Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận về vai trò của kiem toán độc lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.47 KB, 28 trang )

1

PHẦN 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
1.1. Cơ sở lý luận về kiểm toán độc lập:
Có rất nhiều khái niệm về kiểm toán nhưng nội dung của chúng khá thống nhất.
Theo định nghĩa của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) “Kiểm toán là việc các kiểm
toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về BCTC”. Hay theo khái niệm
do Alvin A.Aen và James K.Loebbecker đưa ra “ Kiểm toán là một quá trình do kiểm
toán viên đủ năng lực và độc lập tiến hành thu thập và đánh giá bằng chứng về những
thong tin cần kiểm tra, để đưa ra ý kiến về mức độ phù hợp giữa các thông tin đó với
các chuẩn mực định trước”.
Nếu phân loại kiểm toán theo hình thức tổ chức thi bao gồm: Kiểm toán độc lập,
Kiểm toán Nhà nước, Kiểm toán nội bộ. Theo Điều 2 NĐ số 105/2004/NĐ-CP quy
định: “Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên và doanh
nghiệp kiểm toán về tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và BCTC
của các doanh nghiệp, tổ chức (gọi chung là đơn vị được kiểm toán) khi có yêu cầu của
các đơn vị này”. Kiểm toán độc lập là một tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán và tư
vấn theo yêu cầu của khách hàng. Kiểm toán độc lập là hoạt động đặc trưng của nền
kinh tế thị trường. Đây là loại hình dịch vụ được pháp luật thừa nhận và bảo hộ , được
quản lý chặt chẽ bởi các hiệp hội chuyên ngành về kế toán. Quan hệ giữa chủ thể và
khách thể kiểm toán là quan hệ mua bán dịch vụ , đơn vị kinh tế được kiểm toán phải
trả phí dịch vụ cho kiểm toán viên theo hoạt động kiểm toán. Đây là điểm khác biệt
giữa kiểm toán độc lập với kiểm toán Nhà nước và Kiểm toán nội bộ. Các kiểm toán
viên độc lập phải có lý lịch rõ ràng, có đạo đức, trung thực, liêm khiết; là cử nhân
chuyên ngành: Tài chính, Kế toán, Kiểm toán. Nếu tốt nghiệp đại học chuyên ngành
kinh tế, QTKD, QTDN có tổng số đơn vị học trình các môn: Tài chính, Kế toán, Kiểm
toán, Phân tích tài chính, Thuế trên 10% số đơn vị học trình của cả khóa học. Ngoài ra


2



các kiểm toán viên phải có công tác trên 5 năm, có chứng chỉ Tin học B trở lên, có
chứng chỉ Ngoại ngữ C ( Anh, Pháp, Nga, Trung, Đức) hoặc tốt nghiệp ở các nước học
bằng một trong năm thứ tiếng trên. Và quan trọng nhất là phải có chứng chỉ Kiểm toán
viên do Bộ trưởng Bộ Tài chính cấp theo Điều 13 Nghị định 105/2004/NĐ-CP và điểm
1 phần A mục II Thông tư 64/2004/TT-BTC. Khách thể của kiểm toán độc lập bao gồm
: các doanh nghiệp và xí nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước
ngoài, các hợp tác xã và doanh nghiệp cổ phần, các chương trình dự án có vốn đầu tư
ngoài ngân sách Nhà nước. Ngoài ra còn một số khách thể tự nguyện khác với số lượng
ngày càng tăng ở nước ta: đó là các doanh nghiệp Nhà nước. Kiểm toán độc lập hoạt
động chủ yếu trong lĩnh vực kiểm toán BCTC. Ngoài ra theo yêu cầu của khách hàng,
kiểm toán độc lập còn có thể kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, hoặc tiến hành
các dịch vụ tư vấn tài chính kế toán như: tư vấn về đầu tư, tài chính, thuế, nguồn nhân
lực, ứng dụng công nghệ thông tin,quản lý; lập báo cáo tài chính ;cung cấp các phần
mềm kế toán, các dịch vụ khác về kế toán, tài chính, kiểm toán theo quy định.
Cũng như kiểm toán nói chung, kiểm toán độc lập có hai chức năng. Chức năng
xác minh tính trung thực, hợp lý hợp pháp của các nghiệp vụ hoặc việc lập các báo cáo
tài chính. Sản phẩm của chức năng này là báo cáo kiểm toán. Chức năng thứ hai là bày
tỏ ý kiến với ý nghĩa cả về khối lượng và chất lượng thông tin. Chức năng này cũng thể
hiện khác nhau giữa các khách thể kiểm toán, các cơ sở pháp lý, kinh tế khác nhau. Sản
phẩm của chức năng này là “ Thư quản lý”. Với bản chất và chức năng này, kiểm toán
độc lập phải thực hiện mọi hoạt động kiểm tra, kiểm soát những vấn đề liên quan đến
thực trạng tài sản, các nghiệp vụ tài chính và sự phản ánh của nó trên sổ sách kế toán
cùng hiệu quả đạt được. Nói cách khác doanh nghiệp chính là các khách thể chủ yếu
của kiểm toán độc lập và kiểm toán độc lập cung cấp dịch vụ kiểm tra tình hình hoạt
động của các doanh nghiệp theo nhu cầu tự nguyện của các doanh nghiệp đó.

1.2. Cơ sở lý luận về kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay:



3

Để hiểu cơ sở lý luận của kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay trước hết ta cần tìm hiểu khái niệm kiểm tra, kiểm soát là gì? Đầu tiên ta có thể
khẳng định kiểm tra, kiểm soát là một chức năng của quản lý. Nó không phải là một
phần, một giai đoạn của quá trình quản lý mà nó gắn liền với mọi giai đoạn của quá
trình đó. Nếu quá trình quản lý được thực hiện cả ở tầm vi mô và vĩ mô thì kiểm tra,
kiểm soát cũng gắn liền với mỗi phạm vi đó. Tuy nhiên với khái niệm kiểm soát là việc
xem xét, nắm lấy và điều hành đối tượng quản lý thì kiểm soát thường tồn tại phổ biến
hơn ở tầm vi mô. Trong khi đó kiểm tra thường được hiểu là việc xem xét một vấn đề
cụ thể theo thứ bậc từ trên xuống dưới. Với quan niệm đó kiểm tra được tồn tại phổ
biến hơn ở tầm vĩ mô. Việc kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
muốn được làm rõ những cơ sở lý luận thì viêc đầu tiên và hết sức cần thiết là phải trả
lời những câu hỏi sau:
Câu hỏi thứ nhất là tại sao các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay cần phải được
kiểm tra, kiểm soát? Đối với bất kì một quốc gia nào thì việc kiểm tra,kiếm soát mọi
thành phần kinh tế hoạt động trong nền kinh tế cũng hết sức quan trọng. Đối với nền
kinh tế Việt Nam, một nước đi lên chủ nghĩa xã hội với một xuất phát điểm thấp, nền
kinh tế chưa phát triển, còn nghèo nàn và lạc hậu, đa phần là sản xuất nhỏ nên nhiệm
vụ kiểm tra, kiểm soát càng cần thiết hơn và phải duy trì trong lâu dài. Sản xuất nhỏ tạo
ra lợi nhuận thấp, do vậy luôn tìm cách né tránh sự kiểm soát của Nhà Nước. Để đảm
bảo nền kinh tế đi theo đúng định hướng XHCN thì sự đa dạng của các hình thức sỡ
hữu dẫn đến sự đa dạng của các loại hình doanh nghiệp đều cần phải đưa ra các biện
pháp và công cụ kiểm soát tài chính một cách chặt chẽ và nghiêm khắc để đưa nền kinh
tế đi theo đúng định hướng và ngày càng phát triển. Hơn nữa việc kiểm tra, kiểm soát
sẽ giúp các doanh nghiệp sữa chữa những sai lầm và thiếu sót do trình độ còn hạn chế ,
hiểu biết chưa sâu để từ đó họ sẽ dần hoàn thiện công việc hơn. Và việc kiểm tra, kiểm
soát này cũng nhằm khắc phục những giới hạn trong thông tin do kế toán cung cấp cho
người sử dung, giúp cho người sử dụng có những quyết định đúng đắn và hợp lý hơn
về công tác đầu tư của mình.



4

Câu hỏi thứ hai là việc kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp bị chi phối bởi những
nhân tố nào?


Nhân tố đầu tiên là sự phân cấp quản lý chi phối cách thức kiểm tra, kiểm soát.

Xét ở tầm vi mô, kiểm tra kiểm soát được thực hiện ngay trong bản thân doanh nghiệp.
Những doanh nghiệp này vừa chịu sự kiểm tra trực tiếp hoặc gián tiếp từ Nhà nước vừa
tiến hành việc kiểm tra, kiểm soát chính bản thân doanh nghiệp mình. Việc kiểm soát
này chủ yếu để đánh giá về việc thực hiện pháp luật và quy chế trong nội bộ doanh
nghiệp, kiểm tra tính hữu hiệu của bộ phận kiểm tra, kiểm soát và thực thi công tác kế
toán tài chính của đơn vị. Còn xét ở tầm vĩ mô, Nhà nước là chủ thể trực tiếp kiểm tra,
kiểm soát các doanh nghiệp sử dụng vốn và kinh phí từ ngân sách nhà nước, là chủ thể
kiểm tra, kiểm soát gián tiếp đối với mọi doanh nghiệp khác hoạt động bằng ngân sách
của riêng mình. Việc kiểm soát này chủ yếu là kiểm tra BCTC.


Nhân tố thứ hai là hình thức sỡ hữu chi phối chủ thể kiểm tra, kiểm soát. Chủ

thể kiểm tra giữa doanh nghiệp thuộc sỡ hữu Nhà nước với doanh nghiệp thuộc sỡ hữu
tư nhân cũng có thể khác nhau. Đối với doanh nghiệp Nhà nước thì là kiểm toán Nhà
nước, cơ quan do Quốc hội ban hành, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đối
với doanh nghiệp tư nhân thì có thể là kiểm toán độc lập hoặc nội bộ.


Nhân tố thứ ba là loại hình hoạt động chi phối hướng kiểm tra, kiểm soát. Đối


với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh mà mục tiêu là lợi nhuận thì kiểm tra, kiểm
soát nên nhằm vào việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, lao động, tài nguyên.


Ngoài ra còn nhiều nhân tố khác chi phối như các quy định chính sách của Nhà

nước, các đối thủ cạnh tranh…
Như vậy có thể nói kiểm toán độc lập vừa là một doanh nghiệp vừa có vai trò
kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.

PHẦN 2


5

VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP TRONG VIỆC
KIỂM TRA, KIỂM SOÁT CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1. Việc kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp đang có sự đổi mới trong nền kinh
tế thị trường:
Theo Luật doanh nghiệp Việt Nam;” Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế được
thành lập nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh, nghĩa là thực hiện một
số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm và
thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời”. Doanh nghiệp ở Việt Nam
có thể phân loại theo các tiêu thức nhất định.
Nếu căn cứ vào phạm vi trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp với kết quả kinh doanh
thì có thể chia làm hai loại:
-


Doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn: Là doanh nghiệp mà: Thành viên chịu

trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong
phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.Phần vốn góp của thành viên chỉ
được chuyển nhượng theo quy định tại Điều 32 của Luật doanh nghiệp 2005.Thành
viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá năm mươi. Công
ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu.Công ty trách nhiệm hữu
hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
-

Doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn: Là doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm

bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của doanh nghiệp, gồm các loại hình:
Doanh nghiệp tư nhân, Công ty hợp danh ( đối với các thành viên hợp danh ).
Căn cứ vào hình thức sở hữu tài sản của doanh nghiệp có thể chia thành :
-

Doanh nghiệp nhà nước : Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà

nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động
công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội do nhà nước giao.


6

-

Doanh nghiệp tư nhân : Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp mà trong đó, tài

sản của nó là thuộc sở hữu một cá nhân duy nhất.

-

Công ty cổ phần: Công ty cổ phần là một dạng pháp nhân có trách nhiệm hữu

hạn, được thành lập và tồn tại độc lập đối với những chủ thể sở hữu nó. Vốn của công
ty được chia nhỏ thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần và được phát hành huy
động vốn tham gia của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.
-

Công ty có vốn đầu tư nước ngoài: doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là

doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) thành lập để thực hiện hoạt động đầu
tư tại Việt Nam hoặc Doanh nghiệp Việt Nam di nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần,
sáp nhập, mua lại.
Căn cứ vào quy mô có thể chia thành :
-

Doanh nghiệp lớn : Là những doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng , lao động

trên 300 người
-

Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Là những doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng , lao

động dưới 300 người .
Như vậy là các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam rất đa dạng và phong phú , do đó
cần thiết phải có một sự kiểm soát , quản lý khoa học hệ thống để đưa tất cả các loại
hình doanh nghiệp này phát triển đúng định hướng XHCN .
Kiểm tra kiểm soát các doanh nghiệp được quan tâm ngay từ những ngày đầu
tiến hành xây dựng đất nước . Trong thời kì cơ chế kế hoạch hóa tập trung công tác

kiểm tra , bộ máy kiểm tra cũng được thiết lập phù hợp với những cơ chế đó . Nhà
nước với tư cách là người sở hữu đồng thời cũng là người quản lý vĩ mô công tác kiểm
tra nói chung , kiểm soát nội bộ được thực hiện chủ yếu thông qua tự kiểm tra của kế
toán . Kiểm tra của nhà nước chủ yếu thực hiện thông qua xét duyệt hoàn thành kế
hoạch , xét duyệt quyết toán và thanh tra theo vụ việc. Từ khi chuyển sang nền kinh tế
theo cơ chế thị trường , công tác kiểm tra kiểm soat doanh nghiệp đã có nhiều biến đổi.
Trước đây doanh nghiệp hoạt động theo pháp lệnh , kế hoạch thì hiện nay nó lại chịu
sự tác động bởi các quy luật cung cầu , do vậy việc kiểm tra kiểm soát các doanh


7

nghiệp là nhằm mục đích xem xét doanh nghiệp có chấp hành pháp luật về kinh tế ,
quản lý , thuế … do nhà nước quy định hay không . Do đó dẫn đến việc trước đây kiểm
tra kiểm soát trực tiếp và thường xuyên thì hiện nay nó lại không phù hợp. Vì thế yêu
cầu đổi mới công tác kiểm tra, kiểm soát là hết sức cần thiết, vấn đề được đặt ra là phải
đổi mới như thế nào? Với yêu cầu bức thiết như thế, phương châm được đặt ra là công
tác kiểm tra, kiểm soát doanh nghiệp phải đảm bảo một hành lang pháp lý cho sự cạnh
tranh bình đẳng và lành mạnh giữa các doanh nghiệp , bảo vệ lợi ích của toàn xã hội .
Đồng thời qua việc đổi mới phải làm giảm thiểu sự phiền hà cho những doanh nghiệp
bị sự kiểm tra kiểm soát , không làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh
đúng phấp luật của doanh nghiệp đó . Bất kì doanh nghiệp nào đều hoạt động sản xuất
kinh doanh một cách độc lập . Sự độc lập ở đây thể hiện không những ở quyền mà còn
là trách nhiệm sản xuất kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật và chịu trách
nhiệm về hoạt động của mình . Vì vậy để giảm thiểu rủi ro thông tin cũng như pháp lý
doanh nghiệp phải tự hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ . Ngoài ra doanh nghiệp
chịu sự kiểm soát của nhà nước cũng như nhiều đối tượng khác như ngân hàng , chủ nợ
, nhà đầu tư , khách hàng , người lao động và của cả bản thân doanh nghiệp . Tóm lại
trong cơ chế mới cần phải kiểm tra tính tin cậy trong các BCTC mà doanh nghiệp lập .
Một nhu cầu mới xuất hiện là cần hình thành một tổ chức hoàn toàn độc lập , khách

quan để thực hiện công tác kiểm tra kiểm soát này . Sau đó cung cấp sự đảm bảo về
tính tin cậy , chính xác của các báo cáo do doanh nghiệp lập cho cơ quan nhà nước ,
cho những chủ thể quan tâm và cả bản thân doanh nghiệp . Kiểm toán độc lập cũng vì
đáp ứng nhu cầu này mà ra đời .
2.2. Vai trò của kiểm toán độc lập trong việc kiểm tra kiểm soát các doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay :
2.2.1. Sự hình thành của kiểm toán độc lập ở Việt Nam là một nhu cầu tất yếu
khách quan :
Việt Nam , kiểm toán độc lập xuất hiện và phát triển nhanh chóng vào thế kỷ
XX do thị trường chứng khoán và công ty cổ phần phát triển, đối tượng phục vụ chủ


8

yếu là các cổ đông . Do sự phát triển của nền kinh tế, nó ngày càng có vai trò và đóng
góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Có quan điểm cho rằng kiểm toán ra đời từ nhu
cầu pháp lý bắt buộc chứ không phải là sản phẩm của nền kinh tế thị trường. Theo luật
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam quy định “ báo cáo tài chính hàng năm của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải được tổ chức kiểm toán hợp pháp tại Việt Nam
kiểm tra, xác nhận trước khi nộp cho SCCI( bộ kế hoạch và đầu tư ) và cơ quan thuế
theo thông tư số 73TC/TCDN ngày 12/11/1996 báo cáo tài chính của doanh nghiệp
phải được kiểm toán độc lập hoặc kiểm toán nội bộ xác nhận trước khi công bố. Hoặc
theo quy định của ủy ban chứng khoán nhà nước thì báo cáo tài chính của doanh
nghiệp đăng kí tại thị trường chứng khoán khi được kiểm toán xác nhận. Đối với doanh
nghiệp tiến hành cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê cũng phải có kiểm toán xác nhận
báo cáo tài chính. Các pháp lý yêu cầu các doanh nghiệp phải được kiểm toán đã dẫn
đến sự hiểu lầm rằng cơ sở ra đời hoặc sự cần thiết của hoạt động kiểm toán trong nền
kinh tế là do các quy định pháp lý. Trên thế giới các nước có nền kinh tế phát triển,
cũng nhiều người cho rằng kiểm toán tồn tại là do chính các quy định pháp lý bắt
buộc. Nhưng nhiều khảo sát thực tế cho thấy kiểm toán tồn tại độc lập và có trước khi

các quy định pháp lý yêu cầu các BCTC phải được kiểm toán xác nhận. Qua đó cho
thấy kiểm toán là nhu cầu do thị trường tạo ra.
Qua nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy nhu cầu kiểm toán xuất hiện khi có sự tách
biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, quyền khai thác kinh doanh các tài sản, tiền
vốn bằng hình thức đơn giản khi các thương gia đưa các tài sản của mình cho người
khác quản lý kinh doanh cho đến các hình thức phức tạp, hoàn thiện hơn đó là các công
ty cổ phần, mà trong đó các cổ đông không quản lý công ty mà là do một nhóm người
đại diện quản lý. Khi đó người chủ sở hữu bắt đầu nghi ngờ liệu các BCTC được lập có
phản ánh đúng, trung thực và đầy đủ, khách quan về tình hình tài chính và hiệu quả
hoạt động kinh doanh hay không? Trong khi họ chưa chắc rằng các cổ đông có đủ
trình độ và năng lực để kiểm tra hoạt động ghi chép của kế toán cũng như các BCTC
được trình bày. Vì nhu cầu cần kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý, hợp lệ của các BCTC


9

nên đã có một giải pháp ra đời – đó chính là việc hình thành các doanh nghiệp kiểm
toán độc lập. Nhờ có nó mà người chủ sở hữu có thể đảm bảo thông tin do người quản
lý cung cấp đáng tin cậy hơn.
Kiểm toán độc lập hình thành và phát triển ở miền nam Việt Nam từ trước năm
1976, sau khi đất nước thống nhất hoạt động của các văn phòng kiểm toán không còn
phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hiện tại. Việc kiểm tra thông tin lúc náy
chỉ mang tính tuân thủ là chính. Các thông tin này là cơ sở để xem xét và đề ra những
phương hướng cho giai đoạn kế tiếp. Mặt khác vào thời điểm lúc này không có một tổ
chức nào có đầy đủ điều kiện để thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát. Cho nên
trong giai đoạn này nhu cầu kiểm toán chưa thật sự cấp thiết.
Sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhiều loại hình doanh nghiệp xuất
hiện và phát triển nhanh chóng có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế. Hơn nữa các
doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang hạch toán kinh doanh độc lập. Xét trên góc độ
khách quan, do có sự đầu tư từ nước ngoài nên việc phát sinh nhu cầu về hoạt động

kiểm toán cũng như nhu cầu tư vấn cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài là hoàn
toàn thiết yếu. Về phía Nhà nước cũng cần phải có thông tin đáng tin cậy để đánh giá
tình hình đầu tư cũng như thực hiện chức năng quản lý. Xét về điều kiện chủ quan, khi
tính chủ động kinh doanh trong các doanh nghiệp được phát huy và các doanh nghiệp
hạch toán độc lập nên việc cung cấp thông tin kế toán phải chính xác, trung thực,
khách quan là hết sức quan trọng. Các thông tin này không chỉ phục vụ một đối tượng
mà còn phục vụ cho nhiều đối tượng khác như: ngân hàng, chủ nợ, nhà đầu tư, khách
hàng…cũng như là cung cấp thông tin cho mục đích quản lý doanh nghiệp.
Từ các yêu cầu bức thiết trên, bộ tài chính đã kí quyết định ban hành hai công ty
kiểm toán độc lập đầu tiên thuộc sở hữu Nhà nước có tên là Vaco và ASC( nay đổi
thành AASC) vào ngày 13/5/1991 theo giấy phép số 957/PPLT của thủ tướng chính
phủ. Tiếp đó các công ty kiểm toán lần lượt ra đời và thuộc nhiều thành phần kinh tế.
Kiểm toán độc lập xuất hiện ở Việt Nam là một nhu cầu tất yếu khách quan.


10

2.2.2. Vai trò của kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước:
Kiểm toán độc lập có vai trò như thế nào trong công tác kiểm tra, kiểm soát các
doanh nghiệp Viêt Nam là một câu hỏi lớn được đặt ra hiện nay? Kiểm toán độc lập là
một phương tiện kiểm tra, kiểm soát trực tiếp của Nhà nước đối với các doanh nghiệp
sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, là phương tiện kiểm tra, kiểm soát gián tiếp của Nhà
nước đối với các doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn và kinh phí do Nhà nước cấp. Điều
này được lý giải cụ thể như sau: việc kiểm toán các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài mang tính pháp lý cao và dùng để nộp cho các cơ quan chức năng Nhà nước, còn
kiểm toán các doanh nghiệp Nhà nước chỉ là tài liệu tham khảo cho kiểm toán Nhà
nước giảm bớt khối lượng công việc của mình. Không chỉ thế, kiểm toán độc lập còn là
công cụ kiểm tra, kiểm soát của doanh nghiệp đối với chính bản thân doanh nghiệp
mình, nó cũng là cơ sở để các tổ chức, cá nhân khác sử dụng nhằm đưa ra các quyết

định đầu tư cũng như kinh doanh của mình. Để hiểu rõ hơn vai trò của kiểm toán độc
lập ta cần xem xét tới vai trò của kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị trường có sự
quản lý và điều tiết của Nhà nước. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hóa theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các thông tin tài chính của doanh nghiệp
không những để báo cáo cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xem xét, đánh giá,
kiểm tra, phê duyệt mà còn cung cấp thông tin cho những người quan tâm, tìm hiểu, sử
dụng cho các quyết định kinh tế của mình:
+ Những nhà đầu tư cần thông tin tài chính của doanh nghiệp để đánh giá khả
năng của doanh nghiệp, những tiềm năng phát triển trong tương lai để đưa ra những
quyết định đúng đắn nhất.
+ Những người cho vay cần thông tin về tình hình hoạt động cũng như tiềm lực
tài chính của doanh nghiệp để ra quyết định có nên cho doanh nghiệp vay tiền hay
không?
+ Thị trường vốn cần thông tin của doanh nghiệp một cách chính xác do công ty
đăng kí ở sở giao dịch chứng khoán cung cấp và coi đó là điều kiện để hoạt động bình


11

thường, vì hiện trạng tài chính của doanh nghiệp là tiền đề để định giá phát hành cổ
phiếu.
+ Cơ quan quản lý Nhà nước cần đảm bảo rằng các thông tin khai báo trên
BCTC của doanh nghiệp là hoàn toàn chính xác và đáng tin cậy để làm căn cứ xác định
mức thuế mà doanh nghiệp kê khai là đúng và qua đó xác định kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Tuy mỗi tổ chức, cá nhân nhìn từ nhiều khía cạnh khác nhau nhưng họ đều mong
muốn thông tin do doanh nghiệp đưa ra là trung thực, đáng tin cậy và có độ chính xác
cao. Nhưng trong nền kinh tế các doanh nghiệp đều có chính sách và mục tiêu kinh
doanh khác nhau nên các thông tin về tài chính do họ lập và cung cấp nhằm phục vụ
cho mục tiêu mà họ hướng đến, do đó thông tin mà họ cung cấp thường không phản

ánh đúng thực trạng tài chính hiện tại. Và mỗi doanh nghiệp do trình độ chuyên môn
con hạn chế nên các BCTC do kế toán cung cấp đôi khi không phù hợp và đúng
nguyên tắc quy định. Do đó việc sử dụng thông tin do doanh nghiệp cung cấp đôi khi
cũng gặp phải rất nhiều rủi ro và thường không thể lường trước được. Kiểm toán sẽ
cung cấp cho người sử dụng thông tin về doanh nghiệp một cách chính xác, trung thực
và đảm bảo rủi ro sẽ thấp hơn.
Pháp luật quy định các BCTC cung cấp cho người sử dụng phải được kiểm toán
và các thông tin đã qua kiểm toán mới được dùng để làm căn cứ cho việc đưa ra các
quyết định chính xác và hợp lý. BCTC gửi lên cơ quan thuế bắt buộc phải có báo cáo
kiểm toán kèm theo mặc dù cơ sở tính thuế của cơ quan thuế và các thông tin trên
BCTC đã được kiểm toán nhiều khi không trùng khớp. Nhưng báo cáo kiểm toán cũng
là một căn cứ quan trọng để cơ quan thuế dựa vào đó xác định các chỉ tiêu tính thuế
của mình. Các cơ quan chức năng khác như Bộ tài chính, Bộ kế hoạch đầu tư cũng đều
sử dụng BCTC đã qua kiểm toán để phân tích, đánh giá các chỉ tiêu kinh tế theo chức
năng của mình. Các tổ chức tài trợ đều có yêu cầu về kiểm toán đối với đơn vị có yêu
cầu vay vốn hay thụ hưởng các khoản tài trợ. Các hợp đồng tín dụng dài hạn đều yêu
cầu các doanh nghiệp vay vốn hàng năm phải cung cấp BCTC đã được kiểm toán xác


12

nhận. Việc quy định các thông tin tài chính trước khi công bố phải được cơ quan kiểm
toán xác nhận đã thể hiện rõ công tác kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp được tiến
hành tốt trong điều kiện nền kinh tế đổi mới. Kiểm toán nhằm làm tăng mức độ tin cậy
của các thông tin tài chính, góp phần làm lành mạnh nền kinh tế.
Không chỉ dừng lại ở việc đưa ra các ý kiến về BCTC, các kiểm toán viên thông
qua việc kiểm toán có thể đề xuất những ý kiến đóng góp nhằm giúp cho doanh nghiệp
hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, nâng cao hiệu quả quản lý nói riêng cũng như
hoạt động kinh doanh nói chung. Kiểm toán độc lập đã khẳng định vị trí của mình
trong việc kiểm soát doanh nghiệp. Không những vậy, thông qua các dịch vụ tư vấn về

thuế, tài chính, nguồn nhân lực, cung cấp các phần mềm kế toán sẽ giúp doanh nghiệp
củng cố tình hình hoạt động hướng dẫn doanh nghiệp có những quyết định hiệu quả
nhất.
Trong quan hệ kinh tế, kiểm toán giúp các doanh nghiệp tin tưởng lẫn nhau,
thẳng thắn trình bày tình hình tài chính của mình, đây chính là cơ sở để lựa chọn đối
tác kinh doanh. Nhất là trong quan hệ hợp tác với nước ngoài thì học xem kiểm toán
như một phần không thể thiếu được trong suốt quá trình hoạt động cũng như đối với
các doanh nghiệp có ý định hợp tác kinh doanh. Ý kiến khách quan của các công ty
kiểm toán luôn mang lại sự tin cậy và rất có uy tín đối với các đối tác nước ngoài.
Chính điều này đã làm cho kiểm toán độc lập đóng một vai trò vô cùng quan trọng
trong việc thúc đây quan hệ hợp tác đối ngoại, trợ giúp tư vấn cho người nước ngoài và
các tổ chức quốc tế hiểu biết hơn về các chính sách, pháp luật kinh tế tài chính của
Việt Nam cũng như người Việt Nam hiểu rõ hơn về các chuẩn mực quốc tế. Nó chính
là cầu nối giúp cho khoảng cách hội nhập kinh tế quốc tế được rút ngắn.
Qua những phân tích trên đã khẳng định hơn nữa vai trò của kiểm toán độc lập
trong công tác kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Nhưng để
hiểu rõ hơn với vai trò như vậy kiểm toán độc lập đã có những việc làm gì và giữ vị trí
như thế nào ở Việt Nam ta cần đánh giá thực trạng hoạt động của kiểm toán độc lập ở
Việt Nam hiện nay.


13

2.2.3. Thực trạng hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay:
2.2.3.1. Cơ sở pháp lý của hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay:
Kiểm toán được xem như một ngành nghề cùng với các ngành nghề khác, chính
vì vậy nó cũng có những chuẩn mực, quy tắc để điều tiết hành vi của các thành viên
trong nghề theo một hướng nhất định nhằm đảm bảo uy tín nghề nghiệp và để kiểm tra
chất lượng các thành viên. Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động kiểm toán độc lập được
hoạt động dựa trên hệ thống chính sách kế toán và hệ thống chính sách kiểm toán.

*) Hệ thống chính sách kế toán làm cơ sở pháp luật cho hoạt động kiểm toán
độc lập :
Khi xác minh sự đúng sai của một BCTC thì một cơ sở quan trọng của các kiểm
toán viên dựa vào để đánh giá chính là hệ thống chính sách kế toán. Các văn bản chính
về kế toán đã được ban hành gồm:
Đến nay đã ban hành 26 chuẩn mực kế toán.
Đợt 1: Quyết định 149/2001/QĐ-BTC
1 - Chuẩn mực số 02 - Hàng tồn kho;
2 - Chuẩn mực số 03 - Tài sản cố định hữu hình;
3 - Chuẩn mực số 04 - Tài sản cố định vô hình;
4 - Chuẩn mực số 14 - Doanh thu và thu nhập khác.
Đợt 2: Quyết định 165/2002/QĐ-BTC
5 - Chuẩn mực số 01 - Chuẩn mực chung;
6 - Chuẩn mực số 06 - Thuê tài sản;
7 - Chuẩn mực số 10 - Ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá hối đoái;
8 - Chuẩn mực số 15 - Hợp đồng xây dựng;
9 - Chuẩn mực số 16 - Chi phí đi vay;
10 - Chuẩn mực số 24 - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ;
Đợt 3: Quyết định 234/2003/QĐ-BTC
11- Chuẩn mực số 05- Bất động sản đầu tư;
12- Chuẩn mực số 07- Kế toán các khoản đầu tư vào công ty liên kết;


14

13- Chuẩn mực số 08- Thông tin tài chính về những khoản vốn góp liên doanh;
14- Chuẩn mực số 21- Trình bày báo cáo tài chính;
15- Chuẩn mực số 25- Báo cáo tài chính hợp nhất và kế toán khoản đầu tư vào công ty
con;
16- Chuẩn mực số 26- Thông tin về các bên liên quan.

Đợt 4: Quyết định 12/2005/QĐ-BTC
17 - Chuẩn mực số 17 – Thuế thu nhập doanh nghiệp;
18 - Chuẩn mực số 22 – Trình bày bổ sung báo cáo tài chính của các ngân hàng và tổ
chức tài chính tương tự;
19 - Chuẩn mực số 23 – Các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm;
20 - Chuẩn mực số 27 – Báo cáo tài chính giữa niên độ;
21 - Chuẩn mực số 28 – Báo cáo bộ phận;
22 - Chuẩn mực số 29 – Thay đổi chính sách kế toán, ước tính kế toán và các sai sót.
Đợt 5: Quyết định 100/2005/QĐ-BTC
23 - Chuẩn mực số 11 – Hợp nhất kinh doanh
24 - Chuẩn mực số 18 – Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng
25 - Chuẩn mực số 19 – Hợp đồng bảo hiểm
26 - Chuẩn mực số 30 – Lãi trên cổ phiếu
Các thông tư hướng dẫn:


Thông tư 89_2002_TT-BTC



Thông tư 105_2003_TT-BTC



Thông tư 23_2005_TT-BTC



Thông tư 21_2006_TT-BTC




Thông tư 20_2006_TT-BTC



Thông tư 161_2007_TT-BTC
+ Pháp lệnh kế toán và thống kê ban hành 20/5/1998
+ Điều lệ kế toán trưởng xí nghiệp quốc doanh ban hành theo nghị định

26/HĐBT ngày 18/03/1989


15

+ Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước ban hành theo nghị định 25/HĐBT ngày
18/03/1989
+ Quyết định 15/2006/QĐ – BTC ngày 20/3/2006 của Bộ tài chính về việc ban
hành “ chế độ kế toán doanh nghiệp “.
+ Quyết đinh 48/2006/QĐ – BTC ngày 14 tháng 9 năm 2006 về việc ban hành
chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa .
Kể từ sau khi “ chế độ kiểm toán tài chính doanh nghiệp “ được ban hành đã có nhiều
thông tư hướng dẫn sửa đổi, bổ sung chế độ kế toán ra đời, một phần do các chế độ tài
chính thay đổi chậm trong khi đó chế độ kế toán được xây dựng trước theo kiểu “ đón
đầu “ nên không phù hợp. Về nguyên tắc cơ chế tài chính và luật pháp phải được xác
lập trước và các quy định về kế toán phải tuân thủ luật thuế và chế độ tài chính. Trên
thực tế nhiều lúc giữa luật thuế và chế độ tài chính , chế độ kế toán chưa thống nhất
gây khó khăn cho việc kiểm toán BCTC doanh nghiệp làm giảm giá trị pháp lý của các
báo cáo kiểm toán và việc định giá chất lượng hoạt động kiểm toán cũng gặp khó khăn.
Đặc biệt là ngày 17/6/2003 tại kì họp thứ 3 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam khóa IX đã thông qua Luật kế toán và chính thức ban hành ngày 1/1/2004.
Luật này gồm 7 chương trong đó có 64 điều bao gồm những quy định về các vấn đề
liên quan đến công tác kế toán , đó là cơ sở pháp lý quan trọng nhất đảm bảo cho hoạt
động dịch vụ kế toán phát triển mạnh mẽ trong tương lai, khẳng định kế toán và kiểm
toán đã chính thức được pháp luật Việt Nam công nhận là một nghề được bảo hộ và tạo
điều kiện để phát triển ngang tầm thế giới và khu vực.
*) Hệ thống chính sách về kiểm toán làm cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm toán độc
lập
Tính pháp lý của hoạt động kiểm toán là sự thừa nhận của công chúng cũng như sự
thừa nhận về mặt pháp luật với việc sử dụng kết quả kiểm toán. Tính pháp lý yêu cầu
về nghĩa vụ và trách nhiệm của kiểm toán viên và việc tuân thủ những quy định pháp
lý của hoạt động kiểm toán. Chính sách về kiểm toán do Nhà nước ban hành nhìn
chung là có sự tách biệt cho hai chủ thể chính là kiểm toán Nhà nước và kiểm toán độc


16

lập. Trong đó những văn bản chính được ban hành chủ yếu dành cho đối tượng là kiểm
toán độc lập bao gồm:
+ Nghị định 07/CP ngày 29/1/1997 của chính phủ ban hành “quy chế kiểm toán độc lập
trong nền kinh tế quốc dân”
+ Thông tư 22/TÀI CHÍNH/CĐKT ngày 19/3/1994 của Bộ tài chính hướng dẫn thực
hiện “quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân”.
+ Thông tư số 107/2000/TT-BTC ngày 25/10/2000 của Bộ tài chính hướng dẫn đăng kí
HỆ THỐNG CHUẨN MỰC KIỂM TOÁN VIỆT NAM
37 chuẩn mực kiểm toán
Đợt 1: Ban hành bốn (04) chuẩn mực kiểm toán Việt Nam :
1. Chuẩn mực số 200: Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài
chính;
2. Chuẩn mực số 210: Hợp đồng kiểm toán;

3. Chuẩn mực số 230: Hồ sơ kiểm toán;
4. Chuẩn mực số 700: Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính.
Đợt 2: Ban hành sáu (06) chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (đợt 2) :
1. Chuẩn mực số 250 - Xem xét tính tuân thủ pháp luật và các qui định
trong kiểm toán báo cáo tài chính;
2. Chuẩn mực số 310 - Hiểu biết về tình hình kinh doanh;
3. Chuẩn mực số 500 - Bằng chứng kiểm toán;
4. Chuẩn mực số 510 - Kiểm toán năm đầu tiên - Số dư đầu năm tài chính;
5. Chuẩn mực số 520 - Quy trình phân tích;
6. Chuẩn mực số 580 - Giải trình của Giám đốc.
Đợt 3 : Ban hành sáu (06) chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (đợt 3) :
1. Chuẩn mực số 240 - Gian lận và sai sót;
2. Chuẩn mực số 300 - Lập kế hoạch kiểm toán;


17

3. Chuẩn mực số 400 - Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ;
4. Chuẩn mực số 530 - Lấy mẫu kiểm toán và các thủ tục lựa chọn khác;
5. Chuẩn mực số 540 - Kiểm toán các ước tính kế toán;
6. Chuẩn mực số 610 - Sử dụng tư liệu của kiểm toán nội bộ.
Đợt 4 : Ban hành năm (05) chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (đợt 4) :
1. Chuẩn mực số 220 - Kiểm soát chất lợng hoạt động kiểm toán;
2. Chuẩn mực số 320 - Tính trọng yếu trong kiểm toán;
3. Chuẩn mực số 501 - Bằng chứng kiểm toán bổ sung đối với các khoản mục và sự
kiện đặc biệt;
4. Chuẩn mực số 560 - Các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài
chính;
5. Chuẩn mực số 600 - Sử dụng t liệu của kiểm toán viên khác.
Đợt 5 : Ban hành sáu (06) chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (đợt 5) :

1. Chuẩn mực số 401 - Thực hiện kiểm toán trong môi trường tin học;
2. Chuẩn mực số 550 - Các bên liên quan;
3. Chuẩn mực số 570 - Hoạt động liên tục;
4. Chuẩn mực số 800 - Báo cáo kiểm toán về những công việc kiểm toán
đặc biệt ;
5. Chuẩn mực số 910 - Công tác soát xét báo cáo tài chính;
6. Chuẩn mực số 920 - Kiểm tra thông tin tài chính trên cơ sở các thủ tục
thoả thuận trước.
Đợt 6 : Ban hành sáu (06) chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (đợt 6) :
1. Chuẩn mực 402 - Các yếu tố cần xem xét khi kiểm toán đơn vị có sử dụng
dịch vụ bên ngoài


18

2. Chuẩn mực 620 - Sử dụng tư liệu của chuyên gia
3. Chuẩn mực 710 - Thông tin có tính so sánh
4. Chuẩn mực 720 - Những thông tin khác trong tài liệu có báo cáo tài chính đã
kiểm toán
5. Chuẩn mực 930 - Dịch vụ tổng hợp thông tin tài chính
6. Chuẩn mực 1000 - Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành.
Đợt 7 : Ban hành bốn (04) chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (đợt 7) :
1. Chuẩn mực 260 - Trao đổi các vấn đề quan trọng phát sinh khi kiểm toán với Ban
lãnh đạo đơn vị được kiểm toán;
2. Chuẩn mực 330 - Thủ tục kiểm toán trên cơ sở đánh giá rủi ro;
3. Chuẩn mực 505 - Thông tin xác nhận từ bên ngoài;
4. Chuẩn mực 545 - Kiểm toán việc xác định và trình bày giá trị hợp lý.
Theo đánh giá tổng kết 10 năm hoạt động kiểm toán độc lập 1991-2001 của Bộ tài
chính về cơ bản hệ thống pháp lý do Nhà nước ban hành đã tạo cơ sở pháp lý cho việc
thành lập và hoạt động các tổ chức kiểm toán độc lập, việc hình thành đội ngũ kiểm

toán viên , tạo môi trường lành mạnh cho sự hoạt động cũng như từng bước mở cửa hội
nhập về kiểm toán độc lập. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển
mạnh mẽ như hiện nay còn nhiều điểm bất cập:
+ Khuôn khổ pháp lý chi hoạt động kiểm toán độc lập hiện nay chỉ gồm nghị định của
chính phủ và các văn bản của Bộ tài chính chưa tương xứng với sự phát triển và tiềm
năng của kiểm toán độc lập hiện nay và chưa đồng bộ so với hệ thống văn bản pháp
luật khác như Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật doanh nghiệp, Luật doanh
nghiệp Nhà nước, Luật thuế, Pháp lệnh về ngân hàng và các tổ chức tài chính, chứng
khoán.
+ Tính bao quát của các hệ thống chính sách làm cơ sơ cho hoạt động kiểm toán BCTC
của doanh nghiệp còn hạn chế: nhiều nội dung cần thiết chưa được đề cập, một số nội
dung đã được đề cập nhưng chưa rõ ràng, thiếu tính pháp lý. Chẳng hạn nghị định


19

07/CP chỉ đề cập đến kiểm toán viên hơn là các tổ chức kiểm toán độc lập và không đề
cập đến vai trò của tổ chức được kiểm toán.
+ Các chuẩn mực kiểm toán vẫn luôn được bổ sung nhưng do dưa trên nền tảng của
các chuẩn mực quốc tế và sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với hoàn cảnh của nước ta nên
chưa có tính đồng bộ, có những quy định khó hiểu, khó áp dụng với điều kiện thực tế.
+ Trong văn bản pháp luật hiện hành vấn đề triển khai dịch vụ bảo hiểm nghề nghiệp,
thực hiện trách nhiệm vật chất đối với kết quả kiểm toán được thiết lập và hoạt động
trong hội nghề nghiệp kiểm toán chưa được quy định. Chưa hòa nhập với thông lệ quốc
tế làm hạn chế chất lượng kiểm toán ở Việt Nam.
+ Chưa có quy định pháp lý làm cơ sở xử lý các vấn đề phát sinh hiện nay như: một
kiểm toán viên có chứng chỉ làm cho nhiều công ty kiểm toán hoặc vừa làm ở doanh
nghiệp vừa làm ở công ty kiểm toán, công chức Nhà nước vẫn đăng kí hành nghề kiểm
toán ở một số công ty TNHH.
+ Một số quy định pháp luật còn thiếu hiệu lực như quy định về điều kiện thành lập

công ty kiểm toán trong nghị định 07/CP là phải có ít nhất 5 người có chứng chỉ kiểm
toán viên mới có thể thành lập công ty. Nhưng trong Luật doanh nghiệp lại quy định
chỉ cần một người đứng đầu có chứng chỉ kiểm toán viên là có thể thành lập công ty.
Để hạn chế những bất cập trên Bộ tài chính đã không ngừng nghiên cứu để kịp thời ban
hành những văn bản pháp lý mới để ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp lý làm cơ sở
cho hoạt động kiểm toán độc lập. Trong điều kiện những văn bản pháp lý đã được ban
hành trên hoạt động kiểm toán nước ta đã không ngừng phát triển và hoàn thiện về mọi
mặt. Để có một cái nhìn về ngành nghề này ta xem lại một số mặt trong hoạt động
kiểm toán ở Việt Nam hiện nay.
2.2.3.2. Tình hình hoạt động của kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay:
Đầu tiên là về mặt chất lượng và số lượng của các công ty kiểm toán ở Việt Nam
hiện nay. Ngoài doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bắt buộc phải kiểm toán theo
luật định, nhận thức của các doanh nghiệp về vai trò của kiểm toán cũng có những thay
đổi đáng kể. Đặc biệt từ sau khi Luật doanh nghiệp cho phép thành lập công ty kiểm


20

toán chỉ cần người đứng đầu có chứng chỉ kiểm toán đã làm số lượng các công ty kiểm
toán tăng lên nhanh chóng. Sự xuất hiện của các công ty kiểm toán nhỏ( quy mô từ 125 người) đã phát huy tính năng động cao của bộ máy kiểm toán, thích ứng nhu cầu
kiểm toán và tư vấn các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ tháng 5/1995 mới có hai công ty
kiểm toán đầu tiên do Bộ tài chính thành lập đến nay đã có trên 50 công ty kiểm toán
độc lập tại Việt Nam, trong đó đủ loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp Nhà nước,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty TNHH, công ty cổ phần…Quy mô
của các công ty ngày càng mở rộng, có chi nhánh và các văn phòng đại diện tại nhiều
tỉnh, thành phố. Tổng doanh thu về hoạt động kiểm toán cũng tăng lên đáng kể, cụ thể
năm 1998 đạt 232,7 tỷ đồng, năm 1999 đạt 278,02 tỷ đồng, năm 2000 đạt 281,7 tỷ
đồng, năm 2001 đạt gần 300 tỷ đồng, năm 2002 đạt trên 310 tỷ đồng. Vì vậy số lượng
kiểm toán viên cũng tăng lên nhanh chóng. Hai công ty đầu tiên chỉ có 13 người thì tới
nay tổng số nhân viên chuyên nghiệp trong các công ty kiểm toán là hơn 1800 người,

trong đó có hơn 500 người có chứng chỉ kiểm toán viên do Bộ tài chính cấp. Số nhân
viên chuyên nghiệp có 100% có trình độ đại học, nhưng tỉ lệ nhân viên có chứng chỉ
kiểm toán viên độc lập không đều giữa các công ty. Chất lượng các kiểm toán viên của
các công ty kiểm toán Việt Nam nâng cao rõ rệt trong 10 năm qua, đặc biệt là các công
ty và doanh nghiệp Nhà nước nhờ sự hỗ trợ của dự án EURO- TAPVIET ( dự án kế
toán, kiểm toán do liên minh châu Âu tài trợ) và hợp tác với doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài. Các công ty kiểm toán có 100% vốn đầu tư nước ngoài có chương trình
đào tạo kiểm toán viên mang tính chuyên nghiệp cao. Ngoài ra các công ty kiểm toán
lớn của Việt Nam như: Vaco, AASC, AFC… cũng có bộ phận đào tạo riêng, xây dựng
được chương trình đào tạo cơ bản cũng như các chương trình bồi dưỡng thường xuyên,
cập nhật kiến thức cho kiểm toán viên. Các công ty này cũng cử nhân viên của mình đi
đào tạo cơ bản ở nước ngoài cũng như theo học chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn
quốc tế do viện kế toán công chứng Anh quốc ACCA thực hiện tại Việt Nam. Còn các
công ty nhỏ hầu như không có bộ phận đào tạo của công ty. Việc đào tạo được tiến
hành thông qua kèm cặp nhân viên thực tế hoặc cử nhân viên đi đào tạo ở nước ngoài


21

sau đó truyền lại kinh nghiệm và tài liệu cho những nhân viên còn lại trong công ty.
Trong 10 năm qua trình độ của kiểm toán viên đã có nhiều tiến bộ vượt bậc nhưng
chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập với khu vực và trên thế giới. Chất lượng của kiểm
toán viên nước ngoài cũng rất đáng quan tâm vì chứng chỉ của họ do nhiều tổ chức
khác nhau cấp. Vì vậy Bộ tài chính đã tổ chức các kỳ sát hạch đối với các kiểm toán
viên người nước ngoài đang thực hiện ký các báo cáo kiểm toán ở Việt Nam về mức độ
am hiểu pháp luật Việt Nam và tiến hành cấp chứng chỉ kiểm toán viên độc lập của
Việt Nam. Xét về tình hình khách hàng của các công ty kiểm toán ở Việt Nam cũng có
sự khác biệt. Các công ty kiểm toán độc lập có 100% vốn đầu tư nước ngoài hầu như
chỉ phục vụ khách hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Cũng như luật pháp Việt Nam chưa
cho phép các công ty kiểm toán nước ngoài kiểm toán các doanh nghiệp Việt Nam. Các

công ty kiểm toán là công ty TNHH chủ yếu phục vụ khách hàng là doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài nhưng quy mô nhỏ và các công ty TNHH, công ty cổ phần,
công ty tư nhân. Công ty kiểm toán là doanh nghiệp Nhà nước là loại hình có khách
hàng đa dạng nhất: khách hàng là các doanh nghiệp Nhà nước chiếm 42,95%, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 43,04%, công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty tư
nhân chiếm 14,01%. Sự khác bịêt về giá phí kiểm toán, danh tiếng của các công ty
kiểm toán cũng phản ánh sự khác biệt về chất lượng các công ty. Các công ty kiểm toán
nước ngoài được đánh giá cao hơn các công ty kiểm toán Việt Nam. Điều này cũng dễ
hiểu vì các công ty này hơn hẳn các công ty Việt Nam về chất lượng kiểm toán viên, về
các trang thiết bị, về hệ thống soát xét chất lượng…
Sự gia tăng ngày càng nhiều các công ty kiểm toán làm thị trường kiểm toán
ngày càng sôi động. Đây là tín hiệu đáng mừng nhưng để kiểm soát chất lượng kiểm
toán, hướng kiểm toán Việt Nam hội nhập và có cơ hội cạnh tranh với các công ty kiểm
toán trong khu vực và trên thế giới thì còn rất nhiều việc phải làm. Một trong những
vấn đề bức thiết nhất đó là phải kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán của Việt
Nam.
2.2.3.3. Yêu cầu về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam:


22

Bản thân các công ty kiểm toán cũng là một doanh nghiệp, cũng hoạt động vì
mục tiêu lợi nhuận. Không đơn thuần như vậy, các kết quả kiểm toán lại có ảnh hưởng
mạnh mẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như công tác
quản lý của các doanh nghiệp được kiểm toán. Nói cách khác công ty kiểm toán là
công cụ kiểm tra, kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp các doanh nghiệp vì vậy cũng cần
cơ chế kiểm tra, kiểm soát chính các công ty kiểm toán độc lập này.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng của kiểm toán độc lập. Xét về
nhân tố chủ quan, ta thấy người sử dụng báo cáo kiểm toán không trực tiếp trả tiền cho
các công ty kiểm toán nên chất lượng báo cáo kiểm toán chủ yếu dựa vào đạo đức nghề

nghiệp của kiểm toán viên. Hiện nay do sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các công
ty kiểm toán bằng cách hạ giá phí kiểm toán và bản thân các doanh nghiệp cũng
thường dùng tiêu chuẩn giá phí thấp nhất để lựa chọn công ty kiểm toán nên đã gián
tiếp ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo kiểm toán. Giá phí bị cắt giảm để đảm bảo có
lợi nhuận kinh doanh các công ty kiểm toán buộc phải cắt giảm thời gian kiểm toán,
cắt giảm thủ tục kiểm toán, số lượng bằng chứng kiểm toán cũng bị thu hẹp … kết quả
này dẫn tới rủi ro kiểm toán cao. Một số công ty nhỏ không đủ điều kiện đào tạo nhân
viên một cách có tổ chức dẫn đến chất lượng kiểm toán viên không được đảm bảo, bản
lĩnh nghề nghiệp chưa có làm tính độc lập kiểm toán bị ảnh hưởng đôi khi vi phạm tới
đạo dức nghề nghiệp. Bên cạnh các yếu tố chủ quan trên còn có các yếu tố khách quan
như sau :
+ Tổ chức nghề nghiệp kiểm toán ở Việt Nam chưa phát triển mạnh, chưa đảm bảo vai
trò hướng dẫn, quản lý, kiểm soát hoạt đông kiểm toán. Vai trò này do bộ tài chính đảm
nhận. Trong khi đó bộ tài chính cũng quản lý các công ty kiểm toán độc lập là doanh
nghiệp Nhà nước tạo ra nhận thức về sự không bình đẳng giữa các công ty kiểm toán
thuộc bộ tài chính và các công ty kiểm toán khác.
+ Trong 3 năm gần đây bộ tài chính đã tiến hành kiểm tra hoạt động nghề nghiệp của
các công ty kiểm toán trong việc tuân thủ quy chế kiểm toán trong nền kinh tế quốc
dân ( nghị định 07/CP ). Nhưng hoạt động kiểm tra chủ yếu trên các mặt: Tổ chức


23

tuyển dụng, đào tạo nhân viên, ký kết hợp đồng, quá trình kiểm soát, báo cáo kiểm toán
… còn việc soát xét chất lượng kiểm toán do công ty tự tiến hành dựa vào quy định
riêng của từng công ty. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài có cơ chế tự soát xét tuân
theo công ty mẹ nên rất chặt chẽ. Luôn có người giám sát công việc trong từng giai
đoạn của kiểm toán từ giai đoạn chuẩn bị đến tiến hành cuộc kiểm toán và cuối cùng là
lập báo cáo kiểm toán. Trong khi đó các công ty kiểm toán Việt Nam hầu như không
xây dựng cho mình một quy trinh kiểm toán chuẩn. Việc ra đời các công ty kiểm toán

chỉ có một người có chứng chỉ kiểm toán nên trong công ty kiểm toán thiếu các cấp bậc
soát xét. Duy trì quy định các công ty kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam chưa được
kiểm toán các công ty, các doanh nghiệp Việt Nam tạo ra sự bảo hộ đối với các công ty
kiểm toán độc lập việt Nam làm hạn chế cạnh tranh, một động lực nâng cao chất lượng
kiểm toán.
Tất cả các tồn tại cả về mặt khách quan và chủ quan đã làm cho chất lượng kiểm
toán Việt Nam chưa có sự kiểm soát chặt chẽ và đáp ứng vai trò kiểm tra kiểm soát các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Vì vậy bản thân các công ty cũng như nhà nước cần
nỗ lực hơn nữa để ngày càng củng cố niềm tin cho người sử dụng BCTC của doanh
nghiệp Việt Nam nói chung. Sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế Mỹ như Enron,
Worldcom.. liên quan đến công ty kiểm toán hàng đầu Arthur Andersen đã làm nhiều
nước phải xem xét lại chất lượng dịch vụ kiểm toán của mình bao gồm cả Việt Nam.


24

PHẦN 3
NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA HOẠT ĐỘNG KIỂM
TOÁN TRONG VIỆC KIỂM TRA KIỂM SOÁT CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ
NÂNG CAO VAI TRÒ NÀY
3.1. Những thuận lợi và khó khăn còn tồn tại :
Trong một nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ như Việt Nam hiện nay,
ngày càng có nhiều mối quan hệ kinh tế phức tạp. Nhưng mối quan hệ này mang tính
hai mặt vừa tạo ra những điều kiện thuận lợi bên cạnh đó cũng gây nên không ít khó
khăn cho công việc kiểm toán hiện nay. Những thuận lợi và khó khan này ảnh hưởng
tới vai trò của kiểm toán độc lập trong việc kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay.
3.1.1. Thuận lợi :
 Môi trường pháp lý cho hoạt động kiểm toán đã được xác lập, các văn bản về

chế độ kế toán, chuẩn mực kế toán, kiểm toán làm cơ sở cho hoạt động của các công ty
kiểm toán độc lập đã được ban hành và liên tục bổ sung ngày càng phù hợp và đáp ứng
với sự phát triển ngày càng cao của hoạt động kiểm toán.
 Kiểm toán độc lập Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ về số lượng các công ty,
số lượng kiểm toán viên, năng lực kiểm toán viên đang ngày càng được nâng cao, tổ
chức kiểm toán ngày càng tốt hơn, trang thiết bị hỗ trợ cho hoạt động kiểm toán ngày
càng hiện đại giúp hỗ trợ đắc lực cho công tác kiểm toán. Sự tiến bộ này là nhờ nỗ lực
của bản thân các công ty, sự cạnh tranh giữa các công ty cũng như sự giúp đỡ của
EURO- TAPVIET, sự hợp tác của các công ty kiểm toán quốc tế.


25

3.1.2. Khó khăn:
 Hệ thống BCTC của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều bất hợp lý chưa
hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế trong khi các kiểm toán viên phải tuân
thủ các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam được xây dựng dựa trên tinh thần các
chuẩn mực quốc tế. Do đó kiểm toán viên có thể gặp rủi ro kiểm toán cao do
người sử dụng thông tin còn ít am hiểu về đặc điểm BCTC của Việt Nam và có
xu hướng đổ lỗi cho kiểm toán viên trong trường hợp thông tin không phản ánh
đúng thực trạng của doanh nghiệp.
 Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam chưa có sự hoàn chỉnh và nhiều điểm
chưa phù hợp nhưng tính ràng buộc pháp lý lại quá cao (do Bộ tài chính ban
hành) không mang tính hướng dẫn như các nước khác trên thế giới ( thường do
các tổ chức nghề nghiệp nghiên cứu ban hành).
 Việc thực hiện các quy định bắt buộc kiểm toán BCTC của nhiều công ty không
được thực hiện nghiêm túc do yêu cầu của luật pháp với kiểm toán BCTC còn
thấp khiến các doanh nghiệp không tuân thủ triệt để.
 Bộ máy kiểm toán phát triển nhưng chưa đồng đều. Còn có sự chênh lệch khá
lớn giữa các công ty và nhìn chung là còn thấp so với yêu cầu hội nhập, trình độ

ngoại ngữ và tin học của các kiểm toán viên còn chưa cao.
 Nhận thức của doanh nghiệp và xã hội với vấn đề kiểm toán tăng nhưng chưa
cao và đúng đắn, nhiều khi coi kết quả kiểm toán có tính chất giống như kết
luận thanh tra, cơ quan thuế.
Từ tình hình trên đòi hỏi cần phải có những giải pháp để khắc phục những khó khăn
của kiểm toán độc lập.
3.2. Một số giải pháp để nâng cao vai trò của kiểm toán độc lập ở Việt Nam
hiện nay:


×