Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tác động của các biện pháp tự vệ thương mại đối với nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.46 KB, 24 trang )

Chủ đề: Tác động của các biện pháp tự vệ thương mại đối với nền
kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.

A. MỞ ĐẦU
Hiện nay, quá trình hội nhập hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế đang là xu hướng
chung trên toàn thế giới. Quá trình này đang diễn ra hết sức nhanh chóng và tạo ra
những biến đổi mạnh mẽ cho kinh tế các nước. Khoảng cách giữa các quốc gia
đang ngày được thu hẹp hơn theo sự phát triển thương mại thế giới. Tự do hóa
thương mại dần tiến tới việc các quốc gia phải dỡ bỏ những rào cản đối với hàng
hóa, dịch vụ từ nước ngoài nhập vào nội địa. Theo xu thế chung của toàn cầu, từ
khi tiến hành đổi mới xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Việt Nam luôn chủ động tích cực mở cửa hội nhập. Minh chứng cho điều đó
là sự gia nhập của Việt Nam vào hàng loạt các tổ chức của khu vực và thế giới như
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á –
Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và rất nhiều các tổ
chức khác.
Trong bối cảnh đó, việc kí kết các hiệp định thương mại tự do đã tạo ra
nhiều cơ hội về giao lưu phát triển kinh tế nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách
thức không hề nhỏ đối với Việt Nam. Tự do thương mại cũng có mặt trái của nó,
việc hàng hóa của các quốc gia khác nhau thâm nhập thị trường nội địa một cách tự
do, bình đẳng và không bị hạn chế ắt sẽ nảy sinh những tiêu cực do cạnh tranh gây
ra vì nhiều doanh nghiệp, thương hiệu trong nước không cạnh tranh lại với sản
phẩm của nước ngoài dẫn đến phá sản. Đó là khó khăn của các nước đang phát
triển nói chung cũng như Việt Nam nói riêng. Vì vậy, để bảo hộ được nền sản xuất


trong nước mà vẫn không trái với quy định của thương mại quốc tế, các biện pháp
tự vệ thương mại được các quốc gia lựa chọn sử dụng rộng rãi nhằm hạn chế sự gia
tăng vượt mức gây ảnh hưởng đối với sản xuất trong nước.
B.


NỘI DUNG
I.
Một số vấn đề lý luận về các biện pháp tự vệ thương mại
trong thương mại quốc tế
1.

Khái niệm biện pháp tự vệ thương mại

Hiệp định GATT 1994 tại Điều XIX có “điều khoản giải thoát nghĩa vụ” cho
phép các thành viên WTO được “chạy thoát” khỏi các nghĩa vụ về giảm thuế của
mình trong các tình huống nhất định. Đó là tiền đề cho sự hình thành các quy định
của pháp luật về biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế.
Khi gia nhập WTO, các quốc gia phải mở cửa thị trường và thực thi chính
sách tự do thương mại trong đó có nghĩa vụ về thuế. Các quốc gia thành viên ngoài
được hưởng những lợi ích như: thúc đẩy sự phát triển kinh tế, mở rộng thì trường
thì cũng phải đứng trước sức ép không nhỏ từ cạnh tranh, đặc biệt là các quốc gia
đang phát triển. Vì vậy, trong các hiệp định đa biên của mình, Tổ chức thương mại
thế giới WTO cũng đã mở ra nhiều điều khoản giải thoát cho các thành viên khỏi
nghĩa vụ về giảm thuế khi đứng trước tác động của tự do hóa thương mại.
Theo đó, Điều XIX, GATT 1994 quy định:
Biện pháp khẩn cấp đối với việc nhập khẩu các sản phẩm nhất định
1.

a)

Nếu do hậu quả của những diễn tiến không lường trước được và do

kết quả của những nghĩa vụ, trong đó có những nhân nhượng thuế quan của một
bên ký kết theo Hiệp định này, một sản phẩm được nhập khẩu vào lãnh thổ của bên
ký kết đó với số lượng gia tăng và với các điều kiện đến mức gây thiệt hại hoặc đe



doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất những sản phẩm tương tự hay
sản phẩm cạnh tranh trực tiếp trong nước, bên ký kết đó có quyền ngừng hoàn
toàn hay một phần các cam kết của mình, rút bỏ hay điều chỉnh nhân nhượng thuế
quan, đối với sản phẩm đó và trong thời gian cần thiết để ngăn chặn hoặc khắc
phục tổn hại đó.
b)

Nếu một bên ký kết đã chấp nhận một sự nhân nhượng liên quan tới

một sự ưu đãi và sản phẩm là đối tượng ưu đãi được nhập khẩu vào lãnh thổ của
bên ký kết có tình huống như nêu tại điểm a) của khoản này tới mức mà nhập khẩu
đó đã gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất
những sản phẩm tương tự hay trực tiếp cạnh tranh là các nhà sản xuất trên lãnh
thổ của bên ký kết đang được hưởng hay đã được hưởng sự ưu dãi đó, bên ký kết
này có thể đề nghị bên ký kết đang nhập khẩu và bên ký kết đang nhập khẩu có
quyền tạm ngừng hoàn toàn hay một phần các cam kết của mình, rút bỏ hay điều
chỉnh nhân nhượng thuế quan đối với sản phẩm đó và trong thời gian cần thiết để
ngăn ngừa và khắc phục tổn hại đó.
Như vậy, nếu do hậu quả của những tiến triển không lường trước được và do
ảnh hưởng của các cam kết đối với một bên ký kết theo Hiệp định này, kể cả các
nhượng bộ về thuế, bất kì sản phẩm nào được nhập khẩu vào lãnh thổ của bên ký
kết đó với số lượng tang và trong các điều kiện gây ra hay đe dọa gây ra thiệt hại
nghiêm trọng cho các nhà sản xuất trong nước hoặc sản phẩm cạnh tranh trực tiếp
trong nước tại lãnh thổ đó thì bên ký kết này được quyền dừng việc thực hiện toàn
bộ hay một phần nghĩa vụ hoặc rút lại hoặc sửa đổi sự nhượng bộ liên quan tới sản
phẩm đó ở mức độ và trong khoảng thời gian có thể là cần thiết để ngăn chặn hay
khắc phục thiệt hại này. Trên cơ sở đó, WTO cũng có Hiệp định về thực thi Điều
XIX nói trên của GATT, thường được gọi là “Hiệp định về các biện pháp tự vệ

(Hiệp định SG).


Từ đây chúng ta có thể hiểu biện pháp tự vệ thương mại là việc tạm thời hạn
chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hoá khi việc nhập khẩu chúng
tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất
trong nước.
Từ khái niệm trên có thể thấy, trước hết, biện pháp tự vệ mang đặc điểm của
một hành vi phòng vệ thông thường bảo vệ mình khỏi những tác động gây hại từ
bên ngoài. Đối tượng nó hướng đến là việc “nhập khẩu đối với một hoặc một số
loại hàng hóa” khi việc nhập khẩu này có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt
hại nghiêm trọng đối với nền sản xuất trong nước.
2.

Đặc điểm của biện pháp tự vệ

Thứ nhất, biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hoá, không áp
dụng đối với dịch vụ, đầu tư hay sở hữu trí tuệ.
Mỗi nước nhập khẩu là thành viên của WTO đều có quyền áp dụng biện
pháp tự vệ, nhưng khi áp dụng thì họ phải đảm bảo tuân theo các quy định của
WTO về điều kiện, thủ tục, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ. Chính vì vậy, các
doanh nghiệp cần chú ý đến biện pháp này để yêu cầu Chính phủ sử dụng nhằm
bảo vệ lợi ích của mình trước hàng hoá nhập khẩu của nước ngoài khi cần thiết.
Thứ hai, biện pháp tự vệ trong thương mại được áp dụng để bảo vệ thị
trường nội địa trước sự xâm nhập của hàng hóa nước khác.
Hệ thống các biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm: chống bán phá giá,
trợ cấp và tự vệ. Trong khi chống bán phá giá và trợ cấp được áp dụng khi có hành
vi cạnh tranh không lành mạnh hay không công bằng của hàng hóa nhập khẩu thì
biện pháp tự vệ thương mại lại được áp dụng trong điều kiện hoàn toàn bình
thường, không có sự vi phạm pháp luật hay cạnh tranh không lành mạnh nên về

hình thức, việc áp dụng biện pháp tự vệ bị coi là đi ngược lại chính sách tự do hoá
thương mại của WTO. Tuy vậy, đây là biện pháp được thừa nhận trong khuôn khổ
WTO (với các điều kiện chặt chẽ để tránh lạm dụng). Lý do là trong hoàn cảnh


buộc phải mở cửa thị trường và tự do hoá thương mại theo các cam kết WTO, các
biện pháp tự vệ là một hình thức “van an toàn” mà hầu hết các nước nhập khẩu là
thành viên WTO đều mong muốn. Với chiếc van này, nước nhập khẩu có thể ngăn
chặn tạm thời luồng nhập khẩu để giúp ngành sản xuất nội địa của mình tránh
những đổ vỡ trong một số trường hợp đặc biệt khó khăn.
Thứ ba, tự vệ thương mại không phải là một biện pháp miễn phí
Được thừa nhận trong thương mại quốc tế nhưng lại đi ngược lại mục tiêu
“tự do hoá thương mại”, biện pháp tự vệ là một công cụ “phải trả tiền”. Điều này
có nghĩa là các nước được phép áp dụng nó bảo vệ ngành sản xuất của nước mình
nhưng phải “trả giá” cho những thiệt hại mà biện pháp này gây ra cho các nhà sản
xuất nước ngoài (như một hình thức cân bằng cam kết thương mại với nước khác).
Cụ thể, nước áp dụng biện pháp tự vệ phải bồi thường thương mại cho các nước có
hàng hoá bị áp dụng biện pháp tự vệ theo các điều kiện nhất định. Nếu nước này
không tuân thủ, WTO cho phép các nước liên quan được áp dụng biện pháp trả
đũa.
3.

Cơ sở pháp lý của các biện pháp tự vệ

Biện pháp tự vệ thương mại trong WTO được quy định tại: Điều XIX GATT
1994; Hiệp định về biện pháp tự vệ (Hiệp định SG). Hiệp định tự vệ đưa ra khuôn
khổ về các thủ tục trong nước mà theo đó có thể đem lại quyết định hạn chế nhập
khẩu hàng hóa đã hoặc đang gây thiệt hại nghiêm tọng cho các nhà sản xuất hàng
hóa tương tự trong nước. Các thủ tục này cơ bản tương tự các thủ tục trong Hiệp
định AD và SCM.

Các nước thành viên khi xây dựng pháp luật nội địa về biện pháp tự vệ có
nghĩa vụ tuân thủ các nguyên tắc này của WTO. Các vụ kiện, việc điều tra và áp
dụng biện pháp tự vệ trên thực tế được tiến hành theo pháp luật nội địa của từng
nước nhập khẩu, phù hợp với quy định liên quan của WTO. Đối với doanh nghiệp,
để có hiểu biết khái quát về những vấn đề cơ bản nhất về biện pháp tự vệ, doanh


nghiệp cần tiếp cận các quy định của WTO về vấn đề này. Tuy nhiên, để biết chi
tiết về trình tự, thủ tục, cơ quan có thẩm quyền… trong các vụ việc điều tra và áp
dụng biện pháp tự vệ cụ thể ở mỗi thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp cần tìm hiểu
các quy định pháp luật về biện pháp tự vệ của nước đó.
Tại Việt Nam, các văn bản pháp luật liên quan đến điều tra và áp dụng các
biện pháp tự vệ gồm:


Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10 Về tự vệ trong nhập khẩu hàng
hoá nước ngoài vào Việt Nam.



Nghị định 150/2003/NĐ – CP Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về
tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam.



Nghị định 04/2006/ NĐ – CP Về việc thành lập và quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của hội đồng xử lý vụ việc
chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.



4.

Và ở một số văn bản pháp luật chuyên ngành khác…
Điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ

Các biện pháp tự vệ được WTO công nhận không thể được áp dụng một
cách tùy tiện mà nó phải đáp ứng được những điều kiện đặt ra. Về tổng thể, điều
kiện chung đặt ra là: Việc tăng đột biến lượng nhập khẩu gây thiệt hại nói trên phải
là hiện tượng mà nước nhập khẩu không thể lường trước được khi đưa ra cam kết
trong khuôn khổ WTO. Điều XIX, GATT đưa ra khái niệm “không lường trước
được” nghĩa là có sự gia tăng một cách bất thường, là kết quả của những nghĩa vụ,
của sự nhân nhượng thuế quan. Song song với các điều kiện chung này, một số
nước khi gia nhập WTO phải đưa ra những cam kết riêng liên quan đến biện pháp
tự vệ. Việt Nam không có ràng buộc hay bảo lưu nào lớn về các biện pháp tự vệ
này, do đó, việc áp dụng biện pháp tự vệ ở Việt Nam đối với hàng hoá nước ngoài
nếu có sẽ tuân thủ đầy đủ các quy định của WTO về vấn đề này.


Ngoài ra, một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã
tiến hành điều tra và chứng minh được sự tồn tại đồng thời các điều kiện sau:
Thứ nhất, hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng
Câu hỏi đặt ra là khi nào hàng hoá nhập khẩu được coi là tăng đột biến đến
mức có thể áp dụng biện pháp tự vệ? Đây là một câu hỏi xuất hiện đầu tiên đối với
nước nhập khẩu trước khi quyết định có áp dụng biện pháp tự vệ hay không đối với
một mặt hàng nhất định. Để áp dụng biện pháp tự vệ, sự gia tăng đột biến về số
lượng của hàng hoá phải đáp ứng các điều kiện sau:


Sự gia tăng này là gia tăng tuyệt đối (ví dụ, số lượng hàng hoá nhập
khẩu tăng gấp 2 lần) hoặc tương đối so với sản xuất trong nước (ví dụ,

lượng hàng nhập khẩu dường như không tăng, nhưng cùng thời điểm
đó lượng hàng sản xuất trong nước lại giảm mạnh).



Sự gia tăng về số lượng phải mang tính đột biến (diễn ra đột ngột,
nhanh và tức thời).

Cũng cần lưu ý ở đây rằng, vẫn theo các điều kiện chung thì sự gia tăng
nhập khẩu này phải thuộc diện không dự đoán được vào thời điểm nước nhập khẩu
đàm phán tham gia Hiệp định về áp dụng biện pháp tự vệ. Thêm nữa, chú ý ba yếu
tố sau đây khi xem xét điều kiện này: sự gia tăng về giá trị nhập khẩu không phải
là yếu tố bắt buộc để điều tra trong vụ việc tự vệ; sự gia tăng lượng nhập khẩu cần
được xem xét theo diễn tiến trong suốt quá trình điều tra chứ không chỉ đơn thuần
là so sánh lượng nhập khẩu thời điểm đầu và cuối của cuộc điều tra; sự thay đổi về
xu hướng thời trang và ảnh hưởng của nó đến cạnh tranh được xem là việc không
thể dự đoán trước bởi các nhà đàm phán.
Thứ hai, ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với
hàng hoá đó bị thiệt hại hoặc đe doạ thiệt hại nghiêm trọng.
Một trong các điều kiện để có thể áp dụng biện pháp tự vệ là phải điều tra
chứng minh được rằng ngành sản xuất nội địa phải chịu thiệt hại nghiêm trọng từ


việc hàng nhập khẩu tăng ồ ạt. Vậy xác định yếu tố “thiệt hại nghiêm trọng” như
thế nào? Theo Hiệp định SG quy định tại khoản 1, Điều 4: “Tổn hại nghiêm trọng”
được hiểu là sự suy giảm toàn diện đáng kể tới vị trí của ngành công nghiệp sản
xuất nội địa. “Đe dọa gây tổn hại nghiêm trọng” là tổn hại nghiêm trọng rõ ràng sẽ
xảy ra. Việc xác định nguy cơ tổn hại nghiêm trọng phải dựa trên cơ sở thực tế chứ
không phải là phỏng đoán, viện dẫn hoặc khả năng xa. Cụ thể:



Về hình thức, các thiệt hại này có thể tồn tại dưới hai dạng: thiệt hại
thực tế hoặc nguy cơ thiệt hại (nguy cơ này là rất gần);



Về mức độ, các thiệt hại này phải ở mức nghiêm trọng (tức là ở mức
cao hơn so với thiệt hại đáng kể trong trường hợp các vụ kiện chống
bán phá giá, chống trợ cấp).



Về phương pháp, các thiệt hại thực tế được xem xét trên cơ sở phân
tích tất cả các yếu tố liên quan đến thực trạng của ngành sản xuất nội
địa (ví dụ tỉ lệ và mức tăng lượng nhập khẩu, thị phần của sản phẩm
nhập khẩu, thay đổi về doanh số, sản lượng, năng suất, nhân công…)

Trong cuộc điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ, việc chứng minh thiệt hại
nghiêm trọng chủ yếu thuộc trách nhiệm của ngành sản xuất nội địa liên quan. Vì
vậy, để đạt được mục tiêu của mình, ngành sản xuất nội địa cần chuẩn bị kỹ về các
số liệu, tập hợp trong một thời gian tương đối dài để có đủ dữ liệu chứng minh.
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến
và thiệt hại hoặc đe doạ thiệt hại gây ra nói trên.
Sự gia tăng số lượng hàng hóa nhập khẩu là hệ quả của chính sách tự do hóa
thương mại và có mối quan hệ nhân quả với những thiệt hại xảy ra. Đề xác định
được mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại
hoặc đe doạ gây thiệt hại, nước nhập khẩu cần phải xác định được ngành sản xuất
liên quan – đối tượng bị thiệt hại. Vậy ngành sản xuất nội địa liên quan là gì?



Ngành sản xuất nội địa liên quan trong vụ việc tự vệ là ngành sản xuất sản phẩm
tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm nhập khẩu bị điều tra (rộng hơn
khái niệm ngành sản xuất sản phẩm tương tự nội địa trong các vụ điều tra chống
bán phá giá hay chống trợ cấp). Qua đây cũng xin làm rõ khái niệm sản phẩm
tương tự và khái niệm sản phẩm cạnh tranh trực tiếp:


Sản phẩm tương tự được hiểu là sản phẩm giống hệt hoặc nếu không
có sản phẩm giống hệt thì là sản phẩm tương đồng về tính chất, thành
phần, chất lượng và mục đích sử dụng cuối cùng;



Sản phẩm cạnh tranh trực tiếp là những sản phẩm có thể thay thế sản
phẩm nhập khẩu bị điều tra ở một mức độ nhất định trên và trong các
điều kiện của thị trường nước nhập khẩu.

Ngoài ra, để xác định được sản phẩm nào là sản phẩm cạnh tranh trực tiếp
hoặc sản phẩm tương tự, chúng ta cần căn cứ vào một số yếu tố sau:


Hai loại sản phẩm có tác động khác nhau đến sức khoẻ con người khó
có thể coi là sản phẩm tương tự (vụ các quy định đối với chất Amiăng
và sản phẩm có chứa Amiăng – EC).



Khi xem xét tính chất có thể thay thế nhau của các sản phẩm tương tự
cần lưu ý đến cả cách thức các sản phẩm này được quảng cáo và tiêu
thụ/sử dụng (vụ thuế đối với đồ uống có cồn - Nhật Bản).




Những sản phẩm có dây chuyền sản xuất tương tự nhau hoặc được sản
xuất bởi các chủ thể có cùng lợi ích kinh tế không nhất thiết là sản
phẩm tương tự (vụ Đèn của Hoa Kỳ).
Nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ

5.


Nguyên tắc không phân biệt đối xử.

Theo đó, các quốc gia không được phân biệt đối xử đối với hàng hóa nhập
khẩu từ các nước khác nhau. Các quốc gia khác nhau đều bình đẳng trước pháp


luật, không gây ra sự phân biệt từ các hàng hóa, công dân của nước này với nước
khác, nói cách khác họ phải đều được hưởng chế độ đãi ngộ quốc dân. Tức là, biện
pháp tự vệ khi được áp dụng lên một loại hàng hóa nhập khẩu sẽ không phân biệt
nguồn gốc xuất xứ của loại hàng hóa đó. Như vậy khác với biện pháp chống bán
phá giá và biện pháp chống trợ cấp (chỉ áp dụng đối với nhà xuất khẩu từ một hoặc
một số nước xuất khẩu nhất định bị điều tra), biện pháp tự vệ áp dụng cho tất cả
các nhà sản xuất, xuất khẩu của tất cả các nước xuất khẩu đang xuất mặt hàng đó
sang nước nhập khẩu.
Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng có ngoại lệ nhất định. Theo quy định tại
khoản 2a, Điều 5, Hiệp định SG: “Trong trường hợp hạn ngạch được phân bổ
giữa các nước xuất khẩu, Thành viên áp dụng hạn chế này có thể tìm kiếm một
thỏa thuận liên quan tới việc phân bổ hạn ngạch cho tất cả các Thành viên có lợi
ích cung cấp chính yếu đối với sản phẩm. Trong trường hợp không áp dụng được

phương pháp này, Thành viên nhập khẩu sẽ phân bổ cho các Thành viên có lợi ích
cung cấp chủ yếu đối với sản phẩm này theo thị phần, tính theo tổng giá trị hay số
lượng sản phẩm được nhập từ các Thành viên này trong một thời gian đại diện
trước đó và có tính đến bất cứ một yếu tố đặc biệt nào đã hoặc có thể ảnh hưởng
đến thương mại hàng hóa này.”
Như vậy, trong trường hợp hạn ngạch được phân bổ giữa các nước xuất
khẩu, khi áp dụng biện pháp tự vệ thương mại, nước áp dụng phải thỏa thuận với
các nước có hàng hóa xuất khẩu về phân bổ hạn ngạch đối với từng nước này.
Trong trường hợp không áp dụng được phương pháp trên, nước nhập khẩu sẽ phân
bổ cho các nước xuất khẩu thị phần, tính theo tổng giá trị hay số lượng sản phẩm
được nhập từ các nước đó trong một khoảng thời gian đại diện và có tính đến một
số yếu tố khác. Tóm lại trong trường hợp này sẽ có sự chênh lệch nhất định về thị
phần xuất khẩu hàng hóa giữa các quốc gia xuất khẩu cho nên trường hợp này
được coi là ngoại lệ của nguyên tắc không phân biệt đối xử.




Nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ trong phạm vi và mức
độ cần thiết

Theo khoản 1, Điều 5, Hiệp định SG: “Một Thành viên sẽ chỉ áp dụng biện
pháp tự vệ trong giới hạn cần thiết để ngăn cản hay khắc phục tổn hại nghiêm
trọng và để tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh”. Điều này là hoàn toàn hợp lý vì
mục đích chính của biện pháp tự vệ là nhằm tạo điều kiện, thời gian cho ngành sản
xuất nội địa khắc phục thiệt hại, hợp lý hóa sản xuất để có thể cạnh tranh sòng
phẳng với hàng hóa xuất khẩu sau khi dỡ bỏ biện pháp tự vệ. Bởi toàn bộ thời gian
áp dụng một biện pháp tự vệ kể cả thời gian áp dụng biện pháp tạm thời, thời gian
bắt đầu áp dụng và bất kỳ sự gia hạn nào không được vượt quá 8 năm. Đối với các
nước đang phát triển thì thời hạn này có thể là tối đa 10 năm. Trong thời kỳ áp

dụng, nếu những căn cứ để áp dụng biện pháp tự vệ không còn thì nước áp dụng
phải tiến hành dỡ bỏ hay đình chỉ áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hóa đó.
Đồng thời, nước áp dụng phải tiến hành rà soát các biện pháp tự vệ để đảm bảo
quyền và lợi ích cho nước bị áp dụng.


Nguyên tắc ưu tiên cho các nước đang phát triển

Các thành viên của WTO phần nhiều vấn là các nước đang phát triển nên
WTO đã có những chính sách ưu tiên nhằm khuyến khích các nước đó phát triển
kinh tế dần bắt kịp các nước phát triển. Cụ thể, tại Điều 9, Hiệp định SG có quy
định riêng về chế độ đãi ngộ đối với các nước đang phát triển. “Các biện pháp tự
vệ không được áp dụng để chống lại hàng hóa có xuất xứ từ một Thành viên đang
phát triển, nếu thị phần hàng hóa có liên quan được nhập từ Thành viên này không
vượt quá 3%, với điều kiện là tổng số thị phần nhập khẩu từ các Thành viên đang
phát triển, có thị phần nhập khẩu riêng lẻ nhỏ hơn 3%, không vượt quá 9% tổng
kim ngạch nhập khẩu nhập khẩu của hàng hóa liên quan”. Hơn nữa, như đã nói ở
trên, một thành viên đang phát triển có thể kéo dài thời hạn áp dụng biện pháp tự


vệ thêm 2 năm so với các thành viên phát triển tức là kéo dài thời hạn từ 8 năm lên
10 năm.
Nguyên tắc đảm bảo bồi thường tổn thất thương mại



WTO quy định nước nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ phải bồi thường tổn
thất thương mại cho các nước xuất khẩu liên quan (thường là việc nước nhập khẩu
tự nguyện giảm thuế nhập khẩu cho một số nhóm hàng hoá khác đến từ các nước
xuất khẩu đó). Nước nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ phải tiến hành thương

lượng với các nước xuất khẩu về biện pháp đền bù thương mại thoả đáng. Trường
hợp không đạt được thoả thuận, nước xuất khẩu liên quan có thể áp dụng biện pháp
trả đũa (thường là việc rút lại những nghĩa vụ nhất định trong WTO, bao gồm cả
việc rút lại các nhượng bộ về thuế quan - tức là từ chối giảm thuế theo cam kết
WTO - đối với nước áp dụng biện pháp tự vệ). Tuy nhiên, việc trả đũa không thể
được thực hiện trong 3 năm đầu kể từ khi biện pháp tự vệ được áp dụng (nếu biện
pháp áp dụng tuân thủ đầy đủ các quy định của WTO và thiệt hại nghiêm trọng là
thiệt hại thực tế.

Quy định của pháp luật về biện pháp tự vệ trong thương

II.

mại quốc tế
1.

Các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
i.
Biện pháp thuế quan (tăng thuế so với mức thuế trần đã cam kết)

Thuế quan tức thuế xuất nhập khẩu bao gồm: thuế xuất khẩu và thuế nhập
khẩu. Thuế quan được hiểu là khoản thu của nhà nước đánh vào hàng hóa khi hàng
hóa đó di chuyển từ lãnh thổ hải quan này sang lãnh thổ hải quan khác nhằm tăng
nguồn thu ngân sách quốc gia và bảo hộ hàng hóa tương tự, ngành kinh tế hàng
hóa tương tự trong nước. Những vấn đề quan trọng liên quan đến thuế quan mà các
nước thường quan tâm bao gồm: danh mục thuế quan, mức thuế trần và lộ trình
giảm thuế quan.


Trong khuôn khổ WTO, thông qua các vòng đàm phán về lộ trình cắt giảm

thuế quan, thuế suất ràng buộc sẽ được đưa vào danh mục thuế quan của mỗi quốc
gia và được công bố rộng rãi. WTO từ khi thành lập đã có 22500 trang danh mục
thuế quan cam kết của các nước đối với một số loại hàng hóa cụ thể được thỏa
thuận trong khuôn khổ WTO, nhất là những cam kết giảm thuế và mức thuế trần
đối với hàng hóa nhập khẩu. Mức thuế trần chính là những cam kết không tăng
thuế vượt quá một mức đã được xác định, được gọi là mức “trần”, thường là mức
thuế đang được áp dụng trên thực tế. Có nhiều mức thuế “trần” khác nhau và đa số
các nước đang phát triển có mức thuế “trần” cao hơn một chút so với các mức thuế
đang áp dụng. Những cam kết về thuế quan có giá trị ràng buộc đối với các thành
viên. Để đảm bảo kết quả đàm phán về thuế cũng như mở rộng thương mại ổn
định, WTO cấm các nước thành viên đánh thuế cao hơn mức thuế mà họ đã cam
kết và không cho phép các thành viên tự ý thay đổi mức thuế này.
Tuy nhiên, trong trường hợp nền sản xuất trong nước gặp khó khăn do lượng
nhập khẩu tăng đột biến là hệ quả của việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan, tự do hóa
thương mại, cùng với đó là có những thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho nền
sản xuất trong nước mà nước đó đã có tiến hành điều tra theo luật định thì nước
nhập khẩu có quyền áp dụng biện pháp thuế quan như một biện pháp tự vệ khi có
đủ căn cứ áp dụng. Mức thuế tăng và phải tính toán trong một thời gian hợp lý sau
đó sẽ dỡ bỏ dần. Mục đích là để tạm thời hạn chế nhập khẩu, tranh thủ thời gian
phục hồi sản xuất, khắc phục thiệt hại, thích nghi với môi trường cạnh tranh để dần
lấy lại thị trường chú không nhằm mục đích nào khác ( đặc biệt không được nhằm
mục đích chính trị, phân biệt đối xử…)
ii.

Biện pháp phi thuế quan (hạn chế định lượng)

Hạn chế định lượng là một trong những biện pháp để bảo vệ sản xuất trong
nước. Biện pháp hạn chế định lượng bao gồm các hình thức: hạn ngạch; giấy phép;
cấm xuất khẩu, nhập khẩu… do một nước thành viên áp dụng nhằm hạn chế lượng



nhập khẩu từ nước thành viên khác. Điều XI, Hiệp đinh GATT 1994 quy định:
“Không một sự cấm hay hạn chế nào khác ngoại trừ thuế quan và các khoản thu
khác, dù mang hình thức hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu hay xuất khẩu hoặc các
biện pháp khác sẽ được bất cứ một bên ký kết nào định ra hay duy trì nhằm vào
việc nhập khẩu từ lãnh thổ của bất kỳ bên ký kết nào hay nhằm vào việc xuất khẩu
hay bán hàng để xuất khẩu đến lãnh thổ của bất kỳ bên ký kết nào.”
Về nguyên tắc, biện pháp hạn chế định lượng bị cấm trong WTO. Tuy nhiên,
ngoại lệ trong trường hợp khi ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại khi nhập khẩu
ồ ạt thì có thể áp dụng biện pháp hạn chế định lượng là một biện pháp tự vệ đế cứu
vãn sản xuất trong nước. Trong những trường hợp khác, biện pháp hạn chế định
lượng cũng được WTO cho phép như một biện pháp trả đũa đối với thành viên
không tuân thủ nghĩa vụ trong một chừng mực nhất định. Ngoài ra, hạn chế định
lượng cũng được cho phép sử dụng với mục đích bảo vệ cán cân thanh toán của
một quốc gia và một số ngoại lệ chung như: bảo vệ sức khỏe con người, động vật,
bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Khoản 1, Điều 5, Hiệp định SG quy định: “Nếu một biện pháp hạn chế định
lượng được sử dụng, thì biện pháp này sẽ không làm giảm số lượng nhập khẩu
dưới mức nhập khẩu trung bình của 3 năm đại diện gần nhất có số liệu thống kê,
trừ khi có sự biện minh rõ ràng rằng cần có một mức khác để ngăn ngừa hoặc
khắc phục thiệt hại nghiêm trọng. Các Thành viên sẽ chọn biện pháp thích hợp
nhất để thực hiện được các mục tiêu này.”
Như vậy, khi áp dụng biện pháp hạn chế định lượng thì quốc gia áp dụng
phải đảm bảo rằng biện pháp này không làm giảm số lượng nhập khẩu dưới mức
nhập khẩu trung bình của 3 năm đại diện gần nhất hay một mức khác khi có căn cứ
rằng mức này có thể ngăn ngừa hoặc khắc phục thiệt hại nghiêm trọng. Ngoài ra,
trong trường hợp hạn ngạch được phân bổ giữa các nước xuất khẩu, khi áp dụng
biện pháp tự vệ thương mại, nước áp dụng có thể thỏa thuận với các nước có hàng



hóa xuất khẩu về phân bổ hạn ngạch đối với từng nước này. Trong trường hợp
không áp dụng được phương pháp trên, nước nhập khẩu sẽ phân bổ cho các nước
xuất khẩu thị phần, tính theo tổng giá trị hay số lượng sản phẩm được nhập từ các
nước đó trong một khoảng thời gian đại diện và có tính đến một số yếu tố khác.
Các hình thức hạn chế định lượng cụ thể:
Hạn ngạch hay quotas là quy định của nhà nước về số lượng hay giá trị hàng
hóa cao nhất được nhập khẩu trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một
năm). Có nhiều loại hạn ngạch khác nhau như: hạn ngạch toàn cầu, hạn ngạch song
phương, hạn ngạch theo mùa, hạn ngạch đối với sản phẩm nhạy cảm, hạn ngạch
xuất khẩu (liên quan đến giảm bớt sự khan hiếm lương thực hay nguồn nguyên liệu
nào đó…), hạn ngạch liên quan đến bán hàng hoá trong nội địa…
Giấy phép nhập khẩu được xác định như là các thủ tục hành chính được sử
dụng để thực hiện chế độ cấp phép nhập khẩu, đòi hỏi đệ trình đơn hay các tài liệu
khác (không liên quan tới mục đích hải quan) tới các cơ quan hành chính thích hợp
là điều kiện tiên quyết để được phép nhập khẩu.
Cấm xuất khẩu, nhập khẩu là biện pháp bảo hộ cao nhất, gây ra hạn chế lớn
nhất đối với thương mại quốc tế. Trong thương mại quốc tế có nhiều trường hợp
cấm nhập khẩu như: cấm hoàn toàn, cấm theo mùa, cấm tạm thời, cấm vận, cấm
sản phẩm nhạy cảm, tạm dừng cấp phép nhập khẩu….
2.

Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp tự vệ
a) Trình tự, thủ tục

Khác với trường hợp các vụ kiện chống bán phá giá hay chống trợ cấp,
WTO không có nhiều quy định chi tiết về trình tự, thủ tục kiện áp dụng biện pháp
tự vệ. Tuy nhiên, Hiệp định về Biện pháp tự vệ của WTO có đưa ra một số các
nguyên tắc cơ bản mà tất cả các thành viên phải tuân thủ, ví dụ:





Đảm bảo tính minh bạch: Quyết định khởi xướng vụ điều tra tự vệ
phải được thông báo công khai; Báo cáo kết luận điều tra phải được
công khai vào cuối cuộc điều tra…



Đảm bảo quyền tố tụng của các bên: các bên liên quan phải được đảm
bảo cơ hội trình bày các chứng cứ, lập luận của mình và trả lời các
chứng cứ, lập luận của đối phương;



Đảm bảo bí mật thông tin: đối với thông tin có bản chất là mật hoặc
được các bên trình với tính chất là thông tin mật không thể được công
khai nếu không có sự đồng ý của bên đã trình thông tin;



Các điều kiện về biện pháp tạm thời phải là biện pháp tăng thuế, và
nếu kết luận cuối cùng của vụ việc là phủ định thì khoản chênh lệch
do tăng thuế phải được hoàn trả lại cho bên đã nộp; không được kéo
dài quá 200 ngày…

Trên thực tế, một vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ thường theo trình tự
sau đây:
Bước 1: Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ của ngành sản xuất nội địa
nước nhập khẩu.
Bước 2: Khởi xướng vụ điều tra

Bước 3: Điều tra và công bố kết quả điều tra về các yếu tố như: tình hình
nhập khẩu; tình hình thiệt hại; mối quan hệ giữa việc nhập khẩu và thiệt hại.
Bước 4: Ra quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tự vệ.
Mặc dù việc điều tra và áp dụng các biện pháp tự vệ có nhiều yếu tố giống
trình tự tố tụng tư pháp (một vụ kiện tại toà án), nhưng bản chất thực tế của nó lại
là một thủ tục hành chính, do một cơ quan hành chính nước nhập khẩu tiến hành để
xử lý một tranh chấp thương mại giữa các nhà xuất khẩu nước ngoài (về nguyên
tắc là từ tất cả các nước đang xuất khẩu hàng hoá liên quan vào nước nhập khẩu)


và ngành sản xuất nội địa liên quan của nước nhập khẩu. Việc này được thực hiện
trong khuôn khổ pháp luật nội địa các nước nhập khẩu và về nguyên tắc không
phải là công việc giữa các Chính phủ (Chính phủ các nước xuất khẩu và chính phủ
nước nhập khẩu).
b)

Thi hành quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tự vệ

Khi kết quả điều tra cho phép nước nhập khẩu được áp dụng biện pháp tự vệ
thì nước nhập khẩu sẽ chính thức được áp dụng biện pháp tự vệ. Các biện pháp tự
vệ này phải thoả mãn các điều kiện sau đây:


Về hình thức tự vệ, WTO không có quy định ràng buộc về loại biện
pháp tự vệ được áp dụng. Trên thực tế các nước nhập khẩu thường áp
dụng biện pháp hạn chế lượng nhập khẩu (hạn ngạch) hoặc tăng thuế
nhập khẩu đối với hàng hoá liên quan.




Về mức độ tự vệ, các nước chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ ở mức
cần thiết đủ để ngăn chặn hoặc bù đắp các thiệt hại và tạo điều kiện để
ngành sản xuất nội địa điều chỉnh;



Về thời hạn tự vệ, biện pháp tự vệ không được kéo dài quá 4 năm (tính
cả thời gian áp dụng biện pháp tạm thời) và phải giảm dần theo định
kỳ sau năm đầu tiên áp dụng. Trường hợp biện pháp được áp dụng
trên 3 năm thì phải được xem xét lại vào giữa kỳ để cân nhắc khả
năng chấm dứt hoặc giảm mức áp dụng mạnh hơn nữa;



Về gia hạn tự vệ, có thể gia hạn biện pháp tự vệ nhưng nước nhập
khẩu phải chứng minh được rằng việc gia hạn là cần thiết để ngăn
chặn thiệt hại và rằng ngành sản xuất liên quan đang tiến hành tự điều
chỉnh. Tổng cộng thời gian áp dụng và gia hạn không được quá 8
năm.

Biện pháp tự vệ phải được áp dụng theo cách không phân biệt đối xử về xuất
xứ hàng hoá nhập khẩu liên quan. Như vậy, khác với biện pháp chống bán phá giá


và biện pháp chống trợ cấp (chỉ áp dụng đối với nhà xuất khẩu từ một hoặc một số
nước nhất định bị điều tra) thì biện pháp tự vệ được áp dụng cho tất cả các nhà sản
xuất có hàng hoá nhập khẩu vào nước áp dụng biện pháp tự vệ. Trường hợp biện
pháp tự vệ là hạn ngạch, nước nhập khẩu cần tiến hành thoả thuận với các nước
xuất khẩu, chủ yếu về việc phân định hạn ngạch. Nếu không thoả thuận được thì
việc phân bổ hạn ngạch sẽ được thực hiện trên cơ sở thị phần tương ứng của từng

nước xuất khẩu trong giai đoạn trước đó.
Trường hợp kết quả điều tra kết luận nước nhập khẩu không được áp dụng
biện pháp tự vệ trong trường hợp này thì sẽ nảy sinh vấn đề bồi thường thiệt hại.
WTO quy định nước nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ phải bồi thường tổn thất
thương mại cho các nước xuất khẩu liên quan (thường là việc nước nhập khẩu tự
nguyện giảm thuế nhập khẩu cho một số nhóm hàng hoá khác đến từ nước xuất
khẩu đó). Nước nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ sẽ phải tiến hành thương lượng
với các nước xuất khẩu về biện pháp đền bù thương mại thoả đáng. Trường hợp
không đạt được thoả thuận thì nước xuất khẩu liên quan có thể áp dụng biện pháp
trả đũa (thường là rút lại những nghĩa vụ trong WTO, bao gồm cả việc rút lại
những nhượng bộ về thuế quan - tức là từ chối giảm thuế theo cam kết với WTO
đối với nước áp dụng biện pháp tự vệ). Tuy nhiên, việc trả đũa không thể được
thực hiện trong 3 năm đầu kể từ khi biện pháp tự vệ được áp dụng (nếu biện pháp
áp dụng tuân thủ đầy đủ các quy định của WTO và thiệt hại nghiêm trọng là thiệt
hại thực tế).
III.

Tác động của biện pháp tự vệ đến nền kinh tế thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng

Tất cả các Hiệp định thương mại ra đời không nằm ngoài mục đích làm cho
thương mại quốc tế thuận lợi và phát triển hơn. Tự do hóa thương mại với các ưu
đãi và nhượng bộ thuế quan của các bên làm cho các dòng đầu tư và nhập khẩu ồ ạt


tạo lên sự phát triển mạnh mẽ của thương mại toàn cầu. Điều này buộc các bên
phải có các biện pháp tự vệ hạn chế nhập khẩu khi hàng hóa nhập khẩu tăng đột
biến. Điều này tránh khỏi việc các bên rơi vào hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan khi
vừa phải đối mặt với nguy cơ sụp đổ sản xuất trong nước mà vẫn phải tận tâm thực
hiện cam kết đưa ra.

Được thừa nhận là một công cụ bảo hộ hợp pháp, biện pháp tự vệ khi được
áp dụng sẽ đem lại các tác động đối với nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam
nói riêng:
1.

Tích cực

Thứ nhất, biện pháp tự vệ được xem là “chiếc van an toàn” giúp nước nhập
khẩu hạn chế tạm thời luồng nhập khẩu, khắc phục thiệt hại gây ra cho việc nhập
khẩu hàng hóa tăng bất thường không lường trước cho nền sản xuất nội địa. Khi
thực hiện cam kết trong khuôn khổ WTO, các quốc gia phải chấp nhận từ bỏ bảo
hộ đối với sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài sẽ nhận được
những ưu đãi và lợi ích bình đẳng với hàng hóa trong nước theo nguyên tắc đối xử
quốc gia. Tuy nhiên, trong trường hợp nhất định thì các thành viên có thể sử dụng
biện pháp tự vệ trong một khoảng thời gian nhất định hạn chế luồng nhập khẩu
không vì mục đích bảo hộ sản xuất trong nước mà chỉ để khắc phục thiệt hại cho
các doanh nghiệp khi hàng hóa nhập khẩu tăng đột biến không lường trước. Các
biện pháp tự vệ sẽ được áp dụng một cách hợp lý và trong một khoảng thời gian
hợp lý sẽ được dỡ bỏ dần.
Thứ hai, các biện pháp tự vệ góp phần tăng cường, kích thích tính cạnh tranh
thông qua việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất, góp phần đem đến một môi trường cạnh
tranh lành mạnh, bình đẳng, đem lại những sản phẩm chất lượng tốt nhất cho thị
trường nội địa. Đó là một quy định mang tính ưu đãi đặc biệt đối với các nước
đang phát triển như Việt Nam khi nền công nghiệp chưa đủ mạnh để cạnh tranh
quốc tế. Theo đó, một khoảng thời gian hợp lý danh cho họ để khắc phục khó khăn,


tìm ra những đối sách nâng cao sức hấp dẫn của sản phẩm, thu hút người tiêu dung
bằng cách điều chỉnh cơ cấu sản xuất, cải tiến khoa học công nghệ… qua đó có thể
cạnh tranh được với hàng nhập khẩu. Mặt khác, các quy tắc của GATT cũng thừa

nhận rằng, Chính phủ các nước đang phát triển có thể thấy cần hỗ trợ cho những
ngành sản xuất mới hoặc sự phát triển hơn của các ngành sản xuất đã có có thể áp
dụng các biện pháp tự vệ.
Thứ ba, WTO ban hành quy chế chung cho mọi thành viên song cũng nhận
thức được rằng trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay bên cạnh những quốc gia phát
triển thì vẫn còn rất nhiều các quốc gia đang phát triên. Nếu áp dụng một cách
cứng nhắc các nguyên tắc của WTO sẽ dẫn đến một khoảng cách phân hóa giữa
các nước giàu và nghèo ngày càng bị nới rộng hơn. Vì vậy, trong Hiệp định về các
biện pháp tự vệ đã dành cho những nền kinh tế đang phát triển những mềm dẻo và
ưu đãi hơn. Có thể hiểu đây là sự “phân biệt đối xử” theo nghĩa tích cực trong việc
áp dụng các biện pháp tự vệ nhằm bảo vệ các ngành sản xuất có năng lực cạnh
tranh yếu của các nước này. Qua đó tạo điều kiện cho các nước đang phát triển sớm
có điều kiện hội nhập nhanh hơn vào tự do hóa thương mại quốc tế.
2.

Tiêu cực

Bên cạnh những tác động tích cực thì vẫn còn tồn tại nhiều tiêu cực khi áp
dụng biện pháp tự vệ:
Thứ nhất, việc áp dụng biện pháp tự vệ có thể dẫn đến bảo hộ sản xuất nội
địa một cách tràn lan, gây ra tâm lý ỷ lại của các nhà sản xuất trong nước, làm
giảm khả năng cạnh tranh, phát triển thương hiệu.
Thứ hai, áp dụng biện pháp tự vệ dẫn đến giảm lượng hàng hóa nhập khẩu,
hạn chế người tiêu dùng tiếp cận được với sản phẩm tương tự có giá rẻ hơn hoặc
chất lượng tốt hơn.
Thứ ba, việc áp dụng biện pháp tự vệ hạn chế xuất khẩu của các thành viên
khác rất có thể dẫn đến nước bị áp dụng phát đơn kiện, gây ra những ảnh hưởng


xấu đến quan hệ thương mại giữa các thành viên. Thêm nữa, nước nhập khẩu còn

phải bồi thường một cách thỏa đáng nếu không muốn bị áp dụng các biện pháp trả
đũa.


C.

KẾT LUẬN
Biện pháp tự vệ là một trong những chế định quan trọng trong các chế định

của WTO, được thừa nhận rộng rãi và sử dụng phổ biến tỏng đời sống thương mại
quốc tế. Đánh giá trong thời gian tới những biện pháp tự vệ sẽ được áp dụng ngày
càng nhiều hơn vì không chỉ các nước phát triển mà các nước đang phát triển cũng
đang tham gia vào Tổ chức thương mại quốc tế thậm chí còn chiếm đa số trong tổ
chức này. Việt Nam hiện vẫn là một thành viên đang phát triển của WTO, các
thuận lợi và cả những thách thức sẽ đến. Nếu như biết nắm chắc chắn và làm chủ
được chế định về các biện pháp tự vệ, áp dụng một cách khôn khéo có hiệu quả thì
đây sẽ là một cơ hội thuận lợi cho Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Điều này đòi hỏi phải chúng ta có công tác nghiên cứu kỹ lưỡng cùng với đó là có
sự đầu tư về nhân lực, vật lực, thời gian và công sức. Tuy nhiên, vẫn cần xem xét
lại một số quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến hoạt động xuất nhập
khẩu, thuế quan, thương mại quốc tế còn chưa phù hợp với các quy định của WTO
về biện pháp tự vệ. Đó sẽ là trở ngại lớn, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục và không
ngừng hoàn thiện pháp luật để biến biện pháp tự vệ như một công cụ hữu ích giúp
Việt Nam hội nhập sâu rộng, hiệu quả vào kinh tế thế giới, đưa nước ta bắt kịp với
các nước phát triển trên thế giới.




Danh mục tài liệu tham khảo

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Nxb
CAND, 2013.



Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1994.



Hiệp định về các biện pháp tự vệ.



Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Ấn phẩm Biện pháp tự vệ
trong thương mại quốc tế, WTO Center, 23/12/2009.



Website:







×