Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (909.87 KB, 104 trang )

- -

MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
TÓM TẮT LUẬN VĂN

PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................1
Thủ tục đầu tư ra nước ngoài được hướng dẫn cụ thể, rõ ràng tại Quyết định số
1175/2007/QĐ-BKH ngày 10/10/2007 của Bộ Kế hoạch đầu tư. Tuy nhiên, nội dung hoạt
động đầu tư ra nước ngoài theo Luật Đầu tư cũng như theo Nghị định số 78/2006/NĐ-CP
vẫn chỉ là các hoạt động đầu tư trực tiếp; các hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài tuy
không cấm nhưng không thuộc phạm vị điều chỉnh của Nghị định số 78/2006/NĐ-CP.....47
Như vậy, khuôn khổ pháp lý của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã dần dần được
hoàn thiện hơn tạo điều kiện tăng cường hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam...................................................................................................................47


- -

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN
AFTA
BOT
BT
BTO
BIT
CNTT
DCDN
DTT
KHCN


KHKT
LHQ
MAI
TCT
TNHH
USD
UNCTAD
R&D
ODA
XHCN
WTO

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao – kinh doanh
Hiệp định đầu tư song phương
Công nghệ thông tin
Dân chủ nhân dân
Hiệp định tránh đánh thuế hai lần
Khoa học công nghệ
Khoa học kỹ thuật
Liên hiệp Quốc
Hiệp định đầu tư đa bên
Tổng công ty
Trách nhiệm hữu hạn
Đồng tiền Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Hội nghị của LHQ về Thương mại và Phát triển
Hoạt động nghiên cứu - triển khai

Hỗ trợ phát triển chính thức
Xã hội chủ nghĩa
Tổ chức Thương mại Thế giới


- -

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Thủ tục đầu tư ra nước ngoài được hướng dẫn cụ thể, rõ ràng tại Quyết định số
1175/2007/QĐ-BKH ngày 10/10/2007 của Bộ Kế hoạch đầu tư. Tuy nhiên, nội dung hoạt
động đầu tư ra nước ngoài theo Luật Đầu tư cũng như theo Nghị định số 78/2006/NĐ-CP
vẫn chỉ là các hoạt động đầu tư trực tiếp; các hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài tuy
không cấm nhưng không thuộc phạm vị điều chỉnh của Nghị định số 78/2006/NĐ-CP.....47
Như vậy, khuôn khổ pháp lý của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã dần dần được
hoàn thiện hơn tạo điều kiện tăng cường hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam...................................................................................................................47
Thủ tục đầu tư ra nước ngoài được hướng dẫn cụ thể, rõ ràng tại Quyết định số
1175/2007/QĐ-BKH ngày 10/10/2007 của Bộ Kế hoạch đầu tư. Tuy nhiên, nội dung hoạt
động đầu tư ra nước ngoài theo Luật Đầu tư cũng như theo Nghị định số 78/2006/NĐ-CP
vẫn chỉ là các hoạt động đầu tư trực tiếp; các hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài tuy
không cấm nhưng không thuộc phạm vị điều chỉnh của Nghị định số 78/2006/NĐ-CP.....47
Như vậy, khuôn khổ pháp lý của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã dần dần được
hoàn thiện hơn tạo điều kiện tăng cường hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam...................................................................................................................47


- 1-

PHẦN MỞ ĐẦU

1 – Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập tạo điều kiện cho nền kinh tế của mỗi nước những cơ hội phát
triển, song cũng đặt ra không ít thách thức nhất là đối với những nền kinh tế
đang phát triển. Muốn phát triển nhanh, mỗi nước phải lợi dụng ưu thế về
vốn, công nghệ, tài nguyên, thị trường, lao động... của nhiều nước khác nhau
nhất là hiện nay làn sống hội nhập kinh tế quốc tế ngày các sâu rộng đòi hỏi
cải cách mở cửa kinh tế và mở rộng hợp tác quốc tế với các nước trến thề giới
đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Trong những năm qua, cùng với việc thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài , các hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp
Việt Nam cũng đã từng bước diễn ra với quy mô ngày càng lớn hơn, phản ánh
nhu cầu tất yếu của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã mở ra cơ hội mới cho phép các doanh
nghiệp Việt Nam tiếp cận sâu, rộng hơn với thị trường quốc tế, từ đó đa dạng
hoá và không ngừng bổ sung, mở rộng các đối tác, thị trường nguyên liệu,
nguồn cung cấp máy móc, công nghệ, nguyên vật liệu và khách hàng, tăng
cường lưu chuyển hai chiều giữa các nguồn lực trong nước và quốc tế, tiếp
thêm những xung lực mới để liên thông và hội nhập trong xu hướng toàn cầu
hoá hiện nay. Hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài còn
giúp quảng bá hình ảnh đất nước, con người và củng cố vị thế của Việt Nam,
mở ra các cơ hội đầu tư, công ăn việc làm, du học và đào tạo mới cho người
Việt Nam.
Trong hội nhập quốc tế, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có vai trò rất lớn
góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế - xã hội theo chiều hướng tiến bộ, giảm nhẹ gánh nặng thất nghiệp,


- 2-

thúc đẩy xuất khẩu, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Quá trình

đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam đang ở trong giai đoạn sơ khai, để
đạt được mục tiêu đề ra đòi hỏi phải nghiên cứu xây dựng chính sách cho phù
hợp với bối cảnh phát triển kinh tế then chốt của đất nước cũng như bối cảnh
chung của khu vực và thế giới.
Hiện nay, Việt Nam đang có chủ trương đầu tư vào các nước có nguồn
tài nguyên dồi dào như Lào và Campuchia,…tương đối lớn và xu hướng gia
tăng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trên nhiều lĩnh vực. Với đề tài “Đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam”, tác giả mong
muốn phác họa được bức tranh tổng thể về công tác đầu tư ra nước ngoài của
các doanh nghiệp Việt Nam tại các nước tiếp nhận đầu tư vừa có ý nghĩa về
mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn góp phần đưa các doanh nghiệp
Việt Nam hội nhập quốc tế thành công.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài “Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam”
nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh
nghiệp của Việt Nam. Trên cơ sở đó để có kiến nghị một số định hướng và giải
pháp nhằm hoàn thiện đối với việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh
nghiệp của Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu:
Các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài để làm đối
tượng nghiên cứu, đề tài không nghiên cứu chi tiết về các yếu tố pháp luật, kinh
tế, chính trị, văn hóa - xã hội, các yếu tố về thị trường và các lợi thế của quốc gia
cần đầu tư vv...mà nghiên cứu các vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài.


- 3-

Phạm vi nghiên cứu:

Nội dung của việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là rất rộng, bao gồm
nhiều vấn đề liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học
khác. Trong phạm vi có giới hạn, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vào những
yếu tố trọng yếu về việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt
Nam.
Luận văn chỉ đánh giá thực trạng đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư
Việt Nam sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ-CP và Luật đầu tư
số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005 và Nghị định của Chính phủ số 78/2006/NĐ-CP
ngày 09 tháng 08 năm 2006 quy định đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Ngoài các phương pháp nghiên cứu cơ bản được sử dụng trong việc
nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực khoa học xã hội, khoa học kinh tế như
chủ nghĩa duy vật biến chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Triết học Mác Lênin, trừu tượng hóa khoa học, luận văn còn sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu khác như phân tích thống kê, ý kiến chuyên gia, diễn giải quy
nạp và kiểm chứng, khảo sát và nghiên cứu thực tiễn để làm sáng tỏ những vấn
đề nghiên cứu.
5. Những đóng góp của luận văn
Thứ nhất: Hệ thống hóa lý luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, phân
tích việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam tới sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Thứ hai: Đưa ra những đánh giá về thực trạng và triển vọng đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam góp phần vào quá trình phát
triển cải cách kinh tế đổi mới tư duy kinh tế.


- 4-

Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cách thức đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam nhằm khái thác lợi thế sẵn có
của nước tiếp nhận đầu tư.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo và kết luận, kết
cấu chính luận văn gồm ba chương sau:
chương 1: Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam
chương 2: Thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam
Chương 3: Quan điểm, định hướng và một số giải pháp thúc đẩy đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam


- 5-

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1.1 Lý luận chung về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.1.1. Tính tất yếu của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Đầu tư ra nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nói riêng
là một xu thế tất yếu, khách quan trong tình hình hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng hiện nay. Điều này không những đúng với riêng một quốc gia mà
còn đúng với nền kinh tế toàn cầu. Thế giới đã, đang và sẽ phát triển theo xu thế
mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, điều này đã biến nền kinh tế thế giới nói chung
trở thành một mạng lưới rộng lớn trong đó mỗi quốc gia đóng vai trò là một mắt
lưới không thể thiếu trong mạng lưới đó. Chính vì lẽ đó mà các quốc gia đang
phát triển tất yếu phải thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài bởi các lý do sau:
Thứ nhất, sự phát triển kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới là không
đồng đều, bên cạnh đó mỗi nước lại có một thế mạnh riêng mang tính đặc trưng
của mỗi quốc gia kể cả các quốc gia đang phát triển và các quốc gia phát triển.
Trong đó thế mạnh của các quốc gia phát triển đã và đang được khai thác. Bên

cạnh đó, gần đây các quốc gia đang phát triển đã có những điều kiện cần thiết để
học hỏi các quốc gia phát triển trong lĩnh vực đầu tư, từ đó thực hiện đầu tư sang
các nước kém phát triển hơn; đồng thời cũng có đủ điều kiện để khai thác thế
mạnh của mình ở các quốc gia khác, thậm chí là cả ở quốc gia phát triển hàng
đầu thế giới - trên nền tảng những thế mạnh sẵn có của mình. Có thể nói, thế
mạnh cơ bản mà các quốc gia phát triển chiếm lĩnh và phát huy ở các quốc gia
đang phát triển là vốn đầu tư lớn cũng như trình độ KHCN hiện đại, phát triển ở
mức cao. Còn điểm mạnh mà các quốc gia đang phát triển có thể phát huy ở các
quốc gia phát triển là môi trường kinh doanh của các nước này rộng lớn, khiến


- 6-

cho nhiều lĩnh vực đầu tư còn bị bỏ ngỏ hoặc chi phí để thực hiện một số lĩnh
vực đầu tư đối với họ còn tương đối cao so với các quốc gia đang phát triển khi
các quốc gia này trực tiếp thực hiện chúng. Điều này thể hiện rõ nét trong nền
kinh tế Mỹ: Mỹ là quốc gia đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất thế giới, đồng thời
cũng là quốc gia nhận đầu tư nước ngoài nhiều nhất. Mặt khác, điều này minh
chứng cho sự mạnh dần lên của xu hướng đầu tư lẫn nhau giữa các quốc gia trên
thế giới và nó là một xu hướng mang tính tất yếu khách quan. Việt Nam đã và
đang phát triển theo xu hướng đó. Hơn nữa, khi nhiều người cùng ăn một chiếc
bánh, một điều tất yếu xảy ra là ai ăn trước sẽ được ăn chỗ ngon hơn và nhiều
hơn. Điều này cũng đúng trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
nước đang phát triển. Với chiếc bánh to là tổng lợi ích từ hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài của các nước đang phát triển, nước nào tiến hành đầu tư ra nước
ngoài càng sớm thì sẽ thu được càng nhiều lợi ích. Vì vậy, ngay từ bây giờ Việt
Nam cần nhận thức tầm quan trọng cũng như đặc điểm của hoạt động đầu tư ra
nước ngoài này để nắm bắt lấy cơ hội. Điểm mạnh của Việt Nam là những đặc
điểm riêng có của đất nước mà nước nhận đầu tư không có hoặc không bằng,
Việt Nam cần biết tạo ra những thế mạnh cho mình từ chính các đặc trưng ấy.

Thứ hai, các quốc gia đang phát triển trước đây hầu hết còn trong tình
trạng nghèo nàn, lạc hậu, hiện nay đã dần dần vươn lên về mọi mặt để có thể
thực hiện việc đầu tư, phát triển các thế mạnh của mình cả ở trong và ngoài
nước. Có thể nói, chính sự nghèo nàn lạc hậu đã là yếu tố quyết định không cho
phép các nước đang phát triển đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Nghèo nàn dẫn tới
thu nhập thấp, tích luỹ của nền kinh tế thấp, dẫn tới thiếu vốn, thậm chí không có
vốn để đầu tư trong nước (vốn là yếu tố quan trọng, trong nhiều trường hợp là
yếu tố quyết định của đầu tư). Đó là một khó khăn khó vượt qua của các nước
đang phát triển. Mặt khác, do lạc hậu, thiếu trình độ chuyên môn (đặc biệt trong
lĩnh vực đầu tư) lại càng kiềm chế, gây khó khăn hơn tạo ra những cản trở không
thể vượt qua ở thời điểm đó để các nhà đầu tư tiến hành đầu tư ra nước ngoài.


- 7-

Ngày nay, ở hầu hết các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam
với sự nỗ lực của Chính phủ và nhân dân, nền kinh tế đã có những chuyển biến
đáng kể. Không những thế, trình độ chuyên môn cũng được quan tâm phát triển
một cách mạnh mẽ và toàn diện. Nhiều nước đã dần thoát ra khỏi tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu. Hơn thế nữa, trong xã hội của các quốc gia này lại xuất hiện
nhiều tư tưởng tiến bộ và những sáng tạo mang tính chiến lược tạo ra sự bứt phá
cho nền kinh tế của các quốc gia đang phát triển.
Có thể liên hệ đến nền kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây đã có sự
phát triển cao hơn nhiều so với vài chục năm trước. Sau gần 20 năm đổi mới,
nền kinh tế Việt Nam hiện nay phát triển đa ngành, đa hình thức kể cả trong lĩnh
vực KHKT đã tạo ra một số nhà doanh nghiệp Việt Nam, kể cả trong khu vực
nhà nước trong khu vực dân doanh, có tầm nhìn chiến lược, có trình độ học vấn
quản lý kinh tế, sản xuất, kinh doanh giỏi đủ năng lực tài chính cũng như đủ khả
năng để vươn ra thị trường quốc tế.
Đây chính là những yếu tố cần thiết cho các quan hệ hợp tác mang tính

chiến lược cho các doanh nghiệp Việt Nam và nước nhận đầu tư, cùng nhau khai
thác tiềm năng của các nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế quốc
dân và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Như vậy xu hướng mới này đã, đang xuất hiện ở Việt Nam và sẽ còn phát triển
mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới.
Thứ ba, bối cảnh nền kinh tế thế giới hiện nay là các quốc gia vừa hợp tác
vừa cạnh tranh. Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thể hiện rất rõ thực
trạng này. Các nước đang phát triển đã và đang nhận thức được tầm quan trọng
của xu hướng hợp tác và cạnh tranh trong nền kinh tế thế giới và đang rất nỗ lực
trong việc khai thác, tận dụng xu hướng này nhằm mục tiêu phát triển ổn định và
tăng trưởng nền kinh tế đất nước. Hợp tác, cạnh tranh thoạt nghe thì rất mâu
thuẫn nhưng khi nghiên cứu kỹ thì đó là điều hoàn toàn hợp lý và phù hợp với


- 8-

tiến trình phát triển kinh tế quốc tế hiện nay. Điều đó hoàn toàn phù hợp với quy
luật chung: mọi sự vật hiện tượng đều là thể thống nhất của các mặt đối lập.
Trong nền kinh tế thế giới hiện nay với những lợi thế so sánh ở từng quốc gia,
xuất hiện hiện tượng chuyên môn hoá nhằm thực hiện công việc một cách có
hiệu quả nhất. Nhưng một quốc gia thì không thể chỉ phát triển một số lĩnh vực
mà họ chuyên môn hoá, mà nền kinh tế đòi hỏi phải có sự phát triển đa dạng,
phong phú. Từ đó xuất hiện sự hợp tác kinh tế giữa các nước vừa nhằm mục đích
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đang ngày một khan hiếm, vừa đồng thời
phát triển đất nước một cách toàn diện. Bên cạnh đó thì quốc gia nào cũng mong
muốn được phát triển vượt trội, thu hẹp khoảng cách với các quốc gia tiên tiến
khác…. Từ đó xuất hiện cạnh tranh giữa các quốc gia là một điều tất yếu. Sự
cạnh tranh này không thể thiếu trong cuộc sống mỗi quốc gia để tồn tại và phát
triển và đó là mong muốn chính đáng. Mong muốn này không những góp phần
đắc lực giúp cho một quốc gia phát triển, mà vô hình chung giúp cho nền kinh tế

thế giới có những bước tiến dài. Các nước đang phát triển ngày nay là một chuỗi
mắt xích trong mạng lưới của nền kinh tế thế giới thống nhất và đây cũng là xu
thế chính ảnh hưởng đến các nước đang phát triển. Mỗi nước cần hợp tác một
cách toàn diện và có hiệu quả với các quốc gia khác. Mặt khác, mỗi quốc gia
phải tích cực nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để tạo ra những bước tiến
vượt bậc, nhằm đuổi kịp và vượt lên ngang bằng với các quốc gia khác cả về
kinh tế, chính trị, xã hội và KHCN. Vì vậy hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là hoạt động tất yếu khách quan và cần thiết để các nước đang phát triển có
thể hội nhập vào nền kinh tế thế giới; đồng thời vận dụng một cách khôn ngoan
trong xu thế phát triển này nhằm nắm lấy cơ hội để phát triển vược bậc nền kinh
tế đất nước nhằm tránh khỏi tụt hậu và nghèo nàn, lạc hậu.
Tất cả những hoạt động đầu tư, cạnh tranh, hợp tác giữa các nước sẽ chỉ
còn tồn tại biên giới “mềm”, thậm chí không còn tồn tại biên giới trong lĩnh vực
kinh tế giữa các quốc gia. Lúc đó nền kinh tế của mỗi quốc gia trong nền kinh tế


- 9-

thế giới sẽ như là một tổ hợp doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh chung.
Đó sẽ là đỉnh cao của trào lưu hội nhập và sự phát triển nền kinh tế thế giới.
1.1.2. Một số khái niệm về Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về tư bản và xuất khẩu tư bản cho
rằng: Sở dĩ có xuất khẩu tư bản vì một số nước có hiện tượng thừa tư bản, nhưng
lại thiếu địa bàn đầu tư có lợi, điều này xẩy ra trong thực tiễn khi tư bản tài chính
trong quá trình phát triển đã xuất hiện “tư bản thừa”. Hiện tượng “thừa” tư bản ở
đây cần được hiểu, các nhà tư bản sẽ nhận được tỷ suất lợi nhuận thấp nếu đầu tư
trong nước, còn nếu đầu tư ra nước ngoài thì tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Trong
khi đó, ở các nước thuộc địa nền kinh tế còn lạc hậu lại cần tư bản để đầu tư phát
triển nền kinh tế, đổi mới kỹ thuật và công nghệ, nhưng lại thiếu vốn. Lý do này
dẫn đến sự gặp nhau giữa các nước xuất khẩu tư bản và nước tiếp nhận tư bản.

Từ đó hình thành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Theo quan điểm của J.M.Keynes: Đầu tư là nhân tố quan trọng trong việc
giải quyết việc làm, vì vậy nhà nước phải sử dụng các công cụ tài chính để điều
tiết nền kinh tế, đặc biệt phải có các chương trình đầu tư quy mô lớn để sử dụng
lao động thất nghiệp và tư bản nhàn rỗi. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự ra
đời của việc thu hút đầu tư để phát triển nền kinh tế.
Cả P.A.Sammuelson và R.Nurkse đều cho rằng các nước đang phát triển
phải có “cú huých từ bên ngoài” để phá vỡ “cái vòng luẩn quẩn” của sự nghèo
đói, lạc hậu. “Cú huých bên ngoài” theo hai ông chính là việc thu hút đầu tư
nước ngoài nhằm nâng tổng vốn đầu tư xã hội, cũng qua đó để tiếp thu công
nghệ, giải quyết việc làm, tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.
Quan điểm của các nhà kinh tế vĩ mô - vi mô về đầu tư quốc tế.
- Trong các tài liệu về đầu tư nước ngoài, các lý thuyết kinh tế vĩ mô về
lưu chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế thường chiếm vị trí quan trọng và được coi
là lý thuyết cơ bản của đầu tư quốc tế. Các lý thuyết này, giải thích hiện tượng


- 10
-

đầu tư quốc tế dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của các yếu tố đầu tư (vốn, lao
động, thị trường) giữa các nước, trong đó đặc biệt là giữa các nước phát triển và
đang phát triển.
- Quan điểm của một số nước về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Theo nghĩa khái quát, hoạt động đầu tư là một quá trình sử dụng vốn
nhằm duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực lớn cho sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và sinh hoạt đời sống. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một hình thức
đầu tư quốc tế được đặc trưng bởi quá trình di chuyển tư bản giữa các quốc gia
trên thế giới. Mặc dù có nhiều sự khác biệt về khái niệm nhưng nhìn chung ở tất
cả các nước, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được hiểu như là một hoạt động kinh

doanh mà ở đó có sự tách biệt ở tầm vĩ mô về mặt chủ thể nhưng lại có sự kết
hợp ở tầm vi mô trong việc sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư. Điều đó có
nghĩa là nếu xét về mặt chủ thể thì đầu tư trực tiếp ra nước ngoài bao giờ cũng là
một quan hệ kinh tế có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài không chỉ phản
ánh sự khác biệt về quốc tịch hoặc về lãnh thổ sinh sống của các bên tham gia
vào quá trình đầu tư mà còn xác định tư bản được di chuyển trong đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài bắt buộc phải vượt ra ngoài tầm kiểm soát của một quốc gia.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đây thì đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cũng
không khác mấy so với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hay các nghiệp vụ
thương mại quốc tế thông thường. Trong Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, có sự
khác biệt to lớn và nổi bật đó là sự kết hợp của chủ thể trong đối tượng đầu tư.
Như vậy, mặc dù chủ thể tham gia vào Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được
chia thành hai loại: bên đầu tư và bên nhận đầu tư, nhưng cả hai loại này cùng
thống nhất với nhau trong quá trình sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư.
Ngoài ra, với những tính chất đặc trưng, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã chứng
minh đây không phải là một quan hệ buôn bán đơn thuần. Nếu như thương mại
quốc tế chỉ là sự di chuyển kết quả của quá trình sản xuất trên quy mô quốc tế
nhằm mục đích thực hiện lợi nhuận tức là đổi một giá trị sử dụng này lấy một giá


- 11
-

trị sử dụng khác thì Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là sự di chuyển chính điều
kiện sản xuất giữa các quốc gia nhằm thu lợi nhuận, như vậy, hàng hoá đầu tư
chỉ bao gồm c + v là tư bản bất biến và tư bản khả biến, sẽ kết hợp với sức lao
động của nước sở tại trong quá trình sản xuất để tạo ra giá trị thặng dư. Điều đó
có nghĩa là lợi nhuận sẽ nhiều hơn là trao đổi hàng hoá. Nếu như hàng hoá trong
thương mại quốc tế được hực hiện trọng lĩnh vực lưu thông trao đổi nhằm phân
phối lại lợi nhuận thì hàng hoá trong đầu tư lại được thực hiện trong lĩnh vực sản

xuất kinh doanh để sinh ra lợi nhuận.
Hiện nay trên thế giới không có quan niệm thống nhất về Đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài. Trên thực tế, tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về Đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài.
- Nga: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là việc hùn vốn, góp vốn vào doanh
nghiệp ở nước ngoài.
- Đức: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là các phương tiện cần thiết để đổi
mới hoặc mở rộng vốn cơ bản trong một số lĩnh vực nhất định nào đấy.
- Séc: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là tất cả các loại giá trị vật chất mà
nhà đầu tư từ nước này sang nước khác để đổi mới kinh tế
- Anh: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là việc dùng tiền bạc để đầu tư vào cơ
sở nào đó ở nước ngoài để nhận lợi nhuận.
Theo quan điểm của các nước đang phát triển Đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là một khái niệm chỉ hai hiện tượng của nền kinh tế thị trường:
Hiện tượng 1: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là sự vận động tư bản từ nước
này sang nước khác nhằm mục đích lợi nhuận hoặc mục đích kinh tế - xã hội khác.
Hiện tượng 2: nói đến Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là nói đến bản thân tư
bản của nước này nằm ở nước khác nhằm mục đích thu được lợi nhuận.


- 12
-

Theo Quan điểm pháp lý (Nghị định số 78/2006/NĐ-CP ngày 09/9/2006
của Chính phủ quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài):
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước
ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu
tư đó ở nước ngoài. Ở đó, Nhà nước quy định những hình thức pháp lý thoả mãn
hai dấu hiệu cơ bản nhất của Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là:
+ Có sự di chuyển tư bản trên phạm vi quốc tế;

+ Chủ đầu tư trực tiếp tham gia vào việc sử dụng vốn và quản lý đối tượng
đầu tư.
Từ những lý luận và khái niệm trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam như sau: Doanh nghiệp
Việt Nam đưa vốn bằng tiền, tài sản khác ra nước ngoài để đầu tư và trực tiếp và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp đó ở nước ngoài.
1.2 Sự cần thiết, hình thức, điều kiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của các doanh nghiệp Việt Nam
1.2.1 Sự cần thiết phải đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam
Đầu tư nước ngoài, mà trước hết là đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là nhu cầu
phát triển của mọi nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng. Điều
đó đã được minh chứng rõ nét từ hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
các quốc gia phát triển và nó cũng không kém phần quan trọng ở các quốc gia
đang phát triển, chỉ có điều là chúng xảy ra ở các thời điểm khác nhau do quá
trình tích luỹ về lượng và chất rất khác nhau giữa các quốc gia này.
Thứ nhất, đầu tư ra nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài nói riêng giúp cho doanh nghiệp của các nước đang phát triển làm quen
và thích nghi dần với thị trường khu vực và thị trường thế giới.


- 13
-

Đặc biệt, với các doanh nghiệp Việt Nam trước hết là thực hiện cam kết tự
do hoá thương mại với ASEAN và sau đó là thực hiện cam kết tự do hoá thương
mại với WTO. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mà các doanh nghiệp Việt Nam đã
và đang thực hiện không những góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài của Việt Nam một cách tốt nhất, mà còn giúp cho doanh nghiệp thấy
rằng thị trường thế giới không quá khó để xâm nhập và tìm kiếm nguồn lợi

nhuận. Điều này là vô cùng quan trọng, góp phần tạo ra sự tự tin cho các doanh
nghiệp trong nước không những trong hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
mà còn sẵn sàng đón nhận việc thực hiện cam kết tự do hoá thương mại và đầu
tư với các quốc gia ASEAN. Tự tin vào chính mình là nguyên nhân quan trọng
giúp các doanh nghiệp thành công. Bên cạnh đó, nó cũng giúp cho các doanh
nghiệp đã và đang thực hiện đầu tư thích nghi với thị trường thế giới và việc tự
do hoá thương mại khi Việt Nam thực hiện các cam kết với Tổ chức thương mại
thế giới. Đồng thời, trong quá trình đầu tư các doanh nghiệp cũng thu được nhiều
kinh nghiệm và bài học hơn trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cũng
như việc hoạt động trong nền kinh tế thế giới, từ đó có thể tạo ra động lực và
niềm tin cho các doanh nghiệp trong nước cùng nhau đoàn kết để mang lại chiến
thắng cho cuộc cạnh tranh ngay trên sân nhà. Đây là lĩnh vực chứa đựng nhiều
khó khăn thử thách, song cũng là một cơ hội rất lớn nếu các doanh nghiệp biết
nắm bắt để tạo ra khả năng mới cho nền kinh tế. Trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài không còn thời gian để các doanh nghiệp chần chừ, ngay từ bây
giờ các doanh nghiệp Việt Nam phải vào cuộc một cách khẩn trường thì mới kịp
với trào lưu chung của thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam có đủ khả năng và
điều kiện để tiến hành công việc đó. Như một nhà kinh doanh nổi tiếng của nước
Hàn Quốc - Kim Woon Choong - Chủ tịch hội đồng quản trị của Tập đoàn
DAEWOO, tác giả cuốn sách “ Thế giới quả là rộng lớn và có rất nhiều việc phải
làm” đã viết: “ …. thời điểm để làm được điều gì đó không phải là khi mọi người
khác cũng đang làm mà là khi mọi người khác không làm, khi mọi người khác


- 14
-

đã ngừng làm hoặc đã đầu hàng và đó là khi thành công đến với người nỗ lực,
chăm chỉ thấy được cơ hội ẩn dấu trong khó khăn. Khủng hoảng = Nguy hiểm +
Vận may. Việt Nam không phải là những người sợ khó khăn, họ là những con

người dám nghĩ dám làm, và thành công tất sẽ đến với họ”.
Thứ hai, trong thời đại bùng nổ khoa học và công nghệ thông tin (CNTT)
thì đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một trong những phương pháp ít tốn kém
nhất mà các doanh nghiệp các nước đang phát triển có thể áp dụng để tiếp cận
với KHCN cao, đồng thời học hỏi những ứng dụng trong CNTT, một trong
những lĩnh vực là chìa khoá then chốt nhất cho sự phát triển và thành công.
Ngày nay, KHCN và CNTT đang biến đổi và phát triển từng giây, từng
phút, những ứng dụng của chúng có vai trò vô cùng quan trọng đối với kinh tế và
trong hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống. KHCN và CNTT đã và đang thành
công cụ “ nóng” cho phát triển đất nước về mọi mặt (đặc biệt là trong lĩnh vực
kinh tế), nếu biết cách sử dụng đúng đắn. Khi thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài, ở các nước tiên tiến có KHCN&CNTT phát triển cao như Mỹ, Anh… Việt
Nam có cơ hội được tiếp cận trực tiếp với những thực tế ứng dụng KHCN
&CNTT ở các nước này vừa giúp những doanh nghiệp của các nước đang phát
triển tìm kiếm lợi nhuận hữu hình; đồng thời, khai thác những lợi nhuận vô hình,
mà đôi khi số lợi nhuận vô hình làm cho số lợi nhuận mà doanh nghiệp kiếm
được lớn hơn rất nhiều lần so với những gì mà chúng ta nghĩ. Hơn nữa, các
doanh nghiệp này có thể đem những tiến bộ KHCN cao và những ứng dụng của
CNTT hiện đại mà trong nước chưa có điều kiện triển khai để đầu tư ra nước
ngoài, tạo những sản phẩm mới, thị trường mới có sức cạnh tranh cao tại các
nước phát triển. Đây cũng là phương pháp đi trước đón đầu rất hiệu quả và đáng
được quan tâm khuyến khích. Mạng CNTT và các sản phẩm dịch vụ mà cả
doanh nghiệp Việt Nam vừa đầu tư vào thị trường Hoa Kỳ trong năm 2005 với
hy vọng sẽ tạo ra bước đột phá trong sử dụng điện thoại và dịch vụ viễn thông là
một ví dụ điển hình.


- 15
-


Thứ ba, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn giúp các doanh
nghiệp san sẻ rủi ro trong đầu tư và trong kinh doanh.
Trong kinh doanh, thất bại nhiều hơn thành công. Một nhà kinh doanh chỉ
thành công khi giá trị thu được từ thành công lớn hơn giá trị mất đi từ thất bại và
con số đó thì rất khiêm tốn. Rủi ro trong kinh doanh là điều không thể tránh
khỏi, các doanh nghiệp là những người hơn ai hết hiểu rõ điều đó và mục tiêu
phòng tránh, san sẻ rủi ro là một vấn đề được nhiều nhà đầu tư quan tâm. Đặc
biệt, rủi ro còn được coi như bạn đồng hành của quá trình đầu tư. Một trong
những giải pháp hiệu quả nhất để san sẻ, phòng tránh rủi ro là thực hiện hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, đa dạng hoá danh mục đầu tư theo nguyên
tắc “không bỏ chung trứng cùng một giỏ” nhằm thu được lợi nhuận, củng cố
hoạt động kinh doanh bền vững, ổn định và sự phát triển của các doanh nghiệp;
nhằm giảm thiểu rủi ro trong đầu tư cho doanh nghiệp, đồng thời hạn chế được
rủi ro về lạm phát, rủi ro về tỷ giá…. Mặt khác, đầu tư ra nước ngoài còn tạo ra
những khoản thu bằng ngoại tệ cho các doanh nghiệp, góp phần làm tăng ngoại
tệ của đất nước, giúp cho cán cân thanh toán được ổn định và phát triển theo
chiều hướng tốt.
Thứ tư, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp thực hiện đổi mới cơ cấu sản xuất doanh nghiệp, tạo điều kiện
áp dụng các công nghệ sản xuất mới, tăng cường tính năng động và khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Thứ năm, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn giúp các doanh
nghiệp phát huy được thế mạnh, điểm mạnh của các sản phẩm của doanh nghiệp,
đặc biệt là những sản phẩm truyền thống, sản phẩm riêng có của quốc gia.
Trên đây là một số nguyên nhân cơ bản mang tính chiến lược, là những xu
thế phát triển trong tương lai đã khẳng định một điều chắc chắn rằng đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài là vô cùng cần thiết, là xu thế tất yếu khách quan của mỗi


- 16

-

quốc gia- những mắt lưới trong nền kinh tế thế giới. Điều đó đã được chứng
minh một cách hoàn hảo ở các nước phát triển, và mặc dù chưa có được chứng
minh rõ ràng với các quốc gia đang phát triển trong lĩnh vực này, nhưng có thể
nói rằng điều đó cũng không kém phần chính xác đối với hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài ở các quốc gia đang phát triển. Điều quan trọng là khi nào có
thể thực hiện được thì nên bắt đầu ngay càng sớm, càng nhanh, càng tốt. Vì vậy
với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cũng vậy, đến thời điểm chín muồi
hãy để nó phát triển tự nhiên dưới sự tạo điều kiện và hướng dẫn cụ thể của các
Bộ, ngành có liên quan thì nó sẽ phát triển hơn nhiều so với việc chúng ta không
tạo điều kiện mà lại ấn định một thời điểm khác để kêu gọi phát triển. Vậy ngay
từ bây giờ chúng ta hãy tạo điều kiện tốt nhất trong khuôn khổ cho phép nhằm
thực hiện lĩnh vực này, lĩnh vực rất cần thiết và là tất yếu khách quan đối với sự
phát triển của nền kinh tế đất nước.
1.2.2 Các hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp
Nếu như trong thời đại của V.I.Lênin, xuất khẩu tư bản bao gồm xuất khẩu
tư bản hoạt động của nhà nước, xuất khẩu tư bản cho vay của nhà nước và xuất
khẩu tư bản hoạt động của tư nhân, xuất khẩu tư bản cho vay của tư nhân, thì
trong điều kiện hiện nay, các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài đa dạng hơn.
Có thể nêu lên những hình thức chủ yếu sau đây:
+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh
+ Doanh nghiệp liên doanh
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
1.2.2.1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Là hình thức liên kết kinh doanh giữa hai bên hoặc nhiều bên cơ sở quy
định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành
đầu tư kinh doanh mà không thành lập một pháp nhân.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh rất đa dạng, thường được áp dụng phổ biến
trọng các lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, công nghiệp gia công và dịch vụ.



- 17
-

Các bên tham gia hợp đồng vẫn là những pháp nhân riêng, thời hạn hợp đồng
thường ngắn. Do vậy loại hình này thích hợp với các nhà đầu tư nước ngoài có ít
tiềm lực về vốn.
1.2.2.2 Doanh nghiệp liên doanh
Là hình thức tổ chức kinh doanh quốc tế do hai bên hoặc các bên nước
ngoài cùng hợp tác với nước chủ nhà trên cơ sở góp vốn, cùng kinh doanh, cùng
hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh
được thành lập theo hình thức công ty TNHH, có tư cách pháp nhân theo luật
pháp của nước nhận đầu tư.
Doanh nghiệp liên doanh là loại hình thường được nước chủ nhà ưa
chuộng vì hầu hết các doanh nghiệp liên doanh khi đầu tư, kinh doanh ở nước
chủ nhà, họ thường phải mang theo các thiết bị khoa học kỹ thuật tiên tiến,
kinh nghiệm quản lý hiện đại. Tuy nhiên loại hình đầu tư này thường được
nước chủ nhà áp dụng chủ yếu đối với đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhưng
để đạt được kết quả mong muốn thì việc áp dụng hình thức này đòi hỏi nước
chủ nhà phải có khả năng góp vốn, các nhà quản lý doanh nghiệp phải có đủ
trinh độ và năng lực quản lý, tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến,
hiện đại của nước ngoài.
1.2.2.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư nước
ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả
sản xuất kinh doanh nhưng vẫn là pháp nhân của nước chủ nhà và chịu sự kiểm
soát của luật pháp nước chủ nhà.
Nhìn chung doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ngày càng được các chủ đầu

tư ưa thích vì họ được toàn quyền quản lý và hưởng lợi nhuận do kết quả đầu tư
tạo ra (chủ đầu tư chỉ phải làm tròn nghĩa vụ tài chính với nước chủ nhà) còn nước


- 18
-

chủ nhà không phải lúc nào cũng có thể tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp
liên doanh. Do vậy, đối với những dự án đầu tư vốn lớn, thời hạn thu hồi vốn lâu,
mức độ mạo hiểm cao và không đòi hỏi phải tham gia quản lý sát sao quá trình
vận hành các kết quả đầu tư (như dự án dầu khí, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng
kỹ thuật) thì thường để nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn.
Một số dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn đầu tư nước ngoài là:
(i) Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao ( Building Operate
Transfer - BOT). Với hình thức BOT, các chủ đầu tư chịu trách nhiệm tiến hành
xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian đủ để thu hồi vốn đầu tư và
có lợi nhuận hợp lý. Sau khi dự án kết thúc, toàn bộ công trình sẽ được chuyển
giao cho nước chủ nhà mà không thu bất cứ một khoản tiền nào.
(ii) Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh ( Building Transfer
Operate - BTO). Đối với hình thức BTO, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư
chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà giành cho
nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu
hồi đủ vốn đầu tư và có lợi nhuận lợp lý.
(iii) Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (Building - Transfer - BT). Đây là
các dạng đầu tư được áp dụng đối với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ
thuật. Đối với hình thức BT, sau khi xây dựng xong, chủ đầu tư chuyển giao công
trình đó cho nước chủ nhà, nước chủ nhà sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước
ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi đủ vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
1.2.3. Những điều kiện cần thiết để các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài

1.2.3.1 Những điều kiện về phía doanh nghiệp để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Trong quá trình tìm kiếm cơ hội đầu tư ở nước ngoài, các nhà đầu tư luôn
so sánh mức độ hấp dẫn và rủi ro giữa môi trường kinh doanh nước họ và môi


- 19
-

trường kinh doanh nước nhận đầu tư. Mặc dù gặp một số rủi ro khi đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài (như rủi ro chính trị, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro văn hóa - xã
hội….) nhưng các nhà đầu tư vẫn tích cực khai thác lợi thế so sánh của nước sở
tại nhằm tìm kiếm nguồn lợi nhuận cao từ hoạt động đầu tư.
Tuy rất cần vốn để phát triển kinh tế đất nước song các nước đang phát triển
vẫn có mong muốn mang nguồn vốn trong nước để đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài với hy vọng tìm được mảnh đất mà ở đó tiền vốn có khả năng sinh lời cao
hơn, tạo ra một “chiếc bánh thứ hai” cho nền kinh tế. Để có thể tiến hành đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài, doanh nghiệp của các nước đang phát triển cần đảm bảo
được các điều kiện dưới đây.
Thứ nhất, các doanh nghiệp cần có tiềm lực tài chính mạnh
Đầu tư ra nước ngoài thực chất là quá trình di chuyển vốn ở phạm vi quốc
tế từ nước đầu tư tới nước nhận đầu tư. Vốn đầu tư bao gồm các nguồn lực tài
chính và nguồn lực hiện vật để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh, xây
dựng các nhà máy mới, duy trì và mở rộng các tiềm lực sẵn có… Vốn là một yếu
tố không thể thiếu đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, tổ chức nào. Muốn cạnh
tranh được trên thị trường thì các doanh nghiệp phải đủ mạnh, tức là phải có một
nguồn vốn dồi dào, có đủ năng lực thực hiện đầu tư nhanh chóng để chớp thời cơ
thu lợi nhuận. Song để có nguồn vốn dồi dào, hay tiềm lực tài chính mạnh, các
doanh nghiệp phải có một quá trình tích tụ và tập trung vốn, đây là một quá trình
lâu dài. Quá trình tích tụ và tập trung vốn vào một đầu mối và được quản lý bởi
một công ty tài chính hay một ngân hàng là một quá trình phát triển tuân theo

quy luật khách quan. Quá trình này là kết quả của cạnh tranh trên thị trường.
Muốn đứng vững trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt và thu được lợi
nhuận thì các công ty phải đủ sức cạnh tranh bằng sản phẩm của mình. Điều đó
đòi hỏi sản phẩm phải đạt được các yêu cầu của thị trường, tức là sản phẩm phải
được đầu tư đầy đủ về cả vốn lẫn công nghệ. Vì thế nên với bất kỳ doanh nghiệp


- 20
-

nào có tiềm lực tài chính mạnh mẽ sẽ có những điều kiện tiên quyết mở rộng
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình không chỉ ở trong nước mà còn ở khắp
mọi nơi trên thế giới.
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều công ty lớn, chúng được thành lập từ sự
liên kết của nhiều công ty nhỏ. Nguồn vốn của các công ty lớn này được huy
động từ nguồn vốn của các công ty nhỏ. Bởi lẽ, trên thị trường mang tính cạnh
tranh ngày càng gay gắt các công ty nhỏ sẽ khó đứng vững, nếu không có những
sản phẩm độc đáo, không còn cách nào khác là sáp nhập giữa các công ty nhỏ
thành các công ty lớn - một xu thế phổ biến hiện nay. Xu thế này sẽ dẫn tới sự
xuất hiện của các tập đoàn kinh tế. Tập đoàn kinh tế có nhiều ưu thế và có vai trò
hết sức quan trọng trong việc tích tụ tập trung vốn và nâng cao khả năng cạnh
tranh, mở rộng thị trường và tối đa hoá lợi nhuận. Sự ra đời và phát triển các tập
đoàn kinh tế là biểu hiện trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất. Cho đến
nay, trên thế giới, các tập đoàn kinh tế lớn đều thuộc các liên minh kinh tế mạnh,
mà chủ yếu ở các nước công nghiệp phát triển. Đối với các nước đang phát triển
vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, nhiều Tổng công ty lớn ra đời là tiền đề để tiến tới
thành lập các tập đoàn kinh tế mạnh. Như vây, từ việc sáp nhập các công ty con
thành TCT, rồi từ TCT tiến lên thành lập tập đoàn kinh tế sẽ đảm bảo tiềm lực tài
chính vươn ra thị trường thế giới, hình thành các công ty xuyên quốc gia. Khi đó

việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ trở nên dễ dàng.
Thứ hai, trình độ khoa học - công nghệ của các doanh nghiệp phải đạt tới
mức độ có thể cạnh tranh trên thị trường nước nhận đầu tư, hoặc có những bí
quyết kỹ thuật, kỹ năng riêng có để sản xuất sản phẩm.
Một tổ chức kinh tế muốn thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phải có
thế mạnh về khoa học - công nghệ. Trình độ khoa học - công nghệ là yếu tố quan
trọng thứ hai liên quan đến hiệu quả của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước


- 21
-

ngoài. Tiến bộ khoa học - công nghệ là yếu tố quyết định thắng lợi trong cạnh
tranh và đạt được mục tiêu của các công ty và các tập đoàn. Nhờ có khoa học công nghệ mà các công ty, các tập đoàn có khả năng tạo ra nhiều chủng loại sản
phẩm có chất lượng cao, đa dạng về mẫu mã, chủng loại, phù hợp với nhu cầu
của nhiều thị trường. Khi các sản phẩm đó chiếm lĩnh được nhiều khu vực thị
trường trên thế giới thì chắc chắn các tập đoàn sẽ nâng cao được uy tín và vị thế
của mình. Khoa học - công nghệ giúp cho các nhà sản xuất tạo ra được những
sản phẩm mang tính chất đặc thù của mình, rồi đến những sản phẩm có hàm
lượng chất xám và công nghệ cao. Điều này sẽ giúp cho nhà sản xuất giữ được vị
thế độc quyền của mình về sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản
phẩm và của cả doanh nghiệp.
Với sự đa dạng hoá sản phẩm dựa trên khoa học - công nghệ hiện đại, lợi
nhuận thu được sẽ cao hơn so với việc sản xuất một loại sản phẩm giúp cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp ổn định. Trên thương trường, để có sản phẩm
có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có nguồn
lực lớn đủ mạnh chi phối các yếu tố đầu vào của sản xuất và công nghệ chế tạo
sản phẩm, với yêu cầu đó thì các doanh nghiệp nhỏ không đủ sức làm được.
Điều này đòi hỏi phải có các tập đoàn lớn mới có đủ khả năng tài chính đầu tư
cho khoa học - công nghệ, đưa tiến bộ kỹ thuật,dây chuyền công nghệ mới vào

sản xuất sản phẩm. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa phải tìm được những “khoảng
trống” thị trường hay có những bí quyết kỹ thuật, những tiến bộ mới của KHCN
mới có thể đầu tư ra nước ngoài có hiệu quả.
Với những tiềm lực khoa học - công nghệ của mình, các doanh nghiệp sẽ dễ
dàng tiến hành đầu tư vượt ra khỏi biên giới quốc gia, bằng việc thành lập các
chi nhánh ở nước ngoài, đưa các bí quyết công nghệ, phương thức sản xuất hiện
đại để tiến hành sản xuất kinh doanh ở nước sở tại. Thực hiện điều này đối với
các nước đang phát triển không phải dễ. Nhà nước và các doanh nghiệp cần phải
có các chính sách và biện pháp ưu tiên phát triển khoa học - công nghệ để từ đó


- 22
-

tạo ra các thành tựu khoa học - công nghệ ứng dụng vào sản xuất. Khoa học công nghệ phát triển thì các doanh nghiệp mới tập trung được nguồn lực khoa
học, công nghệ để có thể nâng cao được khả năng và tiềm lực của mình, thúc đẩy
sản xuất không những ở trong nước mà còn cả ở nước ngoài. Vì vậy mà khoa
học, công nghệ giữ vai trò quan trọng đối với việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển.
Thứ ba, các doanh nghiệp phải có khả năng cạnh tranh cao trên thị
trường.
Cạnh tranh là một tất yếu trên thị trường. Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp thể hiện chủ yếu ở hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh hiện
tại cũng như tương lai; các sản phẩm của doanh nghiệp tạo ra có khả năng cạnh
tranh cao, được người tiêu dùng chấp nhận và đảm bảo được thị trường tiêu thụ;
doanh nghiệp được tổ chức hợp lý, năng động, áp dụng công nghệ tiên tiến, có
đội ngũ cán bộ và công nhân giỏi chuyên môn; có khả năng tiếp cận các nguồn
vốn cho việc đầu tư theo chiều rộng lẫn chiều sâu.
Để vượt qua các đối thủ cạnh tranh, việc áp dụng nhiều phương pháp quản
lý mới nhằm tinh gọn bộ máy, tái cấu trúc quá trình kinh doanh, giảm chi phí….

Nâng cao hiệu quả hoạt động là cần thiết để xoá bỏ những bất lợi, tuy nhiên,
những cải thiện đó chỉ giúp cho doanh nghiệp tồn tại trong cạnh tranh mà chưa
đảm bảo chiến thắng trong cạnh tranh. Người chiến thắng là người có khả năng
tạo ra lợi thế cạnh tranh cho mình và luôn thay đổi để tạo ra thị trường chứ
không phải chỉ tìm cách nâng cao thị phần, vượt qua những bất lợi. Bất kỳ doanh
nghiệp nào cũng đều có khả năng cạnh tranh, chỉ có điều mạnh hay yếu. Theo
quy luật tất yếu của thị trường, doanh nghiệp nào có khả năng cạnh tranh mạnh
hơn thì doanh nghiệp đó sẽ chiến thắng không những ở thị trường nội địa mà còn
ở thị trường thế giới. Năng lực cạnh tranh mạnh mẽ đảm bảo cho doanh nghiệp
có thể tồn tại và chiến thắng ở những nơi mà doanh nghiệp tiến hành đầu tư sản


×