Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Luận văn thạc sỹ:Tăng cường thu hút vốn FDI tại Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.72 KB, 90 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐÔ
TÓM TẮT LUẬN VĂN
LỜI MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI
4
1.1.
TỔNG QUAN VỀ FDI
4
1.1.1. Khái niệm.......................................................................................................4
1.1.2. Phân loại........................................................................................................6
1.1.3. Vai trò của nguồn vốn FDI đối với nước đầu tư và nước nhận đầu tư............8
1.2.
THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ............................................10
1.2.1. Một số lý thuyết kinh tế về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài..............10
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài..............16
1.3.

KINH NGHIỆM THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA MỘT
SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ..........................................................................21

CHƯƠNG 2 - THỰC TRẠNG THU HÚT NGUÔN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2001 – 2010
30
2.1.

THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THU HÚT NGUÔN VỐN FDI TẠI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2001 - 2010 .................................................................................30



2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.

Về số lượng và quy mô dự án đầu tư............................................................30
Về vốn đầu tư...............................................................................................33
Về cơ cấu vốn đầu tư....................................................................................36
2.2.
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA FDI TỚI KINH TẾ VIỆT NAM ........................47
2.2.1. Mặt tích cực.................................................................................................47
2.2.2. Mặt hạn chế và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế..................................50
CHƯƠNG 3 - GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NGƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 – 2020
61
3.1.
ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT VỐN FDI GIAI ĐOẠN 2011 - 2020 .........................61
3.1.1. Triển vọng dòng vốn FDI trên thế giới trong thời gian tới...........................61


3.1.2.

Một số định hướng chính trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
2011 – 2020................................................................................................63

3.2.

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI.........................................................................................................67


3.2.1.

Tiếp tục đổi mới tư duy và đổi mới cách tiếp cận trong xây dựng chính sách
đầu tư nước ngoài cho giai đoạn tới.............................................................67
3.2.2. Tiếp tục đổi mới chính sách thu hút FDI...................................................67
3.2.3. Nâng cao chất lượng quy hoạch FDI............................................................71
3.2.4. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư............................................................73
3.2.5. Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và các dịch vụ hậu cần cho FDI..74
3.2.6. Đổi mới và hoàn thiện công tác giải phóng mặt bằng nhằm thu hút hơn nữa
các dự án đầu tư...........................................................................................76
3.2.7. Cải thiện môi trường đầu tư.........................................................................76
3.2.8. Thu hút các công ty đa quốc gia lớn có tiềm năng về công nghệ.................78
3.2.9. Phát triển nguồn nhân lực.............................................................................79
3.2.10. Phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất..............................................81
KẾT LUẬN 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO
85


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
APEC

Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á --́ Thái Bình Dương

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

ASEM


Diễn đàn hợp tác Á - Âu

EDB

Hội đồng Phát triển Kinh tế

EU

Liên minh châu Âu

FDI

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

IMF

Quỹ Tiền tệ Quốc tế

KCN

Khu Công nghiệp

KKT

Khu Kinh tế


M&A

Mua lại và sáp nhập

OECD

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

R&D

Nghiên cứu và triển khai

TNC

Công ty đa quốc gia

UBND

Ủy ban Nhân dân

UNCTAD

Hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐÔ

Bảng:
Bảng 2.1:
Bảng 2.2:
Bảng 2.3:
Bảng 2.4:
Bảng 2.5:
Bảng 2.6:
Bảng 2.7:
Bảng 2.8:
Bảng 2.9:

Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2001-2010...................36
Vốn FDI đăng ký mới phân theo ngành kinh tế giai đoạn 2001-2010
................................................................................................................37
Số dự án và vốn FDI cấp mới vào lĩnh vực nông nghiệp
giai đoạn 2001-2010...............................................................................38
Số dự án và vốn FDI cấp mới lĩnh vực công nghiệp – xây dựng
giai đoạn 2001 – 2010.............................................................................39
Số dự án và vốn FDI cấp mới lĩnh vực công nghiệp – xây dựng
giai đoạn 2008 - 2010.............................................................................40
Số dự án và vốn FDI cấp mới lĩnh vực dịch vụ giai đoạn 2001 – 2010
................................................................................................................41
Số dự án và vốn FDI cấp mới lĩnh vực dịch vụ giai đoạn 2008 – 2010........42
Số dự án và vốn đăng ký của 5 địa phương đứng đầu về thu hút FDI
trong năm 2005 và 2007, 2008 và 2010 xếp theo tiêu chí vốn................45
Giá trị xuất khẩu của khu vực FDI và tỷ trọng vốn FDI so với tổng
đầu tư xã hội giai đoạn 2006 - 2010........................................................47

Biểu đồ:
Biểu đồ 2.1: Số lượng dự án cấp mới và quy mô vốn trung bình của một dự án FDI

giai đoạn 2001 - 2010.............................................................................31
Biểu đồ 2.2: Số lượt dự án cấp mới và tốc độ tăng của dự án cấp mới giai đoạn
2001 – 2010............................................................................................31
Biểu đồ 2.3: Quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án và tốc độ tăng quy
mô vốn đăng ký bình quân giai đoạn 2001 – 2010.................................32
Biểu đồ 2.4: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 2001-2010
................................................................................................................33
Biểu đồ 2.5: Số vốn đăng ký mới và tốc độ tăng vốn đăng ký mới giai đoạn
2001-2010..............................................................................................34
Biểu đồ 2.6: Số vốn thực hiện và tốc độ tăng vốn thực hiện giai đoạn 2001-2010
................................................................................................................35


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Đối với mọi quốc gia, muốn phát triển kinh tế thì cần phải có vốn để tiến
hành các hoạt động tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Nguồn vốn này có thể được
huy động ở trong nước hoặc từ nước ngoài. Tuy nhiên, nguồn vốn trong nước
thường có hạn, do đó nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là vốn FDI ngày càng
giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn luôn là trọng tâm trong chính
sách phát triển của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam
do những tác động tích cực của FDI đến phát triển kinh tế như giải quyết nhu cầu vốn
cho đầu tư phát triển, thúc đẩy sản xuất và tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, chuyển
giao công nghệ và kỹ năng quản lý hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Hiện nay tỷ trọng dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển có xu hướng
tăng song lượng vốn FDI thu hút vào các nước này lại không đồng đều. Do vậy, làm
thế nào để thu hút được tối đa vốn FDI vẫn đang là bài toán đặt ra cho các nhà

hoạch định chính sách, nhất là trong bối cảnh hậu khủng hoảng như hiện nay.
Đảng ta đã xác định “Đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn
lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả
và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường
quốc phòng an ninh”. Công nghiệp hoá – hiện đại hoá nhằm phát triển lực lượng
sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật ngày càng hiện đại đòi hỏi phải có
nhiều vốn trong và ngoài nước. Do đó, cũng như mọi quốc gia khác, vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài đang ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển
kinh tế xã hội của Việt Nam
Nằm trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương phát triển năng động, với tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao và môi trường đầu tư đang không ngừng được cải thiện,


2

đặc biệt sau khi trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới,
Việt Nam đang ngày càng được các nhà đầu tư chú ý và được đánh giá sẽ trở thành
một địa điểm đầu tư hấp dẫn. Vì vậy, để thu hút được tối đa nguồn vốn FDI phục vụ
mục tiêu phát triển kinh tế trong nước, Việt Nam cần khắc phục những khó khăn
như điều kiện cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp,
hệ thống tài chính chưa phát triển, môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, công tác
quản lý vĩ mô còn nhiều bất cập… Đây là những thách thức lớn đối với Việt Nam
trong bối cảnh sức ép cạnh tranh trong thu hút các dòng vốn trên thế giới ngày càng
tăng. Chính vì vậy, em đã lựa chọn đề tài: “Tăng cường thu hút vốn FDI tại Việt
Nam hiện nay”.


2. Mục tiêu đề tài
Làm rõ vai trò và tác động của vốn FDI đến phát triển kinh tế. Phân tích thực
trạng thu hút vốn FDI tại Việt Nam hiện nay, đánh giá tác động của FDI đối với nền kinh
tế Việt Nam, từ đó đề ra những giải pháp nhằm thu hút vốn FDI một cách có hiệu quả.
Kết quả nghiên cứu này hy vọng sẽ góp phần tạo cơ sở cho việc đề ra các
chính sách thu hút tối đa vốn FDI phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích những vấn đề liên quan đến dòng vốn FDI vào
Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010, đồng thời chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân, từ
đó đưa ra giải pháp nhằm thu hút vốn FDI một cách hiệu quả giai đoạn 2011 - 2020.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Đề tài chủ yếu phân tích ở tầm vĩ mô những vấn đề liên
quan đến thu hút vốn FDI của Việt Nam hiện nay.
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng thu hút vốn FDI tại Việt Nam thời ky
2001 - 2010.

4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, trong các quá trình hoàn
thành luận văn, các phương pháp chủ yếu được sử dụng là:
- Phương pháp phân tích


3

- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh

- Phương pháp chuyên gia
Ngoài ra, luận văn cũng kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của
các công trình khoa học có liên quan tới một số nội dung của đề tài.

5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Thực trạng thu hút nguồn vốn FDI tại Việt Nam trong giai đoạn
2001 - 2010
Chương 3: Giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn FDI vào Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2020


4

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU HÚT
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. TỔNG QUAN VỀ FDI
1.1.1. Khái niệm
Đầu tư quốc tế là hiện tượng các dòng vốn di chuyển từ quốc gia này sang
quốc gia khác, thường là nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận (từ nơi có lợi nhuận
thấp sang nơi có lợi nhuận cao). Đầu tư quốc tế tồn tại dưới nhiều hình thức, trong
đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là một trong những nguồn vốn quan
trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, đặc biệt là đối với các quốc gia
đang phát triển.
Hiện nay có khá nhiều khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài do các tổ chức
quốc tế đưa ra. Cụ thể là:
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy

ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một
nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện
quản lý được dùng để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn
trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở
kinh doanh. Trong những trường hợp như vậy, nhà đầu tư thường hay được gọi là
"công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, FDI là một hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm
đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của
một nền kinh tế khác nền kinh tế chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành
quyền quản lý thực sự doanh nghiệp. Theo định nghĩa này, đầu tư trực tiếp nước
ngoài là sự di chuyển vốn mang tính dài hạn giữa các quốc gia. Đây là một đặc
điểm phân biệt giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), đầu tư trực tiếp là hoạt
động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một
doanh nghiệp, đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối
với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách: thành lập hoặc mở rộng một


5

doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư; mua lại
toàn bộ doanh nghiệp đã có; tham gia vào một doanh nghiệp mới; cấp tín dụng dài
hạn (>5 năm); quyền kiểm soát nắm từ 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu
quyết trở lên.
Khái niệm của OECD về cơ bản cũng giống như khái niệm của IMF về FDI,
đó là cũng thiết lập các mối quan hệ lâu dài và tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý
doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm này chỉ ra cụ thể hơn các cách thức để nhà đầu
tư tạo ảnh hưởng đối với hoạt động quản lý doanh nghiệp.
Hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), khái niệm
FDI được đưa ra trong báo cáo đầu tư thế giới năm 1996: “Đầu tư trực tiếp nước

ngoài là đầu tư có mối liên hệ, lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một pháp nhân
hoặc thể nhân (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) đối với một doanh
nghiệp ở một nền kinh tế khác (doanh nghiệp FDI hoặc chi nhánh nước ngoài hoặc
chi nhánh doanh nghiệp”. Qua định nghĩa của UNCTAD, có thể thấy được vấn đề
về lợi ích và sự kiểm soát của chủ đầu tư đối với dòng vốn bỏ ra. Trong hình thức
đầu tư trực tiếp nước ngoài, người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản
lý và điều hành (kiểm soát) hoạt động sử dụng vốn, do lợi ích của họ gắn liền với
hiệu quả đầu tư.
Theo định nghĩa của Chính phủ Mỹ, ngoài những nội dung tương tự khái
niệm FDI của IMF và OECD, FDI còn gắn với “quyền sở hữu hoặc kiểm soát 10%
hoặc hơn thế các chứng khoán kèm quyền biểu quyết của một doanh nghiệp, hoặc
lợi ích tương đương trong các đơn vị kinh doanh không có tư cách pháp nhân".
Tại Việt Nam, theo Điều 3 Luật đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005
mà Quốc hội khoá XI Việt Nam đã thông qua có các khái niệm về “đầu tư”, “đầu tư
trực tiếp”, “đầu tư nước ngoài”, “đầu tư ra nước ngoài nhưng không có khái niệm
“đầu tư trực tiếp nước ngoài”. Tuy nhiên, qua các khái niệm đó, có thể hiểu FDI là
hình thức đầu tư do nhà đầu nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt
động đầu tư ở Việt Nam hoặc nhà đầu tư Việt Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia quản
lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài theo quy định của luật này và các quy định khác
của pháp luật có liên quan”.
Qua phân tích các định nghĩa trên, có thể thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài là
một khoản đầu tư đòi hỏi một mối quan tâm lâu dài và phản ánh lợi ích dài hạn và
quyền kiểm soát của một chủ thể cư trú ở một nền kinh tế (được gọi là chủ đầu tư


6

trực tiếp nước ngoài hoặc doanh nghiệp mẹ) trong một doanh nghiệp cư trú ở một
nền kinh tế khác nền kinh tế của chủ đầu tư nước ngoài (được gọi là doanh nghiệp
FDI hay doanh nghiệp chi nhánh hoặc chi nhánh nước ngoài). FDI chỉ ra rằng chủ

đầu tư phải có một mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với việc quản lý doanh nghiệp cư
trú ở một nền kinh tế khác.

1.1.2. Phân loại
FDI được phân loại tùy theo từng tiêu chí. Trên thực tế, người ta thường căn
cứ vào mục đích, hình thức góp vốn và hình thức thâm nhập để phân loại FDI.
Căn cứ vào mục đích của FDI, UNCTAD chia FDI thành bốn hình thức chủ yếu.
- FDI tìm kiếm nguồn tài nguyên: Các cơ sở đầu tư nước ngoài là một bộ
phận cấu thành trong dây chuyền kinh doanh của công ty mẹ, có trách nhiệm khai
thác nguồn nguyên liệu tại chỗ, cung cấp cho công ty mẹ để tiếp tục hoàn chỉnh sản
phẩm. Hình thức này phù hợp với các dự án khai thác dầu khí, tài nguyên thiên
nhiên hoặc khai thác và sơ chế các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp ở nước chủ
nhà. Đây là hình thức đầu tư nguyên thuỷ của các công ty xuyên quốc gia vào các
nước đang phát triển. Hình thức này có tác dụng thúc đẩy thương mại thông qua
nhập khẩu tư liệu sản xuất từ nước đầu tư đến nước chủ nhà và xuất khẩu thành
phẩm/ bán thành phẩm từ nước chủ nhà ra nước ngoài.
- FDI tìm kiếm thị trường: Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm của công ty mẹ sang các nước khác. Do sản xuất sản phẩm cùng
loại nên chủ đầu tư không cần đầu tư thiết bị, công nghệ mới lại có thể tận dụng
được nguồn lao động rẻ của nước chủ nhà, tiết kiệm chi phí vận chuyển, qua đó
nâng cao tỷ suất lợi nhuận. Hình thức này còn được gọi là FDI theo chiều ngang.
FDI tìm kiếm thị trường là động lực chính thức đẩy hoạt động đầu tư vào lĩnh vực
sản xuất của các nước đang phát triển trong các thập kỷ 1960-1970. Đây là thời ky
thịnh vượng của công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu ở các nền kinh tế mới công
nghiệp hoá. Nguyên nhân của hình thức đầu tư này là do sự xuất hiện của các rào
cản thương mại và chi phí vận chuyển cao.
- FDI tìm kiếm hiệu quả : Hình thức này còn có tên gọi khác là FDI định
hướng chi phí, là hình thức đầu tư ở nước ngoài nhằm giảm chi phí sản xuất, tối ưu
hoá quá trình sản xuất thông qua việc tận dụng lao động và tài nguyên rẻ của nước
chủ nhà. Hình thức này thích hợp với những lĩnh vực đầu tư sử dụng nhiều lao



7

động, sử dụng thiết bị cũ, lạc hậu, mức độ ô nhiễm cao. Vì thế, hình thức này được
coi là FDI theo chiều dọc, chủ yếu áp dụng cho các ngành công nghiệp hướng vào
xuất khẩu.
- FDI tìm kiếm tài sản chiến lược: Đây là hình thức đầu tư xuất hiện ở giai
đoạn phát triển cao của toàn cầu hoá sản xuất, khi các công ty đầu tư ra nước ngoài
để tìm kiếm khả năng hợp tác nghiên cứu và triển khai (R&D).
Căn cứ vào hình thức góp vốn, FDI được chia thành các hình thức sau:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Contractual business Co-operation) là văn
bản được ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên (các bên tham gia) trong đó quy định
trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia để tiến hành đầu
tư kinh doanh ở nước chủ nhà. Đặc điểm của hình thức đầu tư này là không thành
lập một pháp nhân mới và vấn đề vốn kinh doanh không nhất thiết phải được đề cập
trong văn bản hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Doanh nghiệp liên doanh (Joint Venture Enterprise) là doanh nghiệp được
hình thành trên cơ sở liên kết của các doanh nghiệp trong và ngoài nước theo luật
pháp của nước chủ nhà; các bên tham gia liên doanh sẽ chịu trách nhiệm trong
phạm vi phần vốn góp của mình vào liên doanh. Hình thức góp vốn này cho ra đời
một pháp nhân mới và được thành lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn. Các
bên tham gia liên doanh phải có trách nhiệm góp vốn liên doanh, đồng thời phân
chia lợi nhuận và rủi ro theo tỷ lệ góp vốn.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (Enterprise with one hundred percent
foreign owned capital) là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước
ngoài tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn và chịu sự chi phối của luật pháp nước chủ nhà.
Trong ba hình thức trên, hợp đồng hợp tác kinh doanh rất đa dạng, không đòi

hỏi vốn lớn, các bên tham gia hợp đồng vẫn là những pháp nhân riêng, thời gian
hợp đồng thường ngắn. Các nhà đầu tư nước ngoài ít tiềm lực thường thích loại hình
đầu tư này. Trong khi đó, nước chủ nhà thường ưa chuộng loại hình doanh nghiệp
liên doanh vì có điều kiện học tập kinh nghiệm quản lý, đào tạo lao động... Tuy
nhiên, áp dụng loại hình đầu tư này đòi hỏi phía nhận đầu tư phải có khả năng góp


8

vốn, có đủ trình độ tham gia quản lý doanh nghiệp với người nước ngoài thì mới đạt
hiệu quả mong muốn. Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ban đầu
không được chủ đầu tư ưa thích, vì họ muốn chia sẻ rủi ro với nước chủ nhà, tuy
nhiên thái độ này đã thay đổi do họ nhận thức được lợi ích của việc tự quản lý và
hưởng lợi nhuận do kết quả đầu tư tạo ra.
Căn cứ vào hình thức thâm nhập, FDI được phân chia thành hai hình thức
chủ yếu là đầu tư mới (Greenfield Investment-GI), mua lại và sáp nhập (Crossborder Merger and Acquisition-M&A).
- Đầu tư mới: là hoạt động đầu tư trực tiếp vào các cơ sở sản xuất kinh doanh
hoàn toàn mới ở nước ngoài, hoặc mở rộng một cơ sở sản xuất kinh doanh đã tồn tại.
- Mua lại và sáp nhập qua biên giới: là một hình thức FDI liên quan đến việc
mua lại hoặc hợp nhất với một doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động

1.1.3. Vai trò của nguồn vốn FDI đối với nước đầu tư và
nước nhận đầu tư
Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất hiện chủ yếu là do những nguyên
nhân về lợi thế so sánh. Theo mô hình lý thuyết của Macdougall-Kemp, trên thế
giới bao giờ cũng tồn tại luồng FDI do mức năng suất cận biên của vốn (marginal
productivity of capital –- MPK) không giống nhau1. Dựa trên lý thuyết này, Kojima
đã nghiên cứu và đưa ra kết luận: FDI xuất hiện là do có sự khác nhau về tỷ suất lợi
nhuận giữa các nước và sự chênh lệch này bắt nguồn từ sự khác biệt về lợi thế so
sánh trong phân công lao động quốc tế. Ông chứng minh được rằng những nước có

tỷ suất lợi nhuận cao sẽ thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài 2.
Những lý thuyết trên cho thấy FDI mang lại lợi ích của cả bên đi đầu tư và
bên nhận đầu tư. Vì thế, có hiện tượng không chỉ các nước giàu đầu tư sang các
nước nghèo mà bản thân các nước giàu cũng đầu tư sang nhau với tỷ trọng khá lớn ,
chiếm tới 3/4 vốn đầu tư ra nước ngoài của các nước này. Các nước chậm phát triển
không chỉ tiếp nhận đầu tư của các nước phát triển mà cũng đầu tư sang các nước
1

“The benefits and costs of private investment from abroad: A theoretical Approach”, MacDougall G.D.A,
Economic Record, Vol.36,1960; page 13-35

“FDI – A Japanese Model of Multinational Business Operations”, Kojima Kiyoshi, Croom Helm,
London, UK, 1978
2


9

khác, mặc dù vẫn đang rất cần vốn để phát triển kinh tế-xã hội trong nước.

1.1.3.1. Đối với nước đầu tư
Mục tiêu chính của các nước khi đi đầu tư luôn là lợi ích kinh tế và lợi
nhuận. Bằng cách đầu tư ra nước ngoài, các nước đầu tư tận dụng được lợi thế về
chi phí sản xuất thấp của nước chủ nhà (do giá lao động rẻ, chi phí khai thác nguyên
vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận chuyển đối với
việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước chủ nhà, nhờ đó nâng cao hiệu quả
của vốn đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoàiFDI cho phép chủ đầu tư tăng cường sức mạnh
kinh tế, tăng cường ảnh hưởng trên thị trường quốc tế nhờ mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm, tránh được các hàng rào bảo hộ thương mại của nước chủ nhà, nhờ

đó mà giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường nước chủ nhà.
Tuy nhiên bên cạnh các tác động tích cực trên, đầu tư trực tiếp nước ngoàiFDI
cũng có một số tác động tiêu cực đối với nước đầu tư. Hiện tượng các công ty đầu tư
vốn ra bên ngoài nhiều khiến cho tình hình thất nghiệp trong nước gia tăng, tăng trưởng
kinh tế trong nước có thể bị ảnh hưởng. Hơn nữa, đầu tư trực tiếp ra nước ngoàiFDI có
nhiều rủi ro hơn đầu tư trong nước, nhất là các rủi ro về chính trị. Vì vậy, các doanh
nghiệp thường đầu tư phân tán ở nhiều nước để hạn chế rủi ro.

1.1.3.2. Đối với nước nhận đầu tư
Thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn luôn là trọng tâm trong
chính sách phát triển của các nước, nhất là các nước đang phát triển trong đó có Việt
Nam do những tác động tích cực của FDI đến phát triển kinh tế. Cụ thể là:
Thứ nhất, FDI giúp giải quyết nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển.
Ở thời ky đầu mới phát triển, trong khi nhu cầu vốn đầu tư để phát triển
nhằm rút ngắn khoảng cách với các nước công nghiệp phát triển là rất lớn thì khả
năng tích luỹ vốn trong nội bộ nền kinh tế lại rất hạn chế do trình độ kinh tế của các
nước đang phát triển còn thấp. Bên cạnh đó, tâm lý chung của người dân là vẫn
chưa yên tâm bỏ vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh do cơ chế huy động vốn chưa rõ
ràng, chưa phù hợp. Do đó, đầu tư nước ngoài, đặc biệt là vốn FDI với vai trò là
một nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài, giúp các nước kể trên giải được bài toán thiếu
vốn đầu tư và dần thoát khỏi vòng luẩn quẩn. FDI chiếm một tỷ trọng đáng kể trong


10

tổng vốn đầu tư toàn xã hội của các nước đang và kém phát triển.
Hai là, cùng với việc cung cấp vốn thông qua hoạt động đầu tư, các công
ty đầu tư đã chuyển giao công nghệ từ nước mình sang các nước nhận đầu tư.
Chính nhờ sự chuyển giao này, các nước nhận đầu tư có điều kiện tiếp nhận kỹ thuật
và công nghệ tiên tiến, hiện đại và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các công ty

nước ngoài, đội ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về nhiều mặt như trình độ kỹ
thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động
Ba là, FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế có lợi cho nền kinh tế
theo hướng mở, hội nhập kinh tế quốc tế do FDI kích thích các hoạt động đầu tư
trong nước phát triển, tăng tính năng động và khả năng cạnh tranh của sản xuất
trong nước, khai thác các tiềm năng cho phát triển kinh tế-xã hội. Cơ cấu ngành, cơ
cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm, lao động, cơ cấu lãnh thổ thay đổi theo chiều
hướng ngày càng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, phù hợp với xu thế chung của thời đại, của thế giới.
Bốn là, FDI giúp mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao năng lực
cạnh tranh sản phẩm trên thị trường thế giới. Thông qua các công ty liên
doanh với nước ngoài, cơ hội tiếp cận với thị trường bên ngoài cũng được mở
rộng hơn. Không những thế, sự xuất hiện của các dự án FDI đi kèm với công
nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại giúp nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các
mặt hàng xuất khẩu. Các dự án FDI tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn,
phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Năm là, FDI giúp tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người dân, góp
phần giải quyết nạn thất nghiệp, tăng thu nhập quốc dân, từ đó góp phần nâng
cao đời sống của người dân. Khu vực có vốn FDI tạo ra số lượng việc làm lớn cho
người lao động đặc biệt trong lĩnh vực chế tạo. Bên cạnh đó, FDI còn góp phần vào việc
đào tạo và nâng cao trình độ cho người lao động. Năng suất lao động trong các doanh
nghiệp có vốn FDI thường cao hơn trong các doanh nghiệp trong nước. Đặc biệt, FDI
làm thay đổi tác phong, thói quen làm việc của lao động ở các nước nông nghiệp.

1.2. THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.2.1. Một số lý thuyết kinh tế về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Học thuyết vĩ mô đứng trên góc độ quốc gia để xem xét lý thuyết FDI, các


11


học thuyết vi mô sẽ đứng trên góc độ các doanh nghiệp hoặc các ngành kinh doanh.
Các lý thuyết về đầu tư quốc tế tìm cách lý giải xem khi nào nên tiến hành
FDI. Để giúp việc tìm hiểu lý thuyết về FDI có thể dựa vào các câu trả lời cho các
câu hỏi truyền thống : 5W và 1H
Who – Ai là nhà đầu tư? Một doanh nghiệp mới hay một MNE đã được
thành lập? insider or outsider?
What – Loại hình đầu tư gì? mua lại và sáp nhập? đầu tư lần đầu hay đầu tư
bổ sung?
Why – Tại sao đầu tư ra nước ngoài? Doanh nghiệp muốn thu được nhiều lợi
nhuận hơn bằng cách tăng doanh thu hoặc giảm chi phí.
Where – Tiến hành đầu tư ở đâu? Lựa chọn địa điểm đầu tư – lựa chọn này bị
ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế - xã hội, văn hóa và chính trị.
When – Khi nào doanh nghiệp chọn cách đầu tư ra nước ngoài? Thời điểm
quyết định xâm nhập thị trường nước ngoài bị ảnh hưởng bởi tuổi của sản phẩm,
tính đa quốc gia của doanh nghiệp.
How – Doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài như thế nào? Cách nào được lựa
chọn để xâm nhập vào thị trường nước ngoài? Lựa chọn bao gồm xuất khẩu, cấp
license, franchising, FDI.

1.2.1.1. Học thuyết vĩ mô
Lý thuyết về lợi ích của đầu tư nước ngoài của Mac Dougall
Lý thuyết này được xây dựng dựa trên những giả thiết sau:
- Có 2 quốc gia: 1 nước phát triển và 1 nước đang phát triển
- Chỉ có hoạt động đầu tư của hai quốc gia trên, không có sự tham gia của
nước thứ 3
- Sản lượng cận biên của hoạt động đầu tư giảm dần khi vốn đầu tư tăng.


12

A

B

M

Quốc gia 1
Quốc gia 2

m

n
E

F

H1

H2

N

VMPK1
O1

O2
P

Q


Mô hình về lợi ích của FDI
Một nước phát triển có sản lượng cận biên thấp (thừa vốn) sẽ đầu tư sang
một nước đang phát triển có sản lượng cận biên cao (thiếu vốn).

Nước phát triển

Nước đang phát triển

Trước FDI
GDP = MO1QN

GDP = mO2Qn

Sau FDI
Vốn giảm, năng suất cận biên tăng

Vốn tăng, năng suất cận biên giảm

∆GDP =ENn do năng suất cận biên cao hơn, giảm tình trạng thâm dụng đất
GNP= MO1PE+PQEF

GNP=mO2PE-PQEF

∆GNP=EFN

∆GNP=EFn

Như vậy, FDI mang lại lợi ích cho cả 2 quốc gia do sử dụng vốn có hiệu quả hơn
khi nó được huy động từ nước này sang nước khác.


Ưu điểm của mô hình này là đơn giản và rõ ràng, chỉ ra được một trong
những lợi ích của FDI. Tuy nhiên do quá đơn giản nên không đề cập đến các nhân


13

tố khác ngoài vốn như sự bành trướng, sự can thiệp của các chính phủ …, chưa đề
cập đến hết nguồn gốc của FDI. FDI mới chỉ có một chiều từ nước phát triển sang
nước đang phát triển. Do vậy mô hình này chưa giải thích được tính lưỡng cực của
FDI. Học thuyết của Mac Dougall mới chỉ trả lời được câu hỏi Why: để tăng năng
suất cận biên của vốn

1.2.1.2. Các học thuyết vi mô
(1) Học thuyết về lợi thế độc quyền (Stephen Hymer - Mỹ)
Khi đầu tư ra nước ngoài, chủ đầu tư có một số bất lợi như: khoảng cách địa
lý làm tăng chi phí vận chuyển các nguồn lực (chuyển giao công nghệ), thiếu hiểu
biết về môi trường xa lạ làm tăng chi phí thông tin, thiết lập mối quan hệ khách
hàng mới và hệ thống cung cấp mới cũng mất nhiều chi phí so với các công ty bản
địa. Tuy vậy họ vẫn nên tiến hành FDI khi họ có những lợi thế độc quyền, họ sẽ
giảm được chi phí kinh doanh và tăng doanh thu so với các công ty bản địa. Các lợi
thế độc quyền đó có thể là công nghệ hay nhãn hiệu.
(2) Học thuyết nội bộ hóa (Internalization)
Theo học thuyết này, FDI tăng khi giao dịch bên trong công ty (Internal
Transaction - IT) tốt hơn giao dịch bên ngoài công ty (Market Transaction - MT), IT
tốt hơn MT khi thị trường không hoàn hảo: không hoàn hảo tự nhiên (khoảng cách
giữa các quốc gia làm tăng chi phí vận tải), không hoàn hảo mang tính cơ cấu (rào
cản thương mại như các tiêu chuẩn về sản phẩm, về môi trường; các yêu cầu liên
quan đến quyền sở hữu trí tuệ (là một sản phẩm vô hình mang tính thông tin nên dễ
bị chia sẻ, khó bảo hộ và dễ bị đánh cắp…), công nghệ (cái không tồn tại như một
thực thể, không có giá, không chứng minh được, quý khi nó mới..). Khi thị trường

không hoàn hảo như vậy, người ta phải tạo ra thị trường bằng cách tạo ra Internal
Market, sử dụng tài sản trong nội bộ công ty mẹ – con, con – con. Ví dụ, nếu có vấn
đề liên quan đến việc mua các sản phẩm dầu lửa trên thị trường thì một doanh
nghiệp có thể quyết định mua một nhà máy lọc dầu. Lợi ích của việc nội bộ hoá là
tránh được độ trễ về thời gian, việc mặc cả khi mua bán và tình trạng thiếu thốn
người mua. Tuy nhiên lý thuyết này không giải thích lợi ích của nội bộ hoá là gì (là
lợi thế độc quyền), nó rất chung chung, không đưa ra được các bằng chứng cụ thể
và rất khó kiểm chứng.
(3) Lý thuyết về quyền lực thị trường


14

Lý thuyết về quyền lực thị trường cho rằng, đầu tư quốc tế được thực hiện do
những hành vi đặc biệt của các công ty độc quyền nhóm trên phạm vi quốc tế, trong
đó bao gồm: phản ứng của các công ty độc quyền nhóm, hiệu quả kinh tế nhờ quy
mô và sự liên kết đầu tư quốc tế theo chiều dọc. Tất cả các hành vi đó đều nhằm hạn
chế cạnh tranh, mở rộng thị trường và ngăn cản không cho đối thủ khác thâm nhập
vào ngành và thị trường của các công ty độc quyền nhóm.
Đầu tư theo chiều dọc (hay còn gọi là liên kết theo chiều dọc giữa các nhà
sản xuất) tồn tại khi các công ty đầu tư ra nước ngoài để sản xuất các sản phẩm
trung gian. Sau đó những sản phẩm này được xuất khẩu ngược trở lại và được sử
dụng làm đầu vào sản xuất của nước chủ nhà. Đầu tư quốc tế theo chiều dọc là hình
thức được thực hiện phổ biến trong các ngành công nghiệp chế tạo và những ngành
sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên.
Theo lý thuyết này, các công ty thực hiện đầu tư quốc tế với một số lý do như
sau:
Thứ nhất, do nguồn cung cấp nguyên liệu ngày càng trở nên khan hiếm,
trong khi đó các công ty của nước sở tại không đủ khả năng thăm dò và khai thác
nguyên liệu mới. Vì vậy, các công ty đa quốc gia tận dụng lợi thế cạnh tranh trên cơ

sở khai thác nguyên liệu của nước sở tại. Điều đó góp phần lý giải tại sao đầu tư
quốc tế theo chiều dọc thường được thực hiện ở các nước đang phát triển.
Thứ hai, thông qua đầu tư quốc tế theo chiều dọc, các công ty độc quyền
nhóm có thể thiết lập nên các hàng rào ngăn cản không cho các công ty khác tiếp
cận tới nguồn nguyên liệu họ đang khai thác.
Thứ ba, đầu tư quốc tế theo chiều dọc còn có thể tạo ra lợi thế về chi phí
thông qua việc cải tiến kỹ thuật bằng cách phối hợp sản xuất và chuyển giao sản
phẩm giữa các công đoạn khác nhau của quá trình sản xuất. Đây là lợi thế lớn hơn
hẳn lợi thế có được từ việc phối hợp giữa các nhà sản xuất độc lập thông qua việc
định giá.
(4) Lý thuyết về chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm
Lý thuyết này được S. Hirsch đưa ra trước tiên và sau đó được R. Vernon
phát triển một cách có hệ thống từ năm 1966. Lý thuyết về chu ky sống quốc tế của
sản phẩm lý giải cả đầu tư quốc tế lẫn thương mại quốc tế, coi đầu tư quốc tế là một
giai đoạn tự nhiên trong vòng đời sản phẩm. Lý thuyết này cho thấy vai trò của các


15

phát minh, sáng chế trong thương mại và đầu tư quốc tế bằng cách phân tích quá
trình quốc tế hoá sản xuất theo các giai đoạn nối tiếp nhau. Ưu điểm của lý thuyết
này là đưa vào được nhiều yếu tố cho phép lý giải sự thay đổi theo ngành hoặc việc
dịch chuyển dần các hoạt động công nghiệp của các nước tiên phong về công nghệ,
trước tiên là đến các nước "bắt chước sớm", sau là đến các nước "bắt chước muộn".
Lý thuyết này được xây dựng dựa trên cơ sở lý thuyết về chu ky sống của sản
phẩm. Theo quan điểm của lý thuyết về chu ky sống quốc tế của sản phẩm, người ta
có thể giải thích tại sao các nhà sản xuất lại chuyển hướng hoạt động kinh doanh
của họ từ chỗ sản xuất và xuất khẩu sản phẩm sang thực hiện đầu tư ra nước ngoài.
Lý thuyết giả định rằng, đầu tiên các nhà sản xuất đạt được lợi thế độc quyền xuất
khẩu nhờ việc cho ra đời những sản phẩm mới, hoặc cải tiến những sản phẩm đang

được sản xuất dành riêng cho thị trường nước ngoài. Trong giai đoạn đầu của vòng
đời sản phẩm mới, giai đoạn thử nghiệm sản xuất được tiến hành tập trung tại chính
quốc ngay cả khi chi phí sản xuất ở nước ngoài có thể thấp hơn. Ở giai đoạn này, để
thâm nhập thị trường nước ngoài, các công ty có thể thực hiện xuất khẩu sản phẩm.
Tuy nhiên, khi sản phẩm đã trở nên chuẩn hóa trong giai đoạn phát triển, các nhà
sản xuất sẽ khuyến khích việc tựhc hiện đầu tư ra nước ngoài nhằm tận dụng lợi thế
chi phí sản xuất thấp (với giá các yếu tố đầu vào rẻ, chính sách ưu đãi của chính phủ
nước sở tại) và quan trọng hơn là nhằm ngăn chặn khả năng để mất thị trường vào
tay các nhà sản xuất địa phương.
(5) Lý thuyết chiết trung
Lý thuyết này phát biểu rằng, các công ty sẽ thực hiện đầu tư nước ngoài khi
hội đủ ba lợi thế. Đó là lợi thế về địa điểm, lợi thế về sở hữu và lợi thế về nội hóa.
Lợi thế về địa điểm là lợi thế có được do việc tiến hành hoạt động kinh
doanh tại một điểm nhất định với những đặc thù riêng (do điều kiện thiên nhiên
hoặc được tạo ra). Lợi thế về địa điểm có thể gắn liền với sự giàu có của nguồn
tài nguyên thiên nhiên, sự sẵn có của lực lượng lao động với giá rẻ, lao động
lành nghề,…
Lợi thế về sở hữu là lợi thế có được khi một công ty có cơ hội tham gia sở
hữu một số tài sản đặc biệt nhất định, chẳng hạn như nhãn hiệu sản phẩm, bản
quyền công nghệ hoặc cơ hội quản lý.
Lợi thế nội hóa là lợi thế đạt được do việc nội hóa hoạt động sản xuất thay vì
chuyển nó đến một thị trường kém hiệu quả hơn.


16

1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nếu không xét đến khả năng và nhu cầu về vốn đầu tư của cả nước chủ đầu
tư lẫn nước nhận đầu tư, và với giả định bối cảnh chung của thế giới ở điều kiện
bình thường cả về tự nhiên và nhân tạo, thì có thể nhận thấy dòng FDI chỉ thực sự

mở rộng và ưa tìm đến những nơi có môi trường đầu tư đảm bảo cho dòng vốn sinh
sôi nảy nở. Thực tiễn cho thấy tiêu chuẩn của môi trường đầu tư hấp dẫn, có sức
cạnh tranh để thu hút FDI trước hết bao gồm ba nhân tố chủ yếu sau:

1.2.2.1. Khung chính sách về FDI của nước nhận đầu tư
Khung chính sách về FDI của nước nhận đầu tư bao gồm các qui định liên
quan trực tiếp đến FDI và các qui định có ảnh hưởng gián tiếp đến FDI. Hệ thống
chính sách này có mềm dẻo và hấp dẫn thì mới khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Các qui định của luật pháp và chính sách liên quan trực tiếp FDI bao gồm
các qui định về việc thành lập và hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài (cho
phép, hạn chế, cấm đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực; cho phép tự do hay hạn chế
quyền sở hữu của các chủ đầu tư nước ngoài đối với các dự án; cho phép tự do hoạt
động hay áp đặt một số điều kiện hoạt động; có hay không các ưu đãi nhằm khuyến
khích FDI ...), các tiêu chuẩn đối xử đối với FDI (phân biệt hay không phân biệt đối
xử giữa các nhà đầu tư có quốc tịch khác nhau, ...) và cơ chế hoạt động của thị
trường trong đó có sự tham gia của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
(cạnh tranh có bình đẳng hay không; có hiện tượng độc quyền không; thông tin trên
thị trường có rõ ràng, minh bạch không; ...).
Các qui định này ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng và kết quả của hoạt
động FDI. Các qui định thông thoáng, có nhiều ưu đãi, không có hoặc ít có các rào
cản, hạn chế hoạt động FDI sẽ góp phần tăng cường thu hút FDI vào và tạo thuận
lợi cho các dự án FDI trong quá trình hoạt động. Ngược lại, hành lang pháp lý và cơ
chế chính sách có nhiều qui định mang tính chất hạn chế và ràng buộc đối với FDI
sẽ khiến cho FDI không vào được hoặc các chủ đầu tư không muốn đầu tư. Các qui
định của luật pháp và chính sách sẽ được điều chỉnh tùy theo định hướng, mục tiêu
phát triển của từng quốc gia trong từng thời ky, thậm chí có tính đến cả các qui
hoạch về ngành và vùng lãnh thổ.
Bên cạnh đó, một số các qui định, chính sách trong một số ngành, lĩnh vực
khác cũng có ảnh hưởng đến quyết định của chủ đầu tư như:



17

- Chính sách thương mại có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định lựa chọn địa
điểm đầu tư vì FDI gắn với sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Chính sách
thương mại cần thông thoáng theo hướng tự do hóa để bảo đảm khả năng xuất nhập khẩu các máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất, cũng như sản phẩm, tức bảo
đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn hoạt động đầu tư của các nhà đầu
tư nước ngoài.
- Chính sách tư nhân hóa liên quan đến việc cổ phần hóa, bán lại các công ty.
Những nước cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào quá trình tư nhân
hóa sẽ tạo cho các nhà đầu tư nước ngoài nhiều cơ hội, nhiều sự lựa chọn hơn trước
khi quyết định đầu tư.
- Chính sách tiền tệ và chính sách thuế có ảnh hưởng quan trọng đến sự ổn
định của nền kinh tế. Hệ thống thuế thi hành sẽ càng hiệu quả nếu càng rõ ràng, đơn
giản, dễ áp dụng và mức thuế không được quá cao (so với lãi suất, lợi nhuận bình
quân, so với mức thuế chung của khu vực và quốc tế...). Thuế thu nhập doanh
nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của các dự án FDI. Thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao, thuế tiêu thụ đặc biệt, ... ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành
sản phẩm. Nhìn chung các chủ đầu tư đều tìm cách đầu tư ở những nước có các loại
thuế thấp. Các thủ tục thuế, cũng như các thủ tục quản lý đầu tư nước ngoài khác,
phải được tinh giản hợp lý, tránh vòng vèo nhiều khâu trung gian, phải công khai và
thuận lợi cho đối tượng chịu quản lý và nộp thuế. Tự do hóa đầu tư càng cao càng
thu hút được nhiều vốn nước ngoài.
- Chính sách lãi suất và tỷ giá tác động trực tiếp đến dòng chảy của FDI với
tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một
thị trường xác định. Việc xem xét sự vận động của vốn nước ngoài ở các nước trên
thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI đổ vào một nước thường tỷ
lệ thuận với sự gia tăng lòng tin của các chủ đầu tư, đồng thời lại tỷ lệ nghịch với độ
chênh lệch lãi suất trong - ngoài nước, trong - ngoài khu vực. Nếu độ chênh lệch lãi
suất đó càng cao, tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít

chịu rủi ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi đó. Hơn nữa, khi mức lãi
suất trong nước cao hơn mức lãi suất quốc tế, thì sức hút với dòng vốn chảy vào
càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với lãi suất cao là chi phí trong đầu tư cao, làm
giảm đi lợi nhuận của các nhà đầu tư. Một tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với
tình hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu


18

càng lớn, sức hấp dẫn với vốn nước ngoài càng lớn. Một nước có mức tăng trưởng
xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư vì khả năng trả nợ của nước đó được
bảo đảm hơn, độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống.
Ngoài ra còn một số chính sách khác như chính sách liên quan đến cơ cấu
các ngành kinh tế và các vùng lãnh thổ (khuyến khích phát triển ngành nào, vùng
nào; ngành nào đã bão hòa rồi; ngành nào, vùng nào không cần khuyến khích, ...);
chính sách lao động: có hạn chế hay không hạn chế sử dụng lao động nước ngoài;
ưu tiên hay không ưu tiên cho lao động trong nước,.... ; chính sách giáo dục, đào
tạo, chính sách y tế, ... ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động cung cấp cho các
dự án FDI.
Nhìn chung các chủ đầu tư nước ngoài thích đầu tư vào những nước có hành
lang pháp lý, cơ chế, chính sách đầy đủ, đồng bộ, thông thoáng, minh bạch và có thể
dự đoán được. Điều này đảm bảo cho sự an toàn của vốn đầu tư.

1.2.2.2. Các yếu tố của môi trường kinh tế
Các yếu tố kinh tế của nước nhận đầu tư là những yếu tố có ảnh hưởng
quyết định trong thu hút FDI. Tùy động cơ của chủ đầu tư nước ngoài mà có thể có
các yếu tố sau của môi trường kinh tế ảnh hưởng đến dòng vốn FDI:
- Các chủ đầu tư có động cơ tìm kiếm thị trường sẽ quan tâm đến các yếu tố
như dung lượng thị trường và thu nhập bình quân đầu người; tốc độ tăng trưởng của
thị trường; khả năng tiếp cận thị trường khu vực và thế giới; các sở thích đặc biệt

của người tiêu dùng ở nước nhận đầu tư và cơ cấu thị trường.
Đối với các chủ đầu tư muốn mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thì dung
lượng thị trường của nước nhận đầu tư là một yếu tố rất quan trọng khi chủ đầu tư
cân nhắc để lựa chọn địa điểm đầu tư. Một nước với dân số đông, GDP bình quân
đầu người cao, GDP tăng trưởng với tốc độ cao, sức mua lớn sẽ có sức hấp dẫn đối
với FDI vì đem lại cho chủ đầu tư cơ hội tăng thị phần và lợi nhuận
Thị trường trong nước nhận đầu tư cũng rất quan trọng đối với các chủ đầu tư
là các hãng cung ứng dịch vụ. Lý do chính trong trường hợp này không phải vì hàng
rào thuế quan hay phi thuế quan mà do tính đặc thù của sản phẩm dịch vụ là không
thể vận chuyển sản phẩm từ nước này sang nước khác, từ nơi này sang nơi khác.
Chính vì vậy để đáp ứng nhu cầu dịch vụ ở nước ngoài các công ty dịch vụ phải
thiết lập các cơ sở cung ứng ở chính nước đó.


19

Bên cạnh thị trường trong nước, các chủ đầu tư nước ngoài ngày càng quan
tâm nhiều hơn đến khả năng tiếp cận thị trường khu vực và thế giới của hàng hóa
sản xuất ra tại nước nhận đầu tư. Trong xu thế tăng cường liên kết kinh tế quốc tế và
khu vực ngày nay, những nước tham gia vào nhiều các liên kết quốc tế sẽ có lợi thế
trong thương mại quốc tế vì hàng hóa từ nước này xuất khẩu sang các nước thành
viên khác trong liên kết sẽ được hưởng chế độ thương mại ưu đãi hơn hàng hóa từ
các nước không phải thành viên chảy vào. Chính vì vậy chủ đầu tư nước ngoài chỉ
cần đầu tư vào một nước có tham gia vào nhiều các liên kết kinh tế khu vực và thế
giới sẽ có cơ hội tiếp cận một thị trường rộng lớn hơn rất nhiều thị trường nước
nhận đầu tư. Đây là một lợi thế mà các chủ đầu tư nước ngoài không thể bỏ qua khi
cân nhắc lựa chọn địa điểm đầu tư.
- Các chủ đầu tư tìm kiếm nguồn nguyên liệu và tài sản sẽ quan tâm đến tài
nguyên thiên nhiên; lao động chưa qua đào tạo với giá rẻ; lao động có tay nghề;
công nghệ, phát minh, sáng chế và các tài sản do doanh nghiệp sáng tạo ra (thương

hiệu, ...); cơ sở hạ tầng phần cứng (cảng, đường bộ, hệ thống cung cấp năng lượng,
mạng lưới viễn thông). Sự phát triển của cơ sở hạ tầng kinh tế của một quốc gia và
một địa phương luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh
chóng thông qua các quyết định và triển khai trên thực tế các dự án đầu tư đã cam
kết. Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm một hệ thống giao thông vận tải
đồng bộ và hiện đại với các cầu, cảng, đường sá, kho bãi và các phương tiện vận tải
đủ sức bao phủ quốc gia và đủ tầm hoạt động quốc tế; một hệ thống bưu điện thông
tin liên lạc viễn thông với các phương tiện nghe - nhìn hiện đại, có thể nối mạng
thống nhất toàn quốc và liên thông với toàn cầu; hệ thống điện nước dồi dào và
phân bổ tiện lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống và một
hệ thống mạng lưới cung cấp các loại dịch vụ khác (y tế, giáo dục, giải trí, các dịch
vụ hải quan, tài chính, thương mại, quảng cáo, kỹ thuật, v.v...) phát triển rộng khắp,
đa dạng và có chất lượng cao. Như vậy, việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng
không chỉ là điều kiện cần để tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư của mình, mà
đó còn là cơ hội để nước và địa phương tiếp nhận đầu tư có thể và có khả năng thu
lợi đầy đủ hơn từ dòng vốn nước ngoài đã thu hút được (thông qua tăng thu nhập từ
dịch vụ vận tải, thương mại, tài chính, tư vấn thông tin phục vụ các dự án đầu tư
đang và sẽ triển khai).
- Các chủ đầu tư tìm kiếm hiệu quả sẽ chú trọng đến chi phí mua sắm các
nguồn tài nguyên và tài sản được đề cập ở phần trên, có cân đối với năng suất lao


20

động; các chi phí đầu vào khác như chi phí vận chuyển và thông tin liên lạc đi/ đến
hoặc trong nước nhận đầu tư; chi phí mua bán thành phẩm; tham gia các hiệp định
hội nhập khu vực tạo thuận lợi cho việc thành lập mạng lưới các doanh nghiệp toàn
khu vực.
Khi các chủ đầu tư chú trọng đến việc giảm chi phí thì một trong những chi
phí được các chủ đầu tư chú ý nhiều đó là chi phí lao động. Điều này đặc biệt đúng

trong những ngành, những lĩnh vực sử dụng nhiều lao động. Các chủ đầu tư sẽ tìm
đến những thị trường có nguồn lao động rẻ, phù hợp. Tất nhiên chủ đầu tư cũng
phải tính toán cân đối giữa tiền lương, chi phí đào tạo, các chi phí khác liên quan
đến việc sử dụng lao động với năng suất lao động để quyết định đầu tư ở địa điểm
nào có hiệu quả sử dụng lao động cao nhất. Các ngành có tỷ trọng chi phí nguyên
vật liệu cao trong giá thành sản phẩm lại chú ý nhiều đến việc giảm các chi phí liên
quan đến việc mua các nguyên vật liệu,....
Bên cạnh các yếu tố kinh tế của nước nhận đầu tư, bối cảnh kinh tế thế giới
cũng là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến luồng FDI. Trong bối
cảnh kinh tế thế giới suy thoai, luồng vốn đầu tư sẽ giảm sút nghiêm trọng do các
nước đầu tư gặp nhiều khó khăn về kinh tế.

1.2.2.3. Các yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh
Các yếu tố này bao gồm chính sách xúc tiến đầu tư; các biện pháp ưu đãi,
khuyến khích đầu tư; giảm các tiêu cực phí bằng cách giải quyết nạn tham nhũng,
cải cách thủ tục hành chính để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý
Nhà nước; nâng cao chất lượng các dịch vụ tiện ích xã hội để đảm bảo chất lượng
cuộc sống cho các chủ đầu tư nước ngoài (các trường song ngữ, chất lượng cuộc
sống, ...); các dịch vụ hậu đầu tư. Từ lâu các nước nhận đầu tư đã ý thức được tầm
quan trọng của các yếu tố này, vì vậy các nước thường tìm cách cải tiến các yếu tố
này nhằm tạo thuận lợi nhiều hơn cho các chủ đầu tư.
Các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư (ưu đãi về thuế, ưu đãi tài chính,
các ưu đãi khác) cũng là một công cụ mà nhiều nước sử dụng để tăng cường thu hút
FDI. Các ưu đãi này giúp các chủ đầu tư tăng tỷ suất lợi nhuận, giảm chi phí hoặc hạn
chế được rủi ro. Thông thường, các chính sách này được áp dụng riêng cho một hoặc
một số doanh nghiệp hoạt động trong một ngành, một lĩnh vực hay một địa bàn nào
đó nhằm khuyến khích doanh nghiệp hoạt động theo ý muốn của Chính phủ (muốn
điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ, muốn khuyến khích chuyển giao công



21

nghệ cao, ...). Như vậy các ưu đãi đầu tư có thể giúp các nước tăng cường thu hút FDI
có trọng điểm. Trong số các ưu đãi tài chính giành cho đầu tư nước ngoài, những ưu
đãi về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Mức ưu đãi thuế cao hơn luôn được
giành cho các dự án đầu tư có tỷ lệ vốn nước ngoài cao, qui mô lớn, dài hạn, hướng
về thị trường nước ngoài, sử dụng nhiều nguyên vật liệu và lao động trong nước, tái
đầu tư lợi nhuận và có mức độ "nội địa hóa" sản phẩm và công nghệ cao hơn.
Xúc tiến đầu tư bao gồm hoạt động xây dựng và giới thiệu hình ảnh đất nước,
đặc biệt giới thiệu môi trường đầu tư, cơ hội đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài;
các hoạt động hỗ trợ cho đầu tư và các dịch vụ tạo thuận lợi cho đầu tư. Xúc tiến
đầu tư đặc biệt quan trọng đối với các nước mới mở cửa thu hút FDI hoặc vừa thay
đổi các chính sách liên quan đến FDI chuyển từ hạn chế sang mở cửa và khuyến
khích FDI. Hoạt động xúc tiến đầu tư lúc này sẽ giúp các chủ đầu tư biết đến những
chính sách thuận lợi dành cho FDI mới được ban hành ở nước nhận đầu tư. Các
hoạt động hỗ trợ cho đầu tư và các dịch vụ tạo thuận lợi cho đầu tư cũng có ảnh
hưởng nhiều đến chất lượng xúc tiến đầu tư và từ đó ảnh hưởng đến dòng vốn FDI
chảy vào một nước. Các hoạt động hỗ trợ này có thể là hỗ trợ trong việc nghiên cứu
thị trường, tìm kiếm đối tác, cơ hội đầu tư; hỗ trợ trong việc lập hồ sơ dự án và xin
phép đầu tư; hỗ trợ trong quá trình triển khai dự án; hỗ trợ trong suốt quá trình hoạt
động của dự án và hỗ trợ khi dự án làm thủ tục để chuẩn bị chấm dứt hoạt động. Với
chính sách xúc tiến đầu tư tốt, dòng vốn FDI chảy vào một nước có thể tăng lên rất
nhiều.

1.3. KINH NGHIỆM THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.3.1. Singapore
Singapore là một trong những nền kinh tế thành công trong việc thu hút FDI
nhờ chiến lược tập trung vào công nghiệp hoá hướng ra xuất khẩu. Chiến lược này
được xây dựng từ những năm 1960 dựa trên thực tế là thị trường nội địa nhỏ hẹp,

nguồn vốn trong nước hạn chế, các doanh nghiệp trong nước vẫn còn yếu. Chiến
lược này đã được thực hiện hiệu quả và đến năm 1981, ngành chế tác của
Singapore đã thu hút được đến hơn 1/2 tổng số vốn FDI vào trong nước. Đến năm
1993, các khoản đầu tư nước ngoài đã tăng mạnh và ngành chế tác đã thu hút đến
60% tổng vốn đầu tư nước ngoài, đưa Singapore trở thành một trong những nước
thu hút nhiều vốn FDI vào ngành chế tác. Thành công này không chỉ do những


×