải pháp để tránh được nguy cơ môi trường sinh
thoái bị phá huỵ trong tương lai.

10


Từ những tác động cả mặt tích cực và tiêu cực của toàn cầu hoá đã nêu
trên đòi hỏi các quốc gia phải đấu tránh cho hoà bình, hợp tác với nhau để
có điều kiện phát triển đất nước trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay.
3. Cuộc đấu tranh cho hoà bình, hợp tác của các quốc gia trong giai
đoạn hiện nay:
Nếu xét về mặt hiện tượng bên ngoài thì dường như các dân tộc của mỗi
quốc gia trên thế giới hiện nay đều đã giành được độc lập, chủ quyền dân
tộc. Nhưng thực ra, từ sau khi XHCN lâm vào thoái trào, chủ quyền quốc
gia, độc lập dân tộc của các nước đang phát triển, một số nước XHCN cũ
đứng trước thách thức lớn, có thể nói những nguy cơ rất nghiêm trọng. Thế
lực chống độc lập dân tộc và CNXH, đầu sỏ là Mỹ, đang hoàn hành, lộng
quyền. Mỹ thi hành đường lối “thế giới một cực” thực chất là chiến lược bá
chủ hoàn cầu. Chiến lược đó trước hết là nhằm vào những vùng trọng điểm
mà Mỹ xem là những vùng lợi ích sống còn. Song các nước tư bản phát
triển luôn luôn xem việc duy trì một trật tự thế giới trong đó các nước này

vĩnh viễn giữ vị trí thống trị là lợi ích chung của CNTB.
Có ý kiến cho rằng chỉ cần lợi dụng toàn cầu hoá kinh tế, bá chủ thông
tin; nghĩa là cần sử dụng các phương pháp hoà bình, CNTB độc quyền nói
chung, CNTB Mỹ nói riêng, đã có thể đạt được mục tiêu thống trị thế giới.
Nhưng Mỹ và đồng minh đã có những toan tính rất nguy hiểm. Đối với họ,
toàn cầu hoá kinh tế phải được bổ sung bằng sức mạnh bạo lực, bằng bành
trướng quân sự, bằng chiến tranh công nghệ cao. Mỹ tính toán rằng những
cuộc chiến do Mỹ phát động sẽ là chiến tranh “sạch”, kẻ xâm lược sẽ
không tổn thất về nhân mạng. Trong lịch sử, CNTB thường dùng chiến
tranh để thoát khỏi tình trạng trì trệ và khủng hoảng kinh tế. Kẻ được lợi
nhất trong chạy đua vũ trang và trong chiến tranh đương nhiên là các tập
đoàn sản xuất, buôn bán vũ khí. Chiến tranh còn là phương tiện để đàn áp
các phong trào quần chúng chống mặt trái của toàn cầu hoá.

11


Vì những lý do trên, chiến tranh vẫn là bạn đường của chủ nghĩa đế
quốc, là phương tiện bổ sung cho các chính sách về toàn cầu hoá của tư bản
độc quyền. Ý đồ của Mỹ và những người đồng minh là nhanh chóng thiết
lập trật tự thế giới mới, theo đó NATO sẽ là thay thế Liên hợp quốc. Đường
lối của Mỹ và NATO hiện nay là đi ngược lại đối với xu thế hoà bình, hợp
tác phát triển. Chiến lược dùng cường quyền để thống trị thế giới của chủ
nghĩa đế quốc đe doạ nghiêm trọng độc lập tự do của hàng chục, hàng trăm
dân tộc trên thế giới trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay.
Mục tiêu hoà bình, dân chủ, công bằng xã hội, độc lập dân tộc và hợp
tác không tách rời nhau. Đó là mục tiêu cơ bản nhất, trực tiếp nhất của các
dân tộc mỗi quốc gia yêu tự do trong quá trình toàn cầu hoá giai đoạn hiện
nay.
2.2. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình hội nhập toàn

cầu hóa kinh tế ở Việt Nam
2.2.1. Về những thuận lợi
- Nền kinh tế nước ta còn nhiều mặt lạc hậu, hội nhập toàn cầu hóa
kinh tế là điều kiện cần thiết để quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến
lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Toàn cầu hóa là cơ hội để chúng ta tiếp thu công nghệ, kỹ thuật và
kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới, tham gia vào sự phân công và
hợp tác lao động trong khu vực và trên thế giới, xây dựng nền kinh tế hiện
đại, khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước và bên ngoài, từng
bước đưa nước ta đuổi kịp các nước tiên tiến.
- Toàn cầu hóa tạo điều kiện cho nước ta giao lưu, hợp tác với các quốc
gia, tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại để phát triển nền văn
hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển nguồn lực lao động có trình độ

12


kỹ thuật cao, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, chuẩn bị điều kiện phát
triển kinh tế tri thức.
- Toàn cầu hóa, các quốc gia tuỳ thuộc vào nhau, liên kết và ràng buộc
lẫn nhau để hợp tác và phát triển, cho nên cần môi trường hòa bình, hữu nghị
và ổn định. Hội nhập xu thế toàn cầu hóa, nước ta có điều kiện giữ vững độc
lập tự chủ, củng cố và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc.
- Quá trình hội nhập toàn cầu hóa của nước ta có những thuận lợi cơ
bản là những lợi thế vốn có: sự ổn định về chính trị – xã hội tạo môi trường
kinh doanh thuận lợi, an toàn, làm cho các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm
đầu tư và hợp tác lâu dài. Vị trí địa – chính trị của Việt Nam thuận lợi, nằm
trong vùng chiến lược, giao lộ hàng hải, hàng không của khu vực và quốc tế.
Nước ta nằm trong vùng có sự phát triển kinh tế năng động nhất thế giới, đã
tham gia hợp tác cùng phát triển và phân công lao động với các nước trong

khu vực. Nước ta có tài nguyên khoáng sản dồi dào và phong phú, nền nông
nghiệp nhiệt đới tương đối phát triển, tạo ra nguồn xuất khẩu lớn và chiếm vị
trí cao, có nguồn lao động dồi dào, số đông là lao động trẻ, giá lao động rẻ, có
trình độ văn hoá, cần cù và sáng tạo. Cuối cùng là lợi thế của nước đi sau có
thể tận dụng những thành tựu kinh tế, khoa học, công nghệ, trình độ và kinh
nghiệm quản lý của các nước đi trước để phát triển đất nước tiến kịp các nước
phát triển.
2.2.2. Về những khó khăn
Đồng thời với những thuận lợi, hội nhập toàn cầu hóa còn khiến nước
ta phải đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn:
- Nền kinh tế nước ta còn lạc hậu xa so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới: lực lượng sản xuất nhìn chung còn ở trình độ thấp, lạc hậu xa
so với thế giới 50 - 100 năm. Cơ cấu kinh tế còn lạc hậu, nền nông nghiệp còn

13


phổ biến trên 70% dân số; nông nghiệp chiếm 24,3%, công nghiệp 36,6%,
dịch vụ 39,1%. Trình độ và kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp và năng lực quản lý còn nhiều bất cập, năng suất và hiệu quả kinh tế
thấp, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế rất kém… Tham gia toàn cầu hóa
chắc chắn chúng ta bước đầu gặp rất nhiều khó khăn, phải cạnh tranh gay gắt
với hàng hoá, dịch vụ của các nước khác.
- Nước ta đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường,
nhiều yếu tố thị trường đang được hình thành, thể chế kinh tế thị trường chưa
hoàn thiện, bộ máy hành chính, quan liêu, kém hiệu lực, hiệu quả; hiện tượng
tham nhũng cón khá nghiêm trọng; hạ tầng cơ sở kinh tế - kỹ thuật còn thiếu
và không thuận lợi, như giá điện, cước điện thoại, dịch vụ, vận tải, giá thuê
nhà đất đều cao so với các nước trong khu vực. Do đó, chưa tranh thủ tối đa
các nguồn lực thu hút đầu tư nước ngoài chưa cao.

- Hội nhập quốc tế đòi hỏi chính sách, thể chế kinh tế và luật pháp nước
ta phải tương thích với định chế quốc tế và khu vực, để tham gia vào “sân
chơi” với cùng “luật chơi”. Nhưng ngược lại, thể chế kinh tế, chính sách và
pháp luật nước ta còn thiếu và chưa hoàn thiện, chưa tạo ra môi trường bình
đẳng trong kinh doanh đối với các thành phần kinh tế trong nước và ngoài
nước. Đặc biệt là chính sách tài chính - tiền tệ Nhà nước còn yếu và chưa
hoàn thiện, chính sách thuế còn bất hợp lý và không ổn định, còn nhiều hàng
rào thuế quan và phi thuế quan cản trở thương mại, chính sách bảo hộ chưa
được điều chỉnh kịp thời gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong và ngoài
nước. Muốn hội nhập phải điều chỉnh bổ sung và đổi mới các chế định, chính
sách, biện pháp quản lý nền kinh tế; ngược lại, không có bước đi và biện pháp
hợp lý sẽ đẩy nền kinh tế vào tình thế khó khăn, phụ thuộc vào nước ngoài,
thậm chí dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội khó lường.

14


- Các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa quan tâm đầy đủ đến hội nhập,
kiến thức quản lý, kinh nghiệm quản lý và cạnh tranh quốc tế kém, hiểu biết
pháp luật và cam kết quốc tế chưa nhiều. Đội ngũ lao động tuy đông nhưng
trình độ thấp, hầu hết đào tạo giản đơn, chưa thích ứng với nền công nghiệp
có trình độ công nghệ cao, phân công và hợp tác lao động quốc tế.
- Xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đang bị chi phối bởi các công ty
xuyên quốc gia của các nước tư bản chủ nghĩa, đứng đầu là Mỹ. Từ sau chiến
tranh lạnh kết thúc, chủ nghĩa xã hội khủng hoảng và thoái trào, các thế lực
thù địch càng ra sức chống chủ nghĩa xã hội bằng mọi thủ đoạn, trong đó
chúng lợi dụng thế toàn cầu hóa để chống lại các nước xã hội chủ nghĩa. Việt
Nam hội nhập toàn cầu hóa là điều khó tránh khỏi, nhưng làm sao để giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững nền độc lập tự chủ và an ninh quốc gia
lại là vấn đề cực kỳ quan trọng.

Nhận thức được xu thế tất yếu của toàn cầu hóa, đường lối đổi mới của
Đảng ta đã xác định một cách nhất quán quan điểm mở cửa, quan hệ đa
phương, hợp tác hữu nghị với các nước trên thế giới để tranh thủ các nguồn
lực, học hỏi kinh nghiệm để phát triển kinh tế - xã hội. Đường lối đó đã chủ
động đưa nước ta tham gia toàn cầu hóa, thu được thành tựu to lớn trên các
lĩnh vực. Tuy nhiên, do toàn cầu hóa kinh tế vừa tạo ra cơ hội và thuận lợi vừa
có khó khăn và thức thức, cho nên, phải tham gia hội nhập như thế nào để
tranh thủ tối đa cơ hội, khắc phục nguy cơ để phát triển là vấn đề quan trọng
và bức xúc hiện nay.
Chương III: Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước trong
quá trình toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế
3.1. Thực trạng các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

15


Các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, bộ xương sống của
nền kinh tế thị trường nước ta, là những chủ thể quan trọng thực hiện hội nhập
kinh tế quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì vậy nó phải có sức cạnh tranh
mạnh. Để có được sức cạnh tranh ở thị trường trong nước cũng như thị trường
thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp Nhà nước của nước ta phải có giá bán sản
phẩm thấp, kỹ thuật công nghệ tiên tiến để bảo đảm hàng hoá sản xuất ra có
chất lượng cao, mẫu mã, kiểu mốt đa dạng, phong phú, hấp dẫn đối với người
tiêu dùng; đồng thời, có năng lực tổ chức kinh doanh và quản lý giỏi để đạt
được năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Song, thực tế hiện nay thì sao?
Giá thành sản xuất cao do giá nguyên liệu, chi phí khác ở đầu vào cao
nên đẩy giá bán ở đầu ra lên cao; chất lượng hàng hoá còn thua kém so với
một số doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là so với các doanh nghiệp nước ngoài
có vốn đầu tư sản xuất tại Việt Nam hoặc có hàng nhập khẩu tiêu thụ ở nước
ta. Theo số liệu điều tra của Phòng Thương mại và Công nghệ Việt Nam gần

đây thì 800 doanh nghiệp Việt Nam chỉ dám chấm 2,87 điểm (theo thang điểm
từ 1 đến 5) về khả năng cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Trong khi đó
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước với các đối thủ trong
nước thì được đánh giá ở mức 3,55 điểm. Điều đó cho thấy các doanh nghiệp
Nhà nước của ta chỉ mới có sức cạnh tranh tại thị trường trong nước với
những đối thủ quen thuộc. Cũng theo số liệu điều tra của Phòng Thương mại
và Công nghiệp còn cho thấy 29% doanh nghiệp trong số 800 doanh nghiệp
trên vẫn phải sử dụng trên 40% nguyên, phụ liệu từ nhập khẩu, thậm chí có
ngành phải sử dụng 70 - 80% nguyên, phụ liệu nhập khẩu. Từ tình hình này
dẫn đến tỷ lệ giá trị gia tăng trong hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt
Nam được đánh giá thấp. Trong xu thế giảm giá hàng xuất khẩu công nghiệp
của thế giới hiện nay thì việc giữ thị trường trong nước và mở rộng thị trường
thế giới cho hàng hoá xuất khẩu của nước ta đang đứng trước thách thức lớn
với sức cạnh tranh của các đối thủ mạnh trên thị trường thế giới.

16


17


18


19


20





21


22


23


24


25


×