Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tổng quan tài chính doanh nghiệp_ Bài soạn CAO HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.35 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
------

CHƯƠNG 1 – TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên - TS. Lê Thị Phương Vy
Khóa: K27
Hệ: Cao học chính quy
Danh sách thành viên nhóm 3:
1.
2.
3.
4.
5.

Lưu Thiên Ngọc – 7701270748A
Trần Hoài Nam - 7701270701A
Nguyễn Quang Khải - 7701270533A
Nguyễn Thị Trà My - 7701270690A
Nguyễn Thị Minh Phương - 7701270871A

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2018


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
MỤC LỤC


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp


I. Bản chất và chức năng của tài chính doanh nghiệp
1. Bản chất của tài chính doanh nghiệp
a. Bản chất tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thái giá trị phát
sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ cho mục
đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các nhu cầu chung của xã hội.
Tài chính doanh nghiệp liên quan đến việc hoạch định chiến lược tài chính cho doanh nghiệp
thông qua việc ra và thực hiện các quyết định tài chính nhằm thỏa mãn mục tiêu tối đa hóa giá trị
doanh nghiệp để từ đó tối đa hóa thu nhập của chủ sở hữu.
b. Vai trò của tài chính doanh nghiệp
-

Tài chính doanh nghiệp là một công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính nhằm đảm
bảo nhu cầu vốn cho đầu tư kinh doanh.

Để thực hiện mọi quá trình sản xuất kinh doanh, trước hết các doanh nghiệp phải có một yếu
tố tiền đề - đó là vốn kinh doanh.
Trong cơ chế quản lý hành chính bao cấp trước đây, vốn của các doanh nghiệp nghiệp nhà
nước được nhà nước tài trợ hầu hết. Vì thế vai trò khai thác, thu hút vốn không được đạt ra như
một nhu cầu cấp bách, có tính sống còn với doanh nghiệp.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường đa thành phần, các doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ
phận cùng song song tồn tại trong cạnh tranh, cho việc đầu tư phát triển những ngành nghề mới
nhằm thu hút được lợi nhuận cao... đã trở thành động lực và là một đòi hỏi bức bách đối với tất
cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, khi đã có nhu cầu về vốn,
thì nảy sinh vấn đề cung ứng vốn. Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện và
khả năng để chủ động khai thác thu hút các nguồn vốn trên thị trường nhằm phục vụ cho các
mục tiêu kinh doanh và phát triển của mình.
-

Tài chính doanh nghiệp có vai trò trong việc sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả.


Cũng như đảm bảo vốn, việc tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả được coi
là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường,
yêu cầu của các quy luật kinh tế đã đặt ra trước mọi doanh nghiệp những chuẩn mực hết sức khe
khắt; sản xuất không phải với bất kỳ giá nào. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều được phản ánh bằng các chỉ tiêu giá trị, chỉ tiêu tài chính,
bằng các số liệu của kế toán và bảng tổng kết tài sản. Với đặc điểm này, người cán bộ tài chính
có khả năng phân tích, giám sát các hoạt động kinh doanh để một mặt phải bảo toàn được vốn,
mặt khác phải sử dụng các biện pháp tăng nhanh vòng quay vốn, nâng cao khả năng sinh lời của
vốn kinh doanh.
-

Tài chính doanh nghiệp có vai trò đòn bẩy kích thích và điều tiết sản xuất kinh doanh.

Trang 3


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
Khác với nền kinh tế tập trung, trong nền kinh tế thị trường các quan hệ tài chính doanh
nghiệp được mở ra trên một phạm vi rộng lớn. Đó là những quan hệ với hệ thống ngân hàng
thương mại, với các tổ chức tài chính trung gian khác, các thành viên góp vốn đầu tư liên doanh
và những quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp... Những quan hệ tài chính trên đây chỉ có
thể được diễn ra khi cả hai bên cùng có lợi và trong khuôn khổ của pháp luật. Dựa vào khả năng
này, nhà quản lý có thể sử dụng các công cụ tài chính như đầu tư, xác định lãi suất, tiền lương,
tiền thưởng để kích thích tăng năng suất lao động, kích thích tiêu dùng, kích thích thu hút vốn
nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng trong hoạt động kinh doanh.
-

Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.


Tình hình tài chính doanh nghiệp là tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thông qua các chỉ tiêu tài chính như: hệ số nợ, hiệu suất và
hiệu quả sử dụng vốn, cơ cấu các thành phần vốn...có thể dễ dàng nhận biết chính xác thực trạng
tốt, xấu trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.
Để sử dụng có hiệu quả công cụ kiểm tra tài chính, đòi hỏi nhà quản lý doanh nghiệp cần tổ
chức tốt công tác hạch toán kế toán, hạch toán thống kê, xây dựnghệ thống các chỉ tiêu phân tích
tài chính và duy trì nề nếp chế độ phân tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp.
2. Chức năng của tài chính doanh nghiệp
Ba chức năng chính của tài chính doanh nghiệp tương ứng với ba quyết định quan trọng trong tài
chính doanh nghiệp, đó là:
a. Chức năng huy động vốn – Quyết định tài trợ
Một doanh nghiệp có thể hoạt động sản xuất kinh doanh được thì cần phải có vốn và quyền
sử dụng nguồn vốn bằng tiền của mình một cách chủ động. Tuy nhiên cũng cần phải làm rõ một
vấn đề là: Các nguồn vốn được lấy ở đâu? Làm thế nào để có thể huy động được vốn?
Các doanh nghiệp với mọi hình thức sở hữu trong các lĩnh vực sản xuất, lưu thông, dịch vụ
đều có thể huy động được vốn từ các nguồn sau:
-

-

Vốn do ngân sách nhà nước cấp hoặc cấp trên cấp đối với doanh nghiệp nhà nước được
xác định trên cơ sở biên bản giao nhận vốn mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm bảo
toàn và phát triển số vốn giao đó. Khi mới thành lập nhà nước hoặc cấp trên cấp vốn đầu
tư ban đầu để công ty thực hiện sản xuất kinh doanh phù hợp với quy mô và ngành nghề.
Số vốn này thường bằng hoặc lớn hơn số vốn pháp định. Sau quá trình hoạt động nếu
thấy cần thiết, nhà nước sẽ cấp bổ sung vốn cho doanh nghiệp để phục vụ cho việc phát
triển sản xuất kinh doanh.
Vốn tự bổ sung: là vốn nội bộ của doanh nghiệp bao gồm:
• Phần vốn khấu hao cơ bản để lại doanh nghiệp

• Phần lợi nhuận sau khi đã nộp thuế

Trang 4


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp

-

Phần tiền nhượng bán tài sản (nếu có)
Vốn liên doanh liên kết : đó là sự góp tiền hoặc góp tài sản của các doanh nghiệp khác để
cùng với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Vốn vay (Nợ): chủ yếu là vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Ngoài các
loại vốn nói trên, các doanh nghiệp còn có thể huy động vốn của cán bộ công nhân viên
và doanh nghiệp sẽ trả lãi cho số vốn vay đó theo lãi suất ngân hàng.

Qua đó ta hình dung ra được, quá trình thành lập doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn
đầu tư tối thiểu. Đối với doanh nghiệp nhà nước số vốn này do ngân sách nhà nước cấp có thể là
100% hoặc tối thiểu là 51%. Còn đối với các Công ty cổ phần, Công ty TNHH thì số vốn đầu tư
ban đầu được hình thành từ việc đóng góp vốn hoặc hùn vốn của các cổ đông dưới hình thức cổ
phần. Mức vay vốn được quy định theo từng doanh nghiệp.
Để tồn tại và phát triển kinh doanh, trong quá trình sản xuất kinh doanh doanh nghiệp vẫn
phải tiếp tục đầu tư trung và dài hạn vì vậy doanh nghiệp có thể huy động vốn bên trong doanh
nghiệp như vốn tự tài trợ. Nếu như nguồn tự tài trợ mà nhu cầu đầu tư dài hạn vẫn không đáp
ứng được thì doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài như các hình thức đã nêu ở
trên.
Với chức năng tổ chức vốn, tài chính doanh nghiệp không đơn thuần chỉ thực hiện việc huy
động vốn mà còn phải tiến hành phân phối vốn sao cho với số vốn pháp định, vốn tự có và các
nguồn vốn huy động, doanh nghiệp có thể sử dụng chúng một cách có hiệu quả. Muốn vậy, trong
từng thời kỳ kinh doanh doanh nghiệp phải xác định được nhu cầu về vốn là bao nhiêu và cấu

trúc vốn như thế nào là hợp lý.
Việc ra quyết định tài trợ sẽ liên quan đến việc huy động các nguồn vốn để thực hiện quyết
định đầu tư hướng đến việc xác lập cấu trúc vốn tối ưu cho doanh nghiệp. Cấu trúc vốn có nhiều
trường phái và nổi bật nhất là của Myers. Theo đó, cấu trúc vốn là sự kết hợp giữa nợ ngắn hạn
thường xuyên, nợ dài hạn, cổ phần ưu đãi cà cổ phần thường theo một cơ cấu nhất định nào đó
để tài trợ quyết định đầu tư.
Cấu trúc vốn tối ưu là cấu trúc vốn khi sử dụng để tài trợ phải thỏa mãn 3 mục tiêu:
-

Tối đa hóa thu nhập cho chủ sở hữu: tất cả mục tiêu của doanh nghiệp đều phải làm tối đa
hóa thu nhập cho Chủ sở hữu công ty [1].
Tối thiểu hóa rủi ro: tài trợ bằng cổ phần thường sẽ tối thiểu hóa được rủi ro hơn nợ.
Tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn: sử dụng bất cứ nguồn tài trợ nào thì doanh nghiệp đều
tốn chi phí.

Khi ra quyết định tài trợ, xác lập cấu trúc vốn tối ưu cho doanh nghiệp cần lưu ý mỗi nguồn
vốn khi sử dụng để tài trợ đều có những đặc điểm riêng để từ đó mỗi nguồn vốn khi sử dụng đều
có những thuận lợi và bất lợi:
-

Vốn vay (Nợ): Nợ là nguồn tài trợ có chi phí sử dụng vốn rẻ nhất [2], nợ có tác động đòn
bẩy tài chính khuyếch đại thu nhập cho Chủ sở hữu mặc dù tác động này là có tính 02
Trang 5


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp

-

mặt là thuận lợi và bất lợi. Do đó, để sử dụng nợ có lợi nhất thì cần xem xét sao cho đủ

khả năng trã lãi vay, cụ thể: EBIT > 0 và EBIT/(Tài sản) >>> RD. Tuy nhiên bên cạnh
những mặt thuận lợi của vốn bằng vay nợ, thì nợ cũng có những bất lợi, đó là khi sử dụng
nợ làm cho doanh nghiệp phải đối mặt với rủi ro tài chính như là làm cho doanh nghiệp
rơi vào tình trạng mất khả năng chi trả, thậm chí kệt quệ về tài chính.
Cổ phần thường: Sử dụng vốn bằng cổ phần thường sẽ không phát sinh rủi ro tài chính
tuy nhiên chi phí khi sử dụng cổ phần thường sẽ cao hơn là sử dụng vốn bằng nợ, đồng
thời cổ phần thường không có tác động làm khuyếch đại thu nhập cho chủ sở hữu.

[1] Chủ sở hữu công ty là người bỏ vốn đầu tư vào công ty, có quyền kiểm soát điều hành doanh
nghiệp và chia sẻ rủi ro với doanh nghiệp. Ví dụ đối với doanh nghiệp nhà nước thì chủ sở hữu
là nhà nước, đối với công ty cổ phần chủ sở hữu là các cổ đông thường.
Từ đặc điểm của công ty cổ phần là có nhiều chủ sở hữu và có sự tách biệt giữa quyền sở
hữu và quyền quản lý có thể làm nảy sinh vấn đề chi phí đại diện cụ thể:
-

-

-

Từ đặc điểm công ty cổ phần thu hút được nhiều nhà đầu tư tức là có nhiều chủ sở hữu,
mặc dù sẽ giúp cho cty dễ huy động được vốn nhưng sẽ tiềm ẩn vấn đề mâu thuẫn giữa
các người chủ sở hữu với nhau làm phát sinh chi phí đại diện.
Từ đặc điểm có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, mặc dù giúp cho công
ty cổ phần những thuận lợi là dễ huy động vốn thêm, thời gian hoạt động có thể xem là
vĩnh viễn
Công ty cổ phần có thể thực hiện các chiến lược mà các loại hình DN khác không làm
được như: chính sách chia lại cổ phần, chính sách mua lại cổ phần của chính mình thì
cty cổ phần cũng có thể phải đối mặt với vấn đề chi phí đại diện do sự mâu thuẫn giữa
người chủ và người quản lý.


Chỉ tiêu thể hiện thu nhập của doanh nghiệp đó là:
-

Nếu là doanh nghiệp nhà nước: ROE = (Lãi ròng)/(Vốn chủ sở hữu)
Nếu là công ty cổ phần:
ROE = (Tổng thu nhập của cổ đông thường)/(Vốn cổ phần thường)
EPS = (Tổng thu nhập của cổ đông thường)/(Số lượng cổ phiếu thường)

[2] Vốn bằng nợ được xem là nguồn có chi phí sử dụng vốn rẻ nhất vì: xuất phát từ sự đánh đổi
giữa rủi ro và tỷ suất sinh lợi, chủ nợ khi đầu tư vốn vào doanh nghiệp ít bị rủi ro hơn cổ đông
nên tỷ suất sinh lợi mà chủ nợ đòi thấp hơn so với cổ đông; khi sử dụng nợ doanh nghiệp nhận
được khoản sinh lợi từ tấm chắn thuế của lãi vay đến từ quy định của nhà nước cho phép khấu
trừ lãi vay vào lợi tức chịu thuế trong khi cổ phần thường thì không.
b. Chức năng phân phối – Quyết định phân phối

Trang 6


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
Sau khi huy động vốn và đã sử dụng nguồn vốn đó sẽ thu được kết quả là việc tiêu thụ sản
phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp tiến hành phân phối kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình.
Ở nước ta, do tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, hình thức sở hữu khác nhau, cho nên quy
mô và phương thức phân phối ở các loại hình doanh nghiệp cũng khác nhau. Sau mỗi kỳ kinh
doanh, số tiền mà doanh nghiệp thu được bao gồm cả giá vốn và chi phí phát sinh. Do vậy các
doanh nghiệp có thể phân phối theo dạng chung như sau:
Bù đắp chi phí phân bổ cho hàng hoá đã tiêu thụ bao gồm:
-

Trị giá vốn hàng hoá.

Chi phí lưu thông và các chi phí khác mà doanh nghiệp đã đã bỏ ra như lãi vay ngân
hàng, chi phí giao dịch, lợi tức trái phiếu.
Khấu hao máy móc.

Phần còn lại sau khi bù đắp các chi phí được gọi là lợi nhuận của doanh nghiệp. Phần lợi
nhuận này, một phần phải nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức thuế, phần còn lại tuỳ
thuộc vào quy định của từng doanh nghiệp mà tiến hành chia lãi liên doanh, trả lợi tức cổ phần,
trích lập các quỹ doanh nghiệp.
Quyết định phân phối sẽ liên quan đến việc xác định tỷ lệ phần trăm hợp lý giữa phần thu
nhập của cổ đông được giữ lại để tái đầu tư và thu nhập được dùng để chi trả cổ tức. Về nguyên
tắc toàn bộ thu nhập của cổ đông thường phải được dùng để chi trả cổ tức hết cho cổ đông nhưng
trong thực tế các công ty cổ phần có thể giữ lại 01 phần hoặc toàn bộ thu nhập của cổ đông để tái
đầu tư vì các lý do:
-

-

Nếu so sánh nguồn tài trợ đến từ cổ phần thường do lợi nhuận giữ lại và cổ phần thường
đến từ phát hành mới thì nguồn tài trợ bằng cổ phần thường do lợi nhuận giữ lại bảo vệ
quyền kiểm soát cho cổ đông hiện hữu.
Tài trợ bằng cổ phần thường do lợi nhuận giữ lại có chi phí sử dụng vốn rẻ hơn vì không
tốn các chi phí phát hành cổ phần (thông qua các tổ chức phát hành bên ngoài).
Tài trợ bằng thu nhập giữ lại của cổ đông tạo ra sự chắc chắn hơn trong tăng trưởng lợi
tức cổ phần của cổ đông hiện hữu.
g (tốc độ tăng trưởng lợi tức cổ phần) = ROE x Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại

Ngoài việc xác định tỷ lệ phần trăm hợp lý giữa phần thu nhập của cổ đông được giữ lại để
tái đầu tư và phần thu nhập của cổ đông được dùng để chi trả cổ tức thì chính sách cổ tức còn
liên quan đến việc:
-


-

Xác định việc nếu chi trả cổ tức thì chi trả cổ tức bằng hình thức gì (nguyên tắc là chia cổ
tức bằng tiền, ngoài ra còn chia cổ tức bằng cổ phiếu, sản phẩm công ty hay bằng tài sản
là cổ phiếu công ty khác, chia nhỏ cổ phần hay mua lại cổ phần của chính mình).
Chính sách cổ tức còn liên quan đến việc công ty nên thực hiện chính sách cổ tức gì
(chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động - thiên về giữ lại và chỉ giữ khi biết chắc việc giữ
Trang 7


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
lại là để tái đầu tư đem lại tỷ suất sinh lợi cao hơn kỳ vọng của cổ đông, chi trả cổ tức
tiền mặt ổn định, chi trả cổ tức theo tỷ lệ chi trả không đổi hoặc chính sách chia cổ tức
nhỏ hàng quý và thưởng thêm vào cuối năm…)
c. Chức năng giám đốc – Quyết định đầu tư
Đó là khả năng khách quan để sử dụng tài chính làm công cụ kiểm tra, giám đốc bằng đồng
tiền với việc sử dụng chức năng thước đo giá trị và phương tiện thanh toán của tiền tệ. Khả năng
này biểu hiện ở chỗ, trong quá trình thực hiện chức năng phân phối, sự kiểm tra có thể diễn ra
dưới dạng: xem xét tính cần thiết, quy mô của việc phân phối các nguồn tài chính, hiệu quả của
việc phân phối qua các quỹ tiền tệ và trong nhiều phương án đầu tư, đâu là phương án đầu tư phù
hợp.
Giám đốc tài chính mang tính chất tổng hợp toàn diện, tự thân và diễn ra thường xuyên vì
giám đốc tài chính là quá trình kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính nhằm phát hiện những
ưu điểm để phát huy, tồn tại để khác phục. Thực hiện quản lý tài chính đã khẳng định, để thực
hiện triệt để và có hiệu quả việc giám đốc tài chính cần phải thường xuyên đổi mới và hoàn thiện
cơ chế quản lý tài chính phù hợp với cơ chế chính sách quản lý kinh tế và thực tiễn sản xuất kinh
doanh. Thông qua đó giúp cho việc thực hiện các giải pháp tối ưu nhằm làm lành mạnh tình hình
tài chính và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Quyết đinh đầu tư cũng liên quan đến việc quản lý tài sản, và quyết định khi nào ngừng hoạt

động và chuyển nhượng tài sản nếu lợi nhuận suy giảm. Doanh nghiệp cũng phải quản lý và
kiểm soát rủi ro của các khoản đầu tư.
Những quyết định đầu tư được gọi là quyết định ngân sách vốn hay quyết định chi tiêu vốn
(CAPEX), bởi vì hầu hết các công ty lớn đều chuẩn bị một danh mục ngân sách vốn thường niên
cho những dự án quan trọng đã được chấp thuận đầu tư. Một vài sự đầu tư bao gồm việc mua
những tài sản hữu hình (cái bạn có thể nhìn thấy và chạm vào nó) và đầu tư vào những tài sản vô
hình. Chúng bao gồm việc nghiên cứu và phát triển (R&D), quảng cáo và tiếp thị. Những doanh
nghiệp này cũng đầu tư để tiếp thị những sản phẩm hiện có của mình.
Giám đốc tài chính không thể đưa ra quyết định đầu tư lớn khi làm việc tách biệt. Họ có thể
làm việc như là một thành viên trong ban giám đốc của nhà máy, bộ phận marketing, và các
phòng ban kinh doanh khác. Ngoài ra, đừng nghĩ rằng công việc hàng ngày của giám đốc tài
chính là quyết định đầu tư lớn hàng tỷ USD. Hầu hết những quyết định đầu tư thường nhỏ hơn
và đơn giản hơn, chẳng hạn mua xe tải, vật tư máy móc hoặc hệ thống máy tính. Các doanh
nghiệp đưa ra hàng ngàn quyết định đầu tư nhỏ như thế hàng năm.

II. Tổ chức doanh nghiệp
1. Khái niệm về doanh nghiệp
Trang 8


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một pháp nhân. Trên phương diện pháp luật, doanh nghiệp là một chủ thể
pháp lý được sở hữu bởi những cổ đông. Người đại diện pháp luật của doanh nghiệp có thể ký
kết hợp đồng, thực hiện sản xuất kinh doanh, đi vay, cho vay và có thể thưa kiện hoặc bị kiện.
Một doanh nghiệp có thể thâu tóm một doanh nghiệp khác và sau đó sáp nhập hai doanh nghiệp
lại với nhau. Doanh nghiệp phải đóng thuế nhưng không có quyền bầu cử.
Theo hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp hiện hành, ở nước ta hiện nay có các loại hình
doanh nghiệp chủ yếu sau đây:
-


Doanh nghiệp nhà nước.
Công ty cổ phần.
Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Doanh nghiệp tư nhân.
Công ty hợp danh (partnership)
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
a. Doanh nghiệp nhà nước (DNNN)

DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có vốn cổ phần, vốn
góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH.
Đặc điểm của DNNN: DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn và thành lập;
DNNN có tư cách pháp nhân, được nhà nước đầu tư vốn và có quyền quản lý, sử dụng vốn, tài
sản nhà nước đầu tư; quyền định đoạt được thực hiện theo qui định của pháp luật; DNNN hoạt
động theo sự quản lý của nhà nước.
Căn cứ vào các tiêu chuẩn khác nhau mà DNNN có các loại sau đây:
-

-

Căn cứ vào tỷ lệ vốn góp của nhà nước trong doanh nghiệp, DNNN bao gồm công ty nhà
nước; công ty cổ phần nhà nước; công ty TNHH nhà nước 1 thành viên; công ty TNHH
nhà nước 2 thành viên trở lên; doanh nghiệp nhà nước có cổ phần, vốn góp chi phối.
Căn cứ vào cơ cấu tổ chức quản lý: DNNN bao gồm doanh nghiệp nhà nước có hội đồng
quản trị và doanh nghiệp nhà nước không có hội đồng quản trị.

Doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách Nhà nước (NSNN) theo đúng qui định của
pháp luật, phần lợi nhuận còn lại được phân phối và sử dụng theo chính sách của nhà nước.
b. Doanh nghiệp tư nhân (DNTN):
Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp do chủ doanh

nghiệp tự đăng ký và có quyền tăng và giảm vốn đầu tư. Trường hợp giảm vốn đầu tư thấp hơn
số vốn đã đăng ký thì chủ doanh nghiệp phải khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh. Chủ
doanh nghiệp toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sau
khi hoàn thành nghĩa vụ đối với NSNN, chủ doanh nghiệp có toàn quyền quyết định về việc sử
dụng phần thu nhập còn lại. Chủ doanh nghiệp có quyền thuê người khác quản lý, điều hành hoạt
động kinh doanh nhưng phải khai báo với cơ quan đang ký kinh doanh.
Trang 9


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
c. Công ty cổ phần
Là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần
bằng nhau gọi là cổ phần. Người góp vốn dưới hình thức mua cổ phiếu gọi là cổ đông. Cổ đông
trong công ty cổ phần có thể là tổ chức, cá nhân, nhưng số thành viên sáng lập công ty ít nhất là
3 người và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi
số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Công ty được quyền phát hành chứng khoán ra công chúng.
Thu nhập của công ty sau khi trang trải các khoản chi phí bỏ ra và hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế
cho nhà nước, công ty dùng một phần lợi nhuận để tái đầu tư mở rộng sản xuất và chi tiêu cho
mục đích chung. Một phần khác chia cho các cổ đông và coi đây là lợi tức cổ phần (cổ tức).
d. Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên
Là một doanh nghiệp do một thành viên làm chủ sở hữu, thành viên có thể là một tổ chức hay
một cá nhân. Công ty có tư cách pháp nhân và không được phép phát hành cổ phiếu và chịu trách
nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp. Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc
một phần vốn điều lệ của công ty cho tổ chức hoặc cá nhân khác.
e. Công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên
Là doanh nghiệp trong đó thành viên có thể là tổ chức, cá nhân với số lượng không vượt quá
50 người. Vốn của công ty chia ra thành từng phần gọi là phần vốn góp, các phần vốn góp không
thể hiện dưới hình thức cổ phiếu và họ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phần vốn góp của mình. Công ty có tư cách pháp nhân và không được quyền phát hành cổ phiếu.
Thu nhập của công ty sau khi bù đắp lại những chi phí đã bỏ ra và hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế

cho nhà nước, phần còn lại thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp. Nếu là công ty do nhiều
người hùn vốn, phần này sau khi trích lập các quỹ, số còn lại được đem chia cho các chủ sở hữu
theo tỷ lệ phần vốn góp của mỗi người.
f. Công ty hợp danh
Là doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất 2 thành viên hợp danh và có thể có thành viên góp
vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về các nghĩa vụ của Công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần
vốn góp. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ khi có giấy đăng ký kinh doanh, và không
được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty,
tiến hành hoạt động kinh doanh nhân danh công ty. Thành viên góp vốn có quyền được chia lợi
nhuận theo tỷ lệ theo quy định của điều lệ công ty nhưng không được tham gia quản lý công ty
và hoạt động nhân danh công ty.
g. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp liên doanh: Là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng
liên doanh ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.
Công ty liên doanh có tư cách pháp nhân và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp.
Trang 10


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
Đối với loại hình này, việc hình thành vốn ban đầu, quá trình bổ sung vốn, việc phân chia lợi tức,
thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước... đều được xác định rõ ràng trong một văn kiện cụ thể dưới
hình thức hợp đồng hoặc điều lệ bảo đảm lợi ích cho các bên.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm
về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp này được thành lập theo hình thức công ty chịu trách
nhiệm hữu hạn và có tư cách pháp nhân.
Hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh: Là văn bản ký kết giữ hai bên hoặc nhiều bên để
tiến hành đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam, trong đó qui định trách nhiệm và phân chia kết quả
kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới. Các hình thức hợp đồng hợp tác

kinh doanh bao gồm hình thức BOT, BTO và BT.
h. Hợp tác xã (HTX)
HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các xã viên có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp
vốn, góp sức lập ra theo quy định của luật HTX để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã
viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động SXKD và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Các xã viên có thể là cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân; HTX hoạt động như một loại hình DN,
có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn
điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật; tổ chức kinh
tế mang tính xã hội & hợp tác cao; tài sản của HTX thuộc sở hữu của HTX được hình thành từ
vốn góp của xã viên hoặc được hỗ trợ bởi nhà nước; nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX:
nguyên tắc tự nguyện; nguyên tắc quản lý dân chủ, bình đẳng và công khai; nguyên tắc tự chủ, tự
chịu trách nhiệm và cùng có lợi; nguyên tắc hợp tác và phát triển cộng đồng.Một doanh nghiệp
nhỏ có thể chỉ có một cá nhân sở hữu và quản lý. Loại hình công ty này được gọi là công ty tư
nhân. Trong một trường hợp khác, chủ sở hữu có thể không phải chỉ duy nhất một người mà có
thể có thêm một cài cá nhân khác tham gia đồng sở hữu và quản lý thì loại hinh donah nghiệp
này được gọi là công ty hợp danh.
2. Cơ cấu tổ chức
Hầu hết các công ty có quy mô lớn hay trung bình đều được tổ chức dưới dạng công ty cổ
phần, do đó, chúng ta chủ yếu sẽ xem xét cơ cấu tổ chức đối với công ty cổ phần. Những công ty
cổ phần này được sở hữu bởi các cổ đông, đó là những nhà đầu tư đã góp vốn thông qua việc
nắm giữ các cổ phần giấu cứng nhận góp vốn của các công ty này.
Khi một doanh nghiệp được thành lập, cổ phần của nó có thể chỉ được nắm giữ bởi một
nhóm nhỏ các nhà đầu tư, chẳng hạn như các nhà quản lý của công ty và một vài người cùng
chung vốn. Trong trường hợp này, cổ phần của công ty không được mua bán, giao dịch công khai
rộng rãi trong công chúng và công ty được gọi là công ty cổ phần nội bộ (nắm giữ nội bộ). Sau

Trang 11



Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
đó, khi công ty bắt đầu phát triển và cổ phần mới được phát hành để gia tăng thêm vốn, cổ phần
của nó sẽ được mua bán ở các thị trường chứng khoán. Và lúc này, những công ty này được gọi
là công ty cổ phần đại chúng. Hầu hết các công ty lớn đều được tổ chức dưới dạng công ty cổ
phần đại chúng.
Sơ đồ cơ cấu bộ phận tài chính của công ty cổ phần
Hội đồng quản trị

Tổng giám đốc

Giám đốc tài chính

Giám đốc vốn

Bộ phận quản trị tín dụng

Bộ phận chi tiêu vốn

Kế toán trưởng

Bộ phận quản trị tiền mặt

Bộ phận quản lý thuế

Bộ phận kế toán chi phí

Bộ phận lập kế hoạch tài chính

Bộ phận kế toán tài chính


Bộ phận quản lý hệ thống dữ liệu

Một công ty cổ phần sẽ bao gồm các cổ đông là những người nắm quyền sở hữu công ty
nhưng họ không hẳn là người trực tiếp quản lý công ty. Thay vì tham gia quản lý trực tiếp thì
những cổ đông này sẽ bỏ phiếu để lựa chọn một Hội đồng quản trị. Một trọng số thành viên Hội
đồng quản trị có thể kiêm nhiệm chức năng quản lý cao nhất là Tổng Giám đốc hoặc chức danh
này có thể dược Hội đồng quản trị lựa chọn từ một người bên ngoài không phải là cổ đông của
công ty. Hội đồng quản trị đại diện cho quyền lợi của các cổ đông và bổ nhiệm các chức danh
quản lý cao nhất của công ty đồng thời có nhiệm vụ đảm bảo các hoạt động của các nhà quản lý
luôn tuân theo đúng mục tiêu tối đa hóa giá trị lợi ích của các chủ sở hữu.
Hầu hết ở các tập đoàn lớn, bên dưới Tổng Giám đốc đều có một Giám đốc tài chính (CFO),
đây là người giám sát công việc của tất cả các nhân viên phòng tài chính. Giám đốc tài chính là
người tham gia trực tiếp trong chính sách tài chính, kế hoạch tài chính và tiếp xúc thường xuyên
với các Giám đốc điều hành (CEO) và quản lý hàng đầu khác. Các giám đốc tài chính là người
phụ trách cao nhất về tài chính công ty đồng thời cũng có trách nhiệm quản lý điều hành toàn bộ
hoạt động chung của một công ty với mức độ vượt hơn chuyên môn chính về tài chính của họ.
Trang 12


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
Bên dưới Giám đốc tài chính thường là một Giám đốc vốn và một Kế toán trưởng. Giám đốc
vốn chịu trách nhiệm quản lý dòng tiền, tìm kiếm huy động nguồn vốn mới, và duy trì mối quan
hệ với ngân hàng. Kế toán trưởng quản lý hệ thống kế toán nội bộ của công ty và giám sát việc
chuẩn bị các báo cáo tài chính và báo cáo thuế. Các công ty lớn có hàng chục các chuyên gia
quản lý tài chính, bao gồm luật sư và kế toán thuế, các chuyên gia trong việc hoạch định tài
chính, dự báo và các nhà quản lý chịu trách nhiệm đầu tư một phần tiền dành cho việc phúc lợi,
nghỉ hưu của nhân viên.
Việc tách biệt quyền sở hữu và quyền quản lý này giúp doanh nghiệp có thời gian hoạt động
gần như là vĩnh viễn. Kể cả khi nhà quản lý từ nhiệm hoặc bị bãi nhiệm và thay thế, doanh
nghiệp vẫn tồn tại. Các nhà đầu tư ngày nay cũng có thể bán các cổ phần của họ cho các nhà đầu

tư mới mà không làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp có thể tồn tại mãi
mãi, và trong thực tế nhiều doanh nghiệp tồn tại rất lâu đời.
Tuy nhiên việc chia nhỏ quyền sở hữu và quản lý có thể có những mặt trái, nó có thể tạo cơ
sở cho các quản lý và ban giám đốc trục lợi cá nhân thay vì lợi ích của cổ đông.
3. Vai trò của nhà quản trị tài chính
Các Giám đốc tài chính là chiếc cầu nối giữa hoạt động của một doanh nghiệp và thị trường
tài chính. Thị trường tài chính là nơi mà ở đó các nhà đầu tư đang nắm giữ các tài sản tài chính
được phát hành bởi các công ty.
Vai trò của Giám đốc tài chính thể hiện trong sơ đồ dòng chảy của tiền mặt đi từ nhà đầu tư
đến công ty và sau đó quay trở lại nhà đầu tư.
Dòng chảy của tiền mặt giữa thị trường tài chính và các hoạt động của công ty.
Các hoạt động của một
công ty (tất cả các tài sản
thực)
Hoạt động chính:

(2)

Giám đốc tài
chính

(3)

(1)

Thị trường tài chính (các
(4a) nhà đầu tư nắm giữ các
tài sản tài chính)

(4b)


(1) Tiền huy động bằng cách bán tài sản tài chính cho nhà đầu tư;
(2) tiền đầu tư vào các hoạt động của công ty và được sử dụng để mua các tài sản;
(3) tiền mặt được tạo ra bởi các hoạt động của công ty;
(4a) tiền được tái đầu tư;
(4b) tiền trả lại cho nhà đầu tư.
Dòng chảy bắt đầu khi tiền được huy động từ các nhà đầu tư (mũi tên 1 trong hình). Số tiền
có thể đến từ các ngân hàng hoặc từ các chứng khoán được bán cho các nhà đầu tư trong thị
trường tài chính. Số tiền này được dùng để chi mua sắm các tài sản thực sử dụng cho hoạt động
kinh doanh (mũi tên 2). Sau đó, khi các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, thì các tài sản thực
này sẽ tạo nên dòng tiền gia tăng để hoàn trả vốn đầu tư ban đầu (mũi tên 3). Cuối cùng, tiền mặt
Trang 13


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
hoặc là được tái đầu tư (mũi tên 4a) hoặc hoàn trả lại cho các nhà đầu tư, những người đã mua
chúng khoán mà công ty phát hành lúc ban (mũi tên 4b). Tất nhiên, sự lựa chọn giữa các mũi tên
4a và 4b bị hạn chế bởi những lời hứa khi huy động tiền ở mũi tên 1 [3]. Ví dụ, nếu công ty vay
mượn tiền từ một ngân hàng tại mũi tên 1, thì sau đó ngân hàng phải hoàn trả số tiền gốc cộng lãi
vay tại mũi tên 4b.
[3] Sự đánh đổi đầu tư: Nếu Công ty có đề xuất một dự án đầu tư (một tài sản thực sự). Giả sử
công ty có đủ tiền mặt để tài trợ cho dự án. Giám đốc tài chính sẽ phải quyết định đầu tư vào dự
án hay không. Nếu Giám đốc tài chính quyết định không đầu tư, công ty có thể trả cổ tức cho
các cổ đông không.
Các công ty có thể giữ lại và tái đầu tư tiền hoặc trả lại cho nhà đầu tư (Mũi tên đại diện cho
các dòng tiền hoặc chuyển tiền.) Nếu tiền được tái đầu tư, chi phí cơ hội là tỷ lệ lợi nhuận kỳ
vọng mà các cổ đông có thể thu được bằng cách đầu tư vào các tài sản tài chính.
Tiền

Cơ hội đầu

tư (tài sản
thực)

Giám đốc
tài chính
Đầu tư

Cơ hội đầu tư
(tài sản tài chính)

Các cổ
đông
Lựa chọn thay
thế : trả cổ tức
cho cổ đông

Cổ đông tự
đầu tư

Giả sử rằng giám đốc tài chính hành động vì lợi ích của chủ sở hữu công ty và các cổ đông
của mình. Các cổ đông muốn giám đốc tài chính làm những gì? Câu trả lời phụ thuộc vào tỉ suất
lợi nhuận trên vốn đầu tư dự án và tỷ lệ lợi nhuận mà các cổ đông có thể kiếm được bằng cách
đầu tư vào các thị trường tài chính. Nếu lợi nhuận được cung cấp bởi các dự án đầu tư là cao
hơn so với tỷ lệ lợi tức mà cổ đông có thể nhận được bằng cách đầu tư riêng của họ, thì các cổ
đông sẽ bỏ phiếu cho các dự án đầu tư đó. Nếu các dự án đầu tư mang lại thu nhập thấp hơn so
với các cổ đông có thể đạt được của riêng mình,thì các cổ đông sẽ bỏ phiếu để hủy bỏ dự án và
lấy tiền mặt để thay thế.
Miễn là đề xuất đầu tư của công ty đưa ra một mức tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với các cổ
đông có thể kiếm được cho mình trên thị trường chứng khoán (hoặc tại các thị trường tài chính
khác), các cổ đông sẽ thích thú với các khoản đầu tư này và giá cổ phiếu công ty sẽ tăng lên.

Nhưng nếu công ty kiếm được một lợi nhuận kém, khiến các cổ đông phàn nàn, giá cổ phiếu
giảm, và các cổ đông sẽ thu hồi vốn đầu tư của họ bằng cách bán đi các cổ phiếu để họ có thể tự
đầu tư.

Trang 14


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
Tỷ lệ lợi nhuận tối thiểu này được gọi là tỷ lệ chiết khấu (tỷ lệ ngưỡng) hoặc chi phí cơ hội
của vốn. Đây thực sự là chi phí cơ hội của vốn, bởi vì nó phụ thuộc vào các cơ hội đầu tư cho
nhà đầu tư trong thị trường tài chính. Bất cứ khi nào một công ty đầu tư tiền vào một dự án mới,
các cổ đông của mình sẽ mất đi cơ hội để tự đầu tư. Để gia tăng giá trị doanh nghiệp, các công
ty chấp nhận tất cả các dự án đầu tư có tỷ suất sinh lời cao hơn chi phí cơ hội của vốn.
4. Mục tiêu của doanh nghiệp
-

Cổ đông muốn các nhà quản lý tối đa hóa giá trị thị trường

Một nhà quản lý thông minh và hiệu quả sẽ có các quyết định làm tăng giá trị hiện tại của cổ
phiếu của công ty và sự giàu có cho các cổ đông của mình. Phần tài sản tăng thêm này có thể
được đưa vào bất kỳ mục đích nào mà các cổ đông muốn. Họ có thể đưa tiền của họ để làm từ
thiện hay dùng tiền trong mục đích giải trí; họ có thể tiết kiệm hay chi tiêu ngay bây giờ. Dù là
phục vụ cho sở thích hay mục tiêu cá nhân, thì họ đều có thể làm được nhiều điều hơn khi giá cổ
phiếu của họ có giá trị hơn.
Tối đa hoá giá trị cho các cổ đông là một mục tiêu hợp lý khi các cổ đông có quyền tham gia
vào các hoạt động trong thị trường tài chính. Các thị trường tài chính này cho phép họ chia sẻ rủi
ro và lợi ích trong thời gian dài. Những thị trường tài chính cung cấp cho họ sự linh hoạt để quản
lý các kế hoạch tiết kiệm và đầu tư, để các nhà quản lý tài chính của công ty chỉ có một nhiệm
vụ: làm tăng giá trị thị trường cổ phiếu của công ty.
Các cổ đông công ty thường bao gồm cả các nhà đầu tư mạo hiểm và nhà đầu tư thận trọng.

Bạn có thể nghĩ rằng các nhà đầu tư không thích mạo hiểm nói rằng, “Chắc chắn rồi, tối đa hóa
giá trị, nhưng đừng đụng đến các dự án có rủi ro cao.” Thay vào đó, các nhà đầu tư nói “các dự
án rủi ro cũng được, miễn là lợi nhuận dự kiến đủ để bù đắp những rủi ro. Nếu công ty lựa chọn
những dự án có quá nhiều rủi ro cho tôi, tôi sẽ điều chỉnh danh mục đầu tư của mình để an toàn
hơn”. Ví dụ, các cổ đông chấp nhận rủi ro có thể thay đổi nhiều của danh mục đầu tư của họ đối
với tài sản an toàn như trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ. Họ cũng có thể nói lời tạm biệt, bán cổ
phiếu của các công ty mạo hiểm và mua cổ phần của một công ty an toàn hơn. Nếu các khoản
đầu tư rủi ro làm tăng giá trị thị trường, thì lựa chọn của cổ đông sẽ tốt hơn là từ chối các khoản
đầu tư mạo hiểm.

Trang 15


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
-

Các nhà quản lý có nên quan tâm đến quyền lợi các cổ đông của họ hay không

Không có quy định nào đòi hỏi những cổ đông bình thường phải làm tốt hơn. Trong hầu hết
các trường hợp, có rất ít những quan điểm bất đồng giữa việc làm thật xuất sắc (tối đa hóa giá trị)
và chỉ làm tốt. Các công ty có lợi nhuận là những công ty làm khách hàng hài lòng và có những
nhân viên trung thành; công ty không giữ được sự hài lòng của khách hàng và có một lực lượng
lao động bất mãn có thể sẽ kết thúc với lợi nhuận suy giảm và giá cổ phiếu xuống thấp.
Hầu hết các công ty có thể làm tăng thêm giá trị của mình bằng cách xây dựng mối quan hệ
lâu dài với khách hàng của họ và thiết lập một danh tiếng cho giao dịch công bằng và liêm chính.
Khi danh tiếng đó bị suy giảm, các chi phí bỏ ra có thể rất lớn.
Theo quy định tại Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2014, công ty cổ phần có quyền lựa chọn tổ
chức quản lý và hoạt động theo một trong 2 mô hình, trừ trường hợp pháp luật về chứng khoán
có quy định khác.



Thứ nhất, cơ cấu tổ chức quản lý của công ty cổ phần gồm có đại hội đồng cổ đông,



hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng giám đốc và ban kiểm soát (bắt buộc phải có
với công ty có từ 11 cổ đông trở lên hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu từ 50% tổng
số cổ phần của công ty).
Thứ hai, cơ cấu tổ chức quản lý của công ty gồm có: Đại hội đồng cổ đông, hội đồng
quản trị và giám đốc hoặc tổng giám đốc. Trong trường hợp này ít nhất 20% số thành
viên hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và có Ban kiểm toán nội bộ trực
thuộc hội đồng quản trị.

Như vậy, có thể dễ dàng nhận thấy, vai trò của thành viên hội đồng quản trị độc lập cũng
nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu, kiểm soát hoạt động của bộ máy quản lý, điều hành
doanh nghiệp. Trong công ty cổ phần luôn tồn tại nguy cơ xung đột về lợi ích giữa các cổ đông
công ty với tư cách là người sở hữu vốn với bên kia là những người quản lý điều hành công ty
với tư cách là người trực tiếp sử dụng vốn.
Trên thực tế, những người quản lý, điều hành có thể không phải là những cổ đông nắm giữ đa
số cổ phần của công ty nhưng có quyền quản lý điều hành công ty, trực tiếp sử dụng vốn. Như
vậy, hoàn toàn có thể xảy ra nguy cơ những người này sẽ ưu tiên quyền lợi của cá nhân hoặc lợi
ích của nhóm mình mà bỏ qua lợi ích của cổ đông nói chung. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến
việc đặt ra các quy định về thành viên Hội đồng quản trị độc lập trong pháp luật về quản trị
doanh nghiệp của các nước nói chung và Việt Nam nói riêng.
III.Sự phân định giữa quyền sở hữu và quyền quản lý và chi phí đại diện
1. Sự phân định giữa quyền sở hữu và quyền quản lý
Trong một nền kinh tế đầy biến động và phức tạp, quy mô của doanh nghiệp càng lớn và sự
cạnh tranh càng gay gắt, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn tìm tòi và phát triển một cơ cấu tổ

Trang 16



Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
chức hoàn thiện và hợp lý. Ở đó vai trò của người quản trị là cực kỳ quan trọng và quyết định
mức độ tồn tại và phát triển của công ty.
Không phải ngẫu nhiên mà trong các công ty lớn có sự phân định giữa quyền sở hữu và
quyền quản lý. Có một số nguyên nhân dẫn tới điều này và tất cả cũng đều nhằm mục đích giúp
cho doanh nghiệp phát triển tốt hơn và nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty.
Thứ nhất, đôi khi việc điều hành trực tiếp của các chủ doanh nghiệp trở nên thiếu khả thi và
không hiệu quả. Việc điều hành những doanh nghiệp có quy mô lớn và phức tạp đòi hỏi những
kỹ năng phẩm chất mà không phải nhà đầu tư nào cũng có được.
Thực tế đó dẫn tới sự tách biệt giữa quyền quản lý và quyền kiểm soát. Những người có vốn
nhưng không có khả năng quản lý đầu tư vào các doanh nghiệp. Các ông chủ này sẽ thuê những
chuyên gia có đủ năng lực đến điều hành doanh nghiệp của mình. Những người này có chuyên
môn(và thường có kinh nghiệm về lĩnh vực mà họ đảm nhận) nên sẽ được người chủ giao quyền
quản lý.
Thứ hai, việc phân định giữa quyền sở hữu và quyền quản lý cho phép chia nhỏ quyền sở
hữu theo những phần vốn góp và từ đó sự thay đổi chuyển nhượng quyền sở hữu sẽ không gây
phiền phức đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì thế, việc công ty thuê những
người quản lý chuyên nghiệp để điều hành công ty của mình theo hướng hiệu quả nhất nhưng
vẫn đảm bảo mục tiêu ban đầu của các chủ sở hữu.
Tuy nhiên, sự phân định giữa quyền sở hữu và quyền quản lý cũng làm nảy sinh những nguy
cơ khiến cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không ở mức tối ưu, gây thiệt hại cho các nhà
đầu tư; đó là khi mục tiêu của các chủ sở hữu và người quản lý không giống nhau.
2. Chi phí đại diện
a. Khái niệm
Chí phí đại diện là loại chi phí phát sinh khi một tổ chức gặp phải vấn đề về sự thiếu đồng
thuận giữa mục đích của người quản trị và người sở hữu và vấn đề thông tin bất cân xứng.
Chi phí đại diện nảy sinh khi người đại diện làm việc cho người chủ công ty. Cổ đông là
những người chủ công ty, nhà quản lý là người đại diện của họ. Chi phí đại diện bị thiệt hại khi

nhà quản lý không nỗ lực để tối đa hóa giá trị công ty và cổ đông chịu chi phí giám sát quản lý
và hạn chế hoạt động sai trái của họ và chi phí đại diện có thể nảy sinh trong lĩnh vực tài chính
Chi phí đại diện chỉ xuất hiện khi có sự phân quyền sở hữu và phân quyền quản lý, sự phân
định này xuất hiện trong loại hình công ty cổ phần và doanh nghiệp nhà nước, Đây cũng chính là
lợi thế của công ty tư nhân, người chủ và người quản lý không có sự mâu thuẩn về lợi ích.
(M) :chi phí theo dõi bởi người chủ.
(B) :chi phí ràng buộc bởi người đại diện.
(R) :sự mất mát.

Trang 17


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
Khi đó, chi phí đại diện sẽ là :(M) +(B) +(R)
Vậy: Tổng chi phí theo dõi, ràng buộc, và mất mát phụ trội được gọi là chi phí đại diện vì
chúng xuất phát từ các mối quan hệ giữa người chủ và người quản lý. Những chi phí để giám sát
người đại diện để đảm bảo rằng người đại diện gắn với lợi ích của người chủ
b. Phân lọai về chi phí đại diện
-

Chi phí đại diện của vốn cổ phần

Đây là một loại chi phí xuất phát từ mâu thuẫn lợi ích giữa cổ đông và nhà quản lý do sự tách
biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý của công ty.
Khi công ty cổ phần bị giới hạn hoặc mất kiểm soát đối với người quản lý thì phái quản sẽ có
động cơ tiến hành những hoạt động có lợi cho bản thân và có thể gây bất lợi cho công ty.
Chi phí đại diện vố cổ phần cũng xuất hiện trong tình huống nhà quản lý thường xuyên thực
hiện những chiến lược tham vào những lĩnh vực kinh doanh mà công ty không có lợi thế về cạnh
tranh.
-


Chi phí đại diện của nợ:

Chi phí này xuất phát từ mâu thuẫn lợi ích giữa cổ đông và chủ nợ.
Theo Ross và Westerfield (tác giả cuốn Corporate Finance, phiên bản thứ 7 ): khi doanh
nghiệp mang một khoản nợ, sẽ có xung đột lợi ích phát sinh giữa cổ đông (người nắm giữ cổ
phiếu) và trái chủ (người nắm giữ trái phiếu) của doanh nghiệp (nếu doanh nghiệp có phát hành
trái phiếu). Xung đột phát sinh ở chỗ người sở hữu (cổ đông công ty) thường muốn theo đuổi
những chiến lược hoạt động có tính "ích kỷ", điều này làm phát sinh chi phí đại diện (agency
cost). Những chiến lược "ích kỷ" này thường tốn kém do chúng làm giảm giá trị thị trường của
toàn doanh nghiệp, chẳng hạn một chiến lược kinh doanh với mức độ rủi ro cao; hoặc một chiến
lược nhắm vào đầu tư những tài sản có độ rủi ro thấp hơn kỳ vọng của trái chủ (trái chủ với mức
đầu tư của mình vào doanh nghiệp, ở dạng cho vay, có những kỳ vọng riêng về mức độ rủi ro
trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp để đảm bảo lợi ích tối đa cho mình) - còn gọi là
underinvestment problem; hoặc cũng có thể là chiến lược nhằm vắt kiệt lợi ích mà tài sản hiện tại
của công ty có thể sinh ra phục vụ cho mục đích của cổ đông - còn gọi là milking the property
hay milking strategy.
-

Chi phí đại diện do bất cân xứng thông tin [4]

Chi phí do bất cân xứng thông tin giữa nhà đầu tư và nhà quản lý cũng là một dạng của chi
phí đại diện. Nhà quản lý có những thông tin mà nhà đầu tư không thể có hoặc không muốn có vì
chi phí để thu thập các thông tin đó là quá cao.
Nhà quản lý có thể không nỗ lực với khản năng cao nhất của mình, do đó làm giảm hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp, nhà quản lý có thể quyết định không đầu tư nguồn lực vào dự án có
khản năng sinh lời cao trong tương lai vì làm như vậy làm ảnh hưởng tới lợi nhuận ngắn hạn gây

Trang 18



Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
bất lượi cho thu nhập của nhà quản lý, thậm chí nhà quản lý không báo cáo trung thực kêt quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp dẫn tới các quyết định không đúng đắn của nhà đầu tư.
Ví dụ: Việc thao túng giá cổ phiếu của công ty, như vậy sẽ làm cho giá cổ phiếu của công ty
tăng (việc thao túng này được cổ đông với nhà đầu cơ liên kết với nhau tạo nên) nhưng những
nhà đầu tư thì không biết được thông tin này nên đầu tư vào, dẫn tới việc thua lỗ khi giá cổ phiếu
nhanh chóng giảm.
[4] Thông tin bất cân xứng (asymmetrical information hoặc information asymmetry)
Trong kinh tế học nói chung, tình trạng thông tin bất cân xứng phát sinh khi trong một giao
dịch, một trong các bên tham gia có nhiều thông tin hơn hoặc có thông tin tốt hơn các bên còn
lại.
Mô hình thông tin bất cân xứng trong kinh tế học giả định rằng có ít nhất một bên tham gia
giao dịch phải có thông tin ở mức độ tốt hơn (các) bên còn lại. Hoặc cũng có thể là trường hợp
một bên tham gia có khả năng áp đặt, tác động hoặc phả ứng lại một hay một số điều khoản bị
phá vỡ trong thỏa thuận mà (các) bên còn lại ko có năng lực đó.
Thông tin bất cân xứng là nguồn gốc hình thành hai vấn đề "Rủi ro đạo đức" và "Lựa chọn
đối nghịch".
Rủi ro đạo đức (moral hazard), xét trên góc độ kinh tế học, là khái niệm phản ánh khả năng
việc tái phân bổ rủi ro (chẳng hạn như trong hợp đồng bảo hiểm - rủi ro được chuyển từ người
được bảo hiểm sang người nhận bảo hiểm - công ty bảo hiểm) sẽ làm thay đổi hành vi của người
tham gia/có liên quan. Chẳng hạn khi một người sở hữu xe hơi và mua bảo hiểm cho xe của
mình khi bị trộm thì bản thân người đó sẽ giảm đi ý thức khóa xe so với khi họ chưa có bảo
hiểm.
c. Ví dụ thực tế về chi phí đại diện:
-

Ví dụ 1: Về trường hợp Công ty Coca – Cola:

Từ năm 1994 công ty Coca-Cola của Mỹ đã thâm nhập thị trường Việt Nam, lúc bấy giờ thì

do chế độ chính sách của nhà nước mình chưa cho thành lập công ty có 100% vốn đầu tư nước
ngoài, do vậy công ty này đã chấp nhận hình thức công ty liên doanh vốn 70 -30, vốn của nhà
nước Việt Nam là 30%, Vì đang theo đuổi mục tiêu là 100% vốn của chính mình nên công ty
Coca-Cola đã thực hiện chính sách lỗ dài hạn, tạo nên sức ép tài chính và dán tiếp buộc Công ty
Việt Nam phải bán cổ phần của mình lại cho Coca cola, vì vậy công ty coca cola đã thực hiện
được mục tiêu 100% vốn của mỹ và toàn quyền kiểm soát công ty. Đó cũng là một loại chi phí
đại diện vì có sự đối kháng mục tiêu giữa các chủ sở hữu công ty
-

Ví dụ 2: Thực tế về Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết

Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết tiền thân là nhà máy Cobovina Bạch Tuyết, được thành
lập năm 1960. Sản phẩm chính của nhà máy là bông y tế và băng vệ sinh phụ nữ. Sau ngày

Trang 19


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
30/4/1975, nhà máy Cobovina Bạch Tuyết được Nhà nước quốc hữu hóa và trực thuộc liên hiệp
xí nghiệp Dệt Hồng Gấm. Sau đó, nhà máy đổi tên thành xí nghiệp Quốc doanh Bông Bạch
Tuyết vào năm 1979. Năm 1992 tiếp tục đổi tên thành công ty Bông Bạch Tuyết. Đây cũng là
thời điểm đánh dấu những bước phát triển mạnh mẽ khi công ty trở thành doanh nghiệp tiên
phong nhập khẩu dây chuyền sản xuất băng vệ sinh dán. Cải tiến công nghệ, tung sản phẩm mới
chiếm lĩnh thị trường, sản phẩm của Bông Bạch Tuyết nhanh chóng bao phủ khắp thị trường cả
nước.
Suốt giai đoạn 1997-2002, sản phẩm bông y tế của công ty chiếm tới 90% thị phần cả nước,
còn thị phần băng vệ sinh phụ nữ là 30%. Con đường thênh thang đưa Bông Bạch Tuyết trở
thành công ty thứ 23 niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam vào năm 2004. Nhưng cũng kể từ
đây, chuỗi những tháng năm thua lỗ của doanh nghiệp này bắt đầu.
Năm 2006, 2007 Bông Bạch Tuyết thua lỗ đến 15 tỷ đồng. Năm 2008 công ty bị bủa vây bởi

các khoản nợ ngân hàng.
Theo phân tích của giới chuyên gia, Bông Bạch Tuyết đã sai lầm trong chính sách đầu tư.
Không tập trung chính vào mảng mình có thế mạnh là bông y tế mà dàn trải, thiếu nghiên cứu
khi mạnh tay đầu tư cho sản phẩm băng vệ sinh phụ nữ. Cùng với đó là sự bòn rút của chính
những người lãnh đạo cũ khiến công ty bị ảnh hưởng không nhỏ.
Theo kết quả thanh tra toàn diện hoạt động sản xuất kinh doanh của Bông Bạch Tuyết từ năm
2005-2008, đã có nhiều khoản tài chính thiếu minh bạch. Thí dụ dự án xây dựng bệnh viện Bạch
Tuyết sau 8 tháng triển khai đã chi 464 triệu đồng, trong đó 355 triệu đồng chi tiếp khách trong
khi dự án chưa thực hiện được một công tác cơ bản nào. Hay việc trả lương tổng giám đốc vượt
quá hạn mức khi công ty thua lỗ (giai đoạn 2006-2008)… Tất cả đã tạo nên một cơn lốc cuốn
phăng đi những ngày huy hoàng của thương hiệu này.
Thực tế, qua câu chuyện của Công ty CP Bông Bạch Tuyết có “hình dáng” của chi phí đại
diện rất rõ ràng dẫn đến Công ty từ một thương hiệu lớn đã xuống dốc một cách không phanh, cụ
thể một vài điểm sau:
• Thông tin thiếu minh bạch hay còn gọi là bất cân xứng thông tin: công ty đã tồn tại sự sa
sút trong khoảng thời gian khá lâu nhưng không được bộc lộ qua các báo cáo tài chính, không
chỉ riêng các cổ đông mà cả cơ quan quản lý thị trường đều bị qua mặt một cách dễ dàng;
• Mâu thuẫn giữa các cổ đông: trong hai năm liên tiếp 2006 – 2007, công ty thua lỗ hơn 14
tỷ đồng; theo như báo cáo thì dư nợ đến ngày 29/7/2008 công ty có dư nợ tại Maritime Bank
21,4 tỷ đồng, nợ gốc đã quá hạn 6,4 tỷ đồng, nợ lãi đến hạn trong kỳ tháng 7 là 318 triệu đồng 
công ty đang trên bờ vực phá sản và tại phương án phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ để giải
quyết khó khăn tài chính của Bông Bạch Tuyết tại Đại Hội Cổ Đông ngày 14/7/2008 vấp phải ý
kiến phản đối của một số cổ đông, trong đó có cổ đông lớn giữ 30% vốn điều lệ là công ty Dệt
may Gia Định và vụ kiện, ẩu đã lẫn nhau trong nội bộ giữa công ty Dệt may Gia Định và Ông Tạ

Trang 20


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
Xuân Thọ - Giám đốc công ty Bông Bạch Tuyết là mâu thuẫn sâu sắc giữa nhà quản lý với chủ

sở hữu, ngay cả khi công ty đang trên bờ vực phá sản.
3. Giải pháp tối thiểu hóa chi phí đại diện
Như chúng ta đã biết chi phí đại diện xuất hiện khi các nhà quản lý không cố gắng thực hiện
tối đa hóa giá trị công ty cũng như các cổ đông vì phải kiểm soát ban quản lý nên cần tác động
vào công việc của họ và do đó sẽ phát sinh chi phí.
Do vậy, việc tối thiểu hóa chi phí đại diện và việc làm rất cần thiết của tất cả các công ty. Một
số giải pháp chính đề xuất như sau:
a. Đối với các Công ty cổ phần:
-

Xây dựng cơ chế lương – thưởng cho nhà quản lý gắn liền với việc gia tăng giá trị cho lợi
ích của cổ đông:

Việc gắn chặt quyền lợi của cổ đông với chế độ lương – thưởng hợp lý cho nhà quản lý có
thể tối thiểu hóa chi phí đại diện qua các hình thức như: chi trả cổ phiếu thưởng cho nhà quản lý
hàng năm tương ứng với mục tiêu, kết quả kinh doanh mà nhà quản lý đã giúp công ty đi lên như
thế nào; tuy nhiên, có thể nghiên cứu các cổ phiếu thưởng này có thể giới hạn quyền được bán số
cổ phiếu này (phong tỏa tạm thời), ví dụ như sau 03 năm mới được giải tỏa số cố phiếu này. Việc
làm này sẽ giúp cho nhà quản lý yên tâm quản lý công ty theo đúng mục tiêu mà cổ đông mong
muốn nhận được vì sẽ giúp cho cả đôi bên cùng có lợi (các cổ đông hiện hữu và nhà quản lý
cũng đang sở hữu số lượng cổ phiếu thưởng mà công ty thưởng cho mình do thành tích tốt).
Xây dựng các cơ chế tưởng thưởng xứng đáng với sự nỗ lực của nhà quản lý trong hoạt động
của công ty. Ngoài ra, cơ chế khi xây dựng cần phải xem xét ngoài việc có thể gia tăng giá trị, lợi
ích cho công ty cũng phải quan tâm đến yếu tố rủi ro. Tất cả nhiệm vụ của nhà quản lý phải được
Hội đồng quản trị định hướng, cụ thể hóa thông qua các chiến lược, tầm nhìn ngắn hạn – dài hạn
hàng năm, 5 năm, 10 năm… để từ đó cơ cơ chế kích thích, động viên phù hợp.
-

-


-

-

Hệ thống thông tin báo cáo của công ty cần minh bạch, công khai: việc quy định rõ thông
tin các báo cáo tài chính công khai, minh bạch sẽ giúp cổ đông có thể giám sát hoạt động
kinh doanh do nhà quản lý đang thực hiện có đúnh như chiến lược, chủ trương và phù
hợp với mong muốn cổ đông hay không.
Hệ thống giám sát thường xuyên định kỳ và đột xuất: thông qua hệ thống các công ty
Kiểm toán độc lập, hệ thống Kiểm tra kiểm soát nội bộ, các Ngân hàng,… sẽ giúp Hội
đồng quản trị nắm được hoạt động của nhà quản lý có đi ngược lại quyền lợi của cổ đông
hay không.
Gia tăng và khuyến khích việc nhà quản lý sở hữu cổ phần của công ty mà họ đang quản
lý để từ đó Hội đồng quản trị và nhà quản lý luôn luôn cùng nhìn về một hướng vì lợi ích
của công ty.
Giải pháp về sử dụng đòn bẩy nợ: để giảm chi phí đại diện cho vốn chủ sở hữu, công ty
có thể gia tăng sử dụng đòn bẩy nợ; từ đó nếu có phát sinh chi phí đại diện thì một phần
Trang 21


Chương 1 – Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
chi phí này đã được chuyển giao sang cho chủ nợ thông qua nguồn vốn vay. Ở khía cạnh
khác, hành động này cũng giảm đi mâu thuẫn giữa người quản lý và cổ đông và buộc
công ty phải ưu tiên thanh toán các khoản trả lãi và vốn gốc khi đến hạn nên sẽ tránh sa
đà vào việc sử dụng tiền mặt vào những dự án không khả thi; do đó, sẽ giảm chi phí đại
diện
b. Đối với các Doanh nghiệp nhà nước:
-

-


-

-

Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc hay các Nhà quản lý cấp trung tại Doanh nghiệp nên có
sự tham gia của các nhà đầu tư bên ngoài để hạn chế “thấp nhất” quyền lực của các
Thành viên có nguồn gốc từ các quan chức Nhà nước;
Xây dựng các chiến lược dài hạn, tiên tiến cho hoạt động các Doanh nghiệp nhà nước;
trong đó, tiến hành cổ phần hóa thường xuyên, liên tục và sớm IPO các Doanh nghiệp
nhà nước càng sớm càng tốt để từ đó các cổ đông có thể giám sát chặt chẽ hoạt động của
các Doanh nghiệp nhà nước;
Cơ chế báo cáo, giải trình của các Thành viên quản lý cấp cao (như Ban Giám đốc, Kế
toán trưởng,…) tại các Doanh nghiệp nhà nước cần thực thi nghiêm túc và có chế tài cụ
thể cũng như tưởng thưởng xứng đáng, phù hợp;
Công khai minh bạch các khoản chi phí phát sinh của các Thành viên quản lý cấp cao bao
gồm cả những chi phí phát sinh của cá nhân, gia đình của các Thành viên này thường
xuyên. Nếu làm được việc này, các Doanh nghiệp nhà nước sẽ trở nên minh bạch hơn, sử
dụng các chi phí của Doanh nghiệp một cách tiết kiệm, hợp lý mà không liên quan đến
lợi ích cá nhân của các Thành viên quản lý cấp cao.

Trang 22



×