Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Nuôi cá chẽm lồng biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.91 KB, 4 trang )

Nuôi cá chẽm lồng biển
Thứ 5 ngày 05/02/2009 - 08 giờ:33 phút

Xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà có một HTX Thủy sản hoạt động
rất hiệu quả, đó là HTX Thuỷ sản Khải Lương. HTX chuyên sản xuất kinh doanh
hàng thuỷ sản, chủ yếu làm nghề lưới đăng và là một tập thể nuôi cá chẽm lồng biển
có hiệu quả cao.
Năm 2008, được sự hỗ trợ kinh phí và giúp đỡ kỹ thuật của Trung tâm Khuyến ngư
Khánh Hoà, HTX Thuỷ sản Khải Lương đã triển khai thực hiện mô hình nuôi cá chẽm
lồng biển tại thôn Khải Lương.
Quá trình thực hiện mô hình
1. Cá chẽm giống: HTX đã mua từ Trại ương của Công ty TNHH Thịnh Hải. Kích cỡ
giống dài 10 - 12 cm. Cá đồng kích cỡ, khoẻ mạnh, không dị tật.
- Mật độ thả: 20 con/m3. Số lượng cá thả: 6.000 con.
- Thời điểm thả: thả cá vào lúc sáng sớm để tránh gây sốc cho cá. Trước khi thả giống
tiến hành thuần hoá dần để cá thích nghi với môi trường nuôi bằng biện pháp ngâm túi cá
trong lồng nuôi 15 phút để cân bằng nhiệt độ nước (tránh chênh lệch quá 3oC), sau đó
mở miệng túi thay từ từ nước vận chuyển trong túi bằng nước biển tại lồng nuôi. Thả từ
từ cá chẽm giống ra lồng.
2. Quản lý chăm sóc:
- Cá giai đoạn mới thả thì dùng cá tạp tươi xay nhuyễn và lọc qua rây nhỏ, rải xung
quanh lồng. Sau 2 tuần dùng cá tạp tươi băm nhỏ vừa cỡ miệng cá. Khi cá lớn khoảng
100g thì cho ăn bằng cá tạp tươi cắt thành miếng hoặc cá cơm tươi rửa sạch. Tiến hành
cho cá ăn ngày 2 lần buổi sáng lúc 7 giờ và buổi chiều lúc 18 giờ. Trong 2 tháng đầu
lượng thức ăn sử dụng hàng ngày bằng 10% trọng lượng cá nuôi, sau đó giảm lượng thức
ăn hàng ngày xuống còn bằng 5% trọng lượng cá nuôi. Mỗi khi cho ăn dùng cây gỗ gõ để
gây tiếng động khiến cá tập trung lại và bơi gần mặt nước lúc này mới rải thức ăn. Cho cá
ăn từ từ để cá kịp đớp mồi. Thường xuyên theo dõi sức ăn của cá để điều chỉnh lượng
thức ăn kịp thời, tránh hiện tượng thừa thức ăn gây ô nhiễm môi trường.
3. Theo dõi các yếu tố môi trường:
Thường xuyên chà rửa vệ sinh lồng để loại bỏ những sinh vật bám làm giảm sự trao đổi


nước và có thể gây sốc cho cá do oxy hoà tan thấp. Nếu phát hiện lồng bị rách thì tiến
hành sửa chữa ngay hoặc thay mới. Hàng ngày lúc cho ăn phải quan sát hoạt động của cá,


kiểm tra cảm quan bên ngoài cá nuôi để có biện pháp xử lý kịp thời. Định kỳ 10 ngày cân
kiểm tra tốc độ sinh trưởng của cá. Sau thời gian nuôi 2 tháng, tiến hành san thưa giảm
mật độ cá nuôi kết hợp phân cá theo kích cỡ để nuôi riêng tránh cá ăn lẫn nhau.
Thường xuyên kiểm tra cá và sử dụng thuốc PVD-Iodine để phòng trị bệnh cá. Không sử
dụng thuốc và hoá chất trong danh mục cấm đặc biệt là Xanh Malachite và Dipterex để
trị bệnh cá.
Kết quả thực hiện mô hình
1. Thu hoạch: Sau 8 tháng nuôi cá đạt trọng lượng bình quân 1,07 kg/con, tiến hành thu
hoạch bằng hình thức kéo lưới lồng lên, dồn cá vào một góc lồng, dùng vợt lưới mềm
không gút vớt cá, thu toàn bộ lồng.
2. Định mức kỹ thuật đạt được khi thu hoạch:
- Sản lượng thu: 4.910,2 kg. Số lượng con: 4.589 con.
- Tỉ lệ sống: 76,48%.
- Năng suất bình quân: 16,36 kg/m3.
- Hệ số thức ăn: 6,5.
3. Tính toán hiệu quả kinh tế:

Tổng chi phí
Mua giống: 6.000 con x
4000đ/con
Lượng thức ăn: 4.910,2 kg
x 6,5 x 4.000đ/kg

Thành tiền

24.000.000đTiền bán cá: 4.910 kg

x 52.000đ/kg
127.665.000đ

Thuốc trị bệnh

2.000.000đ

Công lao động 02 người x
08 tháng x 600.000đ

9.600.000đ

Khấu hao lồng bè:

5.000.000đ

Nhiên liệu, chi khác:

Tổng thu

10.000.000đ

Thành tiền
255.320.000đ


Cộng

178.265.200đ


255.320.000đ

Lãi: 255.320.000đ - 178.265.200đ = 77.054.800đồng
Mô hình có lãi khá đã góp phần nâng cao thu nhập cho xã viên, giải quyết lao động nhàn
rỗi trong mùa không hoạt động nghề lưới đăng.
Nhận xét chung của Ban chủ nhiệm HTX: Trong quá trình nuôi HTX luôn tuân thủ quy
trình kỹ thuật do Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hoà hướng dẫn. Con giống mua cần đạt
chất lượng cao, cá giống có kích cỡ đồng đều và được thuần hoá ương dưỡng một thời
gian trước khi thả để tăng sức đề kháng khi thả nuôi. Lồng nuôi cần phải được vệ sinh
hàng ngày. Thức ăn cho cá chẽm nuôi là cá tạp thật tươi tốt và rửa sạch trước khi cho ăn,
đảm bảo đủ số lượng thức ăn hàng ngày cho cá, không để cá bị đói nhưng cũng không để
thức ăn dư thừa gây ô nhiễm. Định kỳ tiến hành san thưa cá để giảm tỉ lệ hao hụt của cá
nuôi. Tuyệt đối không sử dụng thuốc và hoá chất trong danh mục cấm đặc biệt là Xanh
Malachite và Dipterex để chữa trị bệnh cá.
Đoàn Giang
Nuôi cá lồng bè trên biển Kiên Giang: Nỗi lo con giống và môi trường
Ngày cập nhật:
19/1/2009
Nguồn tin:
Báo Cần Thơ, 18/01/2009
Trong năm 2008, tỉnh Kiên Giang có 546 lồng bè nuôi cá trên biển, thu
hoạch được 693 tấn, tăng 221 lồng nuôi và 328 tấn so với năm trước. Hiện
nay, nghề này tập trung chủ yếu tại huyện Phú Quốc, Kiên Hải và các xã
đảo thuộc thị xã Hà Tiên, huyện Kiên Lương. Bên cạnh sự phát triển, mô
hình nuôi này đang có những cảnh báo đáng lo ngại…
* NGUY CƠ CẠN KIỆT NGUỒN GIỐNG
Anh Đinh Văn Trung, ngụ ấp An Phú, xã Nam Du (Kiên Hải), cho biết: Vốn
đầu tư để nuôi cá lồng bè trên biển không lớn, kỹ thuật nuôi ít phức tạp. Với
4 lồng bè thả nuôi cá bống mú và cá bớp, mỗi năm gia đình anh thu nhập
hơn 150 triệu đồng. Trong số 6 hộ làm nghề này tại đây, họ đang dần khá

lên. Phát huy lợi thế bờ biển để nuôi trồng thủy sản hiệu quả là hướng đi
đúng, song cần có quy hoạch và quản lý phù hợp. Một cán bộ xã Tiên Hải
(thị xã Hà Tiên) phản ảnh: Nếu như 4 năm trước, Tiên Hải chỉ có 1 hộ bỏ
vốn nuôi cá lồng bè, bây giờ toàn xã đã có 9 hộ nuôi với 30 lồng bè. Đối
tượng nuôi chủ yếu gồm: cá mú sao, mú đen, cá hường bạc, cá bớp. Đó là
những loài có giá trị kinh tế cao được tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Từ khi
thả cá giống đến lúc thu hoạch, thời gian khoảng 8-10 tháng. Nguồn thức ăn
cho chúng chủ yếu là cá tạp băm nhỏ, rẻ và rất dễ mua. Nếu chăm sóc tốt,
không gặp rủi ro thì trừ các khoản chi phí, lãi 50-60 triệu đồng/bè đối với cá
bớp và 30-35 triệu/bè đối với cá hường bạc. Tuy nhiên, nguy cơ cạn kiệt


con giống đang là nỗi bức xúc của nhiều người. Hiện tại, chưa có nơi nào
trong tỉnh nhân giống thành công được các loài cá nói trên. Thế nên, con
giống được khai thác hoàn toàn trong tự nhiên bằng cách đặt bẫy hoặc lựa
ra những con còn khỏe nằm lẫn với sản lượng tôm cá thu được từ các mẻ
của nghề lưới vây. Nhưng tỷ lệ sống của con giống khai thác theo phương
thức thủ công đạt 90% trở lên, thì con giống đưa từ lưới vây về nuôi chỉ đạt
20-30%. Lại nữa, bẫy cá giống gần như chỉ còn là “ăn may”, bởi thậm chí
cả tuần cũng không được con nào.
Ông Trần Quang Long, người nuôi cá lồng bè ở ấp Hòn Tre, xã Tiên Hải,
than thở: “Nuôi cá lồng bè trên biển mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ngặt
nỗi, nguồn lợi thủy sản ngày càng cạn kiệt nên vào thời điểm thả giống
thích hợp lại không có ai bán. Giá cá giống đã tăng gấp 4-5 lần so với cách
nay 2 năm. Đắt nhưng vẫn phải mua. Nếu tình trạng này kéo dài, có lẽ phải
chuyển nghề khác”...
* Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC
Theo ngành Nông nghiệp & Phát triển nông thôn tỉnh Kiên Giang, năm
2009, chỉ tiêu nuôi cá lồng bè trên biển của tỉnh là 575 lồng, sản lượng thu
hoạch 725 tấn. Kỹ sư Nguyễn Vân Thanh, Phó Chi cục Trưởng Chi cục

Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản Kiên Giang, quả
quyết: Chỉ tiêu này hoàn toàn có khả năng đạt được, song quá trình thực
hiện sẽ phải đối mặt với khó khăn về con giống và ô nhiễm môi trường
nước. Bởi lồng nuôi cá làm bằng gỗ tốt, chiều cao 3-3,5 m, rộng 4-4,5 m,
được bao quanh bằng lưới và gắn với các phao nhựa lớn nhằm di chuyển dễ
dàng trên biển. Để có một bè nuôi cá đúng kích cỡ và chắc chắn, phải bỏ ra
20- 40 triệu đồng. Cứ 4 lồng kết thành một bè. Bình thường là vậy, song lúc
biển động, sóng cấp 5-6 nhiều hộ đã trắng tay vì không kéo kịp lồng bè đến
vị trí an toàn, bè vỡ cá thoát ra biển. Những nơi khuất sóng gió thì lại là
điểm neo đậu của các tàu đánh cá, tàu chở khách, tàu tải... khi biển động
mạnh. Điều đáng lo là trong số hàng trăm tàu ghe cặp bến lên cá hoặc sửa
chữa nhỏ thường hay xả dầu, nhớt cặn xuống biển. Những chất thải độc hại
này kết từng mảng lớn theo chiều gió tấp vào các lồng bè, cá không sống
nổi. Vào mỗi buổi chiều tối, rác thải từ các chợ trên đảo cũng được tuôn
thẳng xuống biển. Hôm sau, đã thấy những đống chai lọ, bọc ni lon bập
bềnh bám quanh lồng bè, chẳng vớt xuể. Với hơn 7.300 tàu cá các loại hiện
có, cộng với gần ngàn tàu từ các tỉnh bạn đến khai thác thủy sản, khiến môi
trường vùng biển Kiên Giang càng thêm nguy cơ ô nhiễm...
MẠNH CHUNG



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×