DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
- BCTC: Báo cáo tài chính
- BGĐ: Ban giám đốc
- CMKT: Chuẩn mực kiểm toán
- CTKT: Công ty kiểm toán.
- HĐQT: Hội đồng quản trị
- KTĐL: Kiểm toán độc lập
- KTV: Kiểm toán viên.
- NĐT: Nhà đầu tư
- VACPA: Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam.
- VAA: Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam
- UBCK: Uỷ ban chứng khoán.
- TNHH: Trách nhiệm hữu hạn.
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động kiểm toán độc lập đã hình thành và phát triển hơn 17
năm nay ở Việt Nam. Đây là một lĩnh vực hoạt động đặc thù - lấy người
sử dụng báo cáo tài chính làm đối tượng phục vụ chính yếu, bởi vậy chất
lượng của các báo cáo kiểm toán ảnh hưởng tới nhiều đối tượng khác
nhau. Từ một loại hình hoạt động chưa hề có ở Việt Nam nay kiểm toán
độc lập đã được xã hội thừa nhận, vai trò và vị trí của kiểm toán độc lập
ngày càng được khẳng định trong nền kinh tế quốc dân. Kiểm toán làm
tăng mức độ tin cậy đối với các thông tin tài chính, góp phần lành mạnh
hoá các quan hệ kinh tế. Dựa vào kết quả kiểm toán, những người sử dụng
báo cáo tài chính được kiểm toán có được các thông tin khách quan, chính
xác, từ đó có thể đánh giá một cách đúng đắn tình hình tài chính cũng như
kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp làm cơ sở cho các quyết
định kinh tế của mình.
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của kiểm toán độc lập quan trọng
như vậy, cho nên việc nâng cao vai trò của kiểm toán độc lập trong việc nâng
cao chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam là rất cấp
thiết. Và càng nóng hơn nữa sau vụ việc sai sót trong kiểm toán báo cáo tài
chính nhiều năm của Công ty Bông Bạch Tuyết, nhiều nhà đầu tư đã có
những hoài nghi về chất lượng kiểm toán. Chính vì vậy em đã chọn đề tài:
”Vai trò của kiểm toán độc lập trong việc nâng cao chất lượng báo cáo tài
chính của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay” để thực hiện đề án môn
học. Trên cơ sở các tài liệu trong các năm gần đây, cùng với kiến thức đã được
đào tạo tại Nhà trường, em đã hoàn thành bản Đề án môn học kiểm toán với các
nội dung cơ bản như sau:
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
- PHẦN I: Lý luận chung về kiểm toán độc lập và báo cáo tài chính
- PHẦN II: Vai trò của kiểm toán độc lập trong việc nâng cao chất
lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay
- PHẨN III: Một số ý kiến nhằm nâng cao vai trò của kiểm toán
độc lập trong việc nâng cao chất lượng báo cáo tài
chính của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
Do thời gian nghiên cứu còn ngắn và khả năng bản thân còn hạn chế nên
bản Đề án không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp
của cô và các bạn để hoàn thiện hơn.
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
VÀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. Một số vấn đề về lý luận về kiểm toán và kiểm toán độc lập
1.1.1. Lịch sử hình thành kiểm toán và kiểm toán độc lập
Trên thế giới, thuật ngữ kiểm toán đã có từ lâu, thuật ngữ này xuất hiện
từ khi xuất hiện nhu cầu xác định tính trung thực, độ tin cậy của thông tin
trong BCTC, kế toán và thực trạng tài sản của một chủ thể trong quan hệ kinh
tế. Kiểm toán có gốc từ La tinh là Audit nghĩa là Nghe. Cho đến nay, ý nghĩa
này chỉ mang tính lịch sử. Ở thời điểm xuất xứ, thế kỷ III trước Công nguyên
từ Audit có ý nghĩa thật của nó. Khi đó, các nhà cầm quyền La Mã đã tuyển
dụng các quan chức để kiểm tra độc lập về tình hình tài chính và nghe thuyết
trình của họ về kết quả kiểm tra độc lập.
Ra sau thêm vài trăm năm nữa, kỹ năng nghe của kiểm toán, dần dần đi
vào trong một hệ thống, khi lúc này trên thế giới, sự ra đời của các công ty
chứng khoán, các hoạt động thương mại trở nên đa dạng và phức tạp, quy mô
của hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng mở rộng dẫn đến sự tách rời
quyền sở hữu của các cổ đông và chức năng điều hành quản lý. Vì vậy các
chủ sở hữu tìm kiếm những cách thức mới để kiểm tra nhằm ngăn chặn hành
vi gian lận của các nhà quản lý và những người làm công. Đáp ứng nhu cầu
đó, KTĐL bắt đầu xuất hiện và phát triển.
Từ hình ảnh về kiểm toán cổ điển là việc kiểm tra tài sản, phần lớn
được thực hiện bằng cách người nghe ghi chép đọc to lên cho một bên độc lập
nghe rồi chấp nhận. Cho đến nay, thực tiễn kiếm toán đã phát triển cao, đặc
biệt ở Bắc Mỹ và Tây Âu bằng sự xuất hiện của nhiều loại hình kiểm toán,
nhiều mô hình tổ chức và bằng sự thâm nhập sâu của kiểm toán vào nhiều
lĩnh vực trong đời sống xã hội. Kiểm toán phát triển mạnh ở các nước có nền
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
1
kinh tế thị trường phát triển, đại diện là các công ty được thành lập từ những
năm cuối của thể kỷ 19 phát triển đến hiện nay và trở thành những CTKT
hàng đầu thế giới như công ty Ernst & Young, công ty Price
WaterhouseCooper, công ty KPMG Peat Marwich, công ty Deloitte Touche
(Big Four).
Ở Việt Nam, trước năm 1975 đã có văn phòng kiểm toán của các
CTKT quốc tế hoạt động ở Sài Gòn. Sau khi đất nước thống nhất, hoạt động
kiểm toán của các văn phòng này không còn thích hợp với nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung lúc bấy giờ. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao
cấp, các hoạt động kinh tế được chỉ đạo thống nhất, định sẵn. Cùng với chế độ
sở hữu tập thể đã dẫn đến việc xác định quyền lợi, trách nhiệm, quyền hạn của
các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cùng các cấp lãnh đạo khác không rõ ràng.
Việc kiểm tra các thông tin kinh tế ở thời kỳ này mang tính tuân thủ là chủ
yếu và việc kiểm tra được thực hiện bởi các cơ quan chức năng (thuế, tài
chính, cơ quan chủ quản ...). Các thông tin này là cơ sở để đánh giá mức độ
hoàn thành kế hoạch và xây dựng kế hoạch cho giai đoạn tiếp theo. Mặt khác
với cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì không thể tồn tại một
doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh tế nào được xem là độc lập để thực hiện đầy
đủ chức năng kiểm toán. Do vậy vào thời kỳ này không xuất hiện nhu cầu về
kiểm toán. Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh
nghiệp theo các hình thức sở hữu khác nhau được thành lập và phát triển
mạnh, các doanh nghiệp này đóng vai trò và ý nghĩa quan trọng trong sự phát
triển nền kinh tế, đồng thời các doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang thực
hiện cơ chế hạch toán kinh doanh độc lập. Với sự chuyển đổi này cho thấy đã
xuất hiện đầy đủ các điều kiện và yêu cầu cho sự ra đời của hoạt động KTĐL,
đó là:
Một là, Do có sự đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tất sẽ phát sinh nhu
cầu cần phải có hoạt động kiểm toán cũng như nhu cầu tư vấn của bản thân
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
2
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đây là thông lệ và cũng là yêu
cầu của công ty mẹ. Mặt khác về phía quản lý Nhà nước cũng cần phải có
được thông tin đáng tin cậy để đánh giá thực trạng đầu tư cũng như thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước trong khi không thể áp dụng các hình thức duyệt
quyết toán như đối với các doanh nghiệp Nhà nước.
Hai là, Khi tính chủ động trong kinh doanh của các doanh nghiệp được
phát huy, các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh độc lập, theo đó các yêu cầu
thông tin kinh tế trung thực và đáng tin cậy là hết sức quan trọng. Các thông
tin này không chỉ phục vụ cho cho một đối tượng là Nhà nước mà còn phục
vụ cho nhiều các đối tượng khác như Ngân hàng (tư cách là người cho vay),
đối tác kinh doanh,...
1.1.2. Bản chất và đặc trưng của KTĐL
Trên thế giới hình thức tổ chức của các tổ chức kiểm toán ở các nước
không hoàn toàn giống nhau. Ở mỗi nước luật pháp quy định rõ quyền hạn,
trách nhiệm của các tổ chức kiểm toán, thừa nhận sự khách quan và độc lập
của kiểm toán… vì thế mà xuất hiện rất nhiều định nghĩa khác nhau về
KTĐL:
Theo định nghĩa của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (International
Federation of Accountants - IFAC) thì “Kiểm toán là việc các KTV độc lập
kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản BCTC”.
Trong giáo trình kiểm toán của các tác giả Alvin A.Rens và James
K.Loebbecker thì:“ Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm
quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng
được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ
phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập”.
Trích từ Auditing - Theory & Practice của John Dunn, University of
Strathclyde, Glasgow nhà xuất bản Prentice Hall: “Kiểm toán là thủ pháp xem
xét và kiểm tra một cách khách quan về từng khoản mục bao gồm việc thẩm
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
3
tra những thông tin đặc trưng được xác định bởi KTV hoặc thiết lập bởi thực
hành chung. Nói tổng quát, mục đích của kiểm toán là trình bày ý kiến hoặc
đi đến kết luận về cái được kiểm toán”.
Ở Việt Nam, theo Nghị định 105 của Chính phủ ngày 30/4/2004:
“KTĐL là việc kiểm tra và xác nhận của KTV và doanh nghiệp kiểm toán về
tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và BCTC của các
doanh nghiệp, tổ chức (gọi chung là đơn vị được kiểm toán) khi có yêu cầu
của các đơn vị này”.
Đặc điểm của KTĐL thể hiện ở những điểm sau đây :
Một là, Đối tượng KTĐL là các thông tin kinh tế được kiểm toán mà
KTV sẽ đưa ra ý kiến về những thông tin này sau quá trình thực hiện kiểm
toán. Các thông tin kinh tế được kiểm toán có thể là các BCTC tổng hợp, chi
tiết hàng năm, báo cáo quyết toán giá trị công trình, báo cáo xác định giá trị
vốn góp của các bên đối tác, hoặc một nội dung, chỉ tiêu kinh tế nào đó như
về tình hình kê khai nộp thuế, tình hình sử dụng vốn đầu tư,... Đối với các dự
án thì ngoài các thông tin về tài chính như trên còn các thông tin kinh tế khác
như các thông tin về tình hình thực hiện dự án, nội dung và đánh giá hiệu quả
dự án,... Có thể tập hợp các thông tin kinh tế là đối tượng kiểm toán thành các
nhóm sau:
- Thông tin kinh tế là các BCTC.
- Thông tin kinh tế mang tính hiệu quả trong hoạt động của một bộ
phận hay toàn bộ một tổ chức, một đơn vị. Các thông tin này liên quan đến
các thủ tục và phương pháp hoạt động của một bộ phận hay của toàn đơn vị
kinh tế với tư cách là chủ thể kiểm toán.
- Thông tin kinh tế liên quan đến việc tuân thủ các quy định mang
tính chất pháp lý hoặc đã được thống nhất trước mà đơn vị kinh tế đó phải
tuân theo. Ví dụ như việc thực hiện các quy định về quản lý lao động, tiền
lương, các chính sách quản lý tài chính, ...
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
4
Hai là, Chủ thể KTĐL là các KTV được cấp chứng chỉ hành nghề hợp
pháp thuộc các công ty, các văn phòng kiểm toán chuyên nghiệp. Theo tiêu
chuẩn của IFAC (Liên đoàn kế toán quốc tế) và luật pháp các nước thành viên
đều quy định các yêu cầu cơ bản của KTV là: Có kỹ năng và khả năng nghề
nghiệp, chính trực, khách quan, độc lập và tôn trong bí mật. Ở nước ta, các
quy định, tiêu chuẩn và yêu cầu cơ bản của KTV được quy định cụ thể trong
Quy chế KTĐL trong nền kinh tế quốc dân ban hành kèm theo Nghị định 07/
CP của Chính phủ và CMKT số 200 (đoạn 14,15). Các quy định này về cơ
bản không khác với các yêu cầu chung theo tiêu chuẩn của IFAC.
Ba là, Khách thể kiểm toán là các bộ phận đơn vị có diễn ra hoạt động
kiểm toán. Khách thể của KTĐL gồm 2 loại là khách thể bắt buộc và khách
thể tự nguyện. Trong đó khách thể bắt buộc gồm: Các doanh nghiệp, tổ chức
có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam; các CTCP niêm yết kinh doanh trên thị trường chứng khoán; các tổ
chức tín dụng hoạt động theo Luật tổ chức tín dụng,ngân hàng thuộc các
thành phần kinh tế; các tổ chức tài chính; doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm,
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; doanh nghiệp Nhà nước (nếu trong năm
không là khách thể của Kiểm toán Nhà nước). Khách thể tự nguyện là tất cả
các đơn vị, tổ chức, cá nhân còn lại có nhu cầu kiểm toán.
Bốn là, Mục đích của kiểm toán là kiểm tra, xác nhận và báo cáo về
mức độ phù hợp, trung thực, hợp lý của thông tin trình bày trên BCTC phục
vụ cho việc ra quyết định của các đối tượng sử dụng thông tin. Nói cách khác,
mục đích của KTĐL là để có được những thông tin đáng tin cậy.
Trong nền kinh tế thị trường các thông tin tài chính có độ tin cậy, chính
xác và trung thực hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với các chủ
thể trong các hoạt động kinh tế. KTĐL hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu này
của nền kinh tế. Luật pháp nhiều nước khẳng định rằng, chỉ những báo cáo đã
được xem xét và có chữ ký của KTV độc lập mới được coi là hợp pháp, làm
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
5
cơ sở cho Nhà nước tính thuế cũng như các bên quan tâm khác đưa ra các
quyết định kinh tế trong mối quan hệ với doanh nghiệp. Ở nước ta, trong Quy
chế về KTĐL trong nền kinh tế quốc dân ban hành kèm theo Nghị định số 07/
CP ngày 29/1/1994 của Chính phủ đã chỉ rõ: “Sau khi có xác nhận của KTV
chuyên nghiệp thì các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các
đơn vị kế toán là căn cứ cho việc điều hành, quản lý hoạt động ở đơn vị, cho
các cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan tài chính Nhà nước xét duyệt quyết
toán hàng năm của các đơn vị kế toán, cho cơ quan thuế tính toán số thuế và
các khoản phải nộp khác của đơn vị đối với ngân sách Nhà nước, cho các cổ
đông, các nhà đầu tư, các bên tham gia liên doanh, các khách hàng và các tổ
chức, cá nhân xử lý các mối quan hệ”.
Năm là, Phạm vi của KTĐL: Để hình thành ý kiến nhận xét về các
BCTC, KTV phải có được các căn cứ vững chắc cũng như các thông tin cốt
yếu trong công việc ghi chép kế toán và các nguồn số liệu đáng tin cậy khác
đã được dùng làm cơ sở cho việc xây dựng các BCTC, hay nói cách khác,
KTV phải có đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp. Do vậy phạm vi kiểm
toán sẽ là những công việc, thủ tục kiểm toán cần thiết mà KTV xác định và
thực hiện trong quá trình kiểm toán để thu thập đầy đủ các bằng chứng thích
hợp cho ý kiến kiểm toán hay nói như CMKT là để đạt được mục tiêu kiểm
toán. Những công việc, thủ tục kiểm toán sẽ phụ thuộc vào nội dung kiểm
toán, tuy nhiên những thủ tục kiểm toán này phải được xác định trên cơ sở
CMKT, phù hợp với yêu cầu của Hiệp hội nghề nghiệp, phù hợp với pháp luật
và các thoả thuận trong hợp đồng kiểm toán.
Xác định phạm vi kiểm toán có ý nghĩa quan trọng, mà trước hết các
đơn vị được kiểm toán cần có những hiểu biết nhất định về kiểm toán, yêu
cầu của kiểm toán và việc tiến hành chặn công việc của KTV đều dẫn đến
việc phạm vi kiểm toán bị giới hạn, trong trường hợp này, nếu KTV không
thể thực hiện được các thủ tục kiểm toán thay thế khác một cách hợp lý, khi
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
6
đó cần đưa ra ý kiến từ chối. Tuy nhiên đôi khi do hạn chế về thời gian, hoàn
cảnh cũng có thể dẫn đến phạm vi kiểm toán bị giới hạn. Trong những trường
hợp như vậy, KTV phải cố gắng tìm ra các phương pháp hợp lý để thu thập
được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp để có thể nêu ý kiến
“chấp nhận toàn bộ” trong báo cáo kiểm toán. Nếu không, tuỳ theo tính chất,
mức độ trọng yếu và các bằng chứng bổ sung mà KTV đánh giá mức độ cần
thiết đề đưa ra ý kiến phù hợp.
1.2. Báo cáo tài chính và vai trò của kiểm toán độc lập với chất
lượng báo cáo tài chính.
1.2.1. Báo cáo tài chính.
1.2.1.1. Khái niệm
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế số I (IASI) thì “BCTC cung cấp thông
tin về tình hình tài chính, kết quả hoạt động tài chính, cũng như lưu chuyển
tiền tệ của các doanh nghiệp và đó là các thông tin có ích cho việc ra các
quyết định kinh tế”.
Theo Viện kế toán công chứng Mỹ (AICPA) thì “ BCTC được lập nhằm
mục đích phục vụ cho việc xem xét định kì hoặc báo cáo quá trình của tình
hình đầu tư trong kinh doanh và những kết quả đạt được trong kì báo cáo. Hệ
thống BCTC phản ánh sự kết hợp của những sự kiện được ghi nhận, những
nguyên tắc kế toán và những đánh giá của cá nhân mà trong đó, những
nguyên tắc kế toán và những đánh giá được áp dụng chủ yếu đến việc ghi
nhận các sự kiện”.
Trong hệ thống kế toán Việt Nam, BCTC là loại báo cáo kế toán, phản
ánh một cách tổng quát, toàn diện tình hình tài sản, nguồn vốn, tình hình và
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kì
nhất định. Như vậy BCTC không phải chỉ cung cấp những thông tin chủ yếu
cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như: các nhà đầu tư, các nhà cho
vay, các cơ quan cấp trên, các cơ quan thuế, cơ quan thống kê, cơ quan kế
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
7
hoạch và đầu tư,… mà còn cung cấp những thông tin cho các nhà quản trị
doanh nghiệp, giúp họ đánh giá, phân tích tình hình tài chính cũng như kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.1.2. Vai trò của hệ thống báo cáo tài chính
1.2.1.2.1. Vai trò của hệ thống báo cáo tài chính bên trong doanh nghiệp .
Hệ thống BCTC giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong phân tích
hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời, có ý nghĩa cực kì quan
trọng đối với công tác doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện ở những vấn đề
mấu chốt sau đây
- BCTC cung cấp những thông tin tổng quát về kinh tế – tài chính, giúp
cho việc phân tích tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phân
tích thực trạng tài chính của doanh nghiệp trong kì. Trên cơ sở đó, giúp cho
việc kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn và khả năng huy động các
nguồn vốn vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đánh giá tình
hình chấp hành và thực hiên các chính sách kinh tế tài chính của doanh
nghiệp
- Những thông tin trên BCTC là những căn cứ quan trọng trong việc
phân tích, phát hiện những khả năng tiềm tàng về kinh tế. Trên cơ sở đó, dự
toán tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như xu hướng phát triển
của doanh nghiệp. Đó là những căn cứ quan trọng, giúp cho việc đưa ra
những quyết định cho điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà
quản trị doanh nghiệp.
- BCTC cung cấp những thông tin giúp cho việc phân tích tình hình tài
sản, tình hình nguồn vốn, tình hình và kết quả sản xuất kinh doanh trong một
thời kì nhất định, phân tích thực trạng tài chính của doanh nghiệp như: phân
tích tình hình biến động về quy mô và cơ cấu tài sản, nguồn vốn, về tình hình
thanh toán và khả năng thanh toán, tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với ngân
sách Nhà nước, tình hình phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp.
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
8
- Các chỉ tiêu, các số liệu trên các BCTC là những cơ sở quan trọng để
tính ra các chỉ tiêu kinh tế khác, giúp cho việc đánh giá và phân tích hiệu quả
sử dụng vốn, hiệu quả của các quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Đồng thời cũng là những căn cứ quan trọng để đánh giá thực trạng tài
chính của doanh nghiệp.
1.2.1.2.2. Vai trò của hệ thống báo cáo tài chính bên ngoài doanh nghiệp
Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý vĩ mô của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc loại hình kinh tế khác
nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh, nhiều đối tượng quan
tâm tới tình hình tài chính của doanh nghiệp như: các nhà đầu tư, các nhà cho
vay, nhà cung cấp, khách hàng. Mỗi đối tượng đều quan tâm đến tình hình tài
chính dưới những góc độ khác nhau
Đối với các nhà đầu tư với mục đích là tìm kiếm lợi nhuận thông qua
việc đầu tư vào mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Do vậy họ luôn mong đợi,
tìm kiếm cơ hội đầu tư vào doanh nghiệp có khả năng sinh lợi cao. Tuy
nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt, các
nhà đầu tư cũng phải tìm biện pháp bảo vệ an toàn cho đồng vốn đầu tư của
họ. Các BCTC chứa đựng các chỉ tiêu tài chính tốt, hứa hẹn nhiều lợi nhuận
sẽ làm giá cổ phiếu của doanh nghiệp trên thị trường tăng vọt. Ngược lại, BC
cho thấy tình hình tài chính xấu và nguy cơ các khoản lỗ sẽ kéo giá cổ phiếu
của doanh nghiệp xuống thấp. Các nhà đầu tư tương lai tìm kiếm cơ hội đầu
tư nhờ các thông tin từ BCTC của doanh nghiệp.
Các chủ ngân hàng và nhà cung cấp tín dung, cũng như các doanh
nghiệp cung cấp vật tư quan tâm đến khả năng sinh lợi và khả năng thanh
toán của doanh nghiệp thể hiện trên các BCTC để xác định khả năng thanh
toán của doanh nghiệp để đưa ra quyết định có nên cho doanh nghiệp vay hay
bán hàng trả chậm cho doanh nghiệp hay không.
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
9
Ngoài ra, các cơ quan quản lý Nhà nước, các viện nghiên cứu kinh tế,
sinh viên , người lao động,… cũng quan tâm đến các BCTC của doanh nghiệp
để đánh giá triển vọng của nó trong tương lai để từ đó đưa ra các quyết định
của mình.
1.2.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính
Chất lượng của thông tin tài chính được quyết định bởi các yếu tố sau:
- Hệ thống kế toán mà DN đang áp dụng trong việc ghi chép giao dịch
và lập báo cáo tài chính. Một hệ thống kế toán được xây dựng và ban hành
phù hợp với nền kinh tế thị trường sẽ tạo nền tảng để các báo cáo tài chính
phản ánh một các nhất quán và đầy đủ về tình hình tài chính và kết quả hoạt
động kinh doanh của DN dựa trên các quy ước và nguyên tắc được công nhận
rộng rãi.
- Tính minh bạch trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Các báo
cáo tài chính được kiểm toán hoặc soát xét thường có tính minh bạch cao hơn
so với các báo cáo tài chính chưa được kiểm toán hoặc chưa được soát xét.
- Một thị trường chuyên nghiệp hơn, NĐT am hiểu hơn và nhiều tổ
chức đầu tư có quy mô hơn tham dự thì tự nhiên yêu cầu về một báo cáo
minh bạch hơn sẽ tăng lên. Rõ nhất là khi trình độ NĐT tăng lên, họ sẽ tự
mình kiểm chứng báo cáo phân tích của các CTCK, tự mình tìm hiểu báo cáo
tài chính. Mặt khác, tổ chức đầu tư càng lớn, càng chuyên nghiệp thì càng
chịu nhiều sức ép phải tuân thủ tiêu chuẩn đạo đức của các hiệp hội ngành
nghề và tổ chức mà họ tham gia. Vì vậy, họ rất ngại các hành vi dựa vào quan
hệ để tìm kiếm thông tin, thay vào đó sẽ đòi hỏi minh bạch thông tin. Và sức
ép thị trường buộc các công ty đại chúng phải cải thiện báo cáo tài chính,
chứ không chỉ báo cáo thường niên để thu hút NĐT, cạnh tranh giành "khách
đầu tư". Công ty nào không đáp ứng yêu cầu về một báo cáo chất lượng hơn
sẽ bị trừng phạt bằng kỷ luật thị trường, nghĩa là cổ phiếu giảm giá nhiều,
ban lãnh đạo mất uy tín và có thể "mất ghế".
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
10
1.2.2. Vai trò của kiểm toán độc lập đối với chất lượng của báo cáo tài
chính
Ngày nay, thông tin tài chính của doanh nghiệp không chỉ để báo cáo
cho các cơ quan quản lý nhà nước để kiểm tra và xét duyệt mà nay các thông
tin này cần cho nhiều người, được nhiều đối tượng quan tâm, khai thác sử
dụng cho các quyết định kinh tế. Tuy ở nhiều góc độ khác nhau nhưng tất cả
các đối tượng này đều có cùng nguyện vọng là có được các thông tin có độ
chính xác cao, tin cậy và trung thực.
Đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế, hoạt động kiểm toán độc lập ra đời và
trở thành bộ phận cần thiết và quan trọng không thể thiếu trong đời sống các
hoạt động kinh tế. Kiểm toán độc lập cung cấp cho những người sử dụng kết
quả kiểm toán sự hiểu biết về những thông tin tài chính họ được cung cấp có
được lập trên cơ sở các nguyên tắc và chuẩn mực theo qui định hay không và
các thông tin đó có trung thực và hợp lý hay không.
Luật pháp yêu cầu và để yên lòng cho người sử dụng thì các báo cáo tài
chính phải được kiểm toán và chỉ có những thông tin kinh tế đã được kiểm
toán mới là căn cứ tin cậy cho việc đề ra các quyết định hiệu quả và hợp lý.
Việc các qui định mang tính pháp lý bắt buộc các thông tin tài chính trước khi
công bố phải được kiểm toán, điều này thể hiện rõ nét vai trò của kiểm toán
trong nền kinh tế. Kiểm toán độc lập không thể thiếu được của hoạt động kinh
tế trong nền kinh tế thị trường. Kiểm toán làm tăng mức độ tin cậy đối với các
thông tin tài chính, góp phần lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế. Dựa vào kết
quả kiểm toán, những người sử dụng báo cáo tài chính được kiểm toán có
được các thông tin khách quan, chính xác theo đó có thể đánh giá một cách
đúng đắn tình hình tài chính cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp làm cơ sở cho các quyết định kinh tế của mình. Bên cạnh mục
tiêu chính là đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính, các kiểm toán viên, thông qua
quá trình kiểm toán, còn có thể đưa ra những kiến nghị giúp doanh nghiệp
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
11
hoàn thiện hệ thống kiểm soát, nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý tài
chính nói riêng cũng như hoạt động kinh doanh nói chung.
Trong các quan hệ kinh tế nhờ có kiểm toán mà các doanh nghiệp đã
tìm được tiếng nói chung đó là sự tin cậy lẫn nhau, sự thẳng thắn, trung thực
trình bầy về tình hình tài chính của mình. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để
đánh giá, lựa chọn đối tác kinh doanh. Đặc biệt trong quan hệ hợp tác kinh
doanh với nước ngoài, nếu nhà đầu tư nước ngoài muốn tìm hiểu về hoạt động
kinh doanh và đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp trước khi
đầu tư, hợp tác kinh doanh thì chi phí cho cuộc kiểm toán sẽ hiệu quả và rẻ
hơn nhiều so với chi phí mà hai bên phải bỏ ra để đàm phán, tự chứng minh
về khả năng tài chính của mình. Đồng thời ý kiến khách quan của kiểm toán
luôn đáng tin cậy hơn. Ngay cả khi các công ty có vốn đầu tư nước ngoài
được thành lập thì nhu cầu kiểm toán của các công ty này là tất yếu bởi yêu
cầu quản lý của các đối tác nước ngoài trong doanh nghiệp. Do vậy kiểm toán
độc lập ra đời đã đáp ứng tốt nhu cầu của hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài, góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư và thúc đẩy nhanh quá trình
chuyển đổi nền kinh tế.
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
12
PHẦN II
VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP TRONG VIỆC
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực tế chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp VN
hiện nay
2.1.1. Chất lượng báo cáo tài chính trước kiểm toán
Báo cáo tài chính phản ánh sự minh bạch của thị trường, vừa phản ánh
kết quả kinh doanh của các công ty. Có thể thấy gì qua số lượng, chất lượng
và kết quả kinh doanh từ báo cáo của các doanh nghiệp hiện nay. Báo cáo tài
chính vẫn còn những hạn chế, bất cập về ba mặt.
- Báo cáo vẫn còn thiếu các chỉ tiêu chủ yếu và chi tiết theo quy định,
nên việc đánh giá thông tin về doanh nghiệp khó đầy đủ, toàn diện.
- Báo cáo còn chậm, nhiều công ty nộp báo cáo chưa đúng hạn.
- Chất lượng báo cáo cũng còn những băn khoăn, lo ngại, thậm chí
khiến nhiều người sử dụng thông tin của báo cáo hoang mang.
Theo thống kê do stox.vn thực hiện, cho thấy tình trạng báo động về
chất lượng báo cáo tài chính chưa kiểm toán. Việc chênh lệch một vài trăm
triệu đồng, thậm chí là vài tỷ đồng… giữa doanh thu, lợi nhuận trước và sau
kiểm toán là bình thường, vì có thể có những sai sót nhỏ trong cách tính toán,
phân loại một số khoản thu, chi của doanh nghiệp và công ty kiểm toán.
Nhưng thật khó hiểu với những khoản chênh lệch rất lớn, thậm chí thay đổi
hoàn toàn cán cân lỗ – lãi tại một số nơi. Mùa báo cáo tài chính năm 2008 đã
gióng một hồi chuông báo động về tình trạng chênh lệch lợi nhuận trước và
sau kiểm toán của nhiều doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán. Ấn tượng
nhất vừa qua là chênh lệch kết quả kinh doanh trước và sau kiểm toán của 2
Trần Yến Phương Kiểm toán 48A
13