Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận vận dụng lý luận tích lũy tư bản của chủ nghĩa mác lenin vào xây dựng nền kinh tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.55 KB, 21 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. lý do chọn đề tài
Đất nước ta trong quá trình hội nhập, phát triển năng động nhất từ trước đến nay
và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về kinh tế, chính trị, xã hội, nâng cao vị
thế đất nước trên trường quốc tế. Đó là những thành quả rất đáng tự hào mà chúng ta
có được nhờ sự lựa chọn đúng đắn đường lối phát triển kinh tế thị thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng sáng tạo các phương pháp, nguyên lí cơ bản
của phát triển kinh tế vào điều kiện Việt Nam. Mà theo Mác việc tích lũy tư bản là
những động lực này cuối cùng sẽ dẫn tới thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa Cộng Sản.
Chính từ nhận định đó ta thấy được nguồn vốn có vai trò rất lớn đến phát triển đất
nước của nước ta hiện nay. Mặc dù chúng ta có đường lối kế hoạch đúng đắn để xây
dựng và phát triển kinh tế, mà còn cần đến nguồn vốn rất lớn trong việc tăng trưởng
kinh tế. Vốn là cơ sở để tạo ra việc làm, tạo ra công nghệ tiên tiến tăng năng lực sản
xuất của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất
theo chiều sâu. Từ những lí do trên tôi chọn đề tài “ Vận dụng lý luận tích lũy tư bản
của chủ nghĩa Mác Lenin vào xây dựng nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài
tiểu luận.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích
- Tìm hiểu sâu hơn về tích lũy tư bản và những thay đổi trong bối cảnh hiện
nay.
- Góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế Việt Nam trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện nay hóa theo đường lối chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước ta.
2.2. Nhiệm vụ
- Đưa ra những lập luận đúng đắn để chỉ rõ vai trò của tích lũy tư bản
- Vận dụng những lý luận vào nền kinh tế Việt Nam.
2.3 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu trong phạm vi nền kinh tế ở Việt Nam

1



3. Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp biện chứng duy vật
-Phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử
-phương pháp phân tích tổng hợp
4. Ý nghĩa của đề tài
Thấy được tầm quan trọng của tích lũy tư bản đến sự phát triển kinh tế. Đồng
thời thấy được vốn là cơ sở để thúc đẩy tạo ra việc làm, công nghệ mới để phát triển
đất nước.
5. Kết cấu đề tài
-Gồm 4 phần: + Phần mở bài
+ Phần nội dung
+ Phần kết luận
+ Phần tài liệu tham khảo
-Gồm 2 chương : chương 1 Cơ sở lí luận tích lũy tư bản
Chương 2 Vận dụng tích lũy tư bản vào xây dựng nền kinh tế
Việt Nam hiện nay

2


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN
1.1. Những vấn đề chung về tích lũy tư bản
1.1.1. Thực chất của tích lũy tư bản
Trong bất kì xã hội nào, để đáp ứng đước nhu cầu vật chất và tinh thần thì cần
sản xuất của cải vật chất. Do đó nền sản xuất luôn trong quá trình tái sản xuất. Đối với
tư bản tái sản xuất giản đơn không phải là tái dân xuất của nó mà tái sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất mở rộng là lặp lại quá trình sản xuất với quy mô lớn hơn, không phải xã

hội có thể bù đắp lại tư liệu vật chất đã tiêu dùng mà đồng thời còn sản xuất thêm.
Muốn vậy, phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm.
Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay sự chuyển hoá giá trị thặng dư trở
lại thành tư bản. Như vây, thực chất của tích lũy tư bản là quá trình tư bản hoá giá trị
thặng dư. Nói một cách cụ thể tích lũy tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày
càng mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản là vì giá trị thặng
dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới
Có thể minh hoạ tích lũy tư bản và tái sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng ví dụ:
s tư bản bỏ ra K= 1000; c/v= 4/1; m'= 100%
Năm thứ nhất: Quy mô sản xuất 800c+200v+200m=1200
200 m chia thành: + 100m1 tiêu dùng cá nhân
+ 100m2 tích lũy( 80c mua máy móc, 20v tuyển công nhân)
Năm thứ hai: Quy mô sản xuất 880c + 220v +220m.
Vậy tư bản bất biết ( c ) và tư bản khả biến ( v )tăng lên , m cũng tăng theo
Nghiên cứu tích lũy và tái sản xuất tư bản chủ nghĩa cho phép rút ra những kết
luận vạch rõ bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa:
Một là nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư và tư bản tích
lũy chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản C. Mác nói rằng“ tư bản ứng trước
như là giọt nước nhưng tích lũy là dòng sông của tích lũy mà thôi. Trong quá trình tái
sản xuất, lãi (m) cứ đập vào vốn , vốn càng lớn thì lãi càng lớn , do đó lao động của
công nhân trong quá khứ lại trở thành phương tiện để bóc lột chính người công nhân .
3


Thứ hai, quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hoá
biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hoá giản đơn, sự
trao đổi giữa những người sản xuất hàng hoá theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản
không dẫn tới người này chiếm đoạt lao động không công của người kia . Trái lại , nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một
phần lao động của công nhân , mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công

đó. Nhưng điều đó không vi phạm quy luật giá trị.
1.1.2. Động cơ của tích lũy tư bản
Động cơ thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối
của chủ nghĩa tư bản – quy luật giá trị thặng dư . Để thực hiện mục đích đó các nhà tư
bản không ngừng tích lũy để mở rộng sản xuất, xem đó là phương tiện căn bản để tăng
cường bóc lột công nhân làm thuê và làm giàu cho bản thân.
Như vậy, tích lũy tư bản giữ vai trò quyết định làm cho nền sản xuất tư bản lớn
nhanh, không có tích lũy thì không có quy mô sản xuất lớn hơn. Do đó, không có
thêm lợi ích kinh tế, điều này không thể chấp nhận đối với một nhà tư bản và chiếm
dụng vốn để phát triển. Mặc khác , do cạnh tranh buộc các nhà tư bản phải không
ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên bằng cách tăng nhanh tư bản tích lũy. Nếu
không tích lũy thì sẽ không thể giữ vững trên thị trường, đồng nghĩa của sự phá sản
của tư bản.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới quy mô của tích lũy tư bản
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích lũy tư bản
phụ thuộc vào tỉ lệ phân chia khối lượng của giá trị thặng dư đó thành quỹ tích lũy và
quỹ tiêu dung của nhà tư bản, nhưng nếu tỉ lệ phân chia đó đã được xác định, thì quy
mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Do đó, những nhân
tố ảnh hưởng tới khối lượng giá trị thặng dư cũng là nhân tố quyết định quy mô của
tích lũy tư bản. Những nhân tố đó là:
1.1.4. Trình độ bóc lột sức lao động
Các nhà tư bản nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào
tiền công. Khi nghiên cứu sự sản xuất giá trị thặng dư, C.Mác giả định rằng sự trao đổi
giữa công nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá, tức là tiền công bằng giá trị sức
lao động. Nhưng trong thực tế, công nhân không chỉ bị nhà tư bản chiếm đoạt lao động
4


thặng dư, mà còn bị chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, tức cắt xén tiền công, để
tăng tích luỹ tư bản.

Các nhà tư bản còn nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách tăng
cường độ lao động và kéo dài ngày lao động để tăng khối lượng giá trị thặng dư, nhờ
đó tăng tích luỹ tư bản. Cái lợi ở đây còn thể hiện ở chỗ nhà tư bản không cần ứng
thêm tư bản để mua thêm máy móc, thiết bị mà chỉ cần ứng tư bản để mua thêm
nguyên liệu là có thể tăng được khối lượng sản xuất, tận dụng được công suất của máy
móc, thiết bị, nên giảm được hao mòn vô hình và chi phí bảo quản của máy móc, thiết
bị.
1.1.1.5. Trình độ năng suất lao động xã hội
Nếu năng suất lao động xã hội tăng lên, thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu
dùng giảm xuống. Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ tư bản:
Một là, với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ có thể
tăng lên, nhưng tiêu dùng của các nhà tư bản không giảm, thậm chí có thể cao hơn
trước;
Hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ có thể chuyển hoá
thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm lớn hơn trước.
Do đó, quy mô của tích luỹ không chỉ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư
được tích luỹ, mà còn phụ thuộc vào khối lượng hiện vật do khối lượng giá trị thặng
dư đó có thể chuyển hoá thành. Như vậy năng suất lao động xã hội tăng lên sẽ có thêm
những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới, nên làm tăng quy mô
của tích luỹ. Nếu năng suất lao động cao, thì lao động sống sử dụng được nhiều lao
động quá khứ hơn, lao động quá khứ đó lại tái hiện dưới hình thái có ích mới, được sử
dụng làm chức năng của tư bản ngày càng nhiều, do đó cũng làm tăng quy mô của tích
luỹ tư bản.
1.1.6. Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng
Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia toàn bộ
vào quá trình sản xuất, nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá trị của chúng được
chuyển dần từng phần vào sản phẩm. Vì vậy có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và
tư bản tiêu dùng. Mặc dù đã mất dần giá trị như vậy, nhưng trong suốt thời gian hoạt
5



động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Do đó, nếu không kể đến phần
giá trị của máy móc chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian, thì máy móc phục vụ
không công chẳng khác gì lực lượng tự nhiên. Máy móc, thiết bị càng hiện đại, thì sự
chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn, do đó sự phục vụ không
công của máy móc càng lớn, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá
khứ càng nhiều. Sự phục vụ không công đó của lao động quá khứ là nhờ lao động sống
nắm lấy và làm cho chúng hoạt động. Chúng được tích luỹ lại cùng với quy mô ngày
càng tăng của tích luỹ tư bản.
1.1.7. Quy mô của tư bản ứng trước
Với trình độ bóc lột không thay đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do khối
lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận
tư bản khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, do đó
tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích luỹ tư bản.
Từ sự nghiên cứu bốn nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản có thể rút
ra nhận xét chung là để tăng quy mô tích luỹ tư bản, cần khai thác tốt nhất lực lượng
lao động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy móc, thiết
bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.
1.2. Các quy luật chung của tích lũy tư bản
1.2.1. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình cấu tạo hữu cơ của tích lũy tư bản
Sản xuất bao giờ cùng là sự kết hợp giữa hai yếu tố: tư liệu sảnxuất và sức lao
động. Sự kết hợp của chúng dưới hình thái hiện vật gọi làcấu tạo kỹ thuật.Cấu tạo kỹ
thuật của tư bản là tỷ lệ giữa số lượng tư liệulaođộng và khối lượng tư bản cần thiết để
sử dụng các tư liệu đó. Cấu tạo kỹthuật là cấu tạo hiện vật, nên nó biểu hiện dưới hình
thức: số llượng máymóc, nguyên liệu, năng lượng do công nhân sử dụng trong một
thời giannào đó. Cấu tạo kỹ thuật phản ánh trình độ phát triển của lực lượng
sảnxuất.Cấu tạo giá trị của tư bản là tỷ lệ theo đó tư bản phân thành tưbản bất biến và
tư bản khả biến (hay giá trị của sức lao động) cần thiết đểtiến hành sản xuất.Cấu tạo kỹ
thuật thay đổi sẽ làm cấu tạo giá trị thay đổi.C.Mácđã dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ
của tư bản để phản ánh mối quan hệ đó.Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị tư

bản, do cấu tạo kỹ thuậtquyết định và phản ánh sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư
bản.Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, do tác động thườngxuyên của tiến bộ
6


khoa học, cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng không ngừngbiến đổitheo hướng ngày càng
tăng lên. Sự tăng lên đó biển hiện ở chỗ: bộphận tư bản bất biến tăng nhanh hơn bộ
phận tư bản khả biến, tư bản bấtbiến tăng tương đối và tăng tuyệt đối, còn tư bản khả
biến có thể tăng tuyệtđối nhưng lại giảm xuống tương đối.Sự tăng lên của cấu tạo hữu
cơ của tư bản làm cho khối lượng tưliệu sản xuất tăng lên, trong đó sự tăng lên của
máy móc thiết bị là điềukiện để tăng năng suất lao động, còn nguyên liệu tăng theo
năng suất laođộng. Nó đòi hỏi việc sử dụng lao động mới được đào tạo với giá trị
sứclao động cao nhưng năng suất lao động tăng cao lại làm cho hàng hóa kỹthuật hiện
đại giảm xuống. Xu hướng chung là tỷ trọng người lao động cótrình độ cao, lao động
trí tuệ ngày càng tăng lên, gây nên những hậu quả xãhội tiêu cực đối với toàn bộ đội
ngũ người lao động làm thuê
1.1.2. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư bản
Tích tụ và tập trung tư bản là quy luật phát triển của nền sảnxuất lớn tư bản chủ
nghĩa.Tích tụ tư bản và việc tăng quy mô của tư bản cá biệt bằng cáchtích lũy của từng
nhà tư bản riêng rẽ, nó là kết quả tất nhiên của tích lũy
Tích tụ tư bản một mặt là yêu cầu của việc mở rộng sản xuất, ứng dụng tiếnbộ
kỹ thuật, mặt khác sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng dư trong quátrình phát triển
của sản xuất tư bản chủ nghĩa lại tạo khả năng cho tích tụ tư bản. Tập trung tư bản là
sự hợp nhất một số tư bản nhỏ thành một tư bảnlớn cá biệt.Đây là sự tích tụ những tư
bản đã hình thành, là sự thủ tiêu tínhđộc lập riêng biệt của chúng, là việc nhà tư bản
này tước đoạt nhà tư bảnkhác, là việc biến tư bản nhỏ thành số ít tư bản lớn.Tích tụ và
tập trung tư bản giống nhau ở chỗ đều làm tăng quymô của tư bản cá biệt, nhưng khác
nhau ở chỗ nguồn tích tụ tư bản là giá trịthặng dư tư bản hóa, còn nguồn tập trung tư
bản là hình thành trong xã hội.Do tích tụ tư bản mà tư bản cá biệt tăng lên, làm cho tư
bản xã hội cũngtăng theo. Còn tập trung tư bản chỉ là sự bố trí lại các tư bản đã có quy

môtư bản xã hội vẫn như cũ.Tích tụ tư bản thể hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao
động,còn tập trung tư bản thì biểu hiện mối quan hệ giữa những nhà tư bản vớinhau.
Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển sản xuất tưbản chủ nghĩa. Nhờ
có sự tập trung tư bản mà tổ chức được một cách rộnglớn lao động hợp tác, biến quá
trình sản xuất rời rạc, thủ công thành quátrình sản xuất theo quy mô lớn, hiện đại.Tập
trung tư bản không những dẫn đến sự thay đổi về lượng củatư bản mà còn làm cho tư
7


bản có một chất lượng mới, làm cho cấu tạo hữucơ của tư bản tăng lên, nhờ đó năng
suất lao động tăng lên nhanh chóng.
Chính vì vậy, tập trung tư bản trở thành đòn bẩy mạnh mẽ của tích lũy
tưbản.Quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng, do đó nềnsản xuất tư bản
chủ nghĩa ngày càng được xã hội hóa, làm cho mâu thuẫnkinh tế cơ bản của chủ nghĩa
tư bản càng trở nên sâu sắc.
1.2.3. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình bần cùng hóa giai cấp vô sản
Sự phân tích trên cho thấy, cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càngtăng là một xu
hướng phát triển khách quan của sản xuất tư bản chủ nghĩa.Do vậy, số cân tương đối
về sức lao động cũng có xu hướng ngày cànggiảm. Đó là nguyên nhân gây ra nạn nhân
khẩu thừa tương đối, hay cầu sứclao động giảm một cách tương đối.
Có ba hình thái nhân khẩu thừa: Nhân khẩu thừa lưu động, nhân khẩu thừa tiềm
tàng, nhân khẩu thừa ngừng trệ. Nạn thất nghiệp đã dẫn giai cấp công nhân
đến bần cùnghóa. Bần cùng hóa giai cấp công nhân là hậu quả tất nhiên của quá trình
tíchlũy tư bản. Bần cùng hóa tồn tại dưới hai dạng: bần cùng hóa tuyệt đối và bần cùng
hóa tương đối. Bần cùng hóa tuyệt đối của công nhân biểu hiện mức sống bị giảm sút.
Sự giảm sút này không chỉ xảy ra trong trường hợp tiêu dùng cá nhân tụt xuống tuyệt
đối, mà còn khi tiêu dùng cá nhân tăng lên, nhưng mức tăng đó chậm hơn mức tăng
nhu cầu do chi phí sức lao động nhiều hơn.

8



Chương 2
VẬN DỤNG TÍCH LŨY TƯ BẢN VÀO XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái quát tình hình tích lũy vốn ở Việt Nam
Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế,
nhất là hơn 20 năm đổi mới vừa qua, tốc độ tăng trưởng khá cao, sản xuất phát triển,
có tích luỹ từ nội bộ, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Để giữ được tốc độ tăng
trưởng cao trong những năm tới sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc tích lũy, huy động vốn
cho nền kinh tế.
Trước đây trong nền kinh tế bao cấp, tiêu dùng còn thiếu thốn thì quá trình tích
lũy vốn còn gặp rất nhiều trở ngại. Nhà nước lại can thiệp quá sâu vào nền kinh tế dẫn
đến việc tổ chức doanh nghiệp không thể phát huy hết khả năng của mình, nhiệm vụ
tích tụ và tập trung vốn không đạt được hiệu quả. Từ khi chuyển đổi nền kinh tế, đời
sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, thu nhập quốc dân tăng lên…tuy nhiên nó vẫn
còn quá nhỏ bé so với nền kinh tế thế giới. Một trong những nguyên nhân chính là
thực trạng tích lũy vốn của ta chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quy mô vốn của các
doanh nghiệp thấp.
Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta bắt đầu từ kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất 1960 đến 1964 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đề ra. Quá trình này
có thể được chia thành 2 thời kỳ:
Thời kỳ 1960- 1985:CNH được tiến hành trong điều kiện cơ chế kinh tế tập
trung quan liêu, bao cấp
Thời kỳ 1986 đến nay: CNH gắn liền với quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN. Từ năm 1986 đến nay, cùng với công cuộc đổi mới, mở cửa, các kênh huy
động vốn cho CNH, HĐH cũng bắt đầu phong phú, linh hoạt hơn. Đối với nguồn vốn
nước ngoài, ngoài hình thức cũ là vay nợ và viện trợ, đã có thêm hình thức đầu tư trực
tiếp. Nguồn vốn trong nước cũng được bổ xung một số kênh mới, đặc biệt là từ khi có
pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, tín dụng và công

ty Tài chính . Theo 2 pháp lệnh này, hệ thống ngân hàng một cấp ở nước ta đã chuyển
sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Các Ngân Hàng Thương Mại có thể được thành lập
9


dưới hình thức công ty cổ phần và được phép thực hiện đa dạng hoá các nghiệp vụ.
Đây là tiền đề pháp lý đầu tiên cho phép các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam có
thêm nhiều khả năng thực hiện các nghiệp vụ tài chính, góp phần thúc đẩy nhanh quá
trình tích tụ và tập trung vốn.. Tính chung tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực
hiện cả giai đoạn 1996 - 2000 thì cả nước đạt 394,1 ngàn tỷ đồng, tăng 66,7% so với
giai đoạn 1991 - 1995. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996-2000
chiếm trong GDP bình quân là 28,6% năm. Tích luỹ nội bộ của nền kinh tế từ mức
không đáng kể đã tăng lên 25%GDP. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay : năm
2001- 2006 chiếm 28,2% so với tỷ lệ đóng góp của vốn đầu tư là 52,7% năm 2007 tốc
độ tăng trưởng tín dụng là 53,9%, gấp 3,1 lần tốc độ tăng GDP theo giá thực tế; năm
2008 tăng 39,6%, gấp 3,3 lần, năm 2009 tăng 34,8%, năm 2010 tăng 37 ,5%, năm
2011- 2017 chiếm nguồn vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 15.524 tỷ đồng; trong đó vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài ước thực hiện 1.150 tỷ đồng.
Trong các nguồn vốn cấu thành nên tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã
hội, nguồn vốn Nhà nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Trong khi đó thì nguồn
vốn ngoài Quốc doanh qua các năm 1996-2000 lại có chiều hướng Vốn đầu tư toàn xã
hội ngày càng giảm sút, mặc dù năm 2000 có tăng hơn 1999 nhưng vẫn ở mức thấp so
với năm 1995. Trong tổng số vốn đầu tư ngoài quốc doanh thì vốn trong nước ước tính
đạt 674,8 nghìn tỷ đồng, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước và bằng 32,8% GDP
tính đến năm 2017, dân cư chiếm tỷ trọng lớn, trên 80%, còn vốn của các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm dưới 20%. cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
phân theo ngành kinh tế cũng đã có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề huy động và sử dụng vốn trong nước
hiện nay đang bộc lộ những yếu kém cần khắc phục. Ngân sách nhà nước luôn ở trong
tình trạng căng thẳng, không thể đáp ứng đủ các yêu cầu cho đầu tư phát triển và các

yêu cầu cấp bách về xã hội. Đầu tư của nhà nước bị phân tán do phải đáp ứng quá
nhiều nhiệm vụ. Các nguồn thu từ đất đai, nhà ở, các loại dịch vụ công ích như: viện
phí, phí cung cấp điện, nước,... còn để thất thoát và lãng phí lớn. Đóng góp của nhân
dân để xây dựng mới và cải tạo trường học, trạm xá, giao thông địa phương,...vào sự
nghiệp Văn hoá - Giáo dục - Y tế,... chưa được thể chế hoá, sử dụng và quản lý kém
hiệu quả, bất hợp lý, bị lạm dụng và thất thoát. Số vốn huy động được thông qua hệ
thống tín dụng chủ yếu là ngắn hạn, không đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển và
10


chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Vốn đầu tư trực tiếp của khu vực kinh tế tư nhân trong
nước vẫn ở quy mô nhỏ, tập trung chủ yếu (80%) vào các lĩnh vực: thương mại, dịch
vụ phục vụ tiêu dùng. Một bộ phận không nhỏ vốn trong nước đã huy động vào hệ
thống Ngân Hàng Thương Mại đang bị ứ đọng, không chuyển thành đầu tư được. Theo
ý kiến dự báo khác nhau, khoảng 50 - 70 nghìn tỷ đồng tiền tiết kiệm của nhân dân
đang được cất trữ dưới dạng vàng, bạc, tiền mặt, ngoại tệ, tài sản có giá trị cao... chưa
chuyển thành vốn đầu tư và kinh doanh.
2.2. Vận dụng tích lũy tư bản vào xây dựng nền kinh tế Việt nam hiện nay
2.2.1. Quá trình mở rộng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Trước đổi mới, mô hình kinh tế hiện vật, phủ nhận sản xuất hàng hóa và kinh tế
thị trường với cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp đã làm triệt
tiêu động lực của người lao động, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển, dẫn đến sự
trì trệ về kinh tế và khủng hoảng về mọi mặt đời sống xã hội. Bởi vậy, đổi mới mô
hình là điểm mấu chốt trong đổi mới quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất ở Việt Nam.
Trong thời gian qua, với xu thế toàn cầu hóa, sự chuyển giao và hội nhập quốc
tế về khoa học, công nghệ đã khiến nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ. Những
công cụ lao động giản đơn mang tính chất tiểu thủ công nghiệp đã được thay thế bằng
những dây chuyền máy móc thiết bị tối tân, hiện đại. Sức lao động của con người được
giải phóng, lao động chân tay dần được thay thế bởi lao động trí óc, lao động giản đơn
dần được thay thế bằng sự chuyên môn hóa ngày càng cao. Những sự thay đổi lớn lao

của công cụ sản xuất đã làm cho năng suất lao động tăng vượt bậc, khi lượng sản phẩm
làm ra ngày càng nhiều và có chất lượng cao. Nhờ quá trình tích lũy vốn thay thế các
quá trình sản xuất nhỏ lẻ thành quá trình sản xuất lớn hơn với quy trình công nghệ phù
hợp với nền kinh tế thị trường.
Như ở nước ta nông nhiệp đóng vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế, cho
nên việc mở rộng sản xuất nông nghiệp là cần thiết. Nhờ quá trình tích lũy vốn nên
trong nông nhiệp đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể thông qua việc đầu tư máy móc
thiết bị, nâng cao trình độ cho người nông dân, mở các buổi hội thảo dưới sự hướng
dẫn của người nước ngoài. Nhiều nơi việc làm nông không còn làm bằng thủ công mà
đã chuyển sang dây chuyền với quy mô khép kín và đã đạt được nhiều thành tựu đáng
kể.
11


Từ đó nông nghiệp đã đạt đước những thành tựu kim ngạch xuất khẩu các mặt
hàng nông – lâm – thủy sản sẽ đạt 15 tỷ USD tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 4,0% lên
4,5%/năm, GDP nông nghiệp tăng tõ 3,3% đến 3,5%/năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế
nông thôn đạt 7,8-8%/năm.
2.2.2. Sự hình thành các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam.
Việc xây dựng tập đoàn kinh tế là chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm đưa
nền kinh tế phát triển và hội nhập với kinh tế thế giới. Đảng và nhà nước cũng đã xác
định rõ một số lĩnh vực trọng điểm cần phải hình thành tập đoàn kinh tế.
Trong hầu hết các chính sách phát triển kinh tế của mình, Nhà nước đều thể
hiện quan điểm hình thành các tập đoàn kinh tế mũi nhọn và đủ sức cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Theo đó một số tổng công ty nhà nước trong một số lĩnh vực mũi nhọn
sẽ được chuyển đổi thành các tập đoàn kinh tế. Trên thực tế trong năm 2006 và đầu
năm 2007, tám tập đoàn kinh tế quốc gia trong các lĩnh vực mũi nhọn như Bưu chínhViễn thông, Than-Khoáng sản, Dầu khí, Điện lực, Công nghiệp tàu thuỷ, Dệt may, Cao
su, Tài chính-Bảo hiểm đã được thành lập. Đây là những tổng công ty có quy mô lớn
mạng lưới thành viên có quan hệ mật thiết, liên doanhvà hợp tác với nhiều đối tác.
Tuy nhiên trong quá trình thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước đã xuất hiện sự lúng

túng trong giải quyết các vấn đề cụ thể khi xây dựng đề án. Tuy nhiên trong quá trình
thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước đã xuất hiện sự lúng túng trong giải quyết các
vấn đề cụ thể khi xây dựng đề án. Các vấn đề nảy sinh đó là mối quan hệ và liên kết
giữa các đơn vị trong tập đoàn, cơ chế thực hiện liên kết, cơ cấu tổ chức bộ máy quản
lý (thành phần, quyền, trách nhiệm và mối quan hệ giữa các bộ phân quản lý trong bộ
máy của tập đoàn), thương hiệu của tập đoàn, quy mô, vốn điều lệ và các vấn đề khác
để xác lập tập đoàn. Ngay như địa vị pháp lý của tập đoàn vẫn còn những ý kiến khác
nhau như tập đoàn có hay không có tư cách pháp nhân, đăng ký hay không đăng ký, có
hay không có bộ máyquản lý riêng. Như vậy, trong những năm vừa qua vẫn còn rất
nhiều những quan điểm khác nhau về nguyên tắc hình thành tập đoàn kinh tế trên cơ
sở Tổng công ty nhà nước. Về vốn mà các tập đoàn sử dụng là Tám tập đoàn kinh tế
cùng với 96 tổng công ty, công ty lớn của Nhà nước sở hữu gần 400.000 tỷ đồng,
chiếm hầu hết vốn của Nhà nước có tại các doanh nghiệp nhà nước. Các tập đoàn và
tổng công ty đang nắm giữ 75% tài sản cố định của quốc gia, khoảng 60% tổng tín
dụng ngân hàng trong nước và tổng vốn vay nước ngoài nhưng chỉ tạo ra khoảng 40%
12


tổng sản phẩm trong nước tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các đơn vị này là
17%, 28,8% thu ngân sách. Tính đến cuối năm 2007, tổng số vốn chủ sở hữu của các
tập đoàn và tổng công ty đã tăng 18%, tổng tài sản tăng 26%. Bên canh những tập
đoàn kinh tế lớn nhà nước còn có các tập đoàn kinh tế tư nhân như FPT, Đồng Tâm,
Kinh Đô, Hòa Phát, Hoàng Anh Gia Lai, Vincom, Trung Nguyên,… Các tập đoàn này
đều có vốn góp, cổ phần chi phối lẫn nhau ở các công ty con, công ty liên kết, ngân
hàng, đối tác chiến lược trong và ngoài nước với hàng ngàn cổ đông. Các tập đoàn
kinh tế tư nhân cũng góp phần làm thúc đẫy nền kinh tế phát triển và làm tăng %GDP
quốc doanh của Việt Nam
2.2.3. Sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội
Phân hóa giàu nghèo ở nước ta ngày càng nghiêm trọng và ai cũng nhận ra qua
thực tế cuộc sống hàng ngày. Ở Việt Nam, sự phân hóa giàu nghèo diễn ra ngay từ thời

kỳ quản lý kinh tế - xã hội theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Tuy nhiên, lúc đó
sự chênh lệch giàu nghèo, phân hóa thu nhập và những biểu hiện của phân tầng xã hội
chưa rạch ròi, rõ nét, bị che khuất bởi chủ nghĩa bình quân và chế độ công hữu với cơ
cấu giai cấp “hai giai một tầng”(giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức). Chỉ từ sau khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới toàn diện
(1986), xóa bỏ cơ chế quản lý cũ, thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì sự chênh lệch giàu nghèo, phân tầng
xã hội mới bộc lộ một cách rõ ràng và ngày càng trở nên sâu sắc. Lúc này đã xuất hiện
những công trình nghiên cứu về cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội nhằm cung cấp
những căn cứ lý luận và thực tiễn giúp Đảng và nhà nước kịp thời đưa ra những định
hướng chiến lược và những chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với thời kỳ
chuyển đổi cơ chế và mô hình quản lý phát triển đất nước
Cách đây 20 năm, khi vừa mới thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, Việt
Nam có quá nửa tổng số hộ dân sống dưới mức nghèo khổ, nay thì cả nước chỉ còn
khoảng 10% tổng số hộ nghèo và hầu như không còn hộ đói. Cũng cách đây 20 năm,
có đến 2/3 tổng số hộ ở khu vực nông thôn sống ở mức nghèo khổ và cũng có một tỷ lệ
không nhỏ số hộ còn bị đói, giờ thì tỷ lệ này đã giảm khá nhanh. Tuy đạt được những
kết quả tích cực, nhưng tỷ lệ nghèo và quy mô số người nghèo ở Việt Nam còn lớn.
Việc phân bố số người nghèo không chỉ chênh lệch ở tỷ lệ cao thấp qua các vùng, mà
còn ở quy mô số người tuyệt đối. Theo số liệu thống kê của nhà nước, vùng Đồng
13


bằng sông Hồng có khoảng 1,23 triệu người, vùng trung du và miền núi phía Bắc có
2,76 triệu người, vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung có 3,21 triệu người,
vùng Tây Nguyên có khoảng trên 1 triệu người, Đông Nam bộ có gần 213.000 người
và vùng Đồng bằng sông Cửu Long có trên 1,84 triệu người. với một đất nước liên tục
phải gánh chịu thiên tai như Việt Nam thì ranh giới giữa mức cận nghèo và nghèo là
rất mong manh nên nguy cơ số hộ nghèo tăng lên rất dễ xảy ra. Thực tế trên cho thấy,
bất bình đẳng trong thu nhập ở nước ta ngày càng rõ nét và gay gắt hơn, tỷ lệ hộ nghèo

tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự
nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh
mún, sơ khai. Ngoài ra, còn xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang
trong quá trình đô thị hóa và nhóm lao động nhập cư vào đô thị, họ thường gặp khó
khăn nhiều hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là
những yếu tố làm gia tăng tình trạng tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc
độ giảm nghèo giữa các vùng trong cả nước.
Hiện nay, hệ số chênh lệch giàu nghèo của Việt Nam cao hơn nhiều nước đã trải
qua thời kỳ dài phát triển kinh tế thị trường. Nhìn chung, cơ chế thị trường của chúng
ta còn mới mẻ, thậm chí có người cho là nền kinh tế thị trường hoang dã, đã tạo ra
những kẽ hở để cho một bộ phận lách cơ chế hoặc lợi dụng cơ chế để trục lợi, tham
nhũng. Số người làm giàu dạng này thường không đóng góp bao nhiêu để chia sớt
gánh nặng của nhà nước mà còn làm cho tiềm lực kinh tế ngày càng suy giảm. Vì thế,
nếu không nhanh chóng hoàn thiện thể chế, nhất là thể chế dân chủ, nhà nước pháp
quyền, đồng thời xử lý vấn đề lợi ích nhóm, sở hữu chéo, lạm dụng độc quyền… thì
chênh lệch giàu – nghèo hiện đang quá lớn lại sẽ càng tăng nhanh.
2.3. Những giải pháp tăng cường tích lũy vốn
2.3.1. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích lũy tiêu dùng.
Vì mục tiêu của xã hội là không ngừng tái sản xuất mở rộng, tăng thêm sản
phẩm xã hội, nâng cao mức sống của người dân mà chúng ta phải xác định cho được
quan hệ giữa quỹ tích lũy và tiêu dùng. Tương quan giữa tích lũy và tiêu dùng được
coi là tối ưu khi sử dụng được các tài sản hiện có, thực hiện được mức tích lũy có thể
đảm bảo phát triển sản xuất với tốc độ cao ổn định mà cuối cùng vẫn đảm bảo tăng
tiêu dùng.Việc phân chia này tùy thuộc vào nhu cầu nền kinh tế ở từng thời kỳ nhất
14


định.Đồng thời phải khuyến khích mọi người không ngừng tiết kiêm, tích lũy. Tương
quan giữa tích luỹ và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử dụng đươc các tài sản hiện có,
thực hiện được mức tích luỹ có thể đảm bảo phát triển sản xuất với tốc độ cao và ổn

định mà cuối cùng vẫn đảm bảo tăng tiêu dùng và tích luỹ không đến mức cao nhất.
Vởi tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng sắp xếp như thế nào là thích đáng? Tỷ lệ này có
phải cố định không và dựa trên nguyên tắc nào để sắp xếp tỷ lệ đó? Đây là vấn đề
trung tâm của việc phân phối xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện cụ thể mối quan hệ giữa
xây dựng kinh tế và cải thiện đời sống giữa lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, giữa lợi
ích của nhân dân và lợi ích của toàn xã hội... Việc phân chia tỷ lệ này không cố định
mà thay đổi tuỳ thuộc vào nhu cầu của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Đồng
thời chúng ta phải không ngừng khuyến khích tất cả mọi người dân đều ra sức tiết
kiêm, tích luỹ. Như vậy có thể nói tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng không chỉ đơn thuần
là tỷ lệ về kinh tế mà là thể hiện đường lối chính sách của Đảng trong từng thời kỳ
nhất định.
2.3.2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn
Để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, trước hết chúng ta phải xác định rõ từng
đốitượng được cấp vốn, từđó phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý cho các ngành
nhằm tạo ra hiệu quả sử dụng vốn cao hơn. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, chính
phủ không nên cấp vốn toàn bộ mà nên tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp, nhờ vậy
doanh nghiệp sẽ có trách nhiệm hơn với đồng vốn của mình, đồng thời chính nhờ có
cổ phần hoá mà tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp phát huy mọi năng lực cũng
như khả năng quản lý của họ từđó sẽ nâng cao rất nhiều hiệu quả sử dụng vốn. Việc
đồng vốn cóđược sử dụng hiệu quả hay không một phần lớn phụ thuộc vào yếu tố con
người. Vì thế cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ năng lực và trách
nhiệm cao. Đồng thời nhà nước cũng cần phải xem xét lại mô hình tổ chức quản lý,
chúýđến đội ngũ cán bộ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ có thể phát huy mọi năng
lực của mình. Đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt nguồn vốn FDI trong khu
vực cũng như trên thếgiới thì việc thiết lập một cơ chế tổ chức gọn nhẹ không chồng
chéo có hiệu quả cũng tạo ra khả năng cạnh tranh lớn.

15



2.3.3. Tăng cường tích luỹ vốn trong nước và có biện pháp thu hút vốn đầu tư
nước ngoài
Tích luỹ vốn trong nước có nhiều giải pháp nhưng giải pháp hàng đầu là nguồn
vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn này sẽ đóng vai trò quan trọng để giải quyết
các nhu cầu chi của nhà nước về chi thường xuyên, chi cho đầu tư phát triển và cho
phát triển công nghiệp. Vì vậy nâng cao hiệu quả tích luỹ, tích tụ và tập trung vốn qua
ngân sách nhà nước là hết sức cấp bách và cóý nghĩa thực tiễn lớn lao.
Một biện pháp để tăng cường lượng vốn là thông qua các tổ chức tín dụng và
ngân hàng. Đây là hai hình thức tích luỹ vốn có hiệu quả tương đối cao do có thể thu
hút được vốn còn nhàn dỗi trong nhân dân. Để thực hiện được ngày càng tốt các
nghiệp vụ của mình, một mặt ngân hàng cần phải tựđổi mới phương thức phục vụ
khách hàng mở rộng các hình thức tiết kiệm qua bưu điện cải tiến các thủ tục đảm bảo
an toàn bí mật vàổn định cho tiền gửi của khách hàng, đồng thời chính phủ cũng cần
có biện pháp nâng cao lãi suất nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn nhàn dỗi trong dân.
Đặc biệt là hệ thống ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với các quỹ tín dụng nhân dân
để tích tụ và tập trung vốn được thuận tiện.Mặt khác, việc tích tụvà tập trung các
nguồn vốn trong nước từ các nguồn tài nguyên quốc gia và từ những tài sản công còn
bỏ phí vừa là mục tiêu vừa là biện pháp cơ bản trước mắt và lâu dài để chúng ta tăng
thêm nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển. Cần nghiên cứu lại các quy định
vềđất và quyền sử dụng đất kết hợp hài hoà với các tổ chức thị trường liên quan.Trong
thời gian tới phải tìm cách để khai thác cao nhất hiệu quả nhất nguồn vốn từ tài sản
công. Đó là cơ sở vật chất trực tiếp sẵn có mà chúng ta có thể huy động bằng cả hiện
vật hoặc huy động bằng tiền trở thành nguồn thu trực tiếp của ngân sách Nhà nước là
cơ sở ban đầu cần thiết để gọi vốn đầu tư nước ngoài. Và một biện pháp mới được áp
dụng ở nước ta hiện nay là thu hút vốn thông qua thị trường chứng khoán. Đây là hình
thức tích tụ và tập trung vốn rất có hiệu quảđang được các nước phát triển áp
dụng.Chính thị trường chứng khoán là một hình thức của thị trường vốn, và nếu thị
trường chứng khoán hoạt động tốt thì nó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ
của nền kinh tế. Ngoài nguồn vốn tích luỹ trong nước thì trong hoàn cảnh hiện nay khi
nền kinh tế mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì một nguồn vốn có vai trò đặc

biệt quan trọng khác là nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và
vốn đầu tư gián tiếp trong đó vốn đầu tư trực tiếp có ý nghĩa vô cùng lớn đối với sự
16


phát triển của nền kinh tế trong nước. Vì thế mà chúng ta cần phải có chính sách thu
hút vốn đầu tư trực tiếp, đặc biệt là vốn của các nước phát triển.

17




×