Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Hoàn thiện Kiểm soát chất lượng Kiểm toán Báo cáo Tài chính tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 104 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình của riêng tôi. Số liệu sử dụng
trong Luận văn là trung thực. Những kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng
công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả của Luận văn

Hoàng Thị Thu Hiền


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
1.3.2.2. Kiểm soát chất lượng từ bên trong tại Pháp.......................................................28
CHƯƠNG 2.........................................................................................................................29
THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN..........................................30
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY KIỂM TOÁN AASC.........................................30


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AASC

: Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và
Kiểm toán

KTV

: Kiểm toán viên

BGĐ

: Ban giám đốc


BCTC

: Báo cáo tài chính


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU SƠ ĐỒ HÌNH VẼ

LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
1.3.2.2. Kiểm soát chất lượng từ bên trong tại Pháp.......................................................28
CHƯƠNG 2.........................................................................................................................29
THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN..........................................30
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY KIỂM TOÁN AASC.........................................30


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới chất lượng kiểm toán là vấn đề được đặc biệt quan tâm. Tại Mỹ
ngoài việc các công ty kiểm toán xây dựng những hệ thống kiểm soát chất lượng
của riêng mình thì nhà nước cũng tham gia vào quá trình kiểm soát thông qua 3 tổ
chức là Ủy ban Giám sát hoạt động kiểm toán cho các công ty đại chúng, trung tâm
chương trình kiểm tra chéo các công ty kiểm toán cho các công ty đại chúng và hiệp
hội kế toán viên công chứng hoa kỳ.
Tại Việt Nam Kiểm toán độc lập đã hình thành và phát triển từ năm 1991
với 2 công ty kiểm toán đầu tiên, sau gần 20 năm thị trường kiểm toán độc lập ở
Việt Nam đã được mở rộng với gần 160 công ty với khoảng 8.000 nhân viên và
hơn 1.100 người có chứng chỉ Kiểm toán viên. Thị trường kiểm toán Việt Nam là
rất lớn, đặc biệt khi thị trường chứng khoán hình thành và phát triển, số lượng
người sử dụng thông tin tài chính ngày càng nhiều và đa dạng. Để ổn định thị

trường chứng khoán, một trong những biện pháp không thể thiếu là thông tin cung
cấp phải trung thực. Muốn vậy, dịch vụ kiểm toán phải đảm bảo chất lượng. Nói
cách khác, chất lượng của dịch vụ kiểm toán là mối quan tâm của các đối tượng sử
dụng thông tin trên báo cáo tài chính. Muốn nâng cao chất lượng, cần tiến hành
kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. Nhận thức được tầm quan trọng của
viêc kiểm soát chất lượng kiểm toán từ năm 1998, Bộ Tài chính đã tổ chức các
cuộc kiểm tra đối với công ty kiểm toán. Ngày 14/3/2003 Bộ Tài chính đã ban
hành chuẩn mực số 220 về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. Đến ngày
15/5/2007 Bộ đã ban hành quy chế kiểm soát chất lượng kiểm toán và đến ngày
15/12/2009 hội kiểm toán viên hành nghề đã ban hành hồ sơ kiểm toán mẫu để áp
dụng cho mùa kiểm toán 2009-2010.
Về phía các công ty do số lượng các công ty kiểm toán ngày càng cao, mức
độ cạnh tranh ngày càng lớn. Một trong những nhân tố để khẳng định vị thế của


2

mình trên thị trường được thể hiện thông qua chất lượng của các thông tin cung cấp
trên báo cáo kiểm toán. Chính vì thế, việc nâng cao chất lượng kiểm toán là một
trong những yêu cầu cấp thiết để tồn tại và phát triển.
Trong bối cảnh đó việc nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện Kiểm soát chất lượng
Kiểm toán Báo cáo Tài chính tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Tư vấn Tài chính Kế
toán và Kiểm toán (AASC)” là hết sức cần thiết, giúp công ty ngày càng phát triển
và tăng cường được tính cạnh tranh trên thị trường.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là:
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng Kiểm toán báo cáo
tài chính, kiểm soát chất lượng Kiểm toán báo cáo tài chính;
Phân tích đánh giá thực trạng kiểm soát chất lượng kiểm toán báo cáo tài
chính tại công ty AASC;

Trên cơ sở đó, luận văn đã đánh giá những ưu điểm và tồn tại trong kiểm
soát chất lượng kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty từ đó đề ra một số các
phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính
tại công ty AASC.
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Thực trạng Kiểm soát chất lượng Kiểm
toán báo cáo tài chính do công ty AASC thực hiện.
Giới hạn về địa điểm thực hiện: Đi sâu nghiên cứu công tác kiểm soát chất
lượng kiểm toán từ giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán, kết thúc
cuộc kiểm toán và kiểm soát chất lượng sau kiểm toán do công ty AASC thực hiện,
trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện thủ tục này.
Giới hạn về thời gian thực hiện: Đi vào nghiên cứu công tác kiểm soát chất
lượng trong năm tài chính 2010 do Công ty AASC thực hiện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp tổng hợp, phân
tích, kết hợp chặt chẽ giữa tư duy lý luận và phân tích thực tiễn.Trong quá trình
nghiên cứu thực trạng tại công ty, tác giả đã thực hiện các phương pháp:
Phỏng vấn các thành viên trong Ban kiểm soát và Phòng đào tạo và kiểm
soát chất lượng của Công ty AASC.
Nghiên cứu quy trình và tìm hiểu thực tế áp dụng được ghi chép trong các hồ


3

sơ kiểm toán của công ty AASC. Để có cái nhìn cụ thể hơn về chất lượng hoạt động
kiểm toán Báo cáo tài chính tại Công ty Kiểm toán AASC, tôi đã đi vào nghiên cứu
chọn mẫu 10 khách hàng là những công ty,tổng công ty lớn cùng 10 khách hàng có
quy mô nhỏ. Số lượng mẫu chọn chiếm 10% tỷ lệ khách hàng của công ty, mặc dù
tỷ lệ mẫu chọn nhỏ nhưng mang tính đại diện cao do 90% khách hàng kiểm toán
Báo cáo tài chính của công ty có kết cấu tương tự. Trên cơ sở quy trình chuẩn và

khảo sát thực tế tại công ty đánh giá thực trạng kiểm soát chất lượng hoạt động
kiểm toán Báo cáo tài chính.
Tổng hợp các tài liệu hội thảo và tạp chí chuyên ngành để rút ra những tồn
tại trong công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập và các bài học
kinh nghiệm từ các quốc gia khác.
Kỹ năng trình bày: Sử dụng phương pháp diễn giải, quy nạp trình bày lời văn
cùng với bảng biểu và số liệu minh họa.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; đề tài được chia
thành ba chương như sau:
Chương 1: Lý luận chung về kiểm soát chất lượng kiểm toán báo cáo tài
chính do công ty kiểm toán thực hiện.
Chương 2: Thực trạng kiểm soát chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính tại
công ty AASC
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện kiểm soát chất
lượng kiểm toán báo cáo tài chính do công ty AASC thực hiện


4

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG
KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO CÔNG TY
KIỂM TOÁN THỰC HIỆN
1.1. Lý luận chung về kiểm soát chất lượng kiểm toán
1.1.1. Lịch sử ra đời của kiểm soát chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính
Kiểm toán là một hoạt động đã có lâu đời kể từ thời kỳ thông tin được phê
chuẩn bằng cách đọc lên trong buổi họp công khai. Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, sự ra đời của công ty cổ phần và thị trường chứng khoán, sự tách rời giữa
quyền sở hữu và quyền quản lý đã làm cho nhu cầu cần kiểm tra của người chủ sở

hữu để chống lại sự gian lận của người quản lý lẫn người làm công. Kiểm toán độc
lập đã ra đời vào thế kỷ 18 nhằm đáp ứng cho nhu cầu này. Đến thế kỷ 19, với việc
bành trướng thuộc địa của Anh đã kéo theo sự mở rộng đầu tư của các nhà tư bản
Anh sang các quốc gia thuộc địa. Do sự cách trở về địa lý nên các nhà đầu tư cần có
người giám sát các khoản đầu tư khi họ vắng mặt, nhiệm vụ này đã được trao cho
các kiểm toán viên. Trong thời kỳ này, để tăng độ tin cậy vào kiểm toán viên, các
nhà đầu tư Anh chỉ cấm kiểm toán viên làm việc cho công ty được kiểm toán hơn là
chú trọng vào chất lượng của các cuộc kiểm toán do kiểm toán viên thực hiện.
Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, do có sự dịch chuyển vốn từ quốc gia này
sang quốc gia khác và hợp nhất các công ty lớn ở Anh trong ngành khai thác mỏ,
đường sắt, nhiên liệu,... đã dẫn đến sự thay đổi trong quan điểm về mục đích, bản
chất và nguồn vốn đầu tư vào các công ty. Từ đó nhiệm vụ của kiểm toán viên
chuyển sang phục vụ cho cổ đông trong cộng đồng nhiều hơn là lợi ích của người
chủ sở hữu vắng mặt. Nhóm cổ đông trong cộng đồng chủ yếu là các nhà đầu tư địa
phương, mà thường là các ngân hàng lớn hay các nhà đầu tư lớn và nhóm này ngày
càng gia tăng. Chính nhóm cổ đông này đã làm thay đổi quan điểm về chất lượng
của hoạt động kiểm toán, vì họ mong muốn rằng những thông tin mà họ nhận được
từ các báo cáo tài chính đã được kiểm toán mang tính trung thực và khách quan cao.
Chính vì thế, vào thời gian này các công ty kiểm toán bắt đầu chú trọng đến công
tác kiểm soát chất lượng hoạt động của mình với mục tiêu là đem đến cho người sử


5

dụng những thông tin có chất lượng tốt nhất.
Cùng với quá trình phát triển của kinh tế, yêu cầu của xã hội đối với kiểm
toán ngày càng cao. Kiểm soát chất lượng ngày càng trở thành mối quan tâm hàng
đầu của nghề nghiệp.
1.1.2. Khái niệm chất lượng hoạt động kiểm toán và kiểm soát chất lượng


hoạt động kiểm toán
Chất lượng luôn là sự thách thức, là mối quan tâm hàng đầu mà bất cứ tổ
chức nào đều phải đối mặt trong lĩnh vực hoạt động của mình. Dưới những góc nhìn
khác nhau, có thể có các định nghĩa khác nhau về chất lượng:
Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của
con người, của một sự vật, sự việc”.
Theo định nghĩa của tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) 5200-ISO 9000 thì “chất
lượng là mức độ phù hợp của sản phẩm hoặc dịch vụ thỏa mãn các yêu cầu đề ra
hoặc định trước của người mua”.
Một sản phẩm có tồn tại được là nhờ chất lượng, Kiểm toán là một ngành
cung cấp dịch vụ với mục đích nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị.
Do vậy, tương tự như các ngành nghề khác, kiểm toán chỉ có thể tồn tại khi cung
cấp dịch vụ có chất lượng cao, được người sử dụng tin cậy. Chất lượng kiểm toán
được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220 (VSA 220 - Kiểm soát chất
lượng hoạt động kiểm toán):
“Chất lượng hoạt động kiểm toán là mức độ thỏa mãn của các đối tượng sử
dụng kết quả kiểm toán về tính khách quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm toán của
kiểm toán viên; đồng thời thỏa mãn mong muốn của đơn vị được kiểm toán về
những ý kiến đóng góp của kiểm toán viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh, trong thời gian định trước với giá phí hợp lý.” [4; tr. 4]
Như vậy, chất lượng hoạt động kiểm toán có thể được xem xét dưới ba góc độ:
Mức độ người sử dụng thông tin thỏa mãn đối với tính khách quan và độ tin
cậy của kết quả kiểm toán;
Mức độ đơn vị được kiểm toán thỏa mãn về ý kiến đóng góp nhằm mục đích
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh;
Báo cáo kiểm toán được lập và phát hành theo đúng thời gian đã đề ra trong
hợp đồng kiểm toán và chi phí dịch vụ kiểm toán ở mức hợp lý.



6

Do vậy, muốn nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán đòi hỏi phải có sự
kiểm soát chất lượng. Kiểm soát chất lượng hoạt động là một quá trình trong đó
công ty kiểm toán thực hiện nhiều thủ tục như hướng dẫn, giao việc, giám sát, kiểm
tra công việc mà các kiểm toán viên thực hiện và kiểm tra các nhận xét, kết luận của
nhóm kiểm toán trước khi phát hành báo cáo kiểm toán.
Đối với hoạt động kiểm toán, kiểm soát chất lượng kiểm toán có thể được
hiểu là một hệ thống chính sách và biện pháp để nắm bắt và điều hành hoạt động
kiểm toán đạt chuẩn mực chung. Hệ thống chính sách và biện pháp đó bao gồm:
quan điểm về kiểm soát, các qui định nghiệp vụ kiểm toán và kiểm soát, cơ cấu tổ
chức bộ máy kiểm soát, chính sách về nhân sự, các hoạt động kiểm tra, soát xét, thu
thập thông tin, xác nhận.... Kiểm soát chất lượng kiểm toán được thực hiện từ trước
trong và sau quá trình kiểm toán, do nhiều cấp độ kiểm soát tiến hành, với nhiều
phương pháp kiểm soát khác nhau.
Mục tiêu chung của kiểm soát chất lượng kiểm toán là nhằm bảo đảm cho
kiểm toán viên tuân thủ đúng chuẩn mực nghề nghiệp và chuẩn mực chất lượng
theo quy định, nhằm tạo ra những sản phẩm kiểm toán đạt tiêu chuẩn chất lượng,
đáp ứng yêu cầu của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán. Các mục tiêu cụ
thể là:
- Việc kiểm toán được thực hiện phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán, quy
trình kiểm toán, phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và các quy chế, quy
định khác trong hoạt động kiểm toán;
- Các thành viên của đoàn kiểm toán hiểu rõ và nhất quán về kế hoạch kiểm
toán, tổ chức thực hiện kiểm toán, lập báo cáo kết quả kiểm toán;
- Các ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị kiểm toán có đầy đủ
bằng chứng kiểm toán thích hợp, phù hợp với các chuẩn mực đã quy định. Tất cả
các lỗi, thiếu sót và các vấn đề không bình thường phải được nhận biết, lưu lại bằng
văn bản và giải quyết đúng đắn hoặc báo cáo cho người có thẩm quyền cao hơn xem
xét, sử lý;

- Đạt được các mục tiêu kiểm toán đã đặt ra; báo cáo kiểm toán phải bao
gồm đầy đủ các ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị kiểm toán liên
quan đến cuộc kiểm toán;
- Rút ra những kinh nghiệm nhằm cải thiện hoạt động kiểm toán trong tương


7

lai. Những kinh nghiệm đó cần phải được nhận biết, ghi chép và phải được đưa vào
kế hoạch kiểm toán kỳ sau và trong các hoạt động phát triển nhân sự.
Như vậy, kiểm soát chất lượng kiểm toán đã được thừa nhận như một chức
năng của quản lý hoạt động kiểm toán, là trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm chuyên
môn nghề nghiệp của mọi tổ chức kiểm toán, là một trong những chuẩn mực kiểm
toán quan trọng trong hoạt động kiểm toán. Do vậy, việc thiết lập và duy trì một hệ
thống kiểm soát chất lượng kiểm toán là một trong những nhiệm vụ không thể thiếu
được của các tổ chức kiểm toán.
Thiết lập và duy trì cơ chế kiểm soát chất lượng kiểm toán chặt chẽ, có hiệu
quả, các tổ chức kiểm toán sẽ đảm bảo với công chúng rằng, kết quả kiểm toán
trước khi đến với công chúng đã được kiểm soát, chất lượng kiểm toán được bảo
đảm, từ đó củng cố được lòng tin của công chúng vào chất lượng kiểm toán và đạo
đức nghề nghiệp của kiểm toán viên. Ngược lại, nếu chất lượng kiểm toán không
được kiểm soát, hoặc kiểm soát không có hiệu quả thì lòng tin của công chúng vào
chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên khó tránh khỏi sự
lung lay.
Muốn đạt được các mục tiêu trên, chất lượng hoạt động kiểm toán phải được
kiểm soát chặt chẽ. Việc kiểm soát không chỉ được thực hiện bởi chính các công ty
kiểm toán mà còn được tiến hành bởi hội nghề nghiệp, Bộ tài chính hoặc các cơ
quan chức năng có liên quan.

1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng kiểm toán

Có thể thấy chất lượng kiểm toán bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Mức độ thoả mãn về tính khách quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm toán của
những đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán;
Mức độ thoả mãn về những đóng góp của kiểm toán viên nhằm nâng cao
hiệu quả công tác quản lý tài chính của đơn vị được kiểm toán theo đúng chế độ
chính sách của nhà nước cũng như các qui định riêng của đơn vị.
Báo cáo kiểm toán được phát hành theo đúng thời gian đã đề ra trong hợp
đồng kiểm toán và chi phí cho dịch vụ kiểm toán ở mức độ phù hợp.

1.1.3.1. Mức độ thoả mãn về tính khách quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm


8

toán của những người sử dụng kết quả kiểm toán
Tính khách quan, độc lập của kiểm toán viên là điều kiện trước hết để đảm
bảo ý nghĩa và giá trị sử dụng của dịch vụ kiểm toán độc lập. Ý kiến kiểm toán đưa
ra không làm tăng thêm lượng thông tin cho những người sử dụng kết quả kiểm
toán mà chỉ đảm bảo cho những đối tượng này về tính trung thực hợp lý của các báo
cáo tài chính mà họ được cung cấp. Sự đảm bảo này được chấp nhận và có giá trị
bởi: (i) ý kiến kiểm toán được đưa ra bởi chuyên gia kiểm toán có đủ năng lực, trình
độ chuyên môn; (ii) tính độc lập, khách quan của ý kiến kiểm toán. Những người sử
dụng kết quả kiểm toán chỉ thật sự hài lòng và thoả mãn khi họ tin tưởng rằng ý
kiến kiểm toán đưa ra dựa trên các cơ sở đó. Để đánh giá được chỉ tiêu này, người ta
xem xét tính tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp của kiểm toán viên và của công ty
kiểm toán, điều này thể hiện khá rõ qua tính chuyên nghiệp của kiểm toán viên
trong quá trình thực hiện công việc kiểm toán. Việc đánh giá đó cần bao quát các
khía cạnh sau:
- Đảm bảo tính độc lập, khách quan và chính trực
- Kiến thức, kỹ năng kinh nhiệm của kiểm toán viên

- Các phương pháp thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán
- Công tác giám sát, quản lý cuộc kiểm toán
- Các thủ tục soát xét, phát hành báo cáo kiểm toán
- Các khía cạnh khác

1.3.1.2. Mức độ thoả mãn về sự đóng góp của kiểm toán viên nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý tài chính của đơn vị được kiểm toán theo đúng chế độ chính
sách của nhà nước cũng như các qui định riêng của đơn vị.
Mục tiêu chính của kiểm toán độc lập báo cáo tài chính là đưa ra ý kiến độc
lập về tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính. Do vậy ở chỉ tiêu thứ
nhất là thể hiện sự thoả mãn về tính khách quan, độc lập và tin cậy vào ý kiến kiểm
toán của những người sử dụng kết quả kiểm toán thì ở chỉ tiêu này lại là sự thoả
mãn của đơn vị được kiểm toán về giá trị gia tăng mà kiểm toán viên có thể cung
cấp cho đơn vị. Đối với các nhà quản lý đơn vị được kiểm toán, việc phát hiện và
ngăn ngừa các sai sót trong quản lý tài chính, kế toán không phải lúc nào cũng hoàn


9

hảo và kiểm soát được toàn bộ. Do vậy báo cáo tài chính do đơn vị lập nên vẫn có
thể có những sai sót trọng yếu do những hạn chế trong hệ thống kiểm soát của đơn
vị. Trách nhiệm của các kiểm toán viên là phải đảm bảo rằng báo cáo tài chính đó
không có sai sót trọng yếu, và nếu có kiểm toán cần chỉ ra những sai sót đó để đơn
vị sửa chữa và điều chỉnh hoặc là cơ sở cho việc không đưa ra ý kiến chấp nhận
toàn phần. Đó chính là cơ sở để các nhà quản lý đơn vị tin tưởng và đặt hy vọng vào
những phát hiện và những kiến nghị đóng góp của kiểm toán viên theo đó có thể
sửa đổi và đảm bảo rằng báo cáo tài chính của họ là trung thực và hợp lý. Hơn nữa,
thông qua những phát hiện và kiến nghị đóng góp của kiểm toán viên các nhà quản
lý đơn vị có thể hoàn thiện hệ thống kiểm soát của mình và nâng cao hiệu quả quản
lý tài chính kế toán của đơn vị.

Mức độ thoả mãn của các nhà quản lý đơn vị đối với những đóng góp của
kiểm toán không cụ thể hoá được bằng số lượng bởi có thể có hoặc có thể không có
các phát hiện và kiến ghị góp ý hoàn thiện hệ thống kiểm soát của đơn vị mà chỉ có
thể đánh giá ở sự hài lòng và đánh giá cao của các nhà quản lý doanh nghiệp về tính
chuyên nghiệp và trách nhiệm của kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán.

1.3.1.3. Báo cáo kiểm toán được lập và phát hành theo đúng thời gian đã đề ra
trong thư hẹn kiểm toán và chi phí cho dịch vụ kiểm toán ở mức độ phù hợp.
Một trong các yêu cầu của thông tin tài chính là tính kịp thời, các thông tin
không được cung cấp đúng lúc sẽ trở nên không có giá trị sử dụng, đồng thời có thể
gây nhiều khó khăn trong việc đưa ra các quyết định quản lý hoặc bỏ lỡ các cơ hội
kinh doanh. Mặc dù kiểm toán không phải là kênh cung cấp thông tin riêng biệt,
nhưng nó là một khâu thẩm định trong hệ thống cung cấp thông tin. Các thông tin
tài chính do đơn vị lập và được các kiểm toán viên, công ty kiểm toán kiểm tra và
đưa ra ý kiến về tính trung thực hợp lý của các thông tin này trước khi chuyển cho
những người sử dụng. Do vậy mọi chậm trễ trong quá trình kiểm toán do nguyên
nhân của việc tổ chức, giám sát quản lý cuộc kiểm toán thiếu hiệu quả hoặc bất cứ
lý do gì khác từ phía công ty kiểm toán dẫn đến sự chậm trễ không theo đúng kế
hoạch đặt ra trong hợp đồng kiểm toán/ hay Thư hẹn kiểm toán đều làm ảnh hưởng


10

đến uy tín và giá trị của dịch vụ của công ty kiểm toán.
Về giá phí kiểm toán, đây cũng là chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng
kiểm toán. Ở chỉ tiêu thứ nhất và thứ hai nói lên tính chất kỹ thuật của dịch vụ, nó
đánh giá mức độ thoả mãn nhu cầu của những người sử dụng kết quả của dịch vụ
kiểm toán về sự đảm bảo cho tính trung thực, hợp lý của các báo cáo tài chính mà
họ được cung cấp cũng như lượng những ý kiến tư vấn nhằm hoàn thiện hệ thống
kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán. Trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là

hoạt động kiểm toán độc lập, việc quan tâm đến lợi ích của đơn vị được kiểm toán
hết sức quan trọng, đó chính là yếu tố kinh tế xã hội của dịch vụ. Yếu tố này yêu
cầu công ty kiểm toán không những phải đảm bảo nhu cầu có được ý kiến độc lập
của kiểm toán viên về tính trung thực của báo cáo tài chính mà cả giá của nhu cầu
cũng được thoả mãn. Phí dịch vụ kiểm toán xác định trên cơ sở thời gian cần thiết
để các kiểm toán viên thực hiện công việc kiểm toán và đơn giá giờ công làm việc
của kiểm toán viên. Ngoại trừ những ảnh hưởng của yếu tố đơn giá giờ công làm
việc của kiểm toán viên và sự hợp tác của đơn vị được kiểm toán với các kiểm toán
viên trong quá trình kiểm toán thì việc xác định và giảm thiểu thời gian kiểm toán
mà vẫn đảm bảo thu thập được đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp sẽ là
điều kiện để giảm thiểu giá dịch vụ cho khách hàng. Đó chính là sự thể hiện và là
một trong các chỉ tiêu đánh giá chất lượng kiểm toán.
Chất lượng là khái niệm tương đối, biến đổi theo thời gian, không gian, theo
sự phát triển của nhu cầu xã hội và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Ở nước ta,
kiểm toán độc lập hình thành và phát triển chưa lâu, hành lang pháp lý đang từng
bước hoàn thiện (các chuẩn mực kiểm toán đã và đang tiếp tục được nghiên cứu và
công bố), và sự hiểu biết về kiểm toán của các đơn vị được kiểm toán còn hạn chế.
Do vậy sự đánh giá về chất lượng kiểm toán vẫn còn nhiều bất cập và thiếu cơ sở
theo đó lý luận về chất lượng kiểm toán cần tiếp tục nâng cao và hoàn thiện.

1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán.
Nếu xét theo các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán, có thể tổng


11

hợp các yếu tố này thành 2 nhóm chủ yếu là nhóm các yếu tố bên ngoài và nhóm
các yếu tố bên trong.

1.1.4.1. Nhóm các yếu tố bên ngoài: bao gồm nhu cầu của nền kinh tế và cơ

chế của nền kinh tế.
Nhu cầu của nền kinh tế:
Không có sản phẩm dịch vụ nào cung cấp cho thị trường lại không nhằm đáp
ứng nhu cầu nào đó của nền kinh tế. Do vậy ở bất cứ trình độ nào, với mục đích sử
dụng gì chất lượng sản phẩm, dịch vụ bao giờ cũng bị chi phối, bị ràng buộc bởi
hoàn cảnh, điều kiện và nhu cầu nhất định của nền kinh tế. Ảnh hưởng của nhu cầu
của nền kinh tế đối với chất lượng kiểm toán thể hiện qua:
Đòi hỏi của thị trường: Ở những thị trường khác nhau có những đòi hỏi khác
nhau và đối tượng khác nhau thì yêu cầu khác nhau. Có những đối tượng cần kiểm
toán bởi theo qui định của nhà nước phải kiểm toán, có đối tượng cần kiểm toán do
yêu cầu quản lý của bản thân họ hay do yêu cầu của bên thứ 3, đối tác kinh doanh
… Mặc dù kiểm toán cho đối tượng nào đi chăng nữa thì công việc kiểm toán cũng
phải tuân theo pháp luật và các chuẩn mực nghề nghiệp. Tuy nhiên các điều kiện
riêng của từng đối tượng này là không giống nhau, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài khác với doanh nghiệp nhà nước và khác với công ty cổ phần, Luật
pháp điều chỉnh đối với các đối tượng này không giống nhau, hệ thống quản lý,
kiểm soát nội bộ của họ cũng rất khác nhau và mục đích sử dụng kiểm toán cũng
không thống nhất. Điều này thực sự sẽ ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán. Đối
với khách hàng có hệ thống quản lý hữu hiệu, hiểu biết về kiểm toán đương nhiên
sẽ dễ dàng hơn nhiều cho kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán so với khách
hàng có hệ thống kiểm soát thiếu hiệu lực, thiếu sự hợp tác với kiểm toán viên.
Trong những trường hợp như vậy những ảnh hưởng đến kết quả kiểm toán là rất
khác nhau và trong nhiều trường hợp kiểm toán viên phải đưa ra ý kiên không thể
đưa ra ý kiến. Đó là điều không mong đợi của kiểm toán viên và của những người
sử dụng dịch vụ, kết quả kiểm toán.
Trình độ kinh tế, xã hội: Muốn có được sản phẩm có chất lượng phải dựa


12


trên cơ sở phát triển của nền kinh tế, xã hội. Thực tế không thể đánh giá hoặc so
sánh chất lượng kiểm toán ở Việt nam với chất lượng kiểm toán ở các nước phát
triển như Anh, Hoa Kỳ, Pháp...Bởi hệ thống lý luận về kiểm toán, hệ thống về qui
trình kỹ thuật nghiệp vụ của Việt nam vẫn khác nhiều so với các nước đó hay về đội
ngũ chuyên gia kiểm toán ở Việt nam vẫn chưa được đào tạo đầy đủ và cơ bản như
các nước. Tất cả những điều này đều ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán. Do vậy,
vấn đề nâng cao chất lượng kiểm toán cần phải xem xét trong quá trình phát triển
chung của nền kinh tế.
Cơ chế quản lý kinh tế:
Bất cứ hoạt động kinh tế nào, dưới chế độ nào đều chịu tác động, chi phối
bởi cơ chế quản lý kinh tế nhất định. Cơ chế quản lý kinh tế tác động đối với chất
lượng kiểm toán thể hiện ở qua các nội dung sau:
Mục tiêu kinh tế: Mục tiêu phát triển kinh tế có thể làm thay đổi lớn đến nhu
cầu về kiểm toán kéo theo những ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán. Ví dụ về
chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước hoặc qui định khi công bố báo cáo
tài chính phải được kiểm toán xác nhận đã tạo ra thị trường lớn về nhu cầu kiểm
toán. Hoặc định hướng phát triển dịch vụ kiểm toán của đảng cũng tạo ra nhiều cơ
hội cho sự phát triển của hoạt động này.
Các chính sách kinh tế: Chính sách kinh tế có tác động rõ nét đến chất lượng
kiểm toán. Trên cơ sơ xác định mục tiêu phát triển kiểm toán, Nhà nước đã có hàng
loạt các biện pháp đảm bảo cho sự phát triển như việc đầu tư nghiên cứu các chuẩn
mực kiểm toán, kế toán. Đây là những nỗ lực lớn nhằm phát triển hoạt động kiểm
toán và đảm bảo chất lượng kiểm toán. Hoặc chính sách khuyến khích công ty kiểm
toán quốc tế kết hợp cùng các công ty kiểm toán trong nước kiểm toán các khách
hàng là doanh nghiệp nhà nước, dự án đã tạo cho sự trao đổi học hỏi kinh nghiệm
cùng nâng cao chất lượng công việc. Ngược lại cũng có những chính sách làm hạn
chế khả năng nâng cao chất lượng. Cụ thể như việc qui định về khung giá phí kiểm
toán hoặc cơ chế tiền lương của các kiểm toán viên trong các công ty kiểm toán là
doanh nghiệp nhà nước làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng làm việc, nghiên cứu của



13

kiểm toán viên,
Tổ chức quản lý chất lượng: Hình thành cơ chế quản lý chất lượng trong cơ
chế chung của quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý chất lượng sẽ đảm bảo sự hài hoà
giữa lợi ích của công chúng đối với kiểm toán và sự phát triển của hoạt động kiểm
toán. Cơ chế kiểm soát quản lý chất lượng hữu hiệu sẽ đảm bảo cho sự phát triển có
chất lượng và hiệu quả của hoạt động kiểm toán.

1.4.1.2. Nhóm các yếu tố bên trong
Là các yếu tố trong phạm vi của công ty kiểm toán. Đây là các yếu tố cơ bản
quyết định đến chất lượng kiểm toán. Các yếu tố bao gồm:
Yếu tố con người:
Đối với hoạt động kiểm toán, lao động của kiểm toán viên (bao gồm cả các
cấp quản lý) là yếu tố chính, cơ bản nhất tạo nên giá trị của dịch vụ. Kiểm toán là
quá trình các kiểm toán viên thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán để đưa ra ý
kiến của mình. Trong quá trình này cần đến những đánh giá mang tính chủ quan của
kiểm toán viên. Do vậy có thể thấy, chất lượng kiểm toán phụ thuộc lớn vào chất
lượng của đội ngũ kiểm toán viên (nhân viên kiểm toán và các cấp quản lý của công
ty kiểm toán).
Yếu tố kỹ thuật:
Để cụ thể hoá các chuẩn mực chuyên môn, các công ty kiểm toán thiết kế
riêng cho mình hệ thống các qui trình kỹ thuật, các bước và phương pháp thu thập
bằng chứng kiểm toán, để dựa vào đó kiểm toán viên tiến hành thực hiện công
việc được giao. Hệ thống các yếu tố kỹ thuật này sẽ đảm bảo cho các kiểm toán
viên thực hiện công việc một cách khoa học, thu thập được đầy đủ các bằng chứng
kiểm toán thích hợp với chi phí và thời gian hợp lý, hạn chế thấp nhất rủi ro kiểm
toán. Trong hệ thống các yếu tố kỹ thuật có thể kể đến sự hỗ trợ của các phần mềm
máy tính được các chuyên gia thiết lập áp dụng cho một số các thủ tục kiểm toán

như giúp các kiểm toán viên có được số liệu phân tích, đánh giá hoặc đưa ra kết
quả lựa chọn phương pháp chọn mẫu, và các ứng dụng khác. Với phương pháp


14

khoa học trong quá trình thu thập bằng chứng kiểm toán, kiểm toán viên thể hiện
cho đơn vị được kiểm toán thấy được tính chuyên nghiệp, mặt khác hạn chế thấp
nhất sự ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của đơn vị trong quá trình kiểm toán,
tạo lòng tin nơi khách hàng. Có thể nói yếu tố kỹ thuật như là công nghệ của quá
trình kiểm toán.
Yếu tố quản lý:
Quản lý là yếu tố không thể thiếu và là quan trọng nhất trong mọi hoạt động
kinh tế xã hội. Đối với hoạt động kiểm toán độc lập, yếu tố quản lý cuộc kiểm toán
có ý nghĩa hết sức quan trọng, đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành tuân theo
đúng chuẩn mực nghề nghiệp, các yêu cầu kỹ thuật của công ty cũng như chuẩn
mực phục vụ khách hàng của công ty kiểm toán.
Các yếu tố về điều kiện phương tiện làm việc: Đây là những yếu tố quan
trọng giúp các kiểm toán viên thực hiện tốt công việc của mình một cách hiệu quả.
Các yếu tố này có thể kể như: máy tính, fax, mạng máy tính nội bộ, phương tiện
liên lạc… Mặc dù không tham gia trực tiếp tạo nên chất lượng kiểm toán nhưng
những yếu tố này có tác động tích cực trong chính sách thu hút nhân viên của công
ty, mặt khác yếu tố này cũng làm tăng thêm hình ảnh tốt về công ty kiểm toán trước
khách hàng, tạo niềm tin nơi khách hàng về tính chuyên nghiệp của kiểm toán.

1.1.5. Các loại hình kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
Nếu xem xét theo phạm vi kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán có thể
phân chia thành

1.1.5.1. Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập từ bên ngoài

Để nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán, các quốc gia luôn có các tổ chức
độc lập để tiến hành soát xét lại dịch vụ mà các công ty kiểm toán đã cung cấp cho
khách hàng. Tùy vào đặc điểm kinh tế, chính trị và yêu cầu quản lý của từng quốc
gia mà chủ thể kiểm soát độc lập đó có thể là các công ty kiểm toán khác, hội nghề
nghiệp hoặc cơ quan nhà nước phụ trách về kế toán, kiểm toán thực hiện công tác
kiểm soát chất lượng từ bên ngoài. Mặc dù, các chủ thể kiểm soát có thể khác nhau
nhưng nhìn chung quy trình và thủ tục kiểm soát chất lượng từ bên ngoài được thực


15

hiện qua các giai đoạn: Chuẩn bị kiểm soát, thực hiện kiểm soát, phát hành báo cáo
kiểm soát, theo dõi sau kiểm soát.
Công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán từ bên ngoài nhằm mục tiêu:
Giúp cho các cơ quan quản lý, cơ quan chức năng liên quan kiểm soát việc
xây dựng và thực hiện các chính sách, thủ tục kiểm soát chất lượng kiểm toán của
các công ty kiểm toán độc lập có được tiến hành phù hợp với các chuẩn mực kiểm
toán từ đó đề xuất các biện pháp thích hợp;
Giúp cho các công ty kiểm toán kịp thời khắc phục những sai sót, tồn tại
trong quá trình lập kế hoạch, thực hiện kiểm toán, cũng như tìm ra nguyên nhân và
hoàn thiện các phương pháp, kỹ năng làm việc của các kiểm toán viên nhằm góp
phần hoàn thiện quy trình nghiệp vụ đem lại một dịch vụ kiểm toán có chất lượng
cao cho người sử dụng.

1.1.5.2. Kiểm soát chất lượng kiểm toán từ bên trong
Đối với các công ty kiểm toán, Kiểm soát chất lượng là quá trình kiểm toán
viên độc lập và công ty kiểm toán thực hiện các chính sách và thủ tục kiểm soát
chất lượng đối với toàn bộ hoạt động kiểm toán của công ty và đối với từng cuộc
kiểm toán. Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán không chỉ nhằm nâng cao
chất lượng dịch vụ mà còn là biện pháp hữu hiệu để xử lý các rủi ro phát sinh từ

việc tranh chấp trách nhiệm nghề nghiệp giữa các bên. Kiểm soát chất lượng tại các
công ty kiểm toán vừa là quy chế vừa là các bước công việc mà các công ty Kiểm
toán phải làm để có cam kết hợp lý rằng mọi phần việc, mọi cuộc kiểm toán mà
công ty đã thực hiện là phù hợp với chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hoặc chuẩn
mực quốc tế được thừa nhận tại Việt Nam.
Trong phạm vi giới hạn của đề tài em chỉ xin trình bày về cấp độ kiểm soát
chất lượng từ phía bên trong công ty kiểm toán.

1.2. Kiểm soát chất lượng kiểm toán theo chuẩn mực kiểm toán
1.2.1. Lịch sử phát triển chuẩn mực kiểm soát chất lượng
Nhằm phát triển và tăng cường phối hợp của ngành nghề một cách hài hòa
trên toàn thế giới, vào năm 1977 Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) đã được thành
lập. Năm 1981, Ủy ban thực hành kiểm toán quốc tế (IAPC) trực thuộc IFAC đã ban


16

hành Nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế. Trong các nguyên tắc chỉ đạo kiểm
toán quốc tế, có nguyên tắc số 7 bàn về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán.
Nguyên tắc này đưa ra hướng dẫn về những phương pháp mà công ty kiểm toán áp
dụng nhằm kiểm soát các công việc ủy thác cho các trợ lý trong một cuộc kiểm
toán; những qui chế, các bước công việc mà một công ty kiểm toán cần thiết lập để
đảm bảo chất lượng kiểm toán như [25]:
Giao việc: công việc kiểm toán phải được giao cho kiểm toán viên có đầy đủ
năng lực và trình độ; kiểm toán viên phải xem xét kỹ năng và trình độ của các trợ lý
trong quá trình làm việc để xác định phạm vi hướng dẫn, giám sát và soát xét lại.
Hướng dẫn: những trợ lý được giao việc đều phải được hướng dẫn cặn
kẽ.Việc hướng dẫn bao gồm: thông báo cho họ về trách nhiệm, mục đích, các bước
công việc cần thực hiện và đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp, những vấn đề
cần lưu ý khi thực hiện công việc kiểm toán.

Giám sát: trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán cán bộ phụ trách giám sát
nhằm bảo đảm rằng: các trợ lý tỏ ra có đầy đủ kỹ năng, trình độ nghiệp vụ để thực
hiện công việc mà mình được giao; các trợ lý hiểu rõ các hướng dẫn kiểm toán. Tiến
hành giải quyết sự khác nhau về mặt xét đoán nghiệp vụ giữa các cán bộ cùng tham
gia cuộc kiểm toán.
Soát xét lại: các phần việc do các trợ lý thực hiện cần phải được người thứ
hai có trình độ tương đương hoặc cao hơn soát xét lại. Trong một cuộc kiểm toán có
thể xác định các giai đoạn soát xét chính sau: Soát xét kế hoạch kiểm toán và
chương trình kiểm toán ban đầu; Soát xét việc nghiên cứu và đánh giá các quy chế
kiểm soát nội bộ kể cả các phương pháp tuân thủ; Soát xét các bằng chứng kiểm
toán đã thu thập được và các kết luận rút ra từ bằng chứng này; Soát xét báo cáo tài
chính và dự thảo báo cáo kiểm toán.
Kiểm tra chất lượng nói chung: kiểm tra chất lượng là quy chế các bước công
việc mà các hãng kiểm toán phải làm theo để có các cam kết hợp lý rằng mọi phần
việc, mọi cuộc kiểm toán mà công ty kiểm toán đã thực hiện là phù hợp với các nguyên
tắc cơ bản của kiểm toán. Nội dung và phạm vi của các thủ tục kiểm tra chất lượng tùy
thuộc vào các yếu tố như quy mô và loại hình hành nghề, địa bàn hoạt động, cơ cấu tổ
chức, chi phí thích hợp và sự cân nhắc về lợi ích của công ty kiểm toán.


17

Đến năm 1994, IAPC đã sửa đổi các nguyên tắc thực hành kiểm toán quốc tế
và ban hành chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 220 (ISA 220 - Kiểm soát chất lượng
hoạt động kiểm toán). Cuối thế kỷ 20, quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển thị
trường tài chính quốc tế đã làm tăng nhu cầu thông tin phục vụ cho các nhà đầu tư.
Sự phát triển của công nghệ thông tin đòi hỏi việc kiểm tra, kiểm soát chặc chẽ các
hệ thống và quy trình liên quan đến thông tin. Các thay đổi này dẫn đến sự hình
thành hàng loạt nhu cầu xã hội đối với việc nâng cao chất lượng thông tin. Cũng
trong thời gian này, sự sụp đổ hàng loạt các công ty hàng đầu trên thế giới như

Enron, Worlcom… trong đó có lỗi của công ty kiểm toán. Sự sụp đổ và thất bại
trong các cuộc kiểm toán buộc nghề nghiệp phải xem xét lại các chuẩn mực đã được
ban hành. Vào năm 2002, IFAC ban hành chuẩn mực về dịch vụ đảm bảo có tên là
ISAE100. Tầm quan trọng của dịch vụ đảm bảo được thể hiện thông qua việc Ủy
ban thực hành kiểm toán quốc tế (IAPC) đổi tên thành Ủy ban quốc tế về chuẩn
mực kiểm toán và dịch vụ đảm bảo (IAASB). Trong cấu trúc các chuẩn mực ban
hành bởi IAASB, chuẩn mực kiểm soát chất lượng quốc tế (ISCQ) được áp dụng
cho tất cả các dịch vụ nằm trong phạm vi quy định bởi IAASB và chuẩn mực ISA
220 “Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán áp dụng cho kiểm toán các thông
tin tài chính lịch sử”.

1.2.2. Quy định về kiểm soát chất lượng đối với các công ty kiểm toán
Nội dung, quy mô và trình tự tiến hành thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt
động kiểm toán được vận dụng tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng cuộc kiểm
toán. Tuy nhiên, có những chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt động
kiểm toán mà các công ty kiểm toán phải xây dựng và thực hiện trong mọi cuộc
kiểm toán để phù hợp với chuẩn mực kiểm toán Việt Nam [10]. Đó là:
Thứ nhất, các công ty kiểm toán phải luôn xem xét về tính tuân thủ nguyên
tắc đạo đức nghề nghiệp của các nhân viên của mình. Việc theo dõi, kiểm tra sự
tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp bao gồm kiểm tra tính độc lập, chính trực,
khách quan, năng lực chuyên môn, tính thận trọng, bí mật, tư cách nghề nghiệp.
Phân công một người hoặc một nhóm người chịu trách nhiệm hướng dẫn và giải


18

quyết những vấn đề về tính độc lập, tính chính trực, tính khách quan và tính bí mật,
công ty kiểm toán có thể yêu cầu cán bộ, công nhân viên chuyên nghiệp nộp bản
giải trình về tính độc lập đối với khách hàng. Trong quá trình đào tạo và quá trình
hướng dẫn, giám sát và kiểm tra một cuộc kiểm toán cần nhấn mạnh đến tính độc

lập và tư cách nghề nghiệp.
Thứ hai, công ty kiểm toán phải xem xét đến kỹ năng và năng lực chuyên
môn của các nhân viên chuyên nghiệp. Muốn cung cấp một dịch vụ với chất lượng
cao không những phải tuyển chọn các nhân viên có kỹ năng và năng lực chuyên
môn cao mà còn phải thường xuyên duy trì, cập nhập và nâng cao kiến thức cho họ
trong quá trình đào tạo và đào tạo lại.
Thứ ba, công việc kiểm toán phải được giao cho những cán bộ, nhân viên
chuyên nghiệp được đào tạo và có đầy đủ kỹ năng và năng lực chuyên môn đáp ứng
được yêu cầu thực tế. Cần lập kế hoạch về thời gian và nhân sự cho một cuộc kiểm
toán, phân công công việc cho họ một cách cụ thể rõ ràng.
Thứ tư, công việc kiểm toán phải được hướng dẫn, giám sát thực hiện đầy đủ
ở tất cả các cấp cán bộ, nhân viên nhằm đảm bảo là công việc kiểm toán đã được
thực hiện phù hợp với chuẩn mực kiểm toán và các quy định có liên quan.
Thứ năm, các công ty kiểm toán khi cần thiết có thể tham khảo ý kiến tư vấn
của chuyên gia trong công ty hoặc ngoài công ty. Việc tham khảo ý kiến tư vấn của
chuyên gia sẽ tăng mức độ tin cậy của ý kiến kiểm toán về các lĩnh vực chuyên môn
phức tạp, những ngành nghề kinh doanh phức tạp.
Thứ sáu, việc duy trì khách hàng hiện có và đánh giá khách hàng tiềm năng,
công ty kiểm toán phải cân nhắc đến tính độc lập, năng lực phục vụ khách hàng của
công ty kiểm toán và tính chính trực của Ban lãnh đạo của khách hàng, là nhân tố
quan trọng quyết định đến chất lượng kiểm toán.
Thứ bảy, công ty kiểm toán phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra quá trình
thực hiện các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán của
công ty dưới nhiều hình thức như: đánh giá tính độc lập của kiểm toán viên, lựa
chọn để kiểm tra chất lượng và công việc từng hợp đồng kiểm toán.


19

Bên cạnh chuẩn mực này, xuyên suốt trong hệ thống các chuẩn mực kiểm

toán đều có những quy định về tuân thủ các nguyên tắc và thủ tục cơ bản liên quan
đến kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. Việc áp dụng các quy định này nhằm
giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán thực hiện công việc một cách khoa
học, trên cơ sở đó đạt được những mục tiêu trong công tác kiểm soát chất lượng
dịch vụ kiểm toán.

1.2.3. Xây dựng kiểm soát chất lượng từ phía các công ty kiểm toán
Mục tiêu của kiểm soát chất lượng là bảo đảm cho kiểm toán viên tuân thủ
đúng các chuẩn mực nghề nghiệp hiện hành và các chuẩn mực chất lượng theo quy
định đặt ra, nhằm giúp công ty tạo ra những sản phẩm kiểm toán đạt tiêu chuẩn chất
lượng, đáp ứng yêu cầu của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán. Vì vậy, trong
những năm qua các công ty kiểm toán đã xây dựng các chính sách kiểm soát chất
lượng cho riêng mình dựa trên các quy định của chuẩn mực để đạt được các mục
tiêu chung ở trên. Các chính sách này được xây dựng trước trong và sau quá trình
kiểm toán, cụ thể:

1.2.3.1. Kiểm soát chất lượng trước kiểm toán
Chính sách tuyển dụng và đào tạo
Các công ty kiểm toán hiện nay đều nhận thức rõ nhân viên là tài sản của
Công ty, chất lượng nhân viên sẽ tạo nên sự khác biệt của các Công ty trên thị
trường.Vì vậy, hiện nay các công ty đều đã xây dựng chính sách tuyển dụng cho
riêng mình. Khi tuyển dụng, các công ty đều đặt ra yêu cầu về chuyên môn, nghiệp
vụ, đạo đức nghề nghiệp như: có trình độ tốt về kinh tế, tài chính, kế toán và kiểm
toán; giỏi về ngoại ngữ, độc lập, chính trực, khách quan….Trong thực tế, công tác
tuyển dụng và đào tạo của các công ty khái quát như sau:
Về công tác tuyển dụng: Các công ty kiểm toán đều xây dựng qui chế thi
tuyển và thực hiện tuyển dụng nhân viên qua nhiều bước trong đó đưa ra các tiêu
chuẩn chi tiết về tuyển chọn nhân viên. Các ứng viên đạt yêu cầu sẽ được mời thi
tuyển qua nhiều vòng và sẽ nhận được thông báo trúng tuyển khi đạt yêu cầu.
Về công tác đào tạo: Đây là hoạt động rất quan trọng của các công ty kiểm

toán. Trên thực tế do có sự khác biệt về đầu tư, kinh nghiệm nên giữa các công ty,
hoạt động này còn rất khác nhau. Các doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài đã và
đang triển khai chiến lược "Quốc tế hoá đội ngũ nhân viên", và thực hiện chính sách


20

đào tạo chung của công ty mẹ nên được tiếp nhận công nghệ kiểm toán quốc tế và
được đào tạo một cách có hệ thống về kế toán và kiểm toán quốc tế. Các doanh
nghiệp kiểm toán Việt Nam là thành viên hãng kiểm toán quốc tế đã cử các kiểm
toán viên tham dự các khóa đào tạo theo chính sách đào tạo riêng của từng hãng,
đồng thời nhận được sự trợ giúp của các hãng kiểm toán quốc tế về chuyển giao
công nghệ kiểm toán, kỹ thuật và quản lý, đào tạo đội ngũ nhân viên Việt Nam một
cách có hệ thống, từng bước đạt tiêu chuẩn quốc tế.Các doanh nghiệp kiểm toán lớn
đã tự xây dựng được các chương trình và nội dung đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật
kiến thức, theo chuyên ngành và theo cấp bậc nhân viên về: chuyên môn (như tài
chính, kế toán, thuế, kiểm toán) và kỹ năng (như kỹ năng quản lý, giao tiếp và thu
hút khách hàng...), kết hợp đào tạo ở trong nước và ngoài nước dưới nhiều hình
thức như đào tạo cơ bản vào năm thứ 1,2,3; đào tạo kèm cặp qua làm việc thực tế,
chuyển đổi văn phòng đào tạo, học tập trung theo chuyên ngành, học các chương
trình đại học bằng 2, cao học, tham gia khoá học và dự thi lấy chứng chỉ kiểm toán
viên nước ngoài nhằm trang bị kiến thức sâu rộng hơn cho kiểm toán viên, đặc biệt
là trong giai đoạn hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán. Nhiều
công ty đã có chương trình đào tạo chi tiết cho từng loại nhân viên (thường là từ
150 đến 300 giờ/1năm).
Tuân thủ đạo đức nghề nghiệp
Đây là việc theo dõi, kiểm tra sự tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp
bao gồm kiểm tra tính độc lập, chính trực, khách quan, năng lực chuyên môn, tính
thận trọng, bí mật, tư cách nghề nghiệp của nhân viên. Các công ty kiểm toán có thể
yêu cầu cán bộ công nhân viên chuyên nghiệp nộp bản giải trình về tính độc lập đối

với khách hàng, phân công người có đủ thẩm quyền kiểm tra tính độc lập của các
nhân viên.Trong quá trình đào tạo và hướng dẫn thực hiện, các công ty kiểm toán
cần nhấn mạnh đến tính độc lập và tư cách nghề nghiệp.
Giao việc
Đánh giá năng lực chuyên môn của đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp.Năng
lực chuyên môn của các nhân viên này cần được xem xét không những trong quá
trình thực hiện kiểm toán, mà phải được cân nhắc qua quá trình tuyển dụng và đào


21

tạo nhân viên. Thiết lập các tiêu chuẩn cho từng cấp bậc, chức danh và xác định cơ
hội thăng tiến nghề nghiệp cho các nhân viên là cách thức hiệu quả để tăng động lực
cho các kiểm toán viên không ngừng nâng cao khả năng chuyên môn. Hơn nữa, để
góp phần nâng cao năng lực và kỹ năng cho các nhân viên, các công ty kiểm toán
cần tiến hành đánh kết quả công tác và định kỳ thông báo cho họ triển vọng và cơ
hội thăng tiến của từng cá nhân.
Hướng dẫn và giám sát
Được thực hiện đầy đủ ở tất cả các cấp cán bộ, nhân viên. Đối với mỗi cuộc
kiểm toán, thành phần trong nhóm kiểm toán bao giờ cũng được xác định cụ thể,
phù hợp với đối tượng kiểm toán và yêu cầu pháp lý của cuộc kiểm toán, cơ cấu bao
gồm: giám đốc (partner), chủ nhiệm kiểm toán (manager), giám sát kiểm toán
(supervisor), kiểm toán viên chính (senior auditor) và các trợ lý kiểm toán. Cấp độ
giám sát kiểm toán sẽ tăng dần lên theo phạm vi của đối tượng và tính chất pháp lý
của cuộc kiểm toán. Bên cạnh việc tuân thủ các quy định trong việc soát xét công
việc kiểm toán của công ty trong từng nhóm kiểm toán, việc giám sát có thể do các
kiểm toán viên trong các nhóm kiểm toán khác thực hiện.
Tham khảo ý kiến
Trong trường hợp cần thiết phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia tư
vấn.Việc tham khảo ý kiến tư vấn của chuyên gia sẽ tăng mức độ tin cậy của ý kiến

kiểm toán về các lĩnh vực chuyên môn phức tạp, những ngành nghề kinh doanh
phức tạp.Tuy nhiên, khi tham khảo ý kiến của chuyên gia, công ty kiểm toán luôn
luôn phải xem xét đến năng lực chuyên môn và tính độc lập, khách quan của chuyên
gia tư vấn.
Duy trì và chấp nhận khách hàng
Cân nhắc đến khả năng phục vụ khách hàng của công ty kiểm toán và tính
chính trực của nhà quản lý công ty khách hàng, là nhân tố quan trọng quyết định
đến chất lượng kiểm toán. Nếu công ty kiểm toán không có những nhân viên
chuyên nghiệp, am hiểu về lĩnh vực kinh doanh của khách hàng thì họ nên nghĩ đến
quyết định không thực hiện kiểm toán toán đối với khách hàng đó.Nếu những nghi


×