Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

CHUYÊN đề ĐÁNH GIÁ TRONG GDMN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.46 KB, 38 trang )

Chuyên đề: TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC KIỂM TRA VÀ ĐÁNH GIÁ
CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON
A/ Mở đầu
Đánh giá được hiểu là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán
về kết quả công việc, dựa vào sự phân tích những thông tin thu được đối chiếu
với mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để
cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo
dục. Như vậy, đánh giá trong giáo dục không chỉ ghi nhận thực trạng mà còn đề
xuất những quyết định làm thay đổi thực trạng giáo dục theo chiều hướng mong
muốn của xã hội.
Đánh giá là một khâu không thể thiếu trong quá trình giáo dục nói chung
và giáo dục mầm non nói riêng. Nó như một mặt gắn liền hữu cơ của mục tiêu,
nội dung, phương pháp. Chúng chẳng khác nào hai mặt của một tờ giấy, thiếu đi
một mặt sẽ không còn tờ giấy nữa, thiếu đánh giá thì chu trình khép kín của quá
trình giáo dục bị phá vỡ.
Trong giáo dục mầm non, đánh giá là một bộ phận quan trọng của quản lí
giáo dục và là công cụ của các nhà quản lí, đồng thời đánh giá còn là công cụ
hành nghề quan trọng của giáo viên mầm non. Kết quả của quá trình đánh giá là
cơ sở để thực hiện có hiệu quả công tác phối hợp giáo dục gia đình - nhà trường
và xã hội trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
Để quá trình đánh giá chất lượng giáo dục mầm non diễn ra một cách
khoa học và có hiệu quả thì đòi hỏi các chủ thể tham gia và quá trình đó phải có
kiến thức cơ bản về đánh giá và thường xuyên tham gia vào quá trình đó.
Trong thực tế, kiến thức về đánh giá mới được đưa vào trong chương trình
đào tạo giáo viên mầm non nên nhiều giáo viên đạt chuẩn hoặc trên chuẩn chưa
có những kiến thức cơ bản về đánh giá trong giáo dục mầm non. Việc đánh giá
chất lượng giáo dục mầm non được tiến hành mang tính hình thức, chưa phản
ánh đúng bản chất của hoạt động đánh giá nên chưa đưa ra được những giải
pháp phù hợp để nâng cao chất lượng giáo dục mầm non.
1



B/ Nội dung chuyên đề
Phần 1: Những vấn đề cơ bản về đánh giá trong giáo dục mầm non và đánh
giá sự phát triển của trẻ.
I. Những vấn đề cơ bản về đánh giá trong giáo dục mầm non
1. Khái niệm kiểm tra, đo lường, đánh giá và định giá trị
Đánh giá trong giáo dục là một vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn vì nó
mang tính tổng hợp nhiều yếu tố. Vì vậy để đánh giá chính xác người giáo viên
phải tiến hành các công việc như: Kiểm tra, đo lường, đánh giá và định giá trị.
a. Kiểm tra
- Trong Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý định nghĩa kiểm tra là xem
xét thực chất, thực tế.
- Theo Bửu Kế, kiểm tra là tra xét, xem xét, kiểm tra là soát xét lại công
việc, kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét.
- Còn theo Trần Bá Hoành, kiểm tra là cung cấp những dữ kiện, những
thông tin làm cơ sở cho việc đánh giá.
Như vậy, các nhà khoa học và các nhà giáo dục đều cho rằng kiểm tra với
nghĩa là nhằm thu thập số liệu, chứng cứ, xem xét, soát xét lại công việc thực tế
để đánh giá và nhận xét.
b. Đo lường
Đo lường là sự xác định số lượng hay đưa một giá trị bằng số cho việc
làm của cá nhân, đó là cách lượng giá, là việc gán các con số hoặc thứ bậc theo
một hệ thống quy tắc nào đó.
Đo lường Là quá trình thu thập số liệu về mức độ mà một cá nhân đạt được
trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Ví dụ: Đo lường khả năng cảm thụ âm
nhạc của trẻ em
Đo lường luôn có quá trình đối chiếu điểm số của một cá nhân với tiêu chí
hoặc với một chuẩn xác định. Hoặc cách đối chiếu thứ hai là đối chiếu với tiêu
chí. Đo lường trả lời cho câu hỏi: bao nhiêu?
* Tính chất đặc thù của đo lường

2


• Liên quan trực tiếp đến con người.
• Các phép đo lường chủ yếu thực hiện một cách gián tiếp.
• Đo lường trong giáo dục bao gồm cả định tính và định lượng.
• Có những sai số nhất định trong các phép đo.
c. Đánh giá
Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, đánh giá là nhận xét
bình phẩm về giá trị.
Đánh giá trong giáo dục, theo Dương Thiệu Tống là quá trình thu thập và
xử lý kịp thời, có hệ thống thông tin về hiện trạng và hiệu quả giáo dục. Căn cứ
vào mục tiêu giáo dục, làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp và hành động
trong giáo dục tiếp theo.
Xét về bản chất: Đánh giá là những phán xét, những nhận định về giá trị
của đối tượng đánh giá của chủ thể đánh giá dựa trên thông tin về đối tượng
đánh giá.
Xét về quá trình:
+ Thu thập thông tin, chứng cứ về đối tượng đánh giá
+ Đối chiếu với chuẩn, tiêu chí
+ Phán xét, nhận định về giá trị và đưa ra quyết định
Như vậy đánh giá trong giáo dục là quá trình hình thành những nhận
định, phoán đoán về hiệu quả và chất lượng giáo dục dựa vào sự phân tích
những thông tin thu được, đối chiếu với những mục tiêu giáo dục nhằm đề xuất
những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục.
Các loại đánh giá:
- Đánh giá đầu vào: Đánh giá có thể thực hiện đầu quá trình tác động giáo dục
để giúp tìm hiểu trình độ hiện tại của đối tượng, từ đó tìm cách tiếp cận về nội
dung và phương pháp quản lý và giáo dục cho phù hợp.

- Đánh giá chẩn đoán: Dựa trên những dữ kiện nhất định, đánh giá chẩn đoán
đưa ra những nhận xét về đối tượng nhằm tìm ra những khó khăn của đối tượng,
3


những nguyên nhân dẫn đến hành vi này hay hành vi khác để từ đó tìm biện
pháp khắc phục hoặc dự báo về sự phát triển tiếp theo.
- Đánh giá tiến trình: Quá trình dạy học và giáo dục cũng chính là quá trình tạo
những thông tin phản hồi liên tục, giúp người học và người dạy điều chỉnh kịp
thời quá trình dạy và học.
- Đánh giá tổng kết: Thường được thực hiện vào cuối thời kỳ giảng dạy - giáo
dục để tổng kết chặng đường đã qua. Cách đánh giá này nhằm xác định mức độ
đạt được mục tiêu của khoá học, chương trình học hay môn học. Nhờ đánh giá
này, người ta có thể nhận định về sự phù hợp và hiệu quả của quá trình giáo dục.
d. Định giá trị
Định giá trị là sự giải thích có tính chất tổng kết các dữ liệu có được từ
các bài tập hay những công cụ đánh giá khác. Định giá trị là việc định ra giá trị
của bản thân đối tượng được đánh giá trong mối tương quan với các đối tượng
khác hay môi trường xung quanh. Dựa vào sự đánh giá, người ta định giá trị kết
quả đánh giá để phán đoán và đề xuất các quyết định giáo dục.
* Mối quan hệ giữa kiểm tra, đo lường, đánh giá và định giá trị
Kiểm tra, đo lường, đánh giá và định giá trị có mối liên hệ chặt chẽ, mật
thiết với nhau, không thể tách rời nhau. Đánh giá là quá trình phán đoán, muốn
vậy người ta phải kiểm tra, đo lường sự vật và thuộc tính của nó dựa trên các
quan điểm về giá trị. Chính vì vậy khi nói đến đánh giá có nghĩa là chúng ta nói
đến việc kiểm tra và đo đạc các giá trị của sự vật. Giá trị là cơ sở để xây dựng
thước đo và đánh giá, giá trị là cái để xác định kết quả đạt được của quá trình
giáo dục.
2. Vị trí và vai trò của đánh giá trong giáo dục mầm non
a. Đánh giá là một bộ phận quan trọng của quản lý giáo dục và công cụ của

các nhà quản lý giáo dục.
Nói đến quản lý giáo dục là nói đến quá trình tổ chức, chỉ đạo và kiểm
soát quá trình giáo dục và đánh giá là một trong những phương thức của kiểm
soát. Hơn nữa bất cứ khâu nào của hoạt động quản lý giáo dục cũng phải có
4


đánh giá bởi đánh giá giúp quản lý chất lượng giáo dục, làm cho giáo dục đạt
được mục tiêu đề ra. Chính vì vậy đánh giá là khâu tất yếu và quan trọng nhất
của quản lý. Mặt khác, bản chất của đánh giá là xác định xem mục tiêu của
chương trình giáo dục có đạt được hay không và nếu đạt được thì ở mức độ nào.
Các thông tin khai thác được từ kết quả kiểm tra - đánh giá sẽ rất hữu ích cho
việc điều chỉnh nội dung, cách thức và điều kiện đạt được mục tiêu. Như vậy,
đánh giá giúp các nhà quản lý có những thay đổi cần thiết trong việc tổ chức quá
trình giáo dục như điều chỉnh chương trình đào tạo, nội dung đào tạo, hình thức
tổ chức....
Nếu xem xét chất lượng của quá trình giáo dục là sự "trùng khớp với mục
tiêu" thì kiểm tra - đánh giá là cách tốt nhất để đánh giá chất lượng quy trình đào
tạo, giáo dục. Đánh giá và sử dụng kết quả đánh giá sẽ giúp nhà quản lý đưa ra
các quyết định quản lý cần thiết. Như vậy, đánh giá sẽ giúp các nhà quản lý giám
sát được quá trình giáo dục có đạt mục tiêu hay không. Chỉ có đánh giá, các nhà
quản lý giáo dục mới có được thông tin phản hồi, từ đó kịp thời phát hiện ra các
vấn đề để giải quyết chúng. Có thể nói đánh giá là một nhân tố đảm bảo cho
quản lý giáo dục có tính khoa học và hoàn thiện.
Đánh giá là một biện pháp quan trọng nhằm đi sâu cải cách giáo dục. Mọi
cải cách giáo dục đều phải lấy kết quả đánh giá làm cơ sở. Tuy nhiên đánh giá
cũng là một nội dung cần cải cách nếu vì nó mà quá trình giáo dục trở nên trò trệ
và lạc hậu. Thậm chí, cải cách đánh giá cần phải coi là khâu đột phá trong cải
cách giáo dục. Như vậy, đánh giá vừa là cơ sở vừa là đối tượng của cải cách giáo
dục, và nó đảm bảo cho cải cách giáo dục đi đúng quỹ đạo phát triển.

Ngoài ra, đánh giá trong giáo dục còn là một phương thức quan trọng để
quản lý con người trong tổ chức nhà trường.
b. Đánh giá là công cụ hành nghề quan trọng của người giáo viên mầm non
Giáo viên là người trực tiếp tạo ra sản phẩm giáo dục. Muốn xác định sản
phẩm của mình như thế nào thì người giáo viên phải tiến hành đánh giá. Kết quả
đánh giá trẻ là nguồn thông tin vô cùng quan trọng để có những điều chỉnh kịp
5


thời về nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục. Tuy nhiên các nhà giáo
dục nói chung và giáo viên nói riêng cần thận trọng trong đánh giá bởi không có
một kĩ thuật đánh giá hay hoạt động kiểm tra riêng lẻ nào có thể là phương tiện
cho ra kết quả đánh giá hữu hiệu. Để có kết quả đánh giá khách quan, người ta
phải tính đến nhiều yếu tố như công cụ đánh giá, mục đích đánh giá, cách thu
thập và xử lý thông tin, điều kiện đánh giá....
Để đánh giá thực sự trở thành công cụ sư phạm, giáo viên cần xác định
mục đích đánh giá rõ ràng vì điều này ảnh hưởng chính đến các hoạt động đánh
giá và giải thích bất cứ kết quả đánh giá nào. Giáo viên thường có ba mục đích
chính khi đánh giá trẻ: Hính thành những quyết định cụ thể về một cá nhân trẻ
hay một nhóm trẻ; Lập kế hoạch chăm sóc - giáo dục trẻ tiếp theo cho phù hợp
với cá nhân và nhóm trẻ; Và điều chỉnh hành vi của trẻ.
Giáo viên sử dụng kết quả đánh giá để đưa ra quyết định cụ thể bao gồm
việc xác định điểm mạnh hay điểm yếu của trẻ, lập thành nhóm trẻ để chăm sóc
- giáo dục, phân loại các mức độ việc làm của trẻ,... Quá trình đánh giá cung cấp
cho trẻ thông tin về các mức độ việc làm mà trẻ cần phải hoàn thành trong lớp.
Đánh giá trở thành cầu nối quan trọng trong nuôi dạy khi giáo viên cung cấp cho
trẻ và phụ huynh thông tin về kết quả đánh giá của trẻ.
Ngoài ra, giáo viên có thể sử dụng đánh giá cho việc quản lí lớp học và
kết quả đánh giá còn cung cấp cho cha mẹ và những người làm công tác giáo
dục những thông tin về công việc của nhà trường.

3. Chức năng của đánh giá trong giáo dục mầm non
a. Chức năng định hướng
Đánh giá trong giáo dục có nhiệm vụ chỉ ra được bức tranh thực trạng của
giáo dục và sự phát triển của cá nhân trong nền giáo dục ấy. Từ thực trạng,
người ta mới tính đến các bước đi tiếp theo phải như thế nào.
Chức năng định hướng của đánh giá tồn tại khách quan, không bị ý chí cá
nhân của con người cho phối. Đánh giá trong giáo dục có khả năng tác động và
bảo đảm tính thông suốt cho quá trình thực hiện các mục tiêu, chính sách giáo
6


dục. Đánh giá trong giáo dục có khả năng chỉ ra phương hướng về mục tiêu, tôn
chỉ giúp các trường, giáo viên lập kế hoạch giáo dục, đồng thời chỉ ra cho mỗi cá
nhân ở bất cứ cương vị nào phương hướng phấn đấu và phát triển.
b. Chức năng kích thích, tạo động lực
Đánh giá là một phần không thể thiếu của mọi hoạt động xã hội. Mỗi cá
nhân, khi thực hiện một công việc nào đó bao giờ cũng có nhu cầu được đánh
giá, chính vì vậy đánh giá sẽ mang lại sự thoả mãn nhu cầu cho cá nhân, kích
thích cá nhân tiếp tục tìm sự thoả mãn trong đánh giá khi hoàn thành nhiệm vụ
nào đó. Việc đánh giá có kèm theo hình thức củng cố luôn có ý nghĩa kích thích
hành vi, tạo động lực cho sự phát triển tiếp theo. Đánh giá trong giáo dục có thể
kích thích tinh thần học hỏi và vươn lên không ngừng của những đối tượng được
đánh giá, từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh chính thức hoặc phi chính thức.
c. Chức năng sàng lọc, lựa chọn
Quá trình giáo dục muốn đạt kết quả cần mang tính cá biệt. Để thực hiện
tốt vai trò cá biệt hoá trong giáo dục, cần có sự đánh giá để sàng lọc và lựa chọn
các cá nhân theo mục tiêu giáo dục phù hợp. Đánh giá cần phải dựa vào những
mục tiêu của nhà giáo dục và các chuẩn đánh giá phải được xác định một cách
khoa học, khi đó đánh giá mới thực hiện tốt chức năng sàng lọc và lựa chọn.
d. Chức năng cải tiến, dự báo

Kết quả đánh giá từ nhiều góc độ và trong nhiều giai đoạn khác nhau có
thể cung cấp những dự báo về xu thế phát triển của giáo dục. Và cũng nhờ có
đánh giá mới phát hiện được những vấn đề tồn tại trong giáo dục, từ đó lựa chọn
và triển khai các biện pháp thích hợp để bù đắp những thiếu hụt hoặc loại bỏ
những sai sót không đáng có.
4. Những yêu cầu đối với việc đánh giá trong giáo dục mầm non
a. Tính quy chuẩn
Đánh giá dù theo bất kì hình thức nào không những đảm bảo mục tiêu
phát triển hoạt động giáo dục, còn phải đảm bảo lợi ích cho người được đánh
giá. Muốn vậy đánh giá phải dựa vào những chuẩn nhất định. Chuẩn đánh giá có
7


thể được xây dựng theo những cấp độ khác nhau tuỳ vào mục đích đánh giá. Dù
ở cấp độ nào, các chuẩn này phải được công bố công khai đối với người được
đánh giá. Những quy định này phải cung cấp cho đối tượng được đánh giá đầy
đủ, chi tiết, rõ ràng từ mục tiêu đến hình thức đánh giá cũng như cách tổ chức
đánh giá.
b. Tính khách quan
Tính khách quan là yêu cầu tất yếu của mọi hình thức đánh giá. Trước hết,
đánh giá phải mô tả đúng hiện trạng giáo dục để tìm nguyên nhân và giải pháp
phù hợp. Đánh giá khách quan mới có thể kích thích, tạo động lực cho người
được đánh giá và cho những kết quả đáng tin cậy làm cơ sở cho các quyết định
quản lý. Nếu đánh giá thiếu khách quan, kết quả đánh giá không có ý nghĩa đối
với giáo dục, nó có thể làm cho giáo dục đi chệch hướng, nó triệt tiêu động lực
phát triển, từ đó ảnh hưởng đến toàn bộ sự phát triển xã hội.
c. Tính xác nhận và phát triển
Đánh giá phải chỉ ra những kết quả đáng tin cậy khẳng định hiện trạng
của đối tượng so với mục tiêu, tìm ra nguyên nhân của các sai lệch và có biện
pháp khắc phục. Nếu đánh giá đảm bảo tính quy chuẩn và tính khách quan thì

kết quả đánh giá ấy sẽ xác nhận được mức độ phát triển của cá nhân người được
đánh giá. Tuy nhiên tính xác nhận của kết quả đánh giá chỉ tương ứng với thời
điểm đánh giá.
Đánh giá trong giáo dục phải mang tính phát triển. Đánh giá không chỉ
giúp người được đánh giá nhận ra hiện trạng cái mình đạt tới mà còn giúp hình
thành con đường phát triển như thế nào, tạo niềm tin, động lực cho người được
đánh giá phấn đấu khắc phục những điểm chưa phù hợp để đạt tới trình độ cao
hơn.
Đánh giá trong giáo dục là một vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn vì nó
mang tính tổng hợp nhiều yếu tố. Vì vậy trong quá trình đánh giá phải đảm bảo
những yêu cầu cơ bản như trên, ngoài ra phải đảm bảo các yêu cầu như: Công cụ
đánh giá phải đảm bảo mức độ chính xác nhất định; Đánh giá phải toàn diện, có
8


hệ thống và công khai và đánh giá phải đảm bảo tính thuận tiện của việc sử dụng
công cụ đánh giá.
5. Vai trò của mục tiêu giáo dục đối với đánh giá trong giáo dục mầm non
Mục tiêu là sự mô tả những gì sẽ đạt được sau khi học xong một khoá
học, hay chương trình đào tạo, sau một môn học, hay một bài học.
Mục tiêu của một khoá học ha chương trình mang tính quy chế, nó xác
định rõ những khả năng có thể đạt sau một bậc học, cấp học do các chuyên gia
giáo dục của các chương trình định ra và có Hội đồng thẩm định đánh giá. Mục
tiêu này mang tính khái quát, nó chỉ ra những công việc mà tất cả phải hoàn
thành chứ không phải từng cá nhân.
Những mục tiêu của năm học bao hàm những điều đã học của cả năm học
- những điều được coi là những điểm vượt qua bắt buộc để từng bước làm chủ
các mục tiêu mang tính quy chế. Mục tiêu của năm học cũng được các chuyên
gia viết chương trình định ra và do Hội đồng nghiệm thu đánh giá.
Mục tiêu của nội dung giáo dục được xác định tuỳ thuộc mục tiêu năm

học có tính đến mục tiêu tổng quan cuối cùng, có nghĩa là những kĩ năng thực
hiện trong một tình huống phức hợp về mặt thông tin và đòi hỏi tổng quan
những điều đã học trước đó. Mục tiêu của nội dung giáo dục xuất phát từ mục
tiêu của chương trình giáo dục mầm non. Mục tiêu của nội dung giáo dục được
xác định dưới hình thức các chủ đề, khái niệm hay hành vi khái quát.
Mục tiêu của bài học là những mục tiêu đặc thù có thể được sắp xếp theo
hệ thống do giáo viên định ra và đánh giá. Các mục tiêu ở cấp độ bài học xác
định mặt kiến thức, kĩ năng và thái độ.
Như vậy, mục tiêu giáo dục được phân chia thành mục tiêu chương trình
học, đơn vị kiến thức và các mục tiêu cụ thể của bài. Việc xác định mục tiêu
đúng đắn, phù hợp sẽ là cơ sở quan trọng để đánh giá hiệu quả giáo dục.
Giáo viên sẽ hoàn toàn làm việc trong sự mơ hồ nếu không biết thực sự cô
muốn trẻ làm được gì sau khi thực hiện xong một chương trình, một chủ đề hay
một hoạt động. Mục tiêu là cơ sở quan trọng của đánh giá hiệu quả giáo dục.
9


Không có mục tiêu xác định, không có bất kỳ cơ sở nào để lựa chọn nội
dung, phương pháp giáo dục và càng không thể đánh giá được hiệu quả, giá trị
của một bài dạy, một khoá dạy hay cả một chương trình.
Mục tiêu giáo dục cung cấp những vật chứng và tiêu chí để đánh giá,
đồng thời có tác dụng hướng dẫn hành động sư phạm, giúp giáo viên có thể tự
xác định được vị trí so với mục đích theo đuổi. Ngoài ra mục tiêu còn được sử
dụng làm tiêu chí trong việc lựa chọn các phương pháp, kĩ thuật, phương tiện và
công cụ để cải tiến hoạt động giáo dục.
6. Nội dung và phương pháp đánh giá trong giáo dục mầm non
6.1. Những nội dung đánh giá cơ bản trong giáo dục mầm non
Trong giáo dục mầm non, đánh giá được thực hiện trên nhiều mặt, với
nhiều nội dung khác nhau:
- Đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục mầm non;

- Đánh giá công tác tổ chức quản lý giáo dục mầm non;
- Đánh giá chương trình giáo dục mầm non;
- Đánh giá hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non;
- Đánh giá sự phát triển của trẻ mầm non và sự sẵn sàng đi học của trẻ 5 - 6 tuổi.
Trong các nội dung đánh giá trên, đánh giá sự phát triển của trẻ được coi
là trọng tâm bởi vì mục tiêu cao nhất của giáo dục là vì sự phát triển của trẻ. Sự
phát triển của trẻ là thước đo của mỗi nền giáo dục.
6.2. Một số phương pháp đánh giá trong giáo dục mầm non
a. Phương pháp đánh giá qua quan sát
Trong đánh giá giáo dục, phương pháp quan sát hành vi, việc làm, hiện
trạng của đối tượng đánh giá giữ vai trò quan trọng. Người ta thường sử dụng
phương pháp này khi đánh giá sự phát triển tâm lí của trẻ và hoạt động chăm sóc
- giáo dục của giáo viên.
* Đánh giá trẻ qua quan sát
Khi sử dụng phương pháp quan sát trong đánh giá tâm lí trẻ em, người
đánh giá phải ghi lại những cử chỉ, lời nói, hành vi mà trẻ tự thực hiện trong dời
10


sống hằng ngày và từ đó phân tích, diễn giải, suy luận theo tiêu chí nào đó để
phán xét về sự phát triển tâm lí của trẻ.
Phương pháp quan sát cho phép người đánh giá thu thập những sự kiện về
hành vi tự nhiên của trẻ, hành vi sống, thật và điều kiện quan sát trẻ như một cá
nhân hoàn chỉnh, trong mối liên quan với những hành động khác, với những lời
nói, cử chỉ, điệu bộ. Ngoài ra quan sát giúp đánh giá được mối quan hệ của trẻ
với những trẻ khác, để từ đó hiểu được những nguyên nhân gây nên một hành vi
nào đó, hiểu được mối quan hệ của trẻ với nhà giáo dục để từ đó đánh giá đúng
những tác động của nhà giáo dục lên trẻ.
Để phương pháp quan sát đạt hiệu quả trong đánh giá trẻ, đòi hỏi người
đánh giá biết cách quan sát, phát hiện, ghi chép đầy đủ để có tư liệu khách quan,

chính xác nhất về đối tượng đánh giá. Khi quan sát trẻ, người đánh giá nên xây
dựng phiếu quan sát để quan sát có tính hướng đích cao hơn.
* Đánh giá hoạt động chăm sóc - giáo dục của giáo viên qua quan sát.
Người ta có thể quan sát xem người giáo viên tiến hành các hoạt động
chăm sóc - giáo dục trẻ trong ngày như thế nào, hoặc quan sát cách giáo viên
tiến hành một giờ học cho trẻ ra sao. Dự giờ là một hoạt động đặc trưng của các
nhà quản lí đối với đội ngũ của mình. Dự giờ chính là quan sát để đánh giá hiệu
quả của giờ dạy đó.
b. Phương pháp đánh giá qua trắc nghiệm, bài tập
Trắc nghiệm theo nghĩa rộng nhất là một phép lượng giá cụ thể mức độ
khả năng thể hiện hành vi trong lĩnh vực nào đó của một người cụ thể nào đó.
Nói cách khác, trắc nghiệm là những bài tập tiêu chuẩn, ngắn gọn soạn ra để xác
định đặc điểm hay mức độ phát triển của đối tượng.
Phương pháp trắc nghiệm trẻ em phân làm ba loại lớn: loại trình diễn; loại
nói và loại sản phẩm vẽ tranh.
- Loại trình diễn giúp đánh giá các thao tác, các hành vi, các phản ứng vo thức,
các kĩ năng thực hành và cả một số kĩ năng về nhận thức.

11


- Loại nói có tác dụng tốt để đánh giá khả năng đáp ứng các câu hỏi được nêu
một cách tự phát trong một tình huống cần kiểm tra.
- Loại tranh vẽ có tác dụng dánh giá khả năng biểu đạt suy nghĩ, cảm xúc,...
Thông qua sản phẩm người ta có thể đánh giá được trạng thái cảm xúc, khả năng
tư duy, các kĩ năng đặc thù,...
c. Phương pháp đánh giá qua sản phẩm
* Sản phẩm hoạt động của trẻ
Sản phẩm hoạt động của trẻ đó là những tranh vẽ, bài thơ, câu chuyện,
những công trình,... Mỗi loại sản phẩm có một giá trị riêng đối với nhà nghiên

cứu. Sản phẩm của hoạt động chỉ cung cấp những tài liệu đủ tin cậy trong trường
hợp việc nghiên cứu các sản phẩm đó được kết hợp với quan sát trong quá trình
tạo ra chúng.
* Sản phẩm hoạt động của cơ sở giáo dục mầm non
Sản phẩm hoạt động của nhà trường là đồ dùng, đồ chơi do giáo viên làm;
bài trí lớp học; hệ thống hồ sơ sổ sách, giáo án.... Đó là một trong những minh
chứng rất quan trọng cho việc đánh giá cơ sở giáo dục mầm non. Căn cứ vào sản
phẩm, người đánh giá có thể xác định cơ sở mầm non ấy hoạt động có mang tính
hệ thống, ổn định, sáng tạo như thế nào.
d. Phương pháp đánh giá qua tiểu sử cá nhân
Người ta có thể sử dụng "tiểu sử cá nhân" để đánh giá hiện trạng của một
đứa trẻ. Phương pháp đánh giá qua tiểu sử cá nhân thực chất là phân tích tiến
trình sinh trưởng và phát triển của trẻ em để đưa ra nhận định nào đó về hiện
trạng của trẻ. Phương pháp này cung cấp cho người đánh giá những yếu tố
khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến tiến trình sinh trưởng và phát triển của
trẻ, để từ đó người đánh giá xác định được nguyên nhân của trình độ hiện tại mà
trẻ đạt được, và dự đoán xu thế phát triển tiếp theo.
e. Phương pháp đánh giá qua đàm thoại, phỏng vấn
Đàm thoại được áp dụng trong các trường hợp cần tìm hiểu về tri thức và
biểu tượng của trẻ, ý kiến của người được đánh giá về vấn đề nào đó.
12


Phỏng vấn được sử dụng trong đánh giá giáo viên hoặc cán bộ quản lí để
tìm hiểu thêm các thông tin khác nhau về chính các cá nhân đó hoặc các hoạt
động liên quan.
g. Phương pháp đánh giá qua khảo sát, điều tra
Khảo sát, điều tra là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho
một số lớn đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về một
vấn đề nào đó. Phương pháp này thường dùng để thu thập ý kiến đánh giá về

chất lượng cơ sở giáo dục mầm non, về cơ sở vật chất cũng như hoạt động giáo
dục, về đội ngũ,...
h. Phương pháp đánh giá qua hồ sơ tài liệu
Hồ sơ tài liệu cũng là những minh chứng về hoạt động của nhà trường,
thông qua hồ sơ tài liệu, người đánh giá có thể phân tích và đánh giá hoạt động
của nhà trường trong quá khứ và quá trình phát triển đến hiện tại.
II. Đánh giá sự phát triển của trẻ
1. Sự phát triển tâm lí của trẻ
Bản chất của sự phát triển tâm lí trẻ em không phải là sự tăng hoặc giảm
về số lượng, mà là một quá trình biến đổi về chất lượng tâm lí. Sự thay đổi về
chất lượng các chức năng tâm lí dẫn đến sự thay đổi về chất cà đưa đến sự hình
thành cái mới một cách nhảy vọt.
Sự phát triển tâm lí gắn liền với sự xuất hiện những đặc điểm mới về chất
- những cấu tạo tâm lí mới ở những giai đoạn lứa tuổi nhất định. Trong các giai
đoạn phát triển khác nhau, có sự cải biến về chất của các quá trình tâm lí và toàn
bộ nhân cách trẻ.
Trong quá trình sống, đứa trẻ không chỉ thích nghi với thế giới khách
quan mà còn lĩnh hội thế giới đó. Kết quả của quá trình lĩnh hội là sự phát triển
của đứa trẻ, là sự hình thành những năng lực cho mình. Như vậy, phát triển tâm
lí là kết quả hoạt động của chính đứa trẻ với những đối tượng do loài người tạo
ra.

13


Những đứa trẻ không tự lớn lên giữa môi trường. Nó chỉ có thể lĩnh hội
kinh nghiệm xã hội khi có vai trò trung gian của người lớn. Nhờ sự tiếp xúc với
người lớn và hướng dẫn của người lớn mà những quá trình nhận thức, kĩ năng,
kĩ xảo và cả những nhu cầu xã hội của trẻ được hình thành. Người lớn giúp trẻ
nắm được ngôn ngữ, phương thức hoạt động,... Những biến đổi về chất trong

tâm lí sẽ đưa đứa trẻ từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác.
Tóm lại, sự phát triển tâm lí của trẻ đầy biến động và diễn ra cực kì nhanh
chóng. Đó là một quá trình không phẳng lặng, mà có khủng hoảng và đột biến.
Chính hoạt động của đứa trẻ dưới sự hướng dẫn của người lớn làm cho tâm lí
của nó được hình thành và phát triển.
2. Ý nghĩa của việc đánh giá trẻ
Đánh giá sự phát trỉên của trẻ là quá trình thu thập thông tin về trẻ một
cách có hệ thống, phân tích và đối chiếu với mục tiêu giáo dục mầm non làm cơ
sở điều chỉnh kế hoạch, biện pháp chăm sóc - giáo dục nhằm đảm bảo sự phát
triển của trẻ phù hợp với mục tiêu giáo dục.
Đánh giá trẻ là công việc có ý nghĩa quan trọng, không thể thiếu trong quá
trình chăm sóc - giáo dục trẻ.
- Cung cấp cho giáo viên những thông tin về sự tiến bộ của trẻ. Những
thông tin như vậy tạo điều kiện cho giáo viên biết được hiệu quả của các hoạt
động, mức độ kết quả đạt được theo dự kiến, đặc biệt những thông tin đó có thể
làm sáng tỏ những vấn đề nhất định đòi hỏi phải có kế hoạch bổ sung.
- Giúp giáo viên có biện pháp tác động phù hợp, kích thích trẻ tham gia,
thực hiện tốt các hoạt động của mình và học được những kiến thức, kĩ năng theo
mục đích đặt ra của hoạt động.
- Tạo điều kiện cho giáo viên ghi chép và lưu giữ các thông tin về sự tiến
bộ của trẻ trong một thời gian dài. Đó là cơ sở để đưa ra các quyết định về nhu
cầu giáo dục cá nhân đứa trẻ, căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch giáo dục tiếp
theo.

14


- Những thông tin thu thập được còn sử dụng để trao đổi, đưa ra những
quyết định phối hợp trong giáo dục trẻ với cha mẹ trẻ.
- Đánh giá trẻ còn cho ta biết về mức độ phát triển toàn diện của trẻ, khả

năng sẵn sàng cho giai đoạn học tập tiếp theo, những khó khăn cụ thể về sự phát
triển thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm - xã hội và thẩm mĩ mức độ sẵn
sàng học tập là gì và có những đề xuất đối với lớp hoặc cơ sở giáo dục sẽ tiếp
nhận trẻ tiếp theo.
- Làm cơ sở để trao đổi, đưa ra những quyết định phối hợp trong giáo dục
trẻ với cha mẹ trẻ, với giáo viên nhóm/lớp hoặc cơ sở giáo dục khác nơi sẽ tiếp
nhận trẻ tiếp theo.
- Làm cơ sở đề xuất đối với các cấp quản lý giáo dục trong việc nâng cao
chất lượng chăm sóc - giáo dục trẻ của nhóm/ lớp/ trường/ địa phương.
3. Nguyên tắc đánh giá sự phát triển tâm lí trẻ
Khi đánh giá sự phát triển tâm lí trẻ, người đánh giá cần thận trọng trong
việc đưa ra quyết định về kết quả đánh giá. Sự phát triển tâm lí nói chung và một
mặt nào đó nói riêng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố và sự biểu hiện của một
hành vi nào đó ở trẻ có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau, vì vậy, trong đánh
giá, người nghiên cứu cần đảm bảo các nguyên tắc dưới đây:
a. Đánh giá trong mối quan hệ, liên hệ
Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau
và ảnh hưởng đến nhau, khi đánh giá một mặt tăm lí nào đó, người đánh giá phải
tính đến các yếu tố liên quan. Sự phát triển của một yếu tố tâm lí nào đó phụ
thuộc vào những hiện tượng hay lĩnh vực liên quan khác, đó có thể là môi
trường, sự phát triển thể chất, nhận thức, xã hội và cảm xúc. Tiến bộ trong phát
triển trên một lĩnh vực này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của lĩnh vực khác.
Khi xuất hiện những rối loạn trên một phương diện này sẽ ảnh hưởng đến sự
phát triển của lĩnh vực khác.
b. Đánh giá trẻ trong môi trường gần với môi trường sống của trẻ

15


Khi đánh giá trẻ, người đánh giá cần đảm bảo môi trường gần với cuộc

sống bình thường của trẻ. Sự phát triển và học tập diễn ra liên tục như kết quả
của quá trình tương tác của trẻ với môi trường. Chỉ đánh giá khi trẻ đã sẵn sàng,
không tạo áp lực cho trẻ khi thực hiện bài kiểm tra. Có như vậy, kết quả đánh giá
mới đảm bảo tính khách quan và chính xác.
c. Đánh giá trẻ trong hoạt động
Tâm lí chỉ được hình thành qua hoạt động và bằng chính hoạt động. Bằng
hoạt động, các đặc điểm, phẩm chất tâm lí được hình thành, phát triển và những
nét tâm lí đó sẽ bộc lộ ra bên ngoài qua chính hoạt động. Muốn đánh giá trẻ phải
đưa trẻ vào các hoạt động phù hợp vì trẻ chỉ thực sự bộc lộ mình trong những
điều kiện hoàn cảnh thích hợp.
d. Đánh giá trong sự phát triển
Mỗi đứa trẻ là một thực thể đang phát triển. Đánh giá cần nhìn nhận đứa
trẻ theo xu hướng phát triển. Kết quả đánh giá chỉ có ý nghĩa tại thời điểm đánh
giá, nó không quy định tương lai của đứa trẻ ấy. Người đánh giá phải dựa vào
kết quả đánh giá hiện tại để tìm hiểu nguyên nhân và phán đoán sự phát triển
tiếp theo.
Trong đánh giá, người ta thường nghiên cứu hồ sơ phát triển của trẻ, xem
quá trình phát triển của trẻ như thế nào, có những gì liên quan chặt chẽ đến trình
độ phát triển hiện tại hay không từ đó phán đoán chiều hướng phát triển và có
những can thiệp giáo dục kịp thời.
4. Nội dung đánh giá sự phát triển của trẻ.
4.1. Các mốc phát triển kì vọng cho mỗi giai đoạn lứa tuổi của trẻ
Đánh giá sự phát triển của trẻ phải thực hiện theo từng độ tuổi và từng
giai đoạn phát triển. Việc đánh giá phải dựa trên những mốc phát triển kì vọng
tương ứng với độ tuổi và giai đoạn phát ở trẻ. Mốc phát triển kì vọng là trình độ
phát triển mà đứa trẻ cần đạt tới trong giới hạn độ tuổi của mình, là các tiêu chí
cụ thể hoá các kênh phát triển của trẻ.

16



Đánh giá sự phát triển của trẻ theo từng độ tuổi là một công tác quan
trọng, bởi nó cho giáo viên cũng như nhà quản lí nhìn rõ diễn biến phát triển của
trẻ, đồng thời kết quả này còn cho thấy được những trường hợp cụ thể nào còn
chậm so với độ tuổi trong sự phát triển, cũng như các rối loạn phát triển của
từng trường hợp cá biệt. Kết quả đánh giá sự phát triển cũng nói lên được tác
dụng của quá trình tương tác giáo dục cũng như hiệu quả giáo dục của giáo viên
trên trẻ.
Như vậy, để đánh giá mức độ phát triển tâm lí của trẻ, người ta cần phải
đưa ra các mốc phát triển của mỗi giai đoạn lứa tuổi như là một thước đo đặc
thù. Mốc phát triển này không mang tính bất biến, nocs thể thay đổi theo sự phát
triển của trình độ văn minh xã hội. Hơn nữa, mốc phát triển này được quy định
bởi mỗi nền giáo dục của mỗi quốc gia hay dân tộc. Bên cạnh những đặc tính
riêng của mốc phát triển, chúng ta có một số mốc chung cho đại đa số trẻ trong
độ tuổi và mốc này không tính đến sự khác biệt văn hoá.
Mốc phát triển của trẻ trong 8 năm đầu đời và điều kiện để trẻ có thể đạt
được các mốc phát triển đó:
Bảng 1: Mốc phát triển của trẻ trong 8 năm đầu
Độ tuổi

Mốc phát triển

Điều kiện thực hiện

Sơ sinh -

(Trẻ có thể làm được gì?)
(Trẻ cần những gì?)
3 Trẻ bắt đầu cười, nhìn theo người hoặc vật, Cần được bảo vệ khỏi nguy hiểm


tháng tuổi

thích các gương mặt và những màu sắc tươi thể chất, cần chế độ dinh dưỡng
sáng, với và khám phá tay và chân, nâng và chăm sóc sức khoẻ hợp lí;
đầu lên, ngoảnh về phía phát ra âm thanh; khuyến khích giao tiếp bằng ngôn
khóc nhưng thường nín khi được bế.

17


4-6 tháng tuổi Trẻ cười nhiều hơn, thích theo cha mẹ và ngữ phù hợp, cần được đáp lại và
anh chị, lặp lại các hành động với những kết cần sự chăm sóc nhạy cảm.
quả thú vị, chăm chú lắng nghe, đáp lại khi
được trò chuyện, cười, nói ríu rít, bắt chước
các âm thanh, khám phá bàn tay và chân,
cho mọi thứ vào miệng, ngồi khi được
người lớn dựng dậy, lẫy, nhún nhảy, cầm đồ
7-12

vật bằng cả bàn tay.
tháng Trẻ nhớ được các sự kiện đơn giản, nhận

tuổi

biết bản thân mình, các bộ phận cơ thể,
những giọng nói quen thuộc; hiểu được tên
mình và những từ thường gặp khác, nói
những từ có nghĩa đầu tiên, khám phá, đập
và lắc đồ vật, tìm những đồ vật bị giấu, cho
đồ đạc vào ngăn chứa, ngồi một mình, bò,

bám vào bàn ghế để đứng và đi men; trẻ có

1-2 tuổi

thể cảm thấy lạ và sợ người lạ.
Trẻ bắt chước các hành động của người lớn, Ngoài những nhu cầu trên, trẻ còn
nói và hiểu được từ và ý nghĩa, thích nghe cần được hỗ trợ trong các việc
kể chuyện và thích trải nghiệm với các đồ sau: nắm bắt các kĩ năng vận
vật khác nhau, bước vững, trèo thang gác, động cơ bắp, ngôn ngữ và tư duy,
chạy, có biểu hiện muốn độc lập, nhưng phát triển tính tự lập, học cách
thích những người thân hơn, nhận biết sự sở kiềm chế, trẻ cần có những cơ hội
hữu các đồ vật, biết kết bạn và giải quyết để chơi và khám phá, chơi với các
vấn đề, tự hào về những việc mình làm bé khác. Chăm sóc sức khoẻ và
được, thích giúp đỡ người lớn, thích chơi đặc biệt chú ý tới việc tẩy giun.

2-3 tuổi rưỡi

trò chơi giả vờ.
Trẻ thích học hỏi các kĩ năng mới, học tiếng Thêm vào những nhu cầu như
rất nhanh, trẻ luôn vận động, điều khiển trên, trẻ cần có các cơ hội làm
được bàn tay và các ngón tay, dễ nổi cáu, những việc: tự lựa chọn, tham gia
18


làm việc độc lập hơn nhưng vẫn bị phụ vào các vở kịch, nghe đọc các
thuộc.

cuốn sách có độ phức tạp tăng
dần, hát, giải những bài toán đố


đơn giản.
3 tuổi rưỡi - 5 Ở tuổi này trẻ tập trung được lâu hơn, hay Bên cạnh những nhu cầu như
tuổi

tỏ ra ngây ngô và thích làm ồn, thích dùng trên, trẻ cần có các cơ hội làm
ngôn ngữ gây sốc, nói nhiều, hỏi nhiều, những việc: Phát triển các kĩ năng
muốn thử những việc của người lớn, gìn giữ sử dụng cơ bắp, tiếp tục mở mang
các tác phẩm nghệ thuật, muốn trải nghiệm các kĩ năng ngôn ngữ bằng cách
các kĩ năng thể chất và sự can đảm; thể hiện trò chuyện, nghe đọc sách, hát;
cảm xúc với bạn bè, không thích thua bạn, tập hợp tác bằng cách giúp đỡ và
đôi khi biết chờ tới lượt mình và biết chia chia sẻ; cần tập các kĩ năng tiền

5-8 tuổi

sẻ.
tập viết và tiền tập đọc.
Trẻ tò mò hơn về mọi người và cách vận Bên cạnh những nhu cầu như
hành của mọi vật; trẻ tỏ ra thích thú với trên, trẻ cần có các cơ hội làm
những con số, chữ cái, đọc và viết; trẻ trở những việc: Phát triển các kĩ năng
nên thích thú hơn với những kết quả cuối đọc và đếm, tham gia vào việc
cùng, đồng thời trẻ cũng tự tin hơn với giải quyết vấn đề, tập làm việc
những kĩ năng về thể chất, sử dụng từ để nhóm, phát triển ý thức về năng
thể hiện cảm xúc và đối phó; thích các hoạt lực cá nhân, tập cách đặt câu hỏi
động cho người lớn, trở nên hoà đồng hơn, và quan sát, đạt đến các kĩ năng
và tỏ ra hợp tác hơn ngay trong khi chơi.

sống cơ bản, tham gia giáo dục

nền tảng.
4.2. Chỉ số đánh giá sự phát triển của trẻ mầm non

Tốc độ phát triển của trẻ ở giai đoạn lứa tuổi mầm non diễn ra nhanh chưa
từng thấy so với các giai đoạn khác của cuộc đời. Nhưng muốn nhận ra sự phát
triển ấy như thế nào để kịp thời điều chỉnh và uốn nắn đòi hỏi những người nuôi
dạy trẻ phải được trang bị kiến thức về đánh giá và cách tạo ra những bộ công cụ
đánh giá cho mình. Chính vì vậy, mỗi giáo viên mầm non cần tạo ra bộ công cụ
"cấp độ lớp học" để đánh giá trẻ. Bộ công cụ này có thể chưa đạt tính khách
19


quan và chuẩn hoá ở giai đoạn đầu, nhưng nếu mỗi giáo viên luôn điều chỉnh bộ
công cụ cho ngày càng phù hợp và khẳng định nó bằng chính thực tiễn thì bộ
công cụ đó cũng rất nhiều ý nghĩa.
Giáo viên cần dựa vào các mốc phát triển của trẻ theo độ tuổi, dựa vào
mục tiêu Chương trình giáo dục mầm non ở Việt Nam, và chiểu theo những kì
vọng của xã hội, để xây dựng "hình ảnh" mong muốn về trẻ mầm non trước khi
chuẩn bị vào lớp một. Trên cơ sở "hình ảnh" hay kết quả kì vọng được xác định,
các nhà giáo dục sẽ tìm kiếm các con đường, cách thức giáo dục sao cho phù
hợp để đứa trẻ từng bước đạt được mức độ yêu cầu như xã hội mong muốn.
"Hình ảnh" trẻ mầm non - kết quả giáo dục mà chúng ta kì vọng được mô tả trên
sự tổng hoà của bốn mặt cơ bản:
- Trẻ nắm vững các kĩ năng xã hội cơ bản;
- Trẻ có khả năng học tập có hiệu quả;
- Trẻ có cảm xúc - tình cảm tích cực;
- Trẻ khoẻ mạnh và nắm được các kĩ năng vận động.
Bốn nội dung cơ bản này được cụ thể hoá bằng các chỉ số, bởi trong mỗi
nội dung có vài tập hợp con nằm trong đó. Mỗi chỉ số được thể hiện thông qua
một vài biểu hiện như là thước đo của chỉ số đó.
Bảng 2: Bảng chỉ số đánh giá sự phát triển của trẻ dưới 3 tuổi
Kết quả kì Chỉ số


Thước đo

vọng
1. Trẻ có 1. Nhận thức 1. Biết được các đặc điểm về bản thân và xác định
năng lực cá về bản thân

mối liên hệ với người khác
2. Nhận ra các khả năng của bản thân
nhân và kĩ
3. Khẳng định bản thân
năng

4. Phân biệt mình với người khác
hội cơ bản 2.Các kĩ năng 5. Thể hiện sự cảm thông
6. Tương tác với người lớn
liên cá nhân
7. Quan hệ thân thiện với người lớn quen biết
và xã hội
8. Quan hệ thân thiện với bạn cùng tuổi quen biết
9. Tương tác với bạn
10. Kiềm chế sự nóng vội
11. Nhờ sự giúp đỡ để điều chỉnh bản thân
20


3.

2. Trẻ có
khả


năng

học

hiệu

quả

3.Trẻ
cảm



Tự

điều 12. Biết cảm ơn khi có sự giúp đỡ
13. Tự làm cho thoải mái
chỉnh
14. Duy trì chú ý
4. Ngôn ngữ 15. Hiểu ngôn ngữ
16. Phản hồi đối với ngôn ngữ
17. Nhu cầu, cảm nhận và hứng thú giao tiếp
18. Giao tiếp tương hỗ
5. Nhận thức 19. Trí nhớ
20. Nguyên nhân và kết quả
21. Giải quyết vấn đề
22. Trò chơi mang tính hình tượng
23. Tính tò mò
6. Toán học
24. Tri thức về số

25. Thuộc tính không gian và kích cỡ
26. Thời gian
27. Phân loại và ghép đôi
7. Khả năng 28. Hứng thú với việc đọc viết
29 Nhận diện các kí hiệu
đọc viết
8. Cảm xúc 30. Thể hiện cảm xúc trước cái đẹp

xúc thẩm mĩ

tích cực
4. Trẻ khoẻ 9.

31. Mong muốn (làm ra) cái đẹp



năng 32. Vận động thô
mạnh và có vận động sức 33. Vận động tinh
34. Phối kết hợp hành động mắt và tay
các kĩ năng khoẻ, giữ an
35. Biết cách giữ an toan cho cá nhân
thể chất và toàn
vận động
Bảng 3: Bảng chỉ số đánh giá sự phát triển của trẻ từ 3 đến 5 tuổi
Kết quả kì Chỉ số

Thước đo

vọng

1. Trẻ có 1. Nhận thức 1. Biết được các đặc điểm về bản thân
2. Nhận ra các kĩ năng và thành tựu của bản thân
năng lực cá về bản thân
nhân và kĩ 2. Các kĩ 3. Thể hiện sự cảm thông
4. Xây dựng mối quan hệ hợp tác với người lớn
năng liên cá
5. Kết bạn
6. Xây dựng trò chơi hợp tác với các bạn khác
21


năng

xã nhân và xã 7. Hoà giải tranh chấp
8. Ý thức về sự đa dạng trong mình và với người
hội cơ bản hội
khác
3. Tự điều 9. Kiềm chế sự nóng vội
10. Chờ lượt
chỉnh hành vi
11. Chia sẻ không gian và vật dụng
4. Ngôn ngữ 12. Hiểu nghĩa
13. Hiểu được các chỉ dẫn có độ phức tạp tăng dần
14. Thể hiện bản thân thông qua ngôn ngữ
15. Sử dụng ngôn ngữ trong đàm thoại
2. Trẻ là 5. Học tập
16. Tò mò và chủ động
17. Cam kết và bền bỉ
6. Hoàn thiện 18. Trí nhớ và kiến thức
người học

19. Nguyên nhân và kết quả
nhận thức
hiệu quả
20. Tham gia vào việc giải quyết vấn đề
21. Trò chơi đóng kịch
7. Toán học
22. Tri thức về số: Hiểu biết về số lượng và đếm
23. Tri thức về số: Thao tác toán học
24. Các hình
25. Thời gian
26. Phân loại
27. Đo lường
28. Trang trí theo mẫu
những

3.Trẻ
cảm

8. Khả năng 29. Hứng thú với việc đọc viết
30. Có kiến thức về chữ cái và từ
đọc viết
31. Có khả năng tập viết
32. Có khái niệm về ấn bản
33. Ý thức về âm vị
có 8. Cảm xúc 34. Thể hiện cảm xúc trước cái đẹp
xúc thẩm mĩ

tích cực
4. Trẻ khoẻ 9.


35. Mong muốn (làm ra) cái đẹp
36. Mong muốn thực hiện điều tốt



năng 37. Vận động thô
mạnh và có vận động, sức 38. Vận động tinh thần
39. Hiểu biết về cách sống khoẻ mạnh
các kĩ năng khoẻ, giữ an
40. Biết cách giữ an toan cho cá nhân
thể chất và toàn
vận động

22


4.3. Đánh giá sự sẵn sàng vào lớp Một
Giai đoạn lứa tuổi mầm non có những nhiệm vụ quan trọng là hình thành
cho trẻ mọi điều kiện sẵn sàng để trẻ có thể thích nghi nhanh nhất với môi
trường phổ thông, để có thể học tập và sinh hoạt trong môi trường mới này.
Chuẩn bị sẵn sàng cho trẻ đến trường là chuẩn bị về sức khoẻ thể chất, sự
phát triển cảm xúc xã hội, thái độ với việc học, tư duy và kiến thức, ngôn ngữ và
giao tiếp... Những yếu tố này vừa là thành quả vừa là điều kiện của hoạt động
học tập và giáo dục.
Chuẩn bị sẵn sàng vào lớp Một là một quá trình hình thành từ từ dài lâu,
và trong những hoàn cảnh nhất định. Quá trình này được chú ý hình thành từ
giai đoạn lứa tuổi mầm non nhưng nó tiếp tục hoàn thiện ở giai đoạn sau. Sự sẵn
sàng này phát triển ở mức độ nào phụ thuộc sự nỗ lực của mỗi cá nhân, phụ
thuộc vào môi trường giáo dục và một phần phụ thuộc vào sức khoẻ. Sự sẵn
sàng này không phải là một cái gì đó có thể đánh giá được bằng bài kiểm tra đơn

giản nào đó. Bởi sự sẵn sàng tâm lí chứa đựng phạm vi rộng của các hiện tượng
tâm lí. Sự sẵn sàng này còn rộng hơn cả kiến thức và kĩ năng mà trẻ thể hiện
trong một vài tuần đầu tiên ở lớp Một, hay những khuôn mẫu hành vi mà những
đứa trẻ biết vâng lời thực hiện. Sự sẵn sàng vào lớp Một là một quá trình phụ
thuộc nhiều vào hoàn cảnh, đòi hỏi một thời gian nhất định cho tới khi nó có thể
được đánh giá một cách có ý nghĩa.
Sự sẵn sàng vào lớp Một liên quan chặt chẽ đến nhiều yếu tố và góp phần
vào hình thành khả năng học tập của trẻ như môi trường, bối cảnh, các nội quy,
quy định, sự nắm bắt và hoàn thiện các kĩ năng ở trẻ. Do đó, đánh giá sự sẵn
sàng bao hàm một phạm vi rộng, tính tới cả bối cảnh mà trẻ học ở đó, các cơ hội
mà trẻ có được để nắm vững các thông tin và kĩ năng, cũng như những thành tựu
mà trẻ có thể đạt được.
Các nhà nghiên cứu sự phát triển của trẻ trước tuổi đi học tại Hoa Kì đã
đề xuất bộ chuẩn phát triển toàn diện cho trẻ 5 tuổi. Chuẩn phát triển này có thể
sử dụng làm tiêu chí đánh giá khả năng sẵn sàng vào lớp Một của trẻ 5 tuổi.
23


Bảng 4: Tiêu chí đánh giá sự sẵn sàng đi học của trẻ 5 tuổi
Nội dung

Tiêu chí

Biểu hiện

sẵn sàng
Sức khoẻ thể Sức khoẻ tốt

Vóc dáng phát triển trong kênh điển hình.


chất

Tham gia tích cực vào các hoạt động hằng
ngày
Có khả năng kết hợp cử động tay và mắt
Thực hiện các kĩ năng vận động như nhảy,
nhảy lò cò, chạy.
Sử dụng kết hợp cả hai mắt.

Thị lực tốt

Cầm đồ dùng học tập ở một khoảng cách
vừa phải.
Mắt chuyển động nhanh hơn đầu để quan sát
kịp các vận động.
Tập trung thị lực mà không bị lác hay gây ra
Thính lực tốt

tình trạng quá căng mắt.
Tham gia các bài tập nghe.
Hướng về phía người nói khi được gọi tên.

Nghe và hiểu lời nói của người khác.
Biết tự giữ gìn Hiểu và biết cách sử dụng các vật dụng giữ
vệ sinh răng gìn vệ sinh răng miệng.
miệng

Tự đánh răng.
Biết được mối quan hệ giữa dinh dưỡng và


Hành vi học tập

Thái

độ

học tập

sức khoẻ răng miệng.
với Hứng thú và tò mò.
Kiên trì.
Sáng tạo.

24


Sự phát triển Ý thức về bản Tự tin
cảm xúc và kĩ thân

Thể hiện thế chủ động và sự tự định hướng

năng xã hội

Khả năng tự kiềm chế.
Tuân thủ các quy định và thời gian biểu của
lớp học.
Sử dụng đồ dùng học tập một cách có mục
đích và có ý thức tôn trọng.
Thích nghi với sự thay đổi trong nếp sinh
Tương tác


hoạt hằng ngày.
Tương tác với người khác
Thoải mái tự nhiên trong tương tác với một
hay nhiều bạn khác.
Thoải mái tự nhiên trong tương tác với
người quen
Tham gia vào các nhóm hoạt động trong lớp.
bày tỏ sự cảm thông và quan tâm tới người

khác.
Giải quyết vấn Tìm sự giúp đỡ của người lớn khi cần thiết
đề

để giải quyết tranh chấp.

Phát triển ngôn Nghe

Tự giải quyết một số tình huống.
Lắng nghe để hiểu ý nghĩa của cuộc nói

ngữ và giao tiếp

chuyện.
Làm theo chỉ dẫn cho một loạt các hành
Nói

động.
Nói rõ ràng và diễn đạt suy nghĩ một cách
hiệu quả.

Sử dụng vốn từ và ngôn ngữ cho các mục
đích khác nhau.

25


×