Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Trình bày nội dung cơ bản của thủ tục áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ theo Luật thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ sung 2014)?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.05 KB, 12 trang )

Đề tài: Trình bày nội dung cơ bản của thủ tục áp dụng biện pháp phong tỏa
tài khoản, tài sản nơi gửi giữ theo Luật thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ
sung 2014)?
I.Lời mở đầu
Trong giai đoạn thi hành án dân sự, thường là người phải thi hành án có
nghĩa vụ thực hiện thi hành án với người được thi hành án. Tuy nhiên không
phải trong mọi trường hợp người phải thi hành án sẽ chủ động tự nguyện thi
hành án, thường có có tâm lý kéo dài thời gian, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ
trong bản án, quyết định, nên hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm làm mất đi
điều kiện thi hành án. Ngay cả khi người phải thi hành án có tài khoản, tài sản
gửi giữ tại nơi gửi giữ, người đó vẫn có ý trốn tránh. Để đảm bảo người đó sẽ
phải thi hành án trong trường hợp này, pháp luật đã quy định biện pháp phong
tỏa tài khoản, tài sản tại nơi gửi giữ. Bài viết sau đây xin trình bày nội dung của
pháp luật về biện pháp này và đưa ra một số đánh giá về quy định đó.
II.Nội dung
1.Biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản bảo đảm ở nơi gửi giữ
Đây là biện pháp lần đầu tiên được quy định tại luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014 và là một trong ba biện pháp bảo
đảm thi hành án dân sự. Trước đây, theo quy định tại Điều 67 Luật Thi hành án
dân sự năm 2008 và Điều 11 Nghị định số 58/2008/NĐ-CP ngày 13/7/2008 của
Chính phủ quy định biện pháp bảo đảm là phong tỏa tài khoản mà không quy
định biện pháp phong tỏa tài sản tại nơi gửi giữ. Theo đó, phong tỏa tài khoản là
một biện pháp làm cho mọi hoạt động rút tiền ra từ một tài khoản nhất định bị
hạn chế và bị kiểm soát; đối tượng bị áp dụng biện pháp phong toả tài khoản là
người phải thi hành án có tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà
nước.Thực tế hoạt động thi hành án dân sự trong thời gian qua cho thấy nhiều
trường hợp người phải thi hành án có tài sản không phải là tiền mà còn là các
1


loại tài sản như kim khí quý, đá quý... Đang gửi người khác giữ (có thể là ngân


hàng, các tổ chức tín dụng hoặc người thứ ba khác...), nhưng Luật Thi hành án
dân sự 2008 không quy định Chấp hành viên được quyền áp dụng biện pháp bảo
đảm phong tỏa đối với loại tài sản này dẫn đến người phải thi hành án dễ dàng
tẩu tán, trốn tránh nghĩa vụ. Do đó, Luật sửa đổi, bổ sung đã bổ sung biện pháp
bảo đảm “phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ” vào Điều 67 và quy định cách thức
thực hiện tương tự như biện pháp phong tỏa tài khoản, nhằm tạo điều kiện tốt
hơn để bảo vệ quyền lợi của người được thi hành án. Biện pháp này được đặt ra
đã khắc phục được một số thiếu sót khi áp dụng biện pháp phong tỏa tài sản
được quy định tại Điều 67 Luật thi hành án dân sự năm 2008.
1.1.Khái niệm biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản bảo đảm ở nơi gửi giữ
1.1.1.Khái niệm
Phong tỏa tài khoản được hiểu là khi bị phong tỏa thì chủ thể được cho là
chủ tài khoản không thể thực hiện một số hoạt động kinh doanh nào trên tài
khoản (tiền, hiện vật, bất động sản...) Kể từ thời điểm cơ quan chức năng công
bố phong tỏa. Biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản bảo đảm ở nơi gửi giữ áp
dụng trong trường hợp người phải thi hành án phải thi hành khoản nghĩa vụ trả
tiền và các thông tin về điều kiện thi hành án cho thấy người đó đang có tiền,tài
sản trong tài khoản tại ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng, tài chính khác. Việc áp
dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản bảo đảm ở nơi gửi giữ nhằm ngăn
chặn người phải thi hành án thực hiện việc rút toàn bộ tiền hay một khoản tiền
trong tài khoản làm cho số tiền của họ còn lại trong tài khoản nhỏ hơn nghĩa vụ
mà họ phải thi hành án. Theo đó, mọi giao dịch đầu ra tài khoản của chủ tài
khoản sẽ không thực hiện được hoặc bị hạn chế thực hiện.
1.1.2.Ý nghĩa, vai trò của biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản bảo đảm ở
nơi gửi giữ
Việc áp dụng biện pháp này mang lại nhiều ý nghĩa to lớn trong suốt quá
trình thi hành án dân sự:

2



Biện pháp này ngăn chặn hiệu quả số tiền, tài sản tại nơi gửi giữ của người
phải thi hành án không bị tẩu tán, bảo toàn được tình trạng hiện có và đôc thúc
họ tự nguyện thi hành nghĩa vụ thi hành án dân sự của mình. Điều này trước hết
là bảo vệ quyền lợi của người được thi hành án được công bằng, hiệu quả nhất.
Việc áp dụng biện pháp này thể hiện sự đốc thúc đối với người phải thi hành án
thể hiện ở chỗ, khi bị áp dụng phong tỏa thì tài khoản, tài sản của họ ở nơi gửi
giữ đang ở trong tình trạng bị hạn chế, dù là tài sản của mình nhưng họ không
được sử dụng cũng không thể tẩu tán đi được. Do vậy, khi ở trong trường hợp đó
thì giải pháp tối ưu có thể được sự dụng là người phỉa thi hành án tự nguyện thi
hành các nghĩa của họ được xác định trong bản án, quyết định đã có hiệu lực của
Tòa án.
Biện pháp này cũng thể hiện sức mạnh của nhà nước, tính nghiêm minh của
pháp luật. Bản án, quyết định của Tòa án có giá trị pháp lý, mọi người cần tôn
trọng và tuân theo. Việc người phải thi hành án có ý trốn tránh không thực hiện
nghĩa vụ của họ làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật. Do đó, để
bảo đảm bản án được thực thi theo đúng pháp luật thì việc áp dụng biện pháp
này là cần thiết.
Việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản bảo đảm ở nơi gửi giữ
là tiền đề, cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự sau
này chẳng hạn như khấu trừ tiền trong tài khoản, nhằm bảo đảm hiệu quả của thi
hành án dân sự.
1.2.Điều kiện áp dụng
Khi đã áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản bảo đảm ở nơi gửi
giữ sẽ khiến người có tài khoản, tài sản bị phong tỏa gặp nhiều bất lợi, vì thế mà
không thể áp dụng một cách tùy tiện. Nếu vần áp cụng biện pháp phong tỏa tài
khoản, tài sản bảo đảm ở nơi gửi giữ thì phải đáp ứng được một số điều kiện
sau:
Thứ nhất, về chủ thể bị áp dụng biện pháp phải là người phải thi hành án và
phải thi hành nghĩa vụ trả tiền. Người phải thi hành án lag người phải thực hiện

nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành. Các nghĩa vụ này có thể là trải
3


lại tài sản đã thuê mượn, sửa chữa tài sản về hiện trạng ban đầu, chuyển quyền,
…vv…Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp đều có thể áp dụng biện
pháp phong tỏa tài khoản, tài sản bảo đảm ở nơi gửi giữ, chỉ trong trường hợp
người đó có nghĩa vụ phải trả tiền cho người khác thì biện pháp này mới được
áp dụng.
Thứ hai, người phải thi hành án phải có tài khoản, tài sản tại nơi gửi giữ và
tài sản đó là tài sản được cho là của người phải thi hành án. Nếu người có nghĩa
vụ không có tài sản tại nơi gửi giữ thì không thể áp dụng biện pháp này được,
việc phong tỏa như vậy không đem lại hiệu quả khi áp dụng các biện pháp bảo
đảm thi hành án. Bên cạnh đó, tài sản được cho là của người phải thi hành án là
tài sản trên danh nghĩa thuộc quyền sở hữu của họ. Có nhiều trường hợp mà tài
sản mang tên một người nhưng thực chất không là tài sản của họ, điều này xảy
ra khá phổ biến ở các vùng quê, chẳng hạn như là tài sản do con làm ra nhưng
lại để đứng tên bố mẹ. Do vậy, tài sản bị phong tỏa được cho là tài sản của người
phải thi hành án, nếu trên thực tế không phải là của người đó thì sẽ thông qua
các biện pháp xác minh và ra các quyết định khác nhau.
Về trường hợp các giá trị tài sản, tài khoản của người phải thi hành án tại
nơi gửi giữ thì có thể lớn hơn, nhỏ hơn hoặc bằng với nghĩa vụ mà người đó
phải thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, chỉ áp dụng phong
tỏa với giá trị tài sản tương đương với nghĩa vụ để đảm bảo quyền lợi của người
phải thi hành án.
Thứ ba, có mục đích nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản trong tài khoản
của người phải thi hành án. Người phải thi hành án khi họ không tự nguyện thực
hiện nghãi vụ trả tiền của mình, trốn tránh hoặc có dấu hiệu sẽ tẩu tán tài sản thì
biện pháp này được đặt ra. Điều này trước tiên là bảo vệ được quyền và lợi ích
hợp pháp của người được thi hành án, đồng thời cũng đảm bảo tính nghiêm

minh của pháp luật thông qua việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án.

4


1.3.Quy định của pháp luật về biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản bảo
đảm ở nơi gửi giữ
1.3.1. Thẩm quyền
Về thẩm quyền yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án nói
chung và biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản bảo đảm ở nơi gửi giữ theo quy
định tại Điều 66 Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014 là đương
sự. Đương sự trong thi hành án dân sự bao gồm người được thi hành án và
người phải thi hành án. Thông thường do nhằm mục đích chính khi áp dụng các
biện pháp này là nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh nghĩa vụ hoặc tẩu tán tài sản
nên chủ yếu người yêu cầu áp dụng biện pháp này là người được thi hành án, họ
sẽ vì quyền lợi của mình mà yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp bảo đảm thi hành án. Hình thức yêu cầu theo luật định là bằng văn bản.
Người yêu cầu cần làm bằng văn bản và gửi cho cơ quan có thẩm quyền.
Về thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài
sản bảo đảm ở nơi gửi giữ do Chấp hành viên tiến hành. Chấp hành viên có thể
tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng ngay biện pháp
bảo đảm thi hành án. Trong quá trình thi hành án Chấp hành viên nhận thấy rằng
người phỉa thi hành án cố ý không thự hiện nghĩa vụ trả tiền dù họ có tiền, tài
sản khác gửi ở nơi gửi giữ thì khi đó, để đảm bảo việc thi hành án được thực
hiện đúng pháp luật thì Chấp hành viên tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp
phong tỏa tài khoản, tài sản bảo đảm ở nơi gửi giữ. Biện pháp này ngay lập tức
có thể ngăn chặn được người phải thi hành án tẩu tán đi số tài sản này, cũng
nhằm bảo vệ được quyền lợi cho người được thi hành án.
1.3.2.Trình tự, thủ tục
Theo quy định tại Điều 66, 67 Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ

sung 2014 quy định về quy trình thực thi phong tỏa ngân hàng như sau:
Đầu tiên, Chấp hành viên có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của đương sự
áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản khi có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ
thi hành án có tài khoản, tài sản và đang có dấu hiệu tẩu tán, trốn tránh nghĩa vụ
5


thi hành án. Để có thể xác định được việc người phải thi hành án có tài khoản,
tài sản tại nơi gửi giữ là một vấn đề đòi hỏi Chấp hành viên phải có thông tin cụ
thể. Trước đây, việc cung cấp thông tin về tài khoản của người phải thi hành án
cũng như trách nhiệm phối hợp của các tổ chức tín dụng, ngân hàng, kho bạc
nhà nước với cơ quan thi hành án dân sự rất khó khăn. Các tổ chức này viện dẫn
các quy định tại Điều 17 và Điều 104 Luật Các tổ chức tín dụng để từ chối cung
cấp thông tin về tài khoản, số dư tài khoản, tài sản của người phải thi hành án.
Tuy nhiên, hiện nay mối quan hệ phối hợp giữa ngân hàng, tổ chức tín dụng với
cơ quan thi hành án đã được cải thiện hơn rất nhiều kể từ sau ngày 18/3/2015,
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ trưởng Bộ Tư pháp ký Quy
chế phối hợp số 01/QCLN/NHNNVN-BTP giữa Ngân hàng nhà nước Việt Nam
với Bộ Tư pháp trong hoạt động thi hành án dân sự; tại các địa phương, các cơ
quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố đã ký kết Quy chế phối hợp với các chi
nhánh Ngân hàng Nhà nước (tính đến ngày 30/11/2015 đã có 44/63 tỉnh ký Quy
chế phối hợp). Đồng thời, tại Khoản 2 Điều 20 của Nghị định 62/2015/NĐ-CP
đã bổ sung quy định mới về trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của tổ
chức tín dụng, ngân hàng nói riêng và những cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nói
chung có trách nhiệm nhận văn bản mà không nhận quyết định phong tỏa tài
khoản, tài sản ở nơi gửi giữ thì Chấp hành viên có trách nhiệm lập biên bản về
việc họ không nhận quyết định, có chữ ký của người làm chứng hoặc chứng kiến
và tiến hành niêm yết quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ của
người phải thi hành án tại trụ sở cơ quan, tổ chức đó. Người đại diện theo pháp
luật hoặc người có trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức không nhận

quyết định phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật và phải bồi thường
nếu có thiệt hại xảy ra. Chính vì vậy, việc Luật sửa đổi, bổ sung cũng như Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP đã quy định trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ
chức hữu quan trong thi hành án dân sự đã tạo điều kiện cho Chấp hành viên áp
dụng biện pháp bảo đảm phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ được thuận
lợi hơn.

6


Thứ hai, sau khi ra quyết định phong tỏa tài khoản, Chấp hành viên phải
giao quyết định phong toả tài khoản cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản
của người phải thi hành án. Các cơ quan, tổ chức quản lý tài sản của người phải
thi hành án thường là ngân hàng, kho bạc hay một số tổ chức tín dụng khác bởi
đây là những tổ chức có chức năng thực hiện các giao dịch qua tài khoản. Theo
đó, các cơ quan, tổ chức này phải thực hiện việc chuyển dòng tiền trong tài
khoản ra ngoài. Khoản 2 Điều 67 Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định “Khi
tiến hành phong toả tài khoản, Chấp hành viên phải giao quyết định phong toả
tài khoản cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải thi hành
án”. Như vậy, việc phong toả tài khoản được thể hiện dưới hình thức quyết định.
Sau khi có thông tin về tài khoản của người phải thi hành án, để ngăn chặn việc
tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành
án, Chấp hành viên tự mình hoặc theo yêu cầu của người được thi hành án ra
quyết định phong toả tài khoản và giao quyết định đó cho cơ quan, tổ chức đang
quản lý tài khoản của người phải thi hành án. Đến nay, theo quy định tại Điều 44
Luật sửa đổi, bổ sung đã bổ sung về trách nhiệm ký vào biên bản của các cơ
quan, tổ chức trong trường hợp Chấp hành viên xác minh trực tiếp. Việc bổ sung
này nhằm tạo điều kiện để Chấp hành viên dễ dàng lựa chọn hình thức xác minh
trực tiếp hay bằng văn bản. Trong nhiều trường hợp, việc Chấp hành viên đến
xác minh trực tiếp và lập biên bản xác minh hiệu quả hơn nhiều so với việc gửi

văn bản đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin và
chờ đợi sự phản hồi của họ. Trong thực tế, trước đây theo quy định của Nghị
định 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi
hành án dân sự, Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXHNHNNVN ngày 14/01/2014 hướng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu
nhập của người phải thi hành án và thực hiện phong tỏa, khấu trừ để thi hành án
dân sự thì chỉ quy định duy nhất một hình thức trả lời bằng văn bản của các
Ngân hàng, tổ chức tín dụng trong thời hạn 03 ngày làm việc, dẫn đến nhiều
7


Ngân hàng, tổ chức tín dụng từ chối ký vào biên bản xác minh trực tiếp của
Chấp hành viên với lý do pháp luật không quy định. Như vậy, với quy định mới
này, trong thực tế Chấp hành viên có thể sử dụng hình thức xác minh trực tiếp và
trường hợp cần phong tỏa ngay tài khoản, tài sản của người phải thi hành án ở
nơi gửi giữ mà chưa ban hành quyết định phong tỏa thì Chấp hành viên lập biên
bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của người
phải thi hành án phong tỏa tài khoản, tài sản đó. Tuy nhiên, để đảm bảo cơ sở
pháp lý vững chắc cho việc phong tỏa tài khoản, tài sản thì hình thức quyết định
cần phải được thực hiện ngay sau đó. Vì thế, tại Khoản 2 Điều 67 Luật sửa đổi,
bổ sung và Khoản 1 Điều 20 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định trong thời
hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản, Chấp hành viên phải ra quyết định phong tỏa
tài khoản, tài sản; đồng thời Quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản phải được
gửi ngay cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi có tài khoản, tài sản đã bị phong tỏa.
Thứ ba, sau khi nhận được quyết định phong tỏa tài khoản, cơ quan, tổ
chức đang quản lý tài khoản phải thực hiện ngay quyết định của Chấp hành viên
về phong toả tài khoản. Để tránh các cơ quan, tổ chức quản lý tài sản của người
phải thi hành án không hợp tác trong việc phong tỏa tài khoản khiến các chấp
hành viên và cơ quan thi hành án gặp khó trong trường hợp tổ chức tín dụng

không hợp tác, lấy lý do người phải thi hành án bị phong thỏa tài khoản đang
khiếu nại. Trong trường hợp này, nếu có chứng cứ cho thấy phía ngân hàng cố
tình trì hoãn việc chuyển tiền để tạo điều kiện cho người phải thi hành án trốn
tránh nghĩa vụ thi hành án thì cơ quan thi hành án có quyền ra quyết định xử
phạt hành chính. Vì ngân hàng hay bất cứ cá nhân, tổ chức nào cũng là đối
tượng có trách nhiệm thực hiện quyết định của cơ quan thi hành án. Thậm chí cơ
quan thi hành án còn có quyền chuyển hồ sơ đề nghị cơ quan công an khởi tố
người có trách nhiệm của phía ngân hàng về hành vi cản trở việc thi hành án
theo Điều 381 Bộ luật hình sự năm 2015. Đây là chế tài rất hữu hiệu nhằm đảm
bảo cho việc thực thi phong tỏa tài khoản được thực hiện có hiệu quả
Thứ tư, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài
khoản, Chấp hành viên phải thực hiện biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong
8


tài khoản của người phải thi hành án. Theo đó, Chấp hành viên sẽ ra quyết định
khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án và chuyển giao quyết
định này cho cơ quan, tổ chức quản lý tài sản của người phải thi hành án. Tiếp
theo, các cơ quan, tổ chức này sẽ phải thực thi quyết định của Chấp hành viên
bằng việc khấu trừ số tiền mà người phải thi hành án phải trả để chuyển vào tài
khoản của cơ quan thi hành án hoặc cho người được thi hành án.
Có thể khẳng định rằng những quy định về biện pháp bảo đảm phong tỏa
tài khoản được quy định trong Luật Thi hành án dân sự rất tiến bộ, phù hợp với
thực tiễn công tác thi hành án dân sự. Theo đó, sẽ hạn chế được việc người phải
thi hành án tẩu tán số tiền đang có trong tài khoản.
2.Đánh giá quy định của pháp luật về biện pháp phong tỏa tài sản bảo đảm
ở nơi gửi giữ
Quy định của luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014
về cơ bản đã trọn vẹn, sửa đổi được các quy định còn hạn chế trong Luật đã
được ban hành trước đây. Tuy nhiên vẫn còn một số điểm cần lưu ý đến:

Về vấn đề thu thập thông tin trong quá trình phong tỏa tài khoản thì Chấp
hành viên cũng gặp không ít khó khăn khi thu thập thông tin tài khoản. Theo
Khoản 1 Điều 20, Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự: “Quyết định phong tỏa tài khoản,
tài sản ở nơi gửi giữ phải xác định rõ số tiền, tài sản bị phong tỏa”. Vì vậy, để
xác định số tiền bị phong tỏa được chính xác, chấp hành viên cần phải tiến hành
các hoạt động thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án tại ngân
hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước. Thông tin về tài khoản của người phải
thi hành án có rất nhiều nguồn khác nhau. Việc xác định người đó có tài khoản
hay không có thể căn cứ vào một trong những yếu tố như: Lĩnh vực, ngành nghề
hoạt động của người phải thi hành án, các hợp đồng của người phải thi hành án
với các đối tác, đăng ký kinh doanh,…Thực tế, trong thời gian qua, đã xảy ra
trường hợp chấp hành viên do thiếu thông tin hoặc thông tin không chính xác,
đầy đủ, đã vội vàng ra quyết định phong tỏa tài khoản không đúng đối tượng,
gây thiệt hại và phải bồi thường thiệt hại lên đến hàng tỷ đồng cho người bị
9


phong tỏa nhầm tài khoản. để hỗ trợ cho Chấp hành viên được thuận lợi trong
việc xác định thông tin này, cần xây dựng các cơ chế liên kết với địa phương,
với những người thân thích của người phỉa thi hành án để đảm bảo được nguồn
thông tin được nhanh nhạy, chính xác.
Một vấn đề lớn khác là về giá trị tài khoản, tài sản bị phong tỏa để dảm bảo
lợi ích cho người phải ti hành án sẽ chỉ được phong tỏa tài khoản, tài sản có giá
trị tương đương với nghĩa vụ. tuy nhiên, trong phải trong mọi trường hợp giá trị
của tài sản này sẽ nhỏ hơn hoặc bằng với nghĩa vụ mà người đó phải thực hiện.
nhất là trong trường hợp của các công ti, tổ chức, thông thường tài khoản của họ
thường vô cùng lớn, và lớn hơn rất nhiều so với nghĩa vụ phải thực hiện, nếu bị
phong tỏa sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc vận hành của các công ty tổ chức này.
vậy đặt ra vấn đề là nếu tài sản lớn hơn so với nghĩa vụ thì có tiến hành phong

tỏa hay không?. Hiện nay vẫn chưa có văn bản nào quy định chi tiết về trường
hợp này, dẫn đến việc các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác nơi có tài sản gửi
giữ áo dụng một cách tùy nghi. Nếu như không phong tỏa sẽ ảnh hưởng tới
quyền lợi của người được thi hành án, còn nếu như phong tỏa sẽ phải đối mặt
với vấn đề khiếu nại từ chính người phải thi hành án. Đây là một tình huống còn
gặp phải nhiều khó khăn khi xử lí, là một vấn đề nan giải với chính người ra
quyết định. Đối với trường hợp này, tôi xin đưa ra giải pháp sau đây:
Với tài khoản là tiền có giá trị lớn hơn nghĩa vụ sẽ tiến hành tách tài khoản
này ra thành hai tài khoản, một tài khoản có giá trị bằng với nghĩa vụ và một tài
khoản là phần còn lại. Đối với tài khoản có giá trị bằng với nghĩa vụ sẽ phong
tỏa tài khoản đó, còn tài sản với phần còn lại vẫn để cho người đó được tiêu
dùng cá nhân. Việc áp dụng như thế này không chỉ đảm bảo được nghĩa vụ thi
hành án mà còn tránh tổn hại với người phải thi hành án trong thời gian họ bị
phong tỏa tài khoản tại nơi gửi giữ. Ví dụ như tài khoản của người phải thi hành
án là 500 triệu đồng, trong khi đó nghĩa vụ mà học phải thực hiện với người
dược thi hành án chỉ là 200 triệu đồng thôi. Khi đó sẽ tách ra tài khoản 1 có 200
triệu đồng, tài khoản 2 có 300 triệu đồng, sau đó áp dụng biện pháp phong tài
khoản đối với tài khoản 1 còn tài khoản 2 sẽ được giữ nguyên, người phải thi
10


hành án vẫn có toàn quyền đối với tài khoản 2.Việc xử lý như thế này không chỉ
mang lại hiệu quả với cá nhân và hơn cả là các cơ quan, tổ chức đang hoạt động
kinh doanh. Ngoài phần tiền phải trả cho người được thi hành án, họ vẫn có thể
sử dụng được tài sản của mình cho hoạt động kinh doanh mà không mà bị ngưng
trệ.
Đối với trường hợp là tài sản khác tại nơi gửi giữ mà không phải là tiền, thì
tiến hành thông báo cho người phải thi hành án về việc sẽ tiến hành phong tỏa
nếu họ không thực hiện nghĩa vụ trong thời hạn nhất định(thời hạn này phải nhỏ
hơn 10 ngày)và gửi thông báo này tới nơi gửi giữ tài sản yêu cầu nơi gửi giữ tài

sản hạn chế quyền rút tài sản này ra. Mặc dù khi áp dụng các biện pháp bảo đảm
thi hành án, Chấp hành viên không cần phải thông báo trước cho người phải thi
hành án. Tuy nhiên đây là một trường hợp đặc biệt khi tài sản của người phải thi
hành án lớn hơn so với nghĩa vụ mà họ phải thực hiện, việc thông báo trước khi
phong tỏa sẽ nhắc nhở người được cho họ có thêm cơ hội tự mình thi hành án,
nếu họ vẫn không thực hiện tức họ chấp nhận việc lợi ích của mình bị ảnh
hưởng khi tài sản bị phong tỏa.
Cá nhân tôi cho rằng sẽ không vì tài sản quá lớn mà không tiến hành phong
tỏa bởi khi Tòa án đã tuyên người phải thi hành án có nghĩa vụ đối với người
được thi hành án thì chính là do họ có lỗi và người được thi hành án là người
đang chịu thiệt thòi. Việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người được thi
hành án cần được ưu tiên, do vậy vẫn sẽ tiến hành phong tỏa tài khoản, tài sản
tại nơi gửi giữ nhưng sẽ theo các trình tự khác nhau.
III.Kết luận
Như vậy thông qua viện nghiên cứu các quy định của pháp luật về biện
pháp bảo đảm thi hành án dân sự là phong tỏa tài khoản, tài sản tại nơi gửi giữ
đã tăng nhận thức về các quy định này. Đồng thời rút ra được những đánh giá,
những điểm hạn chế và hướng hoàn thiện của các quy định này.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật hình sự năm 2015

11


2. Hải Nam(2018), “Hiểu và áp dụng như thế nào về “Phong tỏa tài sản thi hành
án”.
3.

Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014


4. Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Thi hành án dân sự
5. Nghị định 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân
sự về thủ tục thi hành án dân sự
6. Quy chế phối hợp số 01/QCLN/NHNNVN-BTP giữa Ngân hàng nhà nước
Việt Nam với Bộ Tư pháp trong hoạt động thi hành án dân sự
7. Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN ngày
14/01/2014 hướng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập của
người phải thi hành án và thực hiện phong tỏa, khấu trừ để thi hành án dân sự
8. Trường đại học luật Hà Nội(2012), “Giáo trình luật thi hành án dân sự Việt
Nam”, Nhà xuất bản công an nhân dân
9. Trang web tham khảo:
-
-

12



×