BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
****************
Tinh dầu và dược liệu có tiềm năng
khai thác tinh dầu ở Việt Nam
Học Viên: Nguyễn Thị Hằng
Mã học viên: 1411029
Lớp: Cao học 19
1
Mục lục
Lời
mở
đầu
..............................................................................................................................................
2
Phần
I.
Đại
cương
về
tinh
dầu
..............................................................................................................................................
3
1. Định nghĩa..................................................................................................................
2. Thành phần cấu tạo..................................................................................................
3. Chế tạo tinh dầu.......................................................................................................
4. Tác dụng sinh học và ứng dụng của tinh dầu trong y học
..............................................................................................................................................
4
Phần II. Một số dược liệu chứa tinh dầu có tiềm năng khai thác ở Việt Nam
..............................................................................................................................................
.5
.5
1. Cây quế Việt Nam
2.
Cây
Hồi
.7
.9
2
3. Cây Dó bầu
13
14
15
4. Cây Tràm gió
6. Cây sả chanh
5.
Cây
Gừng
Phần
III.
Kết
luận
và
đề
xuất
..............................................................................................................................................
17
1. Kết luận
..............................................................................................................................................
17
2. Đề xuất
..............................................................................................................................................
17
Tài
liệu
tham
khảo
..............................................................................................................................................
.18
3
Lời mở đầu
Nằm tại một vị trí tự nhiên hiếm có, khí hậu có nhiều nét độc đáo và đa
dạng, Việt Nam được ưu đãi với hệ thống sinh thái phong phú, đa dạng về
chủng loại các cây dược liệu với hơn 12 nghìn loài thực vật, trong đó có gần 4
nghìn loài có công dụng làm thuốc được xếp vào loại quý hiếm trên thế giới
như: Sâm ngọc linh, Sâm vũ diệp, Tam thất hoang, Bách hợp, Thông đỏ, Vàng
đắng, Hoàng liên ô rô, Hoàng liên gai, Thanh thiên quỳ, Ba gạc Vĩnh Phú… Theo
số liệu thống kê được từ năm 2001, số loài có chứa tinh dầu trong hệ thực vật
nước ta gồm 657 loài thuộc 357 chi và 114 họ (chiếm 6,3% tổng số loài, 15,8%
tổng số chi, 37,8% tổng số họ). Do vậy Việt Nam có nguồn tài nguyên thực vật
chứa tinh dầu rất tiềm năng.
Mặc dù tồn tại trong thực vật với hàm lượng rất ít nhưng do được sử
dụng rộng rãi trong công nghệ dược phẩm, mỹ phẩm, công nghệ sản xuất nước
hoa… nên tinh dầu có giá trị kinh tế khá lớn. Ở nhiều địa phương, do đặc điểm
hệ thực vật mà việc trồng và chiết xuất tinh dầu cung cấp cho thị trường trong
và ngoài nước trở thành tiềm lực phát triển kinh tế chủ đạo. Tuy nhiên, hiện nay
một số khu vực có tiềm năng
Bài tiểu luận xin được đề cập đến 2 vấn đề chính như sau:
Đại cương về tinh dầu.
Những dược liệu có tiềm năng khai thác tinh dầu ở Việt Nam.
4
Phần I. Đại cương về tinh dầu
1. Định nghĩa
Tinh dầu là một hỗn hợp của nhiều thành phần, thường có mùi thơm, không tan
trong nước, tan trong các dung môi hữu cơ, bay hơi được ở nhiệt độ thường và
có thể điều chế từ thảo mộc bằng phương pháp cất kéo hơi nước.
2. Phân loại tinh dầu theo cấu trúc hóa học
Theo cấu trúc hóa học, có thể chia làm 4 loại tinh dầu:
Các dẫn chất của monoterpen: Myrcen, lymonen, α pinen, βpinen, geraniol,
linanol, nerol…
Các dẫn chất của sesquiterpen: zingiberen, curcumen, nerolidol,…
Các dẫn chất có nhân thơm: eugenol, pcymen, thymol…
Các hợp chất có chứa nitơ (N) và lưu huỳnh (S): mythyl isothiocyanat, alicin….
3. Các phương pháp thu tinh dầu
Phương pháp cất kéo hơi nước.
Phương pháp chiết xuất bằng dung môi.
Phương pháp ướp.
Phương pháp ép.
4.
Tính chất lý hóa của tinh dầu
* Thể chất: Đa số là chất lỏng ở nhiệt độ thường, một số thành phần ở thể rắn:
Menthol, borneol, camphor, vanilin, heliotropin.
* Màu sắc: Không màu hoặc vàng nhạt. Do hiện tượng oxy hóa màu có thể sẫm
lại. Một số có màu đặc biệt: Các hợp chất azulen có màu xanh mực
5
* Mùi: Đặc biệt, đa số có mùi thơm dễ chịu, một só có mùi hắc, khó chịu (tinh
dầu giun).
* Vị: cay, một số có vị ngọt: Tinh dầu quế, hồi.
* Bay hơi được ở nhiệt độ thường.
* Tỷ trọng: Đa số nhỏ hơn 1. Một số lớn hơn 1: Quế, đinh hương, hương nhu.
Tỷ lệ thành phần chính (aldehyd cinnamic, eugenol) quyết định tỷ trọng tinh dầu.
Nếu hàm lượng các thành phần chính thấp, những tinh dầu này có thể trở thành
nhẹ hơn nước.
* Độ tan: Không tan, hay đúng hơn ít tan trong nước, tan trong alcol và các dung
môi hữu cơ khác.
* Độ sôi: Phụ thuộc vào thành phần cấu tạo, có thể dùng phương pháp cất phân
đoạn để tách riêng từng thành phần trong tinh dầu.
* Năng suất quay cực cao, tả tuyền hoặc hữu tuyền.
* Chỉ số khúc xạ: 1,4500 1,5600
* Rất dễ oxy hoá, sự oxy hoá thường xảy ra cùng với sự trùng hiệp hoá, tinh dầu
sẽ chuyển thành chất nhựa.
* Một số thành phần chính trong tinh dầu cho các phản ứng đặc hiệu của nhóm
chức, tạo thành các sản phẩm kết tinh hay cho màu, dựa vào đặc tính này để
định tính và định lượng các thành phần chính trong tinh dầu.
5. Tác dụng sinh học và ứng dụng của tinh dầu trong y học
Tác dụng trên đường tiêu hoá
Tác dụng kháng khuẩn và diệt khuẩn
Tác dụng kích thích thần kinh trung ương
Tác dụng diệt ký sinh trùng: Trị giun, sán, diệt ký sinh trùng sốt rét
Rất nhiều tinh dầu có tác dụng chống viêm, làm lành vết thương, sinh cơ v.v..
khi sử dụng ngoài da.
Ngoài ra tinh dầu còn được sử dụng phổ biến trong y học cổ truyền, qua
các bài thuốc từ rất lâu đời.
6
Phần II. Những dược liệu có tiềm năng khai thác
tinh dầu ở Việt Nam
Do đặc trưng khí hậu và thổ nhưỡng khác nhau, hệ thực vật ở Việt Nam
phân bố rất phong phú và đa dạng. Trong đó, nhiều cây cho tinh dầu phân bố tập
trung theo vị trí địa lý như: Hồi (phân bố chủ yếu ở các tỉnh vùng núi phía Bắc
như Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng), quế (Yên Bái, ….
Phần này, tôi xin trình bày một số dược liệu có tiềm năng khai thác tinh dầu
ở Việt Nam
1. Cây Quế Việt Nam
Tên khoa học: Cinnamomum cassia J. S. Presl, 1825, thuộc họ Long não –
Lauraceae.
* Đặc điểm thực vật: Cây gỗ, cao 10 – 20m. Lá mọc so le có cuống ngắn, dài
nhọn hoặc hơi tù,có ba gân hình cung. Hoa trắng. Quả hạch hình trứng.
* Phân bố:
Quế phân bố chủ yếu ở Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên,
Bắc Giang, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Hà Tây, Ninh Bình, Thanh
Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hoà, Bà
RịaVũng Tàu. Trong đó có 4 vùng trồng quế tập trung là: Yên Bái, Quảng Ninh,
Thanh Hoá Nghệ An và Quảng Nam Quảng Ngãi.
Yên Bái là tỉnh có diện tích quế khá lớn, gần 30.000 ha, tập trung chủ yếu
ở một số huyện như Văn Yên (16.000 ha), Trấn Yên (6.600 ha), Văn Chấn (gần
7
5.000 ha). Định hướng đến năm 2015, diện tích quế toàn tỉnh đạt khoảng 40.000
ha, được quy hoạch ở các huyện Văn Yên (24.700 ha), Trấn Yên (8.500 ha), Văn
Chấn (6.600 ha). Chất lượng tinh dầu quế Yên Bái thuộc loại tốt nhất cả nước.
* Trồng trọt và khai thác: Trồng bằng hạt. Thu hoạch vào hai vụ tháng 45 và 9
10.
Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Yên Bái có 08 nhà máy chiết xuất tinh dầu quế
quy mô lớn với tổng công suất 700 tấn/năm đặt ở các huyện có diện tích quế
tập trung như: Công ty TNHH Hương liệu Việt Trung đặt tại xã Quy Mông,
huyện Trấn Yên xây dựng bằng vốn nước ngoài, công suất 100 tấn sản
phẩm/năm; Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu Đạt Thành có 02 nhà
máy đặt tại xã Đông Cuông và Hoàng Thắng, huyện Văn Yên, tổng công suất
100 tấn/năm; Công ty cổ phần Nông lâm sản thực phẩm Yên Bái đặt nhà máy tại
xã Sơn Lương, công suất 60 tấn/năm; Công ty TNHH Trường An có 02 nhà máy
đặt tại xã Phong Du Hạ, công suất 170 tấn/năm,... Ngoài ra còn có hơn 200 cơ sở
chưng cất tinh dầu quế quy mô nhỏ lẻ hộ gia đình, sản lượng mỗi năm từ 300
800 kg/01 cơ sở.
8
Ảnh 1. Thu hoạch Quế ở Yên Bái
* Thành phần hoá học:
Hàm lượng tinh dầu trong vỏ quế khá cao (1,04,0%), còn trong lá và cành
non thường thấp (0,30,8%). Tinh dầu từ vỏ có màu vàng nâu nhạt, sánh, vị cay,
thơm, ngọt, nóng, nặng hơn nước; với thành phần chính là (E)cinnamaldehyd
(7095%); ngoài ra còn khoảng 100 hợp chất khác. Tinh dầu từ lá quế thường có
màu nâu đậm và thành phần chủ yếu cũng là(E) cinnamaldehyd (6090%). Hàm
lượng (E)cinnamaldehyd quyết định chất lượng của tinh dầu quế. Tinh dầu quế
thương phẩm trên thị trường thế giới đòi hỏi hàm lượng (E)cinnamaldehyd
trong khoảng 7595% (ISO: >80% (E)cinnamaldehyd). Ngoài tinh dầu, trong vỏ
quế còn chứa tanin, chất nhựa, đường, calci oxalat, coumarin và chất nhầy…
* Công dụng của tinh dầu quế:
• Giảm lượng đường trong máu và điều trị bệnh tiểu đường loại 2.
• Giảm cholesterol.
• Trợ giúp tiêu hóa.
• Điều trị tiêu chảy.
• Chữa cảm lạnh thông thường.
• Giảm đau viêm khớp.
• Tăng cường trí nhớ và chức năng nhận thức.
9
• Điều trị đau răng.
• Loại bỏ hơi thở hôi.
• Chữa đau đầu và chứng đau nửa đầu.
Theo số liệu khảo sát của Hoàng Cầu (2005) về 75 hộ gia đình trồng quế tại
bản Khe Lơ (xã Yên Sơn – Văn Yên – Yên Bái), trong thời gian từ 19931994 thu
nhập trung bình từ quế đạt 10 triệu đồng/hộ/năm (bình quân hộ thu nhập cao: 20
triệu đồng/năm, bình quân hộ thu nhập thấp: 6 triệu đồng/năm).
Đến năm 1998, diện tích rừng quế ở nước ta đạt khoảng 61.820 ha (trong đó
có 19.743 ha có thể khai thác) với trữ lượng ước tính khoảng 29.00030.000 tấn
vỏ. Cũng năm 1998, sản lượng quế vỏ đã khai thác đạt 2.867 tấn. Hàng năm
Việt Nam xuất khẩu khoảng 1.5002.000 tấn vỏ và 57 tấn tinh dầu quế.
Cây quế không những có giá trị kinh tế cao mà còn góp phần bảo vệ thiên
nhiên, môi trường sinh thái, giữ đất, giữ nước ở những vùng đồi núi dốc, bảo
tồn và phát triển sự đa dạng các nguồn gen quý của cây bản địa, đồng thời góp
phần quan trọng giúp nhiều hộ nông dân xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm
giàu.
2. Cây Hồi
* Tên khoa học: Illicium verum. Họ Hồi: Illiciaceae
* Đặc điểm thực vật: cây cao 6 –
10m. Cành mọc thẳng tạo cho cây
dạng thon gọn và tán lá hẹp. Lá
mọc sole nhưng thường mọc sít
vào nhau tạo vòng giả, từ 4 – 6 lá.
Lá thon dài hoặc hình bầu dục.
Hoa có thể nhiều màu: trắng,
trắng hồng, hồng, tím hồng. Quả
đại, thường có 8 đại dính vào một
trục và tỏa tròn thành hình sao.
Ảnh 2. Cây hồi
* Phân b
ố: Hồi được coi là đặc
sản của tỉnh Lạng Sơn. Ngoài ra
còn trồng ở Bắc Kan, Quảng
10
Ninh, Lào Cai…
* Trồng trọt và thu hái: Hồi được
trồng bằng hạt, được khi thác 2
vụ: vụ chính vào tháng 89, vụ
phụ từ tháng 11 đến tháng 2 năm
sau. Sản lượng khoảng 5000 –
6000 tấn Hồi khô/năm.
Ảnh 3. Hoa hồi khô
* Thành phần hóa học:
Quả có chứa tinh dầu 8 9%. Quả mới thu hoạch có thể chứa 10 – 15%.
Tinh dầu quả Hồi, tên thương phẩm Star anis oil, là chất lỏng màu vàng nhạt,
có mùi đặc biệt, vị ngọt. Thành phần chính chủ yếu là trans anethol (8590%)
Lá có chứa tinh dầu 0,561,73%. Tinh dầu lá có hàm lượng anethol xấp xỉ tinh
dầu quả.
Hạt chứa chất béo.
* Công dụng:
Quả Hồi có tác dụng giúp tiêu hóa, lợi sữa, giảm đau, giảm có bóp nhu động
ruột, dùng để trị ỉa chảy, nôn mửa…
Tinh dầu Hồi có tác dụng tương tự như dược liệu. Ngoài ra tinh dầu còn dùng
để tổng hợp hormone estrogen.
Dùng làm gia vị và hương liệu cho rất nhiều sản phẩm trong kỹ nghệ thực
phẩm màu.
Hiện nay tinh dầu Hồi còn được sử dụng để chiết xuất acid Shikimic là nguyên
liệu để tổng hợp Tamiflu, là thuốc đặc trị các bệnh cúm, nhất là cúm A/H1N1,
H5N1, H3N2; Chế biến các loại thuốc xoa bóp, nội tiết, tiêu hóa.
11
Hồi là một trong những cây đặc sản có giá trị kinh tế cao của tỉnh Lạng
Sơn. Cây Hồi phân bố trong một vùng sinh thái hẹp của thế giới, chỉ trồng được
ở một phần diện tích của tỉnh Quảng Tây, Vân Nam, Hải Nam của Trung Quốc
và một phần diện tích của tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Quảng Ninh của
Việt Nam. Hồi ở Lạng Sơn có chất lượng tinh dầu tốt nhất thế giới và nổi tiếng
với tên gọi “Hồi xứ Lạng”. Lạng Sơn đã trồng được 33.400 ha rừng Hồi chiếm
71% tổng diện tích rừng Hồi của cả nước. Sản lượng quả Hồi (hoa Hồi) khô
đạt trên 6.500 tấn trong năm 2010, đem lại giá trị xuất khẩu khoảng 600 650 tỷ
đồng/năm, đây là một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của tỉnh Lạng
Sơn.
Người dân trồng Hồi luôn ý thức được giá trị kinh tế của cây Hồi hơn hẳn
nhiều cây trồng khác. Giá của 1 kg hoa Hồi hiện nay gấp khoảng 10 lần gạo và
gấp 15 lần ngô. Mặt khác, vốn đầu tư ít, chỉ phải trồng một lần nhưng thu
hoạch cả trăm năm, ít bị sâu bệnh phá hoại, người dân có nhiều kinh nghiệm
trong việc trồng, chăm sóc, thu hái và bảo quản Hồi.
Sở Khoa học và Công nghệ Lạng Sơn đã hợp tác với Viện Khoa học lâm
nghiệp Quảng Tây Trung Quốc trong 3 năm (2010 2012) để nghiên cứu và
chuyển giao khoa học kỹ thuật nhằm nâng sản lượng hoa hồi của tỉnh Lạng Sơn
lên gấp 3 lần sản lượng hiện nay.
3. Cây Dó bầu
Những năm trước đây, người dân không rõ hiệu quả kinh tế từ cây dó bầu
(cây dó) như thế nào, chỉ thấy nhiều lái buôn thường về một số địa phương để
thu mua vỏ cây với giá rẻ từ 5.000 đồng đến 7.000 đồng/kg để xuất bán sang
Trung Quốc. Việc bà con khai thác ồ ạt đã làm ảnh hưởng đến môi trường sinh
thái, diện tích cây dó giảm sút. Sau khi công nghệ chiết xuất tinh dầu từ cây dó
bầu được Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam nghiên cứu thành công và đưa
vào sản xuất thử nghiệm ở một số tỉnh, cùng với sự phổ biến, tuyên truyền rộng
rãi việc phát triển cây dó theo chủ trương của Chính phủ, người dân đã dần hiểu
ra giá trị kinh tế của cây dó. Từ đó, trên khắp các tỉnh, người dân đã đầu tư trồng
và khôi phục diện tích cây dó. Cây dó có nhiều tác dụng như: tạo trầm; chiết
suất tinh dầu; làm đồ gỗ mỹ nghệ, phong thủy; lá cây làm trà. Trong đó, việc
chiết xuất tinh dầu là cho hiệu quả kinh tế cao và thiết thực nhất.
12
Ảnh 4. Cây dó bầu non.
* Tên khoa học: A. agallocha Roxb. Họ: Trầm Thymelaeaceae
* Tên khác: Trầm, kỳ nam, rà hương.
* Đặc điểm thực vật: Dó bầu là một loại cây gỗ thường xanh, cao 20 – 30 m,
đường kính thân đạt 60 – 80 cm, thân thường thẳng, đôi khi có rãnh dạng lòng
máng; bạch gốc cao tới 2 m; vỏ ngoài nhẵn, màu nâu xám, thịt vỏ màu trắng có
nhiều chất xơ (celluloz), nứt dọc lăn tăn, dễ bóc và tước ngược từ gốc lên; cành
mảnh, cong queo, màu nâu nhạt, có lông hoặc nhẵn, tán thưa. Lá đơn, mọc cách
(so le); cuống lá dài 4 – 6 mm; phiến lá hình trứng, bầu dục thuôn đến mác thuôn,
kích thước 8 – 15 x 2,5 – 9 cm, mỏng như giấy hoặc dai gần như da, mặt trên
màu lục bóng, mặt dưới nhạt hơn và có lông mịn; gốc lá thon nhọn dần hay tù.
* Phân bố: Trầm hương sinh trưởng rải rác trong rừng thường xanh ẩm nhiệt
đới, nguyên sinh hoặc thứ sinh trên đỉnh dông, trên sườn núi hoặc trên đất bằng
ở độ cao 50 – 1.000 m (1.200 m) so với mặt biển. Ở nước ta, Tr ầm h ương
thường phân bố rải rác trên sườn núi có độ dốc nhỏ, thoát nước. Trong quần xã
của Trầm hương thường gặp các cây gỗ lớn: Táu ( Hopeaspp.), Huỳnh
(Tarrieta sp.), Gụ mật (Sindora siamensis Teysm. Ex Miq.)… Đôi khi cũng gặp
Trầm hương mọc trong rừng thứ sinh cùng các loài Thánh thất (Ailanthus
triphysa (Dennst) Alst.), Mò lưng bạc (Cryptocarya metcalfiana Allen), Bưởi
bung (Acronychia laurifolia Blume), Mít nài (Artocarpus asperula) và Ràng ràng
(Ormosia sp.)…
* Trồng trọt và thu hái: Cho đến nay việc nhân giống vẫn chủ yếu bằng hạt.
Cây dó bầu sau khi trồng khoảng 4 – 5 năm tuổi thì bắt đầu ra hoa kết trái. Tùy
13
vào điều kiện thời tiết của mỗi vùng mà thời gian ra hoa có khác nhau. Ở miền
Trung Việt Nam, cây bắt đầu ra hoa vào tháng 3 và trái chín vào tháng 7 dương
lịch. Nhưng ở miền Nam, thời gian ra hoa là tháng 2, trái chín tháng 5 – 6 dương
lịch.
* Nguồn gốc tạo trầm hương từ cây dó bầu: Gỗ cây dó bầu có khả năng hình
thành một loại sản phẩm đặc biệt gọi là Trầm hương, do cây bị một loại bệnh
gây ra bởi tác động bên ngoài. Loại gỗ này tỏa ra mùi thơm và khi thả xuống
nước thì chìm vì vậy mà có tên là trầm hương. Vì “trầm” theo chữ Hán có nghĩa
là chìm, còn “hương” có nghĩa là mùi thơm.
Căn cứ vào sự hóa nhựa nhiều hay ít mà có những sản phẩm như: Tóc,
Trầm hương và Kỳ nam.
a./ Tóc: có nguồn gốc từ chữ “tok” của người Campuchia, đó là do sự
biến đổi chất gỗ bên ngoài, thường dùng để làm nhang.
b./ Trầm hương: do sự phân hóa không trọn vẹn của các phần tử gỗ, gỗ ít
tẩm nhựa hơn, màu nâu hay có sọc đen, nhẹ, nổi được trong nước, dùng để
chưng cất tinh dầu.
c./ Kỳ nam: (nghĩa là điều kỳ diệu của phương nam); do sự biến đổi hoàn
toàn của các phần tử gỗ – Các phần tử gỗ thoái hoá, biến dạng, mất mộc tố
chứa một chất nhựa thơm – có màu nâu đậm hay đen, nặng chìm trong nước, vị
đắng. Thường hình thành ở phần lõi gỗ.
* Tính chất lý hóa của tinh dầu trầm hương
Tinh dầu trầm hương là chất lỏng sánh, nhớt, dẻo, có màu vàng hoặc màu
hổ phách đậm, mùi thơm dịu của trầm. Bằng khứu giác ta cảm thấy tinh dầu
trầm có mùi thơm tương tự như mùi tinh dầu hương lau và tinh dầu đinh hương.
Nó được dùng làm chất định hương, giữ cho hương thơm lâu và dậy mùi trong
công nghiệp hương liệu. Một số kết quả phân tích của Thụy Sỹ đã cho biết,
thành phần chủ yếu của tinh dầu trầm hương gồm các agarofuranoid, các
sesquiterpenoid của nhóm chất eudesman, eremophilan, valencan và vetispiran.
Khi chưng cất, các thành phần chính của tinh dầu thường bốc hơi ở nhiệt
độ cao (khoảng 200oC). Nghiên cứu các mẫu trầm hương thương phẩm khác
nhau từ Ấn Độ đã cho thấy thành phần hóa học của chúng cũng rất khác nhau.
Nhóm nghiên cứu của Ishihara và cộng sự năm 1993 đã nghiên cứu phân tích 4
mẫu trầm hương lấy từ 4 khu vực khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam, tất cả các
mẫu tinh dầu thu được khi được phân tích bằng phổ GC/MS đều cho thấy chúng
có chứa rất nhiều các sesquiterpen và chromon.
14
* Công dụng của tinh dầu trầm hương
Tinh dầu trầm có giá trị đặc biệt, được dùng trong công nghệ chế biến các loại
chất thơm, các loại nước hoa cao cấp, đắt tiền. Mùi của trầm vừa phản phất
mùi của tinh dầu đinh hương, vừa có mùi thơm của hoa hồng. Các hoá mỹ phẩm
có chứa tinh dầu trầm rất được ưa chuộng, đặc biệt ở khu vực Trung Đông và
Ấn Độ.
Lớp vỏ trong ánh bạc ở thân cây có thể bóc được từng mảng lớn, phẳng
và bền. Đây cũng là sản phẩm quý mà trước đây các tín đồ tôn giáo ở Ấn Độ,
Sumatra (Indonesia) đã dùng làm giấy sao chép kinh thánh hoặc may các bộ quần
áo sang trọng và gói bọc thi hài.
Trong y học cổ truyền ở nước ta, Trầm hương được coi là vị thuốc
quý, hiếm, có vị cay, tính hơi ôn, vào 3 kinh tỳ, vị và thận; có tác dụng giáng khí,
nạp thận, bình can, tráng nguyên dương; được dùng chủ yếu để chữa các bệnh
đau ngực, bụng, nôn mửa, bổ dạ dãy, hen suyễn, lợi tiểu, giảm đau, trấn tĩnh, hạ
sốt, cấm khẩu và khó thở.
Trong y học ở phương Tây, ở Ấn Độ và Trung Quốc, hương trầm được
sử dụng để điều trị bệnh ung thư, đặc biệt là với bệnh ung thư tuyến giáp trạng.
Y học cổ truyền Trung Quốc coi Trầm là vị thuốc có tác dụng chữa các
bệnh đau bụng, tiêu chảy, hoen suyễn, kích dục, tráng dương và tiêu hoá tốt.
Nền y học dân tộc Thái Lan lại dùng Trầm để điều trị các bệnh tiêu
chảy, lợi tiểu, hạ sốt, chống nôn, bổ huyết và trợ tim.
Hương trầm được dùng để thắp xua muỗi và côn trùng có hại.
Dăm gỗ trầm cũng được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, đặc biệt
là chữa bệnh thấp khớp, bệnh đậu mùa, bệnh đau bụng và dùng cho phụ nữ sau
khi sinh con.
Nước sắc từ gỗ trầm nghe nói là có tác dụng kháng khuẩn, đặc biệt là
với các loại khuẩn Mycobacterium tuberculosis và Shigella flexneri.
Gỗ từ những cây trầm hương không bị bệnh thường nhẹ, có thể dùng là
đóng gỗ, làm gỗ dán và làm cánh cửa ở trường hợp chịu tải nhẹ.
* Giá trị kinh tế của trầm hương
Trầm hương là sản phẩm đặc biệt của tự nhiên, trên thế giới Trầm luôn
là loại hàng quý, hiếm và đắt giá. Giá mua bán Trầm hương được tính theo kg
tùy thuộc vào chất lượng, trầm hương loại 1 từ 800 1.200 USD, lên 7.000
8.000 USD; các loại khác cũng có mức tăng từ 10 đến 15 lần. Tinh dầu trầm
hương hiện nay tùy theo chất lượng, xuất xứ và công nghệ sản xuất, có mức
chào bán từ 5.000 đến 80.000 USD/lít. Theo ước tính của Liên hiệp Khoa học
sản xuất tinh dầu – hương liệu – mỹ phẩm Việt Nam thì trong những năm từ
15
1980 đến 1990, khối lượng Trầm hương các loại đã bị khai thác và xuất khẩu từ
nước ta cũng vào khoảng 300 tấn. Trong đó có 2.000 kg Trầm từ loại 1 – 4, trị
giá chừng 1,5 triệu đô la Mỹ và 300.000 kg Trầm loại 5 – 9, trị giá khoảng 4,5
triệu đô la Mỹ; đặc biệt là 200 kg Kỳ nam loại 1 – 3, trị giá 0,5 triệu đô la Mỹ và
tới 2.800 kg Kỳ nam loại 4 – 8, trị giá 2,52 triệu đô la Mỹ.
4. Cây tràm gió
* Tên khoa học: Melaleuca cajuputi. Họ Sim: Myrtacaea
* Đ
ặc điểm thực vật: Cây gỗ cao
2 – 3m. Vỏ màu trắng dễ róc. Lá
mọc so le, phiến lá dày, gân hình
cung. Hoa nhỏ màu vàng ngà, mọc
thành bông ở đầu cành. Quả nang,
tròn, có nhiều hạt.
* Phân b
ố: Tập trung niều ở các
tỉnh phía Nam: Quảng Bình, Long
An, Hậu Giang…
* Trồng trọt và khai thác: Tràm
trồng bằng hạt, có khả năng tái
sinh cao. Khai thác quanh năm
nhưng vào mùa mưa hàm lượng
tinh dầu ít hơn mùa khô.
Ảnh 5. Tràm gió
B
ộ phận dùng: Cành mang lá
* Thành phần hóa học:
Lá có chứa tinh dầu. Dược điển VN III quy định hàm lượng tinh dầu không
dưới 1%.
Tinh dầu Tràm là chất lỏng màu vàng nhạt, mùi dễ chịu, thành phần chính bao
gồm 2 loại sau:
α Terpineol ……. …………… 5% – 12%
Eucalyptol……………………42% – 52%
* Công dụng của tinh dầu tràm
16
Hoạt chất α Terpineol chiết xuất từ tinh dầu tràm có tính sát trùng (diệt
khuẩn, nấm và siêu vi) tốt, do đó α terpineol là một nguyên liệu quý để bào chế
nhiều loại thuốc bôi xức trực tiếp hoặc dầu khí dung bay hơi.
Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy α Terpineol có rất nhiều ưu điểm:
Không độc với con người ở liều có tác dụng kháng khuẩn,
Có thể dùng cho mọi lứa tuổi, kể cả trẻ em và trẻ sơ sinh,
Có tác dụng sát trùng khá rộng trên vi khuẩn, nấm và siêu vi,
Theo nghiên cứu cấp Bộ Y tế, thực hiện tại Viện Pasteur TP Hồ Chí Minh,
2008 của Hãng dược phẩm OPDIS PHARMA thì hoạt chất αterpineol có tác
dụng ức chế diệt cả hai vi rút cúm A H5N1 và A H1N1.
Nguyên liệu α Terpineol (Tiêu chuẩn dược điển Anh) dùng làm thuốc đã
được Bộ Y tế cấp mã số đăng ký sản xuất VNA268699 .
Từ năm 2008, Bộ Y tế đã cho phép đưa dầu tràm vào Danh mục thuốc thiết
yếu để Kiểm soát bệnh địa phương (local diseases control) trong chương trình
Chăm sóc sức khoẻ ban đầu.
Cây tràm có khá nhiều ở nước ta, dầu tràm quá quen thuộc với người Việt
Nam từ nông thôn đến tỉnh thị. Trong dầu tràm có chứa dược chất α Terpineol,
đặc biệt trong tràm hoang dại vùng Thừa Thiên Huế hàm lượng chất này rất rất
cao đến 1214%. Đây là một dược liệu quý để bào chế rất nhiều dược phẩm tốt,
thích hợp cho nhiều căn bệnh và lại có thể sử dụng rộng rãi cho nhiều độ tuổi,
người lớn, trẻ em.
Thiết nghĩ, nếu được khai thác sử dụng hợp lý, hiệu quả thì đây là một nguồn
dược liệu dồi dào, một nguồn thu nhập tốt cho nông dân những vùng đồi rú đất
bạc màu cằn cỗi.
5. Cây Gừng
* Tên khoa h
ọc: Zingiber officinale. Họ Gừng: Zingiberaceae
17
* Đ
ặc điểm thực vật: Cây thảo, sống lâu
năm, cao 0,6 – 1m. Lá mọc so le, không
cuống, hình mác dài, có mùi thơm. Trục
hoa xuất phát từ gốc, dài khoảng 20cm.
Hoa màu vàng, thân rễ mập, phồng lên
thành củ.
* Phân bố: Gừng được trồng khắp nơi ở
Ảnh 6. Cây gừng và củ
Việt Nam
gừng
* Trồng trọt và thu hoạch: Gừng được
trồng bằng các nhánh của thân rễ có mang
mầm. Trồng vào mua xuân, thu hoạch khi
cây bắt đầu lụi.
* Bộ phận dùng: Toàn thân. Gừng tươi,
Gừng khô, gừng đã chế biến, tinh dầu
gừng, nhựa dầu gừng.
* Thành phần hóa học:
Gừng chứa tinh dầu (23%), nhựa dầu (4,2 6,5%), Chất béo (3%) và chất
cay: Zingerol, Zingeron…
Tinh dầu gừng là chất lỏng không màu hoặc màu vàng nhạt. Thành phần chủ
yếu của tinh dầu là hợp chất hydrocarbon sesquiterpenic: Zingiberen (35,6%),
arcurcumen (17,7%) …
Nhựa dầu gừng có chứa khoảng 20 – 25% tinh dầu và 20 – 30% các chất cay.
* Công dụng:
18
Gừng khô, tinh dầu gừng và nhựa gừng dùng làm chất thơm trong kỹ nghệ thực
phẩm và kỹ nghệ pha chế đồ uống.
Hàng năm toàn thế giới sản xuất khoảng 30 tấn tinh dầu gừng và 150
300 tấn nhựa dầu gừng. Các nước sản xuất tinh dầu và nhựa dầu chính: Ấn Độ
và Trung Quốc. Các nước tiêu thu chính: USA, Canada, Anh, Đức.
6. Cây sả chanh
* Tên khoa học: Cymbopogon citratus Stapf.
* Đặc điểm thực vật và phân bố
Cây thảo sống nhiều năm, thân rễ sinh nhiều chồi bên tạo thành bụi xoè
đều ra xung quanh, mỗi bụi có thể gồm 50 – 200 tép. Cây cao 1 – 2m, bẹ lá và
chồi thân thường có màu tía đến trắng xanh. Phiến lá thuôn dài, kích thước 50 –
100 x 0,5 – 2 cm. Cụm hoa to dài đến 60 cm, có 4 – 9 đôt, gồm nhiều bông nhỏ.
Sả Chanh được trồng nhiều ở các nước Nam Mỹ như Achentina, Brazin,
Honduras, Guatemala, Liên Bang Nga, Bắc Australia, Ấn Độ, Bănglades, Việt
Nam và các nước Đông Nam Á.
* Trồng trọt và thu hoạch
Sả Chanh được nhân giống bằng các tép sả, được chọn lọc từ các bụi sả 1,5 –
2,5 năm tuổi. Có thể trồng xen với cây cao su hoặc cà phê.
Sáu tháng sau khi trồng có thể thu hoạch. Hiệu suất tinh dầu tính trên lá tươi
khoảng 0,20 – 0,28%. Ở Việt Nam hiệu suất đạt đến 0,45 – 0,55% trong mùa
khô, nếu tính trên nguyên liệu để khô có thể đạt 0,8 – 0,9%. Năng xuất tinh dầu
năm đầu 75 kg/ha, những năm sau tăng dần, có thể đạt đến 200kg/ha. Có thể
khai thác 4 – 6 năm, sau đó phải trồng lại.
Sản lượng hàng năm khoảng 650 tấn (1986). Các nước sản xuất chính là
Achentina, Brazin, Guatemala, Honduras.
* Thành phần hoá học
Hàm lượng tinh dầu: 0,46 – 0,55%
19
Tinh dầu sả Chanh là chất lỏng màu vàng nhạt, mùi thơm của sả, với các hằng
số: d20: 0,8986, nD20: 1,4910, D20: 620. Thành phần chính của tinh dầu là
citral (bao gồm citral a và citral b) 65 86%.
Sả C. citratus trồng ở Trảng Bôm (Việt Nam) có hàm lượng citral trong tinh dầu
là 80%.
Một điểm đặc trưng cho tất cả các loài sả là trong tinh dầu có chứa
methytheptenon với hàm lượng 1 2% làm cho tinh dầu sả có mùi rất đặc trưng
của sả.
Công dụng
Tinh dầu sả chanh dùng chủ yếu để chiết xuất citral, là nguyên liệu để tổng hợp
vitamin A, một lượng nhỏ dùng trong kỹ nghệ xà phòng, nước hoa, chất thơm
cho thực phẩm.
Sả vốn là một cây dễ trồng và nhanh cho thu hoạch. Một ha trồng sả thâm
canh cao từ năm thứ hai trở đi có thể thu được 320350 tấn lá/năm, chưng cất
được từ 280 –300 kg tinh dầu sả, giá bán bình quân 80 000 90 000 đ/kg. Hiện
nay, rất nhiều địa phương đã nhân rộng mô hình trồng sả giúp tăng thu nhập và
cung cấp nguyên liệu cho thị trường xuất khẩu tinh dầu sả chanh ra thế giới, tuy
nhiên vẫn còn ở quy mô nhỏ, lẻ, chưa có quy hoạch, định hướng cụ thể.
7. Một số dược liệu khác
Ngoài các dược liệu đã được phân tích ở trên, Việt Nam có thế mạnh phát
triển rất nhiều dược liệu chứa tinh dầu khác như hương nhu, bạc hà, hoắc
hương, thanh cao… Với điều kiện khí hậu nóng ẩm nhiệt đới, thuận tiện cho
việc trồng trọt và thu hoạch với năng suất cao. Tuy nhiên cần có chính sách
khuyến khích nông dân từng địa phương phát triển trồng cây dược liệu, hướng
dẫn cách chăm sóc, nhân giống và tìm được đầu ra ổn định.
20
Phần III. Kết luận và đề xuất
1. Kết luận
Có thể thấy rằng, tiềm năng dược liệu khai thác tinh dầu của nước ta hết
sức đa dạng và phong phú. Điều kiện tự nhiên ưu ái cho Việt nam một hệ sinh
thái đa dạng nguồn dược liệu nói chung và nguồn dược liệu chứa tinh dầu nói
riêng. Nhờ đó đã thu hút nhiều nhà khoa học thuộc các ngành hoá thực vật, nông
dược học, tài nguyên, công nghệ sinh học tham gia nghiên cứu. Điều này được
chứng minh bởi nhiều loại tinh dầu đã được chiết xuất, tổng hợp từ dược liệu
trong nước có chất lượng cao, giá trị xuất khẩu lớn và sử dụng nhiều trong dược
phẩm, mỹ phẩm.
Lợi ích nhiều mặt thu được từ nguồn tài nguyên tinh dầu trong nước thực
sự là lớn lao. Song thực trạng hiện nay, nạn phá rừng tràn lan, khai thác dược
liệu bừa bãi, cũng như chưa có quy hoạch phát triển nguồn dược liệu chưa tinh
dầu trong nước (đa phần là nhân dân dùng theo kinh nghiệm), đang làm cho
nguồn dược liệu này bị hạn chế đáng kể trong việc chiết xuất tinh khiết các
loại tnh dầu để có giá trị cao. Hơn nữa việc chiết xuất tinh khiết cũng khó có
thể cho kết quả tốt khi việc trông trọt và thu hái và chế biên vẫn còn tự phát, thủ
công, khiến cho hàm lượng tinh dầu trong dược liệu bị giảm sút đáng kể.
Bên cạnh đó, những dược liệu chứa tinh dầu có giá trị cao lại đang bị
nước ngoài thu mua với tốc độ và số lượng lớn, nhận thức trong nhân dân chưa
cao khi chỉ thấy cái lợi trước mắt đã tạo nên hiện tượng "chảy máu dược liệu"
nói chung và nguồn tinh dầu tự nhiên nói riêng xảy ra từ nhiều năm nay.
21
2. Đề xuất
Cần phải có những nghiên cứu cụ thể về từng loại tinh dầu để đưa ra quy
trình chiết xuất cụ thể từ đó phát triển hơn nữa các loại tinh dầu thiên nhiên.
Nhà nước phải đề ra chính sách cụ thể để phát triển nguồn dược liệu
chứa tinh dầu trong nước, đặc biệt là những dược liệu chứa tinh dầu có giá trị
cao.
Đi liền với đó là việc đầu tư nghiên cứu cũng như phát triển quy mô lớn,
tìm đầu ra tiêu thự những sản phẩm tinh dầu trong và ngoài nước.
Tài liệu tham khảo
1. Tài nguyên Thực vật có tinh dầu ở Việt Nam. Tập I & II (Lã Đình Mỡi –
Chủ biên)
2. Đề tài NCKH cấp Bộ: Nghiên cứu phát triển cây hồi làm nguyên liệu sản
xuất acid shikimic và khai thác tinh dầu (PGS.TS Nguyễn Thượng Dong chủ
nhiệm đề tài).
3. "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam", GS.TS. Đỗ Tất Lợi, Nhà xuất bản
Y học.
4. "Dược liệu học" tập II, chủ biên PGS.TS. Phạm Thanh Kỳ. Nhà xuất bản Y
học.
22
5. "Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam", Viên Dược liệu (2004), Nhà
xuất bản Khoa học kỹ thuật.
6. />7. hueuni.edu.vn/ (Website về y học cổ truyền)
23