Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

VAI TRÒ CỦA VỐN XÃ HỘI TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRẺ TỈNH ĐẮK LẮK (Nghiên cứu trường hợp tại phường Tự An và phường Thắng Lợi)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.57 MB, 141 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THỊ HIỀN

VAI TRÒ CỦA VỐN XÃ HỘI TRONG PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC TRẺ TỈNH ĐẮK LẮK
(Nghiên cứu trường hợp tại phường Tự An
và phường Thắng Lợi)

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

Hà Nội, 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THỊ HIỀN

VAI TRÒ CỦA VỐN XÃ HỘI TRONG PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC TRẺ TỈNH ĐẮK LẮK
(Nghiên cứu trường hợp tại phường Tự An
và phường Thắng Lợi)

Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Kim Hoa



Hà Nội, 2015


MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG........................................................................................5
9.Những điểm hạn chế của luận văn................................................................................25

PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH.....................................................................27
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI............27
1.2.Khái niệm công cụ..................................................................................................28
1.5.Đặc điểm khách thể nghiên cứu.............................................................................41
CHƯƠNG 2: TẠO DỰNG, DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG VỐN XÃ HỘI CỦA NGUỒN
NHÂN LỰC TRẺ.............................................................................................................56
2.2. Tạo dựng, duy trì và mở rộng vốn xã hội của nguồn nhân lực trẻ........................56
2.2.1. Tạo dựng vốn xã hội của nguồn nhân lực trẻ.....................................................56
2.2.2. Duy trì, củng cố vốn xã hội của nguồn nhân lực trẻ..........................................63
2.2.3. Phát triển vốn xã hội của nguồn nhân lực trẻ.....................................................73
CHƯƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA VỐN XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
NGUỒN NHÂN LỰC TRẺ.............................................................................................75
3.1. Vốn xã hội trong quá trình tìm kiếm việc làm, cơ hội thăng tiến, nâng cao năng
lực làm việc..................................................................................................................75
3.1.1. Vốn xã hội trong quá trình tìm kiếm việc làm...................................................75
3.1.2. Vốn xã hội đối với cơ hội thăng tiến nghề nghiệp.............................................80
3.1.3. Vốn xã hội trong việc bồi dưỡng, đào tạo nâng cao năng lực, trình độ.............81
3.2. Vốn xã hội trong môi trường làm việc..................................................................87
3.2.1. Vốn xã hội trong công việc................................................................................87
3.2.2. Mối quan hệ của nguồn nhân lực trẻ với đồng nghiệp cơ quan.........................91
3.3. Những rào cản của vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ......................97
3.3.1. Gây khó khăn, trở ngại trong công việc.............................................................97

3.3.2. Hạn chế sự sáng tạo..........................................................................................100
3.3.3. Hiện tượng chảy máu chất xám.......................................................................102

PHẦN 3: KẾT LUẬN..................................................................................104
1.Kết luận.......................................................................................................................104
2.Khuyến nghị................................................................................................................105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................107
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU....................................................................................122

3


4


DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BẢNG 5
9.Những điểm hạn chế của luận văn 25

PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH 27
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 27
1.2.Khái niệm công cụ 28
1.5.Đặc điểm khách thể nghiên cứu 41
CHƯƠNG 2: TẠO DỰNG, DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG VỐN XÃ HỘI CỦA NGUỒN
NHÂN LỰC TRẺ 56
2.2. Tạo dựng, duy trì và mở rộng vốn xã hội của nguồn nhân lực trẻ 56
2.2.1. Tạo dựng vốn xã hội của nguồn nhân lực trẻ 56
2.2.2. Duy trì, củng cố vốn xã hội của nguồn nhân lực trẻ 63
2.2.3. Phát triển vốn xã hội của nguồn nhân lực trẻ 73

CHƯƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA VỐN XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
NGUỒN NHÂN LỰC TRẺ 75
3.1. Vốn xã hội trong quá trình tìm kiếm việc làm, cơ hội thăng tiến, nâng cao năng
lực làm việc 75
3.1.1. Vốn xã hội trong quá trình tìm kiếm việc làm 75
3.1.2. Vốn xã hội đối với cơ hội thăng tiến nghề nghiệp 80
3.1.3. Vốn xã hội trong việc bồi dưỡng, đào tạo nâng cao năng lực, trình độ 81
3.2. Vốn xã hội trong môi trường làm việc 87
3.2.1. Vốn xã hội trong công việc 87
3.2.2. Mối quan hệ của nguồn nhân lực trẻ với đồng nghiệp cơ quan 91
3.3. Những rào cản của vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ 97
3.3.1. Gây khó khăn, trở ngại trong công việc 97
3.3.2. Hạn chế sự sáng tạo 100
3.3.3. Hiện tượng chảy máu chất xám 102

PHẦN 3: KẾT LUẬN 104
1.Kết luận 104
2.Khuyến nghị 105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU 122

5


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC BẢNG 5
9.Những điểm hạn chế của luận văn 25

PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH 27

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 27
1.2.Khái niệm công cụ 28
1.5.Đặc điểm khách thể nghiên cứu 41
CHƯƠNG 2: TẠO DỰNG, DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG VỐN XÃ HỘI CỦA NGUỒN
NHÂN LỰC TRẺ 56
2.2. Tạo dựng, duy trì và mở rộng vốn xã hội của nguồn nhân lực trẻ 56
2.2.1. Tạo dựng vốn xã hội của nguồn nhân lực trẻ 56
2.2.2. Duy trì, củng cố vốn xã hội của nguồn nhân lực trẻ 63
2.2.3. Phát triển vốn xã hội của nguồn nhân lực trẻ 73
CHƯƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA VỐN XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
NGUỒN NHÂN LỰC TRẺ 75
3.1. Vốn xã hội trong quá trình tìm kiếm việc làm, cơ hội thăng tiến, nâng cao năng
lực làm việc 75
3.1.1. Vốn xã hội trong quá trình tìm kiếm việc làm 75
3.1.2. Vốn xã hội đối với cơ hội thăng tiến nghề nghiệp 80
3.1.3. Vốn xã hội trong việc bồi dưỡng, đào tạo nâng cao năng lực, trình độ 81
3.2. Vốn xã hội trong môi trường làm việc 87
3.2.1. Vốn xã hội trong công việc 87
3.2.2. Mối quan hệ của nguồn nhân lực trẻ với đồng nghiệp cơ quan 91
3.3. Những rào cản của vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ 97
3.3.1. Gây khó khăn, trở ngại trong công việc 97
3.3.2. Hạn chế sự sáng tạo 100
3.3.3. Hiện tượng chảy máu chất xám 102

PHẦN 3: KẾT LUẬN 104
1.Kết luận 104
2.Khuyến nghị 105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU 122


6


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong các nguồn lực của sản xuất xã hội, lao động, vốn, tài nguyên,
khoa học - công nghệ... thì nguồn nhân lực (hay còn gọi là nguồn lực con
người - Human Resources) giữ vai trò quan trọng nhất, là yếu tố quyết định sự
thành công về kinh tế - xã hội của mỗi một quốc gia. Lênin từng nói rằng:
Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là người công nhân, là
người lao động. Đảng ta luôn luôn xác định, con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển, đầu tư cho nguồn lực con người là đầu tư cho sự
phát triển nhanh và bền vững. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, lợi thế
cạnh tranh và vị thế của các quốc gia tùy thuộc rất lớn vào nguồn nhân lực
được đào tạo một cách hệ thống, có khả năng thích nghi với thị trường lao
động đầy biến đổi như hiện nay. Có thể nói, nguồn nhân lực luôn là một trong
những yếu tố quan trọng để phát triển đất nước, đặc biệt là nguồn nhân lực
trẻ. Đây là đội ngũ tiềm năng, là thế hệ tương lai gánh vác sứ mệnh của đất
nước. Không phải ngẫu nhiên mà Các Mác nhấn mạnh rằng “Con người là
yếu tố số một của lao động sản xuất” và trong truyền thống nước ta cũng luôn
xác định rằng: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Một quốc gia muốn
phát triển luôn cần dựa vào yếu tố con người và chỉ có con người mới có khả
năng vạch hướng phát triển trong tương lai của đất nước. Không gì bằng yếu
tố con người, không gì có thể sánh được với tri thức, sự sáng tạo của con
người.
Đắk Lắk là một tỉnh nằm ở vị trí trung tâm vùng Tây Nguyên, có chiến
lược rất quan trọng về chính trị, kinh tế, và quốc phòng – an ninh. Đây là một
tỉnh có tiềm năng lớn về kinh tế, tài nguyên thiên nhiên rất đa dạng, phong
phú, đặc biệt có diện tích đất và rừng khá lớn, có lợi thế trong sản xuất nông,

lâm nghiệp. Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội,
giáo dục của tỉnh khá phát triển. Sản xuất nông nghiệp, công nghiệp có bước
phát triển, các ngành dịch vụ có những chuyển biến tích cực, góp phần thúc
7


đẩy sản xuất và tiêu dùng xã hội. Kết cấu hạ tầng phát triển khá nhanh, tạo
điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các vấn đề xã hội,
y tế, giáo dục từng bước có những thay đổi lớn, tích cực.
Bên cạnh đó, tỉnh Đắk Lắk cũng có đội ngũ nguồn nhân lực trẻ rất dồi
dào, làm việc ở các lĩnh vực nghề nghiệp khác nhau. Đội ngũ nhân lực trẻ này
đang từng bước khẳng định vị trí của mình trên con đường sự nghiệp thông
qua năng lực, kỹ năng làm việc và tri thức. Song hành cùng với những kỹ
năng, tri thức giáo dục là các mối quan hệ xã hội, các mạng lưới xã hội mà
các cá nhân là thành viên. Ở mỗi mạng lưới xã hội, các cá nhân có các vai trò
khác nhau tương ứng với những quyền lợi mà họ được hưởng kèm theo. Các
mối quan hệ xã hội giúp các cá nhân liên kết với nhau, là một trong những
điều kiện thuận lợi giúp cá nhân phát triển và tạo bước thăng tiến trong sự
nghiệp. Nói cách khác, vốn xã hội là một trong những yếu tố quan trọng thúc
đẩy sự phát triển trong nghề nghiệp của đội ngũ nhân lực trẻ tuổi tỉnh Đắk
Lắk.
Nhằm tìm hiểu những tác động, ảnh hưởng của vốn xã hội đối với khả
năng tiếp cận việc làm, tìm kiếm công việc, cơ hội thăng tiến nghề nghiệp, bồi
dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn, các mối quan hệ trong công việc cùng
những hạn chế của nó đối với nguồn nhân lực trẻ tỉnh Đắk Lắk cũng như
phương thức tạo dựng và duy trì vốn xã hội của họ, tôi lựa chọn đề tài “Vai
trò của vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ tỉnh Đắk Lắk
(Nghiên cứu trường hợp tại phường Tự An và phường Thắng Lợi” làm đề
tài cho luận văn của mình.
Đề tài được thực hiện với sự nỗ lực hết mình của bản thân song không

tránh khỏi những thiết sót. Tôi mong nhận được ý kiến, đóng góp của thầy cô
và bạn bè quan tâm để đề tài ngày càng được hoàn thiện. Tôi xin chân thành
cảm ơn./.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu về vốn xã hội trên thế giới
8


Khi bàn đến vốn xã hội trên thế giới không thể không kể đến các tác giả
như Francis Fukuyama, Robert Putnam, Pierre Bourdieu, James Coleman…
Họ là những tác giả với rất nhiều những tác phẩm nghiên cứu về vốn xã hội
đã được công bố và ứng dụng vào thực tế khi mà vốn xã hội đang ngày càng
được bàn luận nhiều như hiện nay.
Fukuyama là một nhà xã hội học nổi tiếng, ông có nhiều nghiên cứu về
vốn xã hội và có những đóng góp to lớn trong việc phát triển khái niệm vốn
xã hội. Ông quan niệm rằng vốn xã hội chính là thành tố văn hóa của xã hội
hiện đại – những xã hội mà kể từ thời kỳ Khai sáng đã được tổ chức dựa trên
cơ sở của các định chế chính thức, trên cơ sở nhà nước pháp quyền và lý tính.
Định nghĩa của ông về vốn xã hội nhấn mạnh nhiều hơn đến yếu tố chuẩn
mực xã hội. Trong nghiên cứu “Vốn xã hội, xã hội dân sự và phát triển” năm
2001, tác giả đã khẳng định vốn xã hội là những chuẩn mực không chính thức
thúc đẩy sự hợp tác giữa các cá nhân. Cụ thể, nó chính là các mối quan hệ xã
hội, sự liên kết xã hội của cá nhân và tập thể. Theo ông, trong các hoạt động
kinh tế, mỗi cá nhân sẽ giảm được nhiều chi phí giao dịch nhờ vào vốn xã hội
giữa họ. Có thể thấy, quan điểm của Fukuyama về mối quan hệ giữa vốn xã
hội và phát triển kinh tế có nhiều điểm tương đối giống với tác giả Bourdieu.
Cả hai tác giả đều cho thấy được những mặt tích cực của vốn xã hội đối với
phát triển kinh tế, tất nhiên song hành với nó vẫn còn tồn tại những mặt tiêu
cực nhất định bởi mọi vấn đề đều có tính hai mặt. Năm 2002, trong bài báo
“Vốn xã hội và phát triển: Chương trình nghị sự tới” Fukuyama đã nhấn

mạnh đến tính tích cực của vốn xã hội. Tác giả đã đề cập đến mối liên hệ giữa
vốn xã hội và sự phát triển trên phạm vi toàn cầu. Đây là mối liên hệ phổ biến
và tất yếu, dù ở thời đại nào cũng có, vấn đề là chúng ta có nhận thức được và
vận dụng tốt vốn xã hội hiện có hay không. Tác giả chỉ ra cách mà vốn xã hội
có thể đóng góp vào phát triển kinh tế và xóa bỏ đói nghèo – một giải pháp
thực sự hữu ích và cần thiết, qua đó càng thể hiện được tính tích cực của vốn
xã hội. Ông cũng giải thích rằng vốn xã hội giữ vai trò quan trọng trong sự
9


phát triển của nhiều doanh nghiệp ở Mỹ Latinh. Vốn xã hội cũng giúp cho
nhiều người vượt ra khỏi những khó khăn trong giai đoạn suy thoái kinh tế và
thất nghiệp gia tăng ở các khu vực này [13]. Trước đó, trong một bài viết khác
của ông với tiêu đề: “Vốn xã hội và xã hội dân sự” (Social Capital and Civil
Society) của Francis Fukuyama – Viện nghiên cứu chính sách công thuộc
trường Đại học George Mason, 1/11/1999 đã đề cập tới mối quan hệ giữa vốn
xã hội và xã hội dân sự. Qua đó, ông cũng nhấn mạnh vai trò của vốn xã hội
trong xã hội dân sự, những chức năng, vị trí mà nó có trong xã hội dân sự
[43].
Một tác giả khác cũng đã có những đóng góp rất quan trọng khi nghiên
cứu về vốn xã hội, đó là Robert Putnam. Trong cuốn sách nổi tiếng “Chơi
Bowling một mình” (Bowling alone), Putnam đã bàn đến lý thuyết vốn xã hội
như là “giá trị cốt lõi của các mạng lưới xã hội”. Theo tác giả, vốn xã hội
cũng như các loại vốn khác (vốn vật chất, vốn con người) đều là những loại
“vốn” có khả năng làm tăng năng suất từ những tác động tương hỗ của các
mối tương tác thông qua mạng lưới xã hội, các quy tắc xã hội cũng như niềm
tin của con người trong xã hội (những thành tố quan trọng của vốn xã hội), do
đó vốn xã hội có giá trị đối với những ai có khả năng sử dụng nó [47]. Chính
vì vậy, nhắc đến quan điểm về vốn xã hội của Putnam, tác giả Trần Hữu
Quang đã khẳng định “Putnam không những đã đào sâu khái niệm vốn xã hội

mà còn đề xuất những chỉ báo nhằm đo lường vốn xã hội” (Trần Hữu Quang,
2006). Tuy nhiên, đóng góp quan trọng của Putnam đối với khuynh hướng
tiếp cận lý thuyết vốn xã hội chính là việc ông coi niềm tin của con người
(trust) trong xã hội như một giá trị cốt lõi của vốn xã hội.
Trong tác phẩm “Các hình thức của vốn” (The form of capital) của P.
Bourdieu viết năm 1986, ông đã đưa khái niệm “vốn” của lĩnh vực kinh tế vào
lĩnh vực xã hội học để phân tích quá trình lưu thông của các loại tài sản khác
nhau trong không gian xã hội [42]. Từ khái niệm “vốn” này, tác giả đã mở
rộng khái niệm, không chỉ bị bó hẹp trong quan niệm về kinh tế. Ông đã đưa
10


khái niệm vốn xã hội trở thành một khái niệm khoa học với cách hiểu “Vốn
xã hội là một mạng lưới lâu bền bao gồm các mối liên hệ quen biết nhau và
nhận ra nhau, những mối liên hệ này ít nhiều đã được thể chế hóa”. Bourdieu
cho rằng “khối lượng vốn xã hội của một cá nhân cụ thể nào đó phụ thuộc vào
mức độ liên hệ rộng hay hẹp mà anh ta có thể huy động được trong thực tế, và
vào khối lượng vốn kinh tế, vốn văn hóa hay vốn biểu tượng của từng người
mà anh ta có liên hệ” (dẫn theo Trần Hữu Quang, 2006 khi bàn về quan điểm
vốn xã hội của P.Bourdieu). Cách xử lý khái niệm của Bourdieu là công cụ
hết sức quan trọng, tập trung vào những điều lợi mà cá nhân có được nhờ
tham gia vào các nhóm, và vào việc chủ ý tạo dựng sự quảng giao nhằm tạo ra
nguồn lực này. Tác giả khẳng định rằng “những lợi lộc có được là nhờ thành
viên một nhóm, là cơ sở cho sự đoàn kết vốn khiến cho có thể có khoản lợi
đó”. Mạng lưới xã hội không phải là một thứ trời cho mà phải được tạo dựng
thông qua các chiến lược đầu tư nhằm thể chế hóa các quan hệ nhóm để có
thể dùng làm nguồn gốc đáng tin cậy sản sinh ra các điều lợi khác. Có thể
phân giải vốn xã hội thành hai yếu tố: thứ nhất, bản thân quan hệ xã hội là cái
cho phép các cá nhân có quyền tiếp cận những nguồn lực thuộc sở hữu của
những người cùng hội với mình, và thứ hai, số lượng và chất lượng những

nguồn lực này. Mặt khác, muốn giành và có được vốn xã hội, phải chú ý đầu
tư cả những nguồn lực kinh tế lẫn văn hóa [5].
2.2.

Nghiên cứu về vốn xã hội ở Việt Nam

“Vốn xã hội” là một thuật ngữ được đề cập nhiều trong hai thập kỷ gần
đây trong giới khoa học xã hội, nhưng đến nay vẫn chưa có một định nghĩa
thống nhất về vốn xã hội. Mỗi tác giả khi bàn về vốn xã hội đều có những
quan điểm khác nhau, xem xét và tiếp cận nó từ các hướng khác nhau. Vốn xã
hội được nghiên cứu khá nhiều ở các nước phát triển và dần dần lan rộng sang
các nước khác. Ở Việt Nam, nghiên cứu về vốn xã hội đang ngày càng nhiều
và tiêu biểu phải kể đến các tác giả như Trần Hữu Dũng, Trần Hữu Quang, Lê
Ngọc Hùng, Hoàng Bá Thịnh, Nguyễn Tuấn Anh hay Nguyễn Quý Thanh.
11


Nhìn chung nghiên cứu về vốn xã hội ở Việt Nam được chia ra thành hai
nhóm chính: nhóm giới thiệu lý thuyết về vốn xã hội và vận dụng lý thuyết về
vốn xã hội trong các nghiên cứu thực tiễn.
Trần Hữu Dũng là một tác giả tiêu biểu theo hướng nghiên cứu thứ
nhất về vốn xã hội: giới thiệu lý thuyết về vốn xã hội. Trong bài viết “Vốn xã
hội và kinh tế”(Thời Đại số 8, 2003), tác giả đã chỉ ra được những quan điểm
khác nhau về vốn xã hội của một số tác giả lớn trên thế giới như Pierre
Bourdieu, James Coleman, Robert Putnam, Francis Fukuyama, Hernando De
Soto. Tác giả cũng khẳng định rằng quan điểm về vốn xã hội của các tác giả
trên có hơi hướng tiếp cận thể chế văn hóa trong vấn đề phát triển, nhất là ở
một quốc gia cổ truyền mà thể chế văn hóa có lúc (hoặc theo vài tác giả) là
vật cản, có lúc (hoặc theo nhiều tác giả khác) là lực đẩy, trong tiến hóa kinh tế
xã hội.Qua đó, ông cũng phê bình một vài điểm trong các quan điểm của các

tác giả về vốn xã hội như quan điểm của Bourdieu quá thiên về kinh tế,
Putnam lẫn lộn nguyên nhân và hậu quả khi cho rằng sự suy giảm các hoạt
động tập thể là gây hậu quả tiêu cực (giảm vốn xã hội)… Ngoài ra, tác giả còn
khẳng định rằng cần phả làm rõ hơn đặc điểm của vốn xã hội trong mối quan
hệ với các loại vốn khác như vốn kinh tế, vốn văn hóa, vốn con người [9].
Trong một bài viết khác với tên gọi “Vốn xã hội và phát triển kinh tế”
trên tạp chí Tia sáng và Thời báo kinh tế Sài Gòn năm 2006, tác giả Trần Hữu
Dũng cũng chỉ ra mối quan hệ giữa vốn xã hội và phát triển kinh tế, sự tác
động qua lại giữa vốn xã hội và các chính sách kinh tế. Mở đầu bài viết, tác
giả cũng đề cập đến khái niệm về vốn xã hội, vốn xã hội là gì? Tác giả chỉ ra
sự giống nhau và khác nhau giữa vốn xã hội và các loại vốn khác và cuối
cùng ông nhấn mạnh vốn xã hội là sản phẩm của tập thể (khác với vốn vật
chất, vốn con người), không chỉ là của cá nhân mà theo thuật ngữ kinh tế thì
vốn xã hội được gọi là một thứ hàng hóa công. Khi phân tích mối quan hệ
giữa vốn xã hội và phát triển kinh tế, ông cho rằng vốn xã hội giúp giải quyết
những “bài toán tập thể”, tiết kiệm chi phí giao dịch và quan trọng vốn xã hội
12


có thể tác động đến chất lượng và tốc độ tích lũy của những loại vốn khác.
Nói về sự tác động qua lại giữa vốn xã hội và chính sách kinh tế, ông cho rằng
mọi chính sách kinh tế đều có những bối cảnh xã hội nhất định và vốn xã hội
là một nguồn lực giúp phát triển các chính sách kinh tế đó. Cuối cùng, tác giả
Trần Hữu Dũng kết luận rằng vốn xã hội là một ý niệm hữu ích, cơ bản, giúp
ta nhớ rằng liên hệ quen biết, sự tin cẩn, thể chế xã hội có vai trò quan trọng
trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, tác giả vẫn cảnh bảo rằng ý niệm về vốn
xã hội này chưa thật linh hoạt, vẫn còn mập mờ, chưa đủ chính xác để đưa
vào mọi phân tích kinh tế [10].
Tiếp đến nhóm thứ nhất về giới thiệu lý thuyết về vốn xã hội là tác giả
Trần Hữu Quang. Trong bài viết “Tìm hiểu khái niệm vốn xã hội” năm 2006,

tác giả Trần Hữu Quang đã đóng góp phần nào vào việc khái niệm hóa “vốn
xã hội”, chủ yếu dưới cách tiếp cận xã hội học. Cũng giống như Trần Hữu
Dũng, phần đầu bài viết tác giả cũng bàn về quan điểm của một số tác giả như
Bourdieu, Colemans về vốn xã hội, từ đó định nghĩa lại xem thế nào là vốn xã
hội. Sau đó, tác giả đi vào phân tích các kích thước văn hóa và định chế của
vốn xã hội. Theo ông, khi đề cập đến vốn xã hội cần đặt nó trong mối quan hệ
với với chuẩn mực, sự cố kết , hợp tác, trong bối cảnh văn hóa xã hội và các
định chế xã hội. Có như vậy, quan điểm về vốn xã hội mới thật sự trở nên tròn
trịa, hài hòa và bao hàm được đầy đủ các nội dung cần có [25].
Hoàng Bá Thịnh cũng là một tác giả tiêu biểu khi nghiên cứu về vốn xã
hội ở Việt Nam. Trong bài viết “Vốn xã hội, mạng lưới xã hội và những phí
tổn” trên Tạp chí Xã hội học số 1 (105) năm 2009 của tác giả cũng cho ta thấy
được quan niệm về vốn xã hội và mạng lưới xã hội. Mở đầu bài viết, tác giả
đã đưa ra một số khái niệm về vốn xã hội của Bourdieu, James Coleman hay
World Bank, từ đó cũng rút ra luận điểm chính về mạng lưới xã hội, thuyết
mạng lưới xã hội. Tác giả cũng khẳng định rằng trong mạng xã hội, vốn con
người nằm ở các đầu mối còn vốn xã hội nằm ở các đường liên hệ, quan hệ
giữa các đầu mối và mạng lưới xã hội có thể phân chia thành mạng lưới xã
13


hội vi mô và mạng lưới xã hội vĩ mô. Vốn xã hội và mạng lưới xã hội muốn
duy trì được cần phải trả những phí tổn, trên cơ sở đó tác giả đã liên hệ đến
một số “phí tổn” có thể phải trả ở Việt Nam. Cấu trúc và chức năng của vốn
xã hội cũng là nội dung được tác giả bàn đến trong bài viết [33].
Có thể kể thêm một số bài viết khác khi nghiên cứu về vốn xã hội ở
Việt Nam như “Vốn và vốn xã hội” của Nguyễn Quang A năm 2006 [1],
“Vốn xã hội và phát triển” của Nguyễn Ngọc Bích năm 2006 [6] hay “Lời
giải cho các bài toán phát huy vốn xã hội” của Phan Chánh Dưỡng năm
2006 [11], “Vốn xã hội ở Việt Nam” của Nguyễn Vạn Phú năm 2006 [28]…

Các bài viết là các cơ sở khoa học quan trọng giúp hiểu thêm về vốn xã hội,
tuy nhiên những bài viết này chủ yếu chỉ dừng lại ở việc bàn và giới thiệu lý
thuyết về vốn xã hội , chưa tạo ra được những luận điểm lý thuyết cụ thể để
áp dụng vào nghiên cứu thực tiễn.
Hướng nghiên cứu thứ hai là nghiên cứu thực nghiệm về vốn xã hội.
Nghiên cứu “Quan hệ họ hàng với việc dồn điền đổi thửa và sử dụng ruộng
đất dưới góc nhìn vốn xã hội ở một làng Bắc Trung Bộ” của Nguyễn Tuấn
Anh và Fleur Thomese năm 2007 đã vận dụng quan điểm về vốn xã hội để
chứng minh rằng nhờ vào nguồn vốn xã hội nên các hộ nông dân có thể tiến
hành dồn điền đổi thửa một cách phi chính thức mà không cần dựa trên giấy
tờ hay quan hệ mang tính chính thức, pháp lý. Nói cách khác, việc dồn điền
đổi thửa ở đây được thực hiện dựa trên sự quen biết, sự tin tưởng, các mối
quan hệ xã hội của các hộ nông dân trong các mạng lưới xã hội mà họ là
thành viên. Sau đó, các tác giả cũng có kết quả nghiên cứu về vai trò của vốn
xã hội trong khu vực nông thôn Bắc Trung Bộ. Với nghiên cứu này, các tác
giả đã làm rõ sự biến đổi vai trò của vốn xã hội trong quan hệ họ hàng. Một ví
dụ điển hình như người nông dân đã sử dụng vốn xã hội trong các quan hệ họ
hàng để theo đuổi các lợi ích kinh tế liên quan đến sản xuất nông nghiệp, nghề
thủ công, hoạt động tín dụng. Ngoài ra, các tác giả còn làm rõ vai trò của vốn
xã hội trong quan hệ họ hàng với việc tạo ra nguồn lực tài chính nhằm hỗ trợ
14


trẻ em đến trường, tức là góp phần tạo ra vốn xã hội [3]. Bài viết “Vốn xã hội
và mấy vấn đề đặt ra trong nghiên cứu vốn xã hội ở Việt Nam hiện nay” của
Nguyễn Tuấn Anh trên Tạp chí Xã Hội Học, số 3(115) năm 2011 cũng đã
điểm qua khái niệm và một vài những quan điểm khác nhau về vốn xã hội. Kế
đó, tác giả bàn tới bản chất hai mặt của vốn xã hội. Bên cạnh tính tích cực,
vốn xã hội cũng bộc lộ những tác động tiêu cực như Portes cho rằng vốn xã
hội là sự loại trừ những người ngoài, đòi hỏi thái độ thái quá đối với các thành

viên, hạn chế tự do cá nhân (mối cá nhân trong một mối quan hệ nào đó đều
có sự ràng buộc nhất định), hay Putnam cho rằng vốn xã hội có thể tạo ra bè
phái, tham nhũng, tâm lý coi tộc người của mình là trung tâm (trích từ Smith
và Kulynych, 2002). Qua đó, tác giả cũng sơ lược qua tình hình nghiên cứu về
vốn xã hội ở Việt Nam hiện nay ra sao và sự cần thiết nghiên cứu vốn xã hội ở
nông thôn Việt Nam [4].
Bài viết “Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội qua một số
nghiên cứu ở Việt Nam” của Lê Ngọc Hùng trên Tạp chí Nghiên cứu con
người, số 4(37) năm 2008 cho thấy quan điểm cả tác giả về vốn xã hội được
nhìn nhận từ góc độ kinh tế học. Trong bài viết của mình, tác giả đã bàn đến
thuyết chức năng về vốn xã hội (quan điểm của Coleman), thuyết cấu trúc về
vốn xã hội (quan điểm của Bourdieu). Trên cơ sở đó, tác giả đã xây dựng mô
hình tổng hợp về vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội (sơ đồ cầu
trúc 3 người, sơ đồ vốn người, vốn xã hội và mạng lưới xã hội). Cuối cùng tác
giả đã rút ra một số phát hiện về vốn xã hội, vốn người và mạng lưới xã hội
và một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu ở Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh
nước ta đang trải qua thời kỳ quá độ “kép” từ xã hội nông nghiệp truyền
thống sang xã hội công nghiệp hiện đại và từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa [17].
Trong nghiên cứu thực nghiệm “Sự phổ biến và Chi phí của Vốn xã hội
trong kinh doanh nhỏ tại Việt Nam” của Nguyễn Quý Thanh và Stephen J.
Appold năm 2004 đã làm nổi bật vai trò của vốn xã hội trong các doanh
15


nghiệp nhỏ ở Hà Nội. Các tác giả khẳng định vốn xã hội có vai trò quan trong
trong việc giúp các doanh nghiệp vay vốn để khởi nghiệp. Điều này đặc biệt
đúng trong bối cảnh kinh tế hiện đại ngày nay khi các quan hệ xã hội, mạng
lưới xã hội ngày càng tỏ ra là cần thiết và hữu ích trong quá trình phát triển
[30].

Có thể nói, vốn xã hội ở Việt Nam đang ngày càng trở nên phổ biến và
ngày càng có nhiều bài viết, nghiên cứu thực nghiệm về vốn xã hội. Những
bài viết, nghiên cứu thực nghiệm này thực sự cung cấp những kiến thức quý
báu, giúp ta có thêm luận điểm cụ thể để tiếp tục theo đuổi các nghiên cứu
thực nghiệm tiếp theo về vốn xã hội.
2.3.

Nghiên cứu về nguồn nhân lực trên thế giới

Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công
nghệhiện đại, kinh tế trí thức và toàn cầu hoá, các nước ngày càng chú ý đến
pháttriển nguồn nhân lực. Có khá nhiều nghiên cứu khác nhau trên thế giới
bàn về nguồn nhân lực, giáo dục – đào tạo, mỗi nghiên cứu lại được xem xét,
tiếp cận theo những hướng khác nhau.
Nghiên cứu “Quản lý nguồn nhân lực trong bối cảnh phi tập trung
hóa” của tác giả Amada E.Green do Ngân hàng thế giới công bố cũng khẳng
định rằng quản lý nguồn nhân lực phải được coi là yếu tố thiết yếu thuộc về
quá trình phi tập trung hóa. Bên cạnh đó, nghiên cũng cho thấy được vai trò to
lớn của nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia [26]. Trong cuốn “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào
công nghiệp hóa – hiện đại hóa” của Nguyễn Minh Hạc (2001) một lần nữa
nhấn mạnh và khẳng định được điều này [14].
Ấn phẩm “Human resources development along the Asian – Pacific
Rim ” (Nguồn nhân lực trong phát triển ở khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương) dựa trên nhân tố then chốt là nguồn nhân lực. Sử dụng nhiều số liệu
gần đây, các tác giả chỉ ra mối quan hệ giữa sự phát triển nguồn nhân lực,

16



cũng như sự mở rộng của hệ thống giáo dục trong quá trình phát triển ở khu
vực này.
Ở Hàn Quốc, năm 2005 tác giả Jang Ho Kim đã cho xuất bản cuốn sách
“Khung mẫu mới về phát triển nguồn nhân lực: các sáng kiến của chính phủ
để phát triển kinh tế để hội nhập xã hội tại Hàn Quốc”. Cuốn sách đã đề cập
đến các thách thức kinh tế xã hội trong phát riển nguồnnhân lực chất lượng
cao tại Hàn Quốc, khẳng định vai trò to lớn của nguồnnhân lực chất lượng
cao. khả năng cạnh tranh nguồn nhân lực của đất nước, đưa ra định hướng
phát triển. Đặc biệt cuốn sách đã đưa ra và phân tích các vấn đề giáodục và
đào tạo nghề, kết hợp đào tạo với nghiên cứu và phát triển, những vấn đề về
xây dựng xã hội học tập ở Hàn Quốc [24].
Ở Trung Quốc, năm 2012 cuốn sách “Chất lượng tăng trưởng kinh tế
khu vực phía Tây Trung Quốc với việc khai thác nguồn nhân lực nông thôn”
của tác giả Vương Xung được xuất bản tại Nhà xuất bản Nhân dân, đã trình
bày sự tăng trưởng kinh tế khu vực phía Tây Trung Quốc hiện nay, nêu lên
những yếu tố của chất lượng tăng trưởng, trong đó chú trọng phân tích yếu tố
nguồn nhân lực. Qua đó, cuốn sách cũng chỉ ra một số vấn đề khai thác và
pháthuy nguồn nhân lực nông thôn, trong đó nhấn mạnh cần chú trọng đến
giáodục và đào tạo nguồn nhân lực để đảm bảo và nâng cao chất lượng
tăngtrưởng kinh tế khu vực phía Tây Trung Quốc trong bối cảnh mới [41].
2.4.

Nghiên cứu về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
trẻ ở Việt Nam

Đảng và nhà nước ta luôn xác định ưu tiên các chương trình, chiến lược
phát triển nguồn nhân lực, trong đó có nguồn nhân lực trẻ bởi đây là yếu tố
chính quyết định sự thành công trên con đường phát triển kinh tế xã hội nước
nhà. Từ trước đến nay, có rất nhiều những công trình nghiên cứu, những tác
phẩm, bài viết của các tác giả bàn về vấn đề nguồn nhân lực và phát triển

nguồn nhân lực trẻ dưới các hướng tiếp cận và nhìn nhận khác nhau.

17


Trong bài báo “Phát triển con người, nguồn nhân lực - quan niệm và
chính sách” của Phạm Minh Hạc (2008) , trong cuốn sách “Những vấn đề lý
luận và thực tiễn mới đặt ra trong tình hình hiện nay”, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội đã trình bày một số vấn đề cơ sở lý luận về phát triển con
người. Tác giả đã đưa ra kháiniệm cơ bản về nguồn nhân lực, nhân tài, đội
ngũ lao động, từ đó phân tích một số nét thực trạng và đề xuất một số biện
pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực đất nước [15].
Công trình nghiên cứu do Nguyễn Văn Khánh làm chủ biên với tên gọi
“Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam” (Nguyễn Văn Khánh –
Chủ biên, 2010) đã chỉ ra được thực trạng tạo dựng và duy trì nguồn lực trí
tuệ Việt Nam như thế nào, qua đó cũng cho thấy được sự kế thừa có chọn
lọc và phát huy được những giá trị cốt lõi từ các nguồn lực trí tuệ [22]. Bên
cạnh đó, năm 2012 tác giả cũng cho xuất bản cuốn “Nguồn lực trí tuệ Việt
Nam – lịch sử, hiện trạng và triển vọng” (Nguyễn Văn Khánh – Chủ biên,
2012) để khẳng định lại một lần nữa vai trò to lớn của nguồn lực trí tuệ
Việt Nam đối với việc phát triển đất nước trong giai đoạn công nghiệp hóa,
hiện đại hóa như ngày nay [23]. Có thể nói, các công trình nghiên cứu này
là những tài liệu vô cùng hữu ích, quý báu, nó làm sáng tỏ nhiều vấn đề
liên quan đến nguồn nhân lực Việt Nam.
Trong luận án tiến sĩ Kinh tế Chính trị của Lê Thị Hồng Điệp (2010) có
tên gọi “Phát triểnnguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành nền kinh tế
tri thức ở Việt Nam” lại một lần nữa nhấn mạnh đến vấn đề phát triển nguồn
nhân lực tại Việt Nam. Luận án đã trình bày những khái niệm cơ bản như:
nguồn nhân lực, nguồn nhânlực chất lượng cao, đặc điểm nguồn nhân lực chất
lượng cao của nước ta, vấnđề phát riển nguồn nhân lực chất lượng cao. Ngoài

ra, tác giả còn phân tích những vấn đề gia tăngdân số, cơ cấu nguồn nhân lực,
tỷ lệ nhân lực khoa học công nghệ, đặc điểm,yêu cầu của kinh tế tri thức đối
với nguồn nhân lực chất lượng cao. Trên cơ sở đó, đưa ra đề xuấtnhững giải

18


pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đểhình thành nền
kinh tế tri thức ở Việt Nam [12].
Luận án tiến sĩ “ Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung” của Lê Quang Hùng (2011), Viện Chiến lược
phát triển – một tài liệu tham khảo hữu ích về tổng quan nguồn nhân lực tại
Việt Nam. Luận án được thực hiện dưới cách tiếp cận dưới góc độ kinh tếđã
trình bày tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, đánh giá thực trạng gồm ưu điểm, nhược
điểm, nguyên nhân củanguồn nhân lực chất lượng cao nơi đây. Bên cạnh đó,
luận án còn chỉ ra một số yêu cầu, giải pháp pháttriển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở vùng kinh tế trọng điểm ở miền Trung và đặc biệt nhấn mạnh đến
giáo dục - đào tạo [19].
Trong tác phẩm “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” của hai tác giả Vũ Văn Phúc,
Nguyễn Duy Hùng (Đồng chủ biên – 2012) đề cập khá rõ về vai trò của
nguồn nhân lực trong quá trình phát triển hội nhập. Mở đầu tác phẩm, tác giả
trình bày một số kháiniệm cơ bản về nhân lực, nguồn nhân lực, phân tích đặc
điểm của nguồn nhânlực Việt Nam, những vấn đề cơ bản để phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng yêucầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Qua đó, khẳng định nguồn nhân lực là cốt lõi, quyết định đến sự thành bại khi
một đất nước muốn hội nhập và phát triển quốc tế [27]. Đây là cuốn sách có
giá trị tham khảo trong nghiên cứu và trong chỉ đạo thực tiễn phát riển
nguồnnhân đất nước hiện nay.

Năm 2012, trong bài báo “Giáo dục, đào tạo với phát triển nguồn nhân
lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, đăng trên Tạp chí
Cộng sản, số 83 của Đường Vĩnh Sường đã phân tích vai trò của nguồn nhân
lực chất lượng cao. Tác giả đã đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và nguồn
nhân lực chất lượng cao ở nước ta, phân tích một số hạn chế, yếu kém của
nguồn nhân lực nước ta so với một số nước khác trong khu vực và thế giới.
19


Cuối cùng, tác giả đưa ra những giải pháp chínhvề giáo dục và đào tạo để phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước [29].
Nhìn chung, đến nay có rất nhiều các nghiên cứu về nguồn nhân lực và
nguồn nhân lực trẻ ở Việt Nam của các tác giả khác nhau. Mỗi tác giả lại nhìn
nhận và tiếp cận vấn đề dưới các cách khác nhau, do đó nội dung nghiên cứu
trở nên phong phú, đa dạng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, dù có nghiên cứu theo
các hướng khác nhau thì các giả đều thống nhất ở điểm khẳng định vai trò to
lớn của nguồn nhân lực đến phát triển tình hình kinh tế xã hội chung của đất
nước, là nhân tố chính quyết định sự thành công, là động lực thúc đẩy nền
kinh tế tri thức của nước nhà.
3. Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Với phương thức tiếp cận vấn đề xã hội dưới góc độ xã hội học, đề tài
đã ứng dụng một số phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, lý thuyết cơ bản
của xã hội học như lý thuyết về vốn xã hội vào nghiên cứu thực tiễn. Qua đây
có thể giúp chúng ta kiểm chứng được lý thuyết xã hội học và góp phần tri
thức cho một số ngành khoa học khác. Từ những kết quả nghiên cứu này, hy
vọng sẽ góp phần nhỏ vào bức tranh tổng thể nghiên cứu chung về vốn xã hội,
về phát triển nguồn nhân lực trẻ và những đặc thù nổi bật tại địa bàn nghiên
cứu.

3.2.

Ý nghĩa thực tiễn

Thông qua việc vận dụng các lý thuyết để đạt được ý nghĩa khoa học, ý
nghĩa thực tiễn là mục tiêu trực tiếp mà tôi muốn hướng đến. Đề tài mang lại
những kết quả nghiên cứu mới về vai trò của vốn xã hội trong phát triển
nguồn nhân lực tỉnh Đắk Lắk hiện nay. Những kết quả nghiên cứu đó thực sự
có giá trị khi nghiên cứu về vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ. Từ
đó, tôi đã đưa ra những kết luận về những tác động tích cực và tiêu cực của

20


vốn xã hội đem lại khi bàn về phát triển nguồn nhân lực trẻ tỉnh Đắk Lắk nói
riêng và nguồn nhân lực trẻ trong cả nước nói chung.
4. Mục đích – nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu vai trò của vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ tỉnh
Đắk Lắk hiện nay nhằm chỉ ra những thực trạng, đúc rút ra các kết luận, nhận
định về những tác động tích cực và những rào cản của vốn xã hội với mục
đích cuối cùng là phát triển nguồn nhân lực trẻ (cụ thể là những cán bộ đang
làm việc trong các đơn vị hành chính sự nghiệp nhà nước) phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở tỉnh Đắk Lắk nói riêng và những
tỉnh, thành phố có đặc trưng địa lý, tình hình kinh tế - xã hội tương tự như
tỉnh Đắk Lắk nói chung.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Sơ lược chung về đặc điểm của khách thể nghiên cứu.
- Phân tích về cách thức tạo dựng, duy trì, củng cố vốn xã hội của nguồn
nhân lực trẻ tỉnh Đắk Lắk.

- Chỉ ra vai trò của vốn xã hội trong quá trình tìm kiếm việc làm, cơ hội
tiếp cận việc làm, cơ hội thăng tiến nghề nghiệp, bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn và tác động tích cực của vốn xã hội trong môi
trường làm việc, trong công việc của nguồn nhân lực trẻ.
- Nhận diện bước đầu một số những rào cản còn tồn tại khi nghiên cứu
vai trò của vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ tỉnh Đắk Lắk.
- Rút ra một số kết luận thông qua kết quả nghiên cứu, từ đó có sự nhìn
nhận đúng đắn về vai trò của vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân
lực trẻ ở những tỉnh có đặc thù kinh tế - xã hội tương tự như tỉnh Đắk
Lắk.
- Đề xuất một số khuyến nghị để có thể tiếp tục phát huy, tạo điều kiện
thuận lợi trong phát triển nguồn nhân lực.

21


5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ tỉnh Đắk Lắk.
5.2.

Khách thể nghiên cứu

Cán bộ từ 18 đến 34 tuổi, đang công tác tại các cơ quan hành chính, sự
nghiệp của nhà nước.
5.3. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: hai phường Tự An và phường Thắng Lợi,
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 1/2014 đến tháng 12/2014.
6. Câu hỏi nghiên cứu

- Hiện nay nguồn nhân lực trẻ đang tạo dựng, duy trì và mở rộng vốn xã
hội như thế nào?
- Vốn xã hội có vai trò gì trong quá trình phát triển nguồn nhân lực trẻ?
7. Giả thuyết nghiên cứu
- Nguồn nhân lực trẻ hiện nay đang tạo dựng, duy trì và mở rộng vốn xã
hội một cách khá chủ động và linh hoạt. Họ sử dụng các biện pháp, các
phương tiện hiện đại nhằm kết nối, tạo ra vốn xã hội và phát triển hiệu
quả vốn xã hội đó.
- Vốn xã hội có vai trò quan trọng trong quá trình tìm kiếm việc làm, cơ
hội thăng tiến, bồi dưỡng, đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn. Bên
cạnh đó, vốn xã hội còn góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho nguồn
nhân lực trẻ trong công việc, trong các mối quan hệ với cấp trên, đồng
nghiệp trong ngoài cơ quan.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Mẫu nghiên cứu
Cơ cấu mẫu định lượng:
Tổng số người tham gia nghiên cứu: 500 người
Nguyên tắc chọn mẫu: Mẫu nghiên cứu được xác định trên cơ sở
phương pháp lấy mẫu nghiên cứu thuận tiện với cơ cấu mẫu như sau:
Cơ cấu mẫu theo nhóm tuổi:
Nhóm tuổi
Từ 20 đến 24 tuổi

Số lượng
58
22

Tỷ lệ (đơn vị: %)
11,6



Từ 25 đến 29 tuổi
Từ 30 đến 34 tuổi
Tổng
Cơ cấu mẫu theo giới tính:

183
259
500

Giới tính
Số lượng
Nam
211
Nữ
289
Tổng
500
Cơ cấu mẫu theo địa bàn nghiên cứu:

8.2.

36,6
51,8
100,0
Tỷ lệ (đơn vị: %)
42,2
57,8
100,0


Phường

Số lượng

Tỷ lệ (đơn vị: %)

Tự An

351

70,2

Thắng Lợi

149

29,8

Tổng

500

100,0

Phương pháp phân tích tài liệu

Nghiên cứu được tiến hành bước đầu bằng việc thu thập và phân tích
các tài liệu trong nước và quốc tế liên quan đến vốn xã hội và nguồn nhân lực
trẻ. Cụ thể, tôi đã sử dụng những báo cáo khoa học, bài viết trên các tạp chí
khoa học (tạp chí Xã hội học, tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, tạp chí con

người…), luận văn thạc sĩ, luận án tiến sỹ… , một số tài liệu nước ngoài có
liên quan đến đề tài nghiên cứu. Các báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của địa
bàn nghiên cứu cũng được sử dụng làm tài liệu trong luận văn nghiên cứu cùng
với cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk: www.daklak.gov.vn
Đặc biệt, trong nghiên cứu này, tôi đã sử dụng số liệu thứ cấp của tỉnh
Đắk Lắk với số lượng 500 bảng hỏi từ đề tài cấp nhà nước với tên gọi “Vai
trò của vốn xã hội trong sự phát triển nguồn nhân lực trẻ phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” do PGS.TS. Nguyễn Hồi Loan làm
chủ nhiệm đề tài. Đây là đề tài được thực hiện năm 2014 với cơ quan chủ trì
là trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát các khách thể nghiên cứu là những cán bộ
trẻ đang công tác tại các cơ quan hành chính sự nghiệp của nhà nước, đang
23


sinh sống và làm việc ở hai phường Tự An và Thắng Lợi, thành phố Buôn Ma
Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Mẫu nghiên cứu được lựa chọn theo phương pháp lấy
mẫu thuận tiện. 500 bảng hỏi được khảo sát và khách thể nghiên cứu sẽ tự
điền câu trả lời vào phiếu khi được trưng cầu ý kiến.
Các thông tin thu được từ bộ số liệu khảo sát thực địa tại hai phường
Tự An và Thắng Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk được tôi phân
tích bằng phần mềm xử lý số liệu định lượng SPSS (Statistical Package for
the Social Sciences) phiên bản 16.0. Ngoài ra, đối với một số phân tích khác
cũng được sử dụng bằng phần mềm phân tích thống kê SAS (Statistical Analysis
Systems) phiên bản 9.1 để có được những kết quả nhanh và đầy đủ hơn.
Bên cạnh bộ số liệu định lượng của đề tài, tôi còn sử dụng các thông tin
định tính ở các bản phỏng vấn sâu được thực hiện 2014 cùng với việc thu thập
thông tin bằng bảng hỏi ở hai phường Tự An và phường Thắng Lợi. Các biên
bản tọa đàm của tỉnh Đắk Lắk về các vấn đề liên quan đến sử dụng vốn xã hội
trong phát triển nguồn nhân lực trẻ của tỉnh cũng được sử dụng và phân tích

trong luận văn.
8.3.

Phương pháp phỏng vấn sâu

Phỏng vấn sâu là phương pháp không thể thiếu trong luận văn nghiên
cứu nhằm thu thập những thông tin định tính, hiểu sâu, kỹ hơn về vấn đề đang
nghiên cứu. Trong đề tài nghiên cứu của mình, tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu
8 trường hợp, là các cán bộ từ 18 đến 34 tuổi đang làm việc tại các cơ quan
hành chính sự nghiệp của nhà nước tại 2 phường Tự An và Thắng Lợi, thành
phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Phỏng vấn sâu cũng được tiến hành đồng
đều ở cả nam giới và nữ giới, làm việc ở các lĩnh vực nghề nghiệp khác nhau
và có thâm niên công tác khác nhau. Cụ thể:
Về giới tính:
- Nam giới: 4 người
- Nữ giới: 4 người
Về nghề nghiệp:
- Nhân viên y tế: 2 người
24


-

Cán bộ: 2 người
Kỹ sư: 1 người
Giáo viên: 2 người
Công an: 1 người
Do một số yếu tố chủ quan nên tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu qua điện

thoại và email, do đó quá trình phỏng vấn sâu mất nhiều thời gian hơn bình

thường và một biên bản phỏng vấn sâu được hoàn thành là kết quả của nhiều
lần trao đổi qua điện thoại và email. Việc phỏng vấn sâu qua điện thoại và
email vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, song tôi đã cố gắng, nỗ lực để đạt được
những kết quả tốt nhất.
9. Những điểm hạn chế của luận văn
Việc sử dụng bộ số liệu thứ cấp từ một đề tài nghiên cứu cấp nhà nước
khác (đề tài “Vai trò của vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” do PGS.TS Nguyễn
Hồi Loan làm chủ nhiệm đề tài) có nhiều điểm thuận tiện, tuy nhiên tôi cũng
nhận thấy còn một số điểm còn hạn chế trong luận văn, cụ thể:
Về phạm vi nghiên cứu: Khách thể nghiên cứu của đề tài là nguồn nhân
lực trẻ nhưng chỉ tập trung khai thác vào nhóm cán bộ làm việc trong các đơn
vị hành chính sự nghiệp nhà nước, do đó mẫu nghiên cứu chưa thực sự điển
hình và mang tính đại diện bởi hiện nay số lượng nguồn lao động trẻ tuổi
đang làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân, các công ty nước ngoài ngày
càng nhiều. Nếu khách thể nghiên cứu được mở rộng hơn thì kết quả nghiên
cứu sẽ toàn diện và đầy đủ hơn về bức tranh nguồn nhân lực trẻ tuổi nói
chung và ở tỉnh Đắk Lắk nói riêng.
Về đặc điểm nghiên cứu: Không gian nghiên cứu trong đề tài là tỉnh
Đắk Lắk – một tỉnh nằm trung tâm tại vùng Tây Nguyên với nhiều đặc điểm
về địa lý, điều kiện tự nhiên và con người đa dạng. Nếu bổ sung thêm yếu tố
dân tộc của khách thể nghiên cứu thì đề tài sẽ khai thác được nhiều nội dung
hơn bởi chính những đặc thù của tỉnh.

25


×