Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Xuất khẩu lao động Việt Nam - Thực trạng và triển vọng đến 2010” ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.13 KB, 103 trang )



II
---XW---







XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM –
THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG 2010




















Sinh viên thực hiện :Lê Văn Tùng
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Phúc Khanh











Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




1
LỜI MỞ ĐẦU

Ngày nay với nền kinh tế phát triển theo hướng toàn cầu hóa, việc
người lao động ra nước ngoài làm việc theo một tổ chức hay cá nhân tự tìm
kiếm việc làm là hiện tượng phổ biến như một tất yếu của xã hội. Giải quyết
việc làm thông qua xuất khẩu lao động đã trở thành một lĩnh vực hoạt động
đem lại lợi ích kinh tế - xã hội quan trọng cho nhiều quốc gia. Nh
ất là trong
giai đoạn hiện nay khi giải quyết vấn đề việc làm và thất nghiệp đang là một

bài toán hóc búa đối với các nền kinh tế. Vì vậy tìm kiếm mọi biện pháp
nhằm giải quyết vấn đề việc làm nói chung, xuất khẩu lao động nói riêng đều
đang được Chính phủ các nước đang phát triển chú trọng.
Ở Việt Nam với số dân gần 80 triệu người, trong đó lực lượng lao động
chiếm 60%, tỷ lệ thất nghiệp vào khoảng 6,3%( năm 2001) lực lượng lao
động thì sức ép của tình trạng thiếu việc làm vẫn rất lớn. Chương trình quốc
gia giải quyết việc làm đã được chính phủ Việt Nam phê duyệt theo quyết
định số 126/QĐ ngày 11/7/1998, đi liền với nó là việc bổ xung nguồn vốn cho
quỹ quốc gia về việc làm . Điều này thể hiện cố gắng r
ất lớn của Việt Nam
trong việc thực hiện tuyên bố và chương trình hành động của hội nghị thượng
đỉnh thế giới về "Phát triển xã hội" họp tại Copenhagen-Đan Mạch (3-1995).
Xuất phát từ chủ trương đó, Chính phủ đã có những đánh giá đúng tầm
quan trọng của công tác xuất khẩu lao động (XKLĐ) trong vấn đề giải quyết
việc làm, từ đó đ
ã có những định hướng đúng đắn:"Đẩy mạnh dịch vụ XKLĐ
và các dịch vụ thu ngoại tệ khác với sự tham gia của các thành phần kinh tế".
Thực tiễn một vài năm gần đây lĩnh vực XKLĐ đã góp phần đáng kể trong
vấn đề giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ lao động, tạo sự ổn
định cho xã hội, mặt khác mang lạ
i nguồn thu ngoại tệ lớn cho quốc gia, tăng
thu nhập cho người lao động và gia đình họ, XKLĐ đã đứng vào hàng " Câu
lạc bộ những mũi nhọn xuất khẩu đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỉ USD/năm
trở lên".

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng





2
Bên cạnh những kết quả đạt được đáng khích lệ, hoạt động XKLĐ của
ta cũng bộc lộ nhiều hạn chế cần phải được khắc phục để lĩnh vực này phát
huy hơn nữa thế mạnh sẵn có của đất nước.
Đánh giá được tầm quan trọng của hoạt động XKLĐ trên cả hai khía
cạnh Kinh tế - Văn hoá, xã hội nên việc nghiên cứ
u thực trạng và đề ra những
giải pháp nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của hoạt động này là việc làm
hết sức cần thiết. Vì những lý do đó cho nên khi được sự đồng ý của các thầy,
các cô trong khoa Kinh tế ngoại thương - Đại học Ngoại thương Hà nội, tôi đã
chọn lĩnh vực này làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Do mọi hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩ
u lao động đều có liên quan
đến con người vì vậy rất phức tạp và nhạy cảm, đây đồng thời cũng là một đề
tài rất rộng. Tuy nhiên do hạn chế về thời gian và khuôn khổ bài viết nên khoá
luận này chỉ đi vào 3 vấn đề chính theo từng chương cụ thể sau:
*Tên đề tài: Xuất khẩu lao động Việt Nam- Thực trạng và triển vọng
đến 2010.
+ Chương I : Cơ s
ở lý luận của hoạt động xuất khẩu lao động.
+ Chương II : Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam giai
đoạn từ 1990 trở lại đây.
+ Chương III : Định hướng và triển vọng xuất khẩu lao động của
Việt Nam giai đoạn từ 2003 - 2010.

* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu : Ngoài phần lý thuyết, khoá luận chủ yếu
đi sâu vào thự
c trạng của ngành từ đó tìm ra những yếu kém và đề xuất những
giải pháp.

+ Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu của khoá luận được
tổng hợp từ nhiều phương pháp khác nhau như: Phương pháp tổng hợp và
phân tích; Phương pháp thống kê và so sánh...kết hợp nghiên cứu lý luận với
phân tích thực tiễn.

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




3
Để hoàn thành được khoá luận này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ hết sức
tận tình của PGS.TS Nguyễn Phúc Khanh giáo viên hướng dẫn, Trung tâm
thông tin tư vấn XKLĐ và Chuyên gia (Cục quản lý lao động với nước
ngoài), Công ty Dịch vụ xuất khẩu lao động và Chuyên gia Thanh Hóa, cùng
bạn bè. Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy hướng dẫn và mọi người đã giúp tôi
trong thời gian qua để tôi có thể hoàn thành được bài viết này.
Do thời gian và khả năng trình độ
có hạn nên khoá luận này còn nhiều
hạn chế và thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các
thầy,các cô và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, tháng 04 năm 2003.

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng





4
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
1.1. Một số khái niệm
Hơn 30% lực lượng lao động (khoảng trên 1 tỷ người) trên Thế giới
thiếu việc làm trong đó 150 triệu người không có cơ hội kiếm sống bằng sức
lao động của bản thân. Theo ước tính của Tổ chức lao động quốc tế (ILO),
khoảng 60 triệu lao động trong độ tuổi từ
15- 24 không thể tìm được việc làm.
Hiện nay tình hình kinh tế Mỹ đang có dấu hiệu suy giảm, kinh tế Nhật phục
hồi còn mỏng manh, kinh tế Châu Phi và Mỹ Latinh còn tụt hậu về sản xuất...
khó đảm bảo tạo ra việc làm cho 500 triệu việc làm vào năm 2010. Điều đó
cho thấy việc làm là một trong những vấn đề kinh tế xã hội có tính chất toàn
cầu, chứ không phải của riêng bất kỳ quố
c gia nào. Bởi an toàn việc làm, cùng
với an toàn về lương thực và môi trường là những yếu tố cơ bản nhất cho sự
phát triển bền vững.
Ở các nước đang phát triển, do tỉ lệ tăng dân số còn cao giải quyết việc
làm cho người đến tuổi lao động là một gánh nặng cho các quốc gia. Do đó
cùng với các biện pháp khác, xuất khẩu lao động trở thành vấn đề có ý nghĩa
chiến lược.
Để có thể đi sâu nghiên cứu lĩnh vực hoạt động vừa mang tính
chất kinh tế, vừa mạng tính chất xã hội này chúng ta cần chú trọng một số
khái niệm có liên quan trong lĩnh vực lao động, việc làm sau:
1.1.1. Nguồn lao động
Là nguồn lực về con người bao gồm số lượng dân cư trong độ tuổi lao
động và có khả năng lao động. Nguồn lao động được nghiên cứu ở đây là
nhằm vào khía cạnh khác: Tr
ước hết nó là nguồn cung cấp sức lao động cho

xã hội, sau nữa xét về khía cạnh kinh tế - xã hội, nó là khả năng lao động của
xã hội.
Ngoài ra, còn có thể hiểu nguồn lao động là tổng hợp cá nhân những
con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về vật

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




5
chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Nguồn lao động bao
gồm những người từ độ tuổi lao động trở lên (ở nước ta là tròn 15 tuổi).
1.1.2. Lao động
Là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi các
vật thể tự nhiên phù hợp với lợi ích của mình. Lao động là sự vận dụng sức
lao động trong quá trình tạo ra của cải vật chất, là quá trình kết hợ
p giữa sức
lao động và tư liệu sản xuất.
1.1.3. Sức lao động
Là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong qúa trình tạo ra của
cải xã hội, phản ánh khả năng lao động của con người, là điều kiện đầu tiên
cần thiết trong quá trình lao động xã hội.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường sức lao động cũng là một
loạ
i hàng hóa và cũng được trao đổi trên thị trường ngoài nước. Sức lao động
là một loại hàng hóa đặc biệt không chỉ vì sự khác biệt với hàng hóa thông
thường là khi sử dụng nó sẽ tạo ra một giá trị lơn hơn giá trị bản thân nó, mà
còn được thể hiện ở chất lượng hàng hóa này phụ thuộc chặt chẽ vào một loạt

các nhân tố có tính đặc thù. Chất lượng của hàng hóa sức lao động ở đây
được
phản ánh ở khả năng dẻo dai, bền bỉ trong lao động của người lao động, khả
năng thành thạo và sáng tạo trong công việc và khối lượng công việc hoặc sản
phẩm được hoàn thành bởi Người lao động trong một đơn vị thời gian.
1.1.4. Việc làm
Theo quy định của Bộ luật lao động: Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu
nhập, không bị pháp luật cấm đều đượ
c thừa nhận là việc làm.
- Tỷ lệ người có việc làm so với dân số hoạt động kinh tế được tính
theo công thức:
Tvl (%) = Nvl/Dkt
Trong đó: .Tvl: % người có việc làm
. Nvl: Số người có việc làm

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




6
. Dkt: Dân số hoạt động kinh tế
1.1.5. Thất nghiệp
Là tình trạng người có sức lao động, từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm
hoạt động kinh tế tại thời điểm điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu
tìm việc.
- Tỉ lệ người thất nghiệp so với dân số hoạt động kinh tế được tính theo
công thức:
Ttn (%) =Ntn/Dkt

Trong đó: . Ttn: Tỷ lệ thất nghiệp
. Ntn: Số người thất nghiệp
. Dkt: Dân số hoạt động kinh tế
1.1.6. Thị trường lao động
Là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hoá sức lao động giữa một bên là những
người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động
đó. Thị trường lao động là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế
thị
trường và chịu sự tác động của hệ thống quy luật của nền kinh tế thị trường.
Một thị trường lao động tốt là thị trường mà ở đó lượng cầu về lao động
tương ứng với lượng cung về lao động.
- Cầu lao động là lượng lao động mà người thuê có thể thuê ở mỗi mức
giá có thể chấp nhận được. Nó mô tả
toàn bộ hành vi người mua có thể mua được
hàng hóa sức lao động ở mỗi mức giá hoặc ở tất cả các mức giá có thể đặt ra.
Cầu về sức lao động có liên quan chặt chẽ tới giá cả sức lao động (tiền
lương), khi giá cả tăng ( hoặc giảm) sẽ làm cho cầu về lao động giảm (hoặc tăng).
- Cung về lao động là lượng lao động mà người làm thuê có thể chấp
nh
ận được ở mỗi mức giá nhất định. Giống như cầu và lượng cầu, đường
cung lao động mô tả toàn bộ hành vi của người đi làm thuê khi thoả thuận ở
các mức giá đặt ra. Cung lao động có quan hệ tỷ lệ thuận với giá cả. Khi giá
cả tăng, lượng cung lao động sẽ tăng và ngược lại

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng





7
- Điểm cân bằng cung - cầu là điểm gặp nhau của đường cung- cầu
(điểm E). Tại đó lượng cầu bằng lượng cung (hình 1.1).







(Hình 1.1)
1.1.7. Xuất khẩu lao động
Là một hiện tượng kinh tế - xã hội, chính thức xuất hiện từ cuối thế kỷ
19. Trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, xuất khẩu lao động
trở nên rất phổ biến và trở
thành xu thế chung của Thế giới.
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về định nghĩa xuất khẩu lao động
(XKLĐ). Nếu như trước đây với thuật ngữ " hợp tác quốc tế lao động",
XKLĐ được hiểu là sự trao đổi lao động giữa các quốc gia thông qua các hiệp
định được thoả thuận và ký kết giữa các quốc gia đó hay là sự di chuyển lao
động có thời hạn giữa các quố
c gia một cách hợp pháp và có tổ chức. Trong
hành vi trao đổi này, nước đưa lao động đi được coi là nước XKLĐ, còn nước
tiếp nhận sử dụng lao động thì được coi là nước nhập khẩu lao động.
Ngày nay với cách sử dụng thống nhất thuật ngữ XKLĐ để nhấn mạnh
hơn đến tính hiệu quả kinh tế cuả hoạt động này, từ các khái niệm trên có thể
hiểu:
XKLĐ là ho
ạt động kinh tế của một quốc gia thực hiện việc cung ứng
lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định hoặc hợp đồng có

tính chất pháp quy được thống nhất giữa các quốc gia đưa và nhận lao động.

W
W*
L* L
SS
L

DD
L

E
O

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




8
Trong nền kinh tế thị trường, XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối
ngoại, mang đặc thù của xuất khẩu nói chung. Thực chất XKLĐ là một hình
thức di cư quốc tế. Tuy nhiên, đây chỉ là sự di cư tạm thời và hợp pháp.

1.2. Các hình thức xuất khẩu lao động
1.2.1. Chia theo hàng hóa sức lao động
 Xuất khẩu lao động có nghề: Là loại lao động trước khi ra nước ngoài làm
việc đ
ã được đào tạo thành thạo một loại nghề nào đó và khi số lao động

này ra nước ngoài làm việc có thể bắt tay ngay vào công việc mà không
phải bỏ ra thời gian và chi phí để đào tạo nữa.
 Xuất khẩu lao động không có nghề: Là loại lao động mà khi ra nước ngoài
làm việc chưa được đào tạo một loại nghề nào cả. Loại lao động này thích
hợp với những công việc đơn giản, không cầ
n trình độ chuyên môn hoặc
phía nước ngoài cần phải tiến hành đào tạo cho mục đích của mình trước
khi đưa vào sử dụng.
1.2.2. Chia theo cách thức thực hiện
 Xuất khẩu lao động trực tiếp là hình thức các công ty cung ứng lao động
trực tiếp cho các chủ sử dụng ở nước ngoài thông qua hợp đồng cung ứng
đi làm việc ở nước ngoài.
 Người lao động trực tiếp ký với cá nhân, t
ổ chức nước ngoài nhưng khi
làm thủ tục phải thông qua một doanh nghiệp chuyên doanh về XKLĐ để
thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm với nhà nước.
 XKLĐ tại chỗ là hình thức người lao động làm việc cho các xí nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài; các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ
cao; các tổ chức, cơ quan ngoại giao của nước ngoài đóng tại nước của
người lao độ
ng
1.2.3. Các hình thức XKLĐ mà nước ta đã sử dụng

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




9

Trong quá trình phát triển lĩnh vực XKLĐ, với chỉ hơn 20 năm kinh
nghiệm nước ta bước đầu đã áp dụng được một số hình thức khác nhau trong
hoạt động XKLĐ như:
Đưa lao động đi bồi dưỡng, học nghề, nâng cao trình độ và làm việc có
thời gian ở nước ngoài. Đây là hình thức được chúng ta thực hiện chủ yếu
trong giai đoạn 1980 -1990. Thông qua việc ký hiệp định hợp tác, sử dụng lao
động với các nước: Liên xô (cũ), CHDC Đức, Tiệp Khắc trước đây, lao động
của nước ta ở tại các nước này được sống, sinh hoạt theo đoàn, đội, có sự
quản lý thống nhất từ trên xuống dưới và làm việc xen ghép với lao động của
các nước. Đây là hình th
ức được áp dụng cho cả hai đối tượng là lao động có
nghề và lao động không có nghề.
Hợp tác lao động và chuyên gia
: Đây là hình thức được áp dụng đối với
các nước Trung Đông và Châu Phi trong việc cung ứng lao động và chuyên
gia sang làm việc tại một số nước. Số lao động này có thể đi theo các đoàn,
đội hay các nhóm, cá nhân…
Đưa lao động đi làm tại các công trình doanh nghiệp Việt Nam nhân
thầu khoán xây dựng, liên doanh hay liên kết tạo ra sản phẩm ở nước ngoài
hay đầu tư ra nước ngoài. Hình thức này được áp dụng chủ yếu trong lĩnh vực
xây dựng. Đây là hình thức người lao động thuộc quyền quản lý của các
doanh nghiệp Việt Nam được đi nước ngoài làm việc đồng bộ tại các công
trình cho doanh nghiệp Việt Nam.
Cung ứng lao động trực tiếp theo các yêu cầu của công ty nước ngoài
thông qua các hợp đồng lao động được ký kết bởi các doanh nghiệp Việt Nam
làm dịch vụ cung ứng lao động. Được hình thành từ sau khi có nghị định
370/HĐBT ngày 9/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) hình
thức này đã trở nên phổ biến nhất hiện nay. Việc cung ứng lao động cho các
tổ chức, cá nhân nước ngoài chủ yếu được giao cho các tổ chức kinh tế có
chức năng đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Đây là các doanh


Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




10
nghiệp chuyên doanh về XKLĐ, được Nhà nước cấp giấy phép hành nghề,
thực hiện việc ký kết, đưa lao động đi nước ngoài làm việc và quản lý số lao
động đó theo quy định của Nhà nước. Hình thức này đòi hỏi đối tượng lao
động tương đối đa dạng, tuỳ theo yêu cầu và mức độ phức tạp của công việc
mà bên nước ngoài yêu cầu lao động giản đơn hay lao động có tay nghề cao.
Người lao động trực tiếp ký với cá nhân, tổ chức nước ngoài nhưng khi
làm thủ tục phải thông qua một doanh nghiệp chuyên doanh về XKLĐ để
thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm với nhà nước, với tổ chức kinh tế đưa đi
và cũng là để đảm bảo quyền lợi cho người lao động trong quá trình làm việc
ở nước ngoài. Hình thức này hiện nay ở nước ta chưa phổ biến lắm. Do người
lao động vẫn chưa có nhiều cơ hội để tiếp xúc và tìm hiểu về các công ty
nước
ngoài đang cần thuê lao độ
ng một cách trực tiếp và phổ biến.
XKLĐ tại chỗ
là hình thức các tổ chức kinh tế của ta cung ứng lao
động cho các tổ chức kinh tế nước ngoài ở Việt Nam, bao gồm: Các xí nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài; các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ
cao; các tổ chức, cơ quan ngoại giao của nước ngoài tại Việt Nam.

1.3. Những đặc điểm của xuất khẩu lao động và thị trường thế giới về
xuất khẩu lao động

1.3.1.
Đặc điểm của hoạt động XKLĐ
* XKLĐ là một hoạt động kinh tế
Ở nhiều nước trên thế giới, XKLĐ là một trong những giải pháp quan
trọng thu hút lực lượng lao động đang tăng lên của nước họ và thu ngoại tệ
bằng hình thức chuyển tiền về nước của người lao động và các lợi ích khác.
Những lợi ích này đã buộc các nước xuất khẩ
u phải chiếm lĩnh ở mức cao
nhất thị trường lao động ở nước ngoài, mà việc chiếm lĩnh được hay không lại
dựa trên quan hệ cung cầu sức lao động - nó chịu sự điều tiết, sự tác động của

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




11
các quy luật của kinh tế thị trường. Bên cung phải tính toán mọi hoạt động
của mình làm sao để bù đắp được chi phí và có phần lãi vì vậy cần phải có cơ
chế thích hợp để tăng khả năng tối đa về cung lao động. Bên cầu cũng phải
tính toán kỹ lưỡng hiệu quả của việc nhập khẩu lao động.
Như vậy, việc quản lý Nhà nước, sự điều ch
ỉnh pháp luật luôn luôn
bám sát đặc điểm này của hoạt động XKLĐ: Làm sao để mục tiêu kinh tế phải
là mục số 1 của mọi chính sách pháp luật về XKLĐ.
* Xuất khẩu lao động là một hoạt động thể hiện rõ tính chất xã hội
Thực chất, XKLĐ không tách rời khỏi người lao động. Do vậy, mọi
chính sách pháp luật trong lĩnh vực XKLĐ phải kết hợp với các chính sách xã
hộ

i: Phải đảm bảo làm sao để người lao động ở nước ngoài được lao động
như cam kết trong hợp đồng lao động, cũng như đảm bảo các hoạt động công
đoàn… hơn nữa, người lao động xuất khẩu dẫu sao cũng chỉ có thời hạn, do
vậy, cần phải có những chế độ tiếp nhận và sử dụng người lao động sau khi
họ hoàn thành hợp đồng lao độ
ng ở nước ngoài và trở về nước.
* XKLĐ là sự kết hợp hài hoà giữa sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và sự chủ
động, tự chiụ trách nhiệm của tổ chức XKLĐ đưa người lao động đi làm việc
ở nước ngoài.
XKLĐ thực hiện trên cơ sở hiệp định, thoả thuận nguyên tắc của các
Chính phủ và trên cơ sở của hợp đồ
ng cung ứng lao động.
Nếu như trước đây (giai đoạn 1980 - 1990), Việt Nam tham gia thị
trường lao động quốc tế đã xuất khẩu lao động của mình qua các hiệp định
song phương, trong đó quy định khá chi tiết về điều kiện lương, ăn ở, đi lại,
bảo vệ người lao động ở nước ngoài. Nghĩa là, về cơ bản Nhà nước vừa thực
hiệ
n quản lý Nhà nước về hợp tác lao động, vừa quản lý sự nghiệp hợp tác lao
động với nước ngoài, Nhà nước làm thay cho các tổ chức kinh tế cụ thể.
Ngày nay, trong cơ chế của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì hầu
như toàn bộ hoạt động xuất khẩu lao động đều do các tổ chức xuất khẩu lao

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




12
động thực hiện trên cơ sở hợp đồng đã ký. Đồng thời, các tổ chức xuất khẩu

lao động cũng chịu trách nhiệm tổ chức đưa đi và quản lý người lao động, tự
chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh tế trong hoạt động xuất khẩu lao động. Và
như vậy, các hiệp định, các thoả thuận song phương chỉ có tính nguyên tắc,
thể hiện vai trò và trách nhiệ
m Nhà nước ở tầm vĩ mô.
* XKLĐ diễn ra trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Tính gay gắt trong cạnh tranh của XKLĐ xuất phát từ hai nguyên nhân
chủ yếu. Một là, xuất khẩu lao động mang lại lợi ích kinh tế khá lớn cho các
nước đang có khó khăn về giải quyết việc làm. Do vậy, đã buộc các nước xuất
khẩu lao động phải cố gắng tối đa để chiế
m lĩnh thị trường ngoài nước. Nghĩa
là, họ phải đầu tư nhiều cho chương trình marketing, cho chương trình đào
tạo, tập huấn nhằm tăng giá trị sử dụng của sức lao động. Hai là, XKLĐ đang
diễn ra trong môi trường suy giảm kinh tế trong khu vực. Nhiều nước trước
đây thu nhận nhiều lao động nước ngoài như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan
và một số thị tr
ường các nước Châu Phi…cũng đang phải đối đầu với tỷ lệ
thất nghiệp ngày càng gia tăng. Mặt khác các thị trường trọng điểm nhập
nhiều lao động đã bị các nước khác chiếm lĩnh từ nhiều năm trước. Điều này
hạn chế rất lớn đến việc tiếp nhận lao động nước ngoài trong thời gian từ 5 -
10 năm đầu của thế
kỷ 21.
Như vậy, các chính sách và pháp luật của Nhà nước cần phải lường
trước được tính chất gay gắt trong cạnh tranh xuất khẩu lao động để có
chương trình dài hạn cho marketing, đào tạo nguồn lao động chất lượng cao
để xuất khẩu.
* Phải bảo đảm lợi ích của ba bên trong quan hệ xuất khẩu lao động
Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động lợi ích kinh tế của Nhà nước là
kho
ản ngoại tệ mà người lao động gửi về và các khoản thuế. Lợi ích của các

tổ chức xuất khẩu lao động là các khoản thu được chủ yếu từ các loại phí giải
quyết việc làm ngoài nước. Còn lợi ích của người lao động là khoản thu nhập

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




13
thường là cao hơn nhiều so với lao động ở trong nước. Chính vì chạy theo lợi
ích mà các tổ chức xuất khẩu lao động có quyền đưa người lao động và
chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài rất dễ vi phạm quy định của Nhà nước,
nhất là việc thu các loại phí dịch vụ. Từ chỗ các quyền lợi của người lao động
bị vi phạm sẽ khiến cho việc làm ngoài nước không thật hấp d
ẫn người lao
động.
Ngược lại, cũng vì chạy theo thu nhập cao mà người lao động rất dễ vi
phạm những hợp đồng đã ký kết, như hiện tượng bỏ hợp đồng ra làm việc bên
ngoài…Do vậy, các chế độ, chính sách phải tính toán sao cho đảm bảo được
sự hài hoà lợi ích của các bên, trong đó phải thật chú ý đến lợi ích trực tiếp
của người lao động.
* Xuất khẩu lao độ
ng là hoạt động đầy biến đổi
Hoạt động xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào nước có nhu cầu nhập
khẩu lao động do vậy cần phải có sự phân tích toàn diện các dự án ở nước
ngoài đang và sẽ được thực hiện để xây dựng chính sách và chương trình đào
tạo giáo dục định hướng phù hợp và linh hoạt. Chỉ có những nước nào chuẩn
bị được độ
i ngũ công nhân với tay nghề thích hợp mới có điều kiện thuận lợi

hơn trong việc chiếm lĩnh thị phần lao động ở ngoài nước. Và cũng chỉ có
nước nào nhìn xa, trông rộng, phân tích đánh giá và dự đoán đúng tình hình
mới không bị động trước sự biến đổi của tình hình từ đó đưa ra được chính
sách đón đầu trong hoạt động xuất khẩu lao động.
1.3.2. Đặc đ
iểm của thị trường Thế giới về xuất khẩu lao động
Trong những năm qua, do tình hình kinh tế - chính trị trên thế giới có
nhiều biến động ảnh hưởng tới hầu hết các nền kinh tế của các quốc gia. Tình
hình XKLĐ vì vậy, cũng có những thay đổi lớn. Tổng số lao động được xuất
khẩu trên thế giới vẫn đang ngày một tăng lên. Tuy nhiên, tỷ lệ phân b
ố lao
động xuất khẩu ở các quốc gia và tỷ trọng nghề XKLĐ thì thay đổi rất nhiều.

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




14
Tại các quốc gia phát triển, ngày một nhiều hơn lao động nước ngoài
tới làm việc, chủ yếu là lao động từ các quốc gia đang phát triển ở Châu Á và
Châu Phi.
Tại EU, thời gian vừa qua hàng năm có 4,2 triệu công nhân lành nghề
của nước ngoài tới làm việc, tại Mỹ hàng năm tiếp nhận khoảng 500.000
người, trong đó có một số lao động lành nghề
*

XKLĐ chủ yếu phát triển mạnh và là một mũi nhọn của thị trường
Châu Á. Là Châu lục có tổng dân số cao nhất thế giới, thời gian qua, để giải

quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập quốc gia, thị trường
Châu Á đã tiến hành phát triển rất nhiều chương trình thúc đẩy tạo việc làm
cho người ---------------
Nguồn: Nghiên cứu kinh tế số 260 tháng 01/2000

lao động trong đó có chủ trương khuyến khích phát triển lĩnh vực XKLĐ.
Ước tính trên phạm vi toàn thế giới, số lao động Châu Á tham gia XKLĐ chiếm
từ 60% đến 85% trong đó có các nước XKLĐ với số lượng lớn là: Trung Quốc,
Băngladet, Ấn Độ, Srilanka, Pakistan, Indonesia, Philippin, Thái Lan…
Theo báo cáo của Cơ quan tư vấn Rủi ro về kinh tế và Chính trị, Trung
Quốc và Ấn Độ hiện nay đang là những quốc gia giữ vị trí thố
ng trị về lực
lượng lao động ở Châu Á nói riêng và cả thế giới nói chung. Đây cũng là
những quốc gia có số lao động tay nghề cao với chi phí tương đối thấp đang
thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Chỉ tính riêng năm 1999, Trung Quốc đã
xuất khẩu được khoảng 50.000 lao động làm việc tại hơn 20 quốc gia trên thế
giới. Tại các nền kinh tế phát triển cao như Mỹ và Australia mặc dù được xế
p
thứ hai và thứ ba sau Nhật Bản khi nói về lao động có kỹ năng về kỹ thuật và
quản lý, nhưng về phát triển lực lượng lao động các quốc gia này cũng chỉ
được xét ở mức trung bình. Trong khi đó Trung Quốc và Ấn Độ đang tạo
thêm một phạm vi mới về thị trường lao động Châu Á và sự nổi lên của họ đặt
ra một thách thức lớn đối với hầu h
ết các quốc gia trên thế giới.

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng





15
Đối với các nước Châu Á - Thái Bình Dương việc XKLĐ được quan
tâm đặc biệt. Hướng XKLĐ của các nước này trong những năm qua chủ yếu
tập trung vào các thị trường Trung Đông như: Arập Saudi, CôOét, Ôman,
Tiểu vương quốc Arập thống nhất… ở những nước này tỉ lệ lao động Châu Á
chiếm từ 58% đến 92% số lao động nước ngoài làm việc.
Ở khu vực Đông Nam Á, sau hậu quả nặ
ng nề của khủng hoảng kinh tế
khu vực, khu vực này hiện nay đang là những nước có tình trạng lao động khó
khăn nhất. Malaysia, Thái Lan, Philippin đều là những quốc gia có số lượng
lao động lớn nhưng gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển lao động
quốc gia. Ở Philippin mặc dù lực lượng lao động có sức cạnh tranh về kỹ
thuật, nhưng các vấn đề khác như cuộc nổi dậ
y của quân Hồi Giáo ly khai và
cuộc khủng hoảng con tin kéo dài năm 1999 đã và đang ngăn cản nước này
tận dụng đầy đủ lợi thế của nguồn tài sản nhân lực trong lĩnh vực XKLĐ.
Trong khi đó tại Malaysia và Thái Lan lại đang thiếu trầm trọng nguồn lao
động giỏi về kỹ thuật mà không có lợi thế nào về lao động sản xuất về mặt
chất lượng và chi phí để so sánh v
ới Trung Quốc và Ấn Độ. Tuy nhiên, do
biết cách khai thác lợi thế sẵn có, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của các thị trường
thuê lao động tốt hơn so với các quốc gia khác nên trong những năm qua, tỉ lệ
XKLĐ ở các nước này vẫn đang ngày một tăng cao.
Bên cạnh đó, để cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường lao động quốc
tế, các nước đều cố gắng phát huy lợi thế c
ủa mình, khiến cho hình thức và
cách tiến hành xuất khẩu lao động hết sức phong phú và đa dạng. Nếu như
dịch vụ giúp việc gia đình là thế mạnh của Philippin ( chiếm gần1/2 tổng số
7,5 triệu lao động ở nước ngoài) thì XKLĐ theo công trình trúng thầu là thế

mạnh của Trung Quốc. Một số nước lại cùng một lúc vừa xuất khẩu vừa nhập
khẩu lao động, ví dụ như Thái Lan cho phép hàng ch
ục ngàn người dân
Myanma sang làm thuê cho nông dân Thái Lan, trong khi nông dân Thái Lan
tràn vào thành phố làm việc, còn dân thành thị lại đi tìm việc ở nước ngoài
với mức thu nhập cao hơn. Ấn Độ mỗi năm đưa khoảng 50.000 lao động đi

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




16
làm việc ở nước ngoài, trong đó khuyến khích XKLĐ có tri thức, tay nghề cao
(30% lực lượng lao động ở khu vực công nghệ cao - Thung lũng Silicon của
Mỹ là người có quốc tịch hoặc gốc Ấn Độ), nhưng Ấn Độ cũng nhập cư hàng
chục nghìn người lao động Nepan, Bangladesh. Nhiều sinh viên, thanh niên
Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan sang Mỹ, Tây Âu, Australia, New Zeland để du
học và tìm việc trong khi những nước họ lại là những nước tiế
p nhận nhiều
lao động từ các nước Châu Á đến làm việc *



--------------------
* Nguồn: Tạp chí việc làm ngoài nước số 2 /2000

1.4. Những lợi ích về kinh tế và xã hội của việc XKLĐ
1.4.1. Lợi ích về mặt kinh tế

Xuất khẩu lao động đã được các Nghị định của Đảng và Chính phủ
nhiều lần đề cập. Nhiều nước trên thế giới coi trọng XKLĐ, XKLĐ vừa ích
nước vừa lợi nhà, vì nó là mong muốn không chỉ của Chính phủ mà là của
mọi người lao động.
Hiện nay ngườ
i lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hai hình thứ
chủ yếu; một là, tự các nhân tìm tìm kiếm việc làm ngoài nước; hai là, thông
qua các doanh nghiệp XKLĐ theo hợp đồng cung ứng lao động hoặc hợp
đồng nhận thầu, liên doanh liên kết, đầu tư ra nước ngoài. Trên góc độ lợi ích
kinh tế, hoạt động xuất khẩu lao động được xem xét theo 3 chủ thể tham gia
đó là Người lao động, Doanh nghiệp là XKLĐ và Nhà nước.
 L
ợi ích của người lao động: Tăng thu nhập cho người lao động
Thu nhập là mục tiêu hàng đầu của người lao động đi làm việc có thời hạn
ở nước ngoài. Tuỳ theo luật pháp và thu nhập bình quân của nước sử dụng lao
động, người lao động đi làm việc theo các ngành nghề được tuyển chọn trong
thời hạn nhất định và được hưởng một khoản thu nhập được qui định trong

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




17
hợp đồng lao động. Thu nhập của người lao động có xu hướng tăng lên hàng
năm trên cơ sở năng xuất lao động của họ. Như vậy sau hai năm làm việc, nếu
người lao động hoàn thành các cam kết theo hợp đồng đã ký giữa người sử
dụng lao động với công ty XKLĐ thì người lao động có thể tích lũy được một
khoản tiền tương đối lớn, Tính chung người lao động

đi làm ở nước ngoài
bình quân thu nhập bằng 10 - 15 lần so với thu nhập trong nước. Bình quân
sau mỗi hợp đồng thường là 2 năm một người lao động tiết kiệm được số
ngoại tệ tương đương khoảng 100 triệu đồng mang về nước, Với số tiền tích
luỹ được, nhiều người lao động không chỉ xóa được nghèo mà còn có khả
năng đầu tư vào sản xuất kinh doanh, phát triển sản xu
ất, ổn định kinh tế, tạo
thêm nhiều việc làm mới góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động
khác khi tái hòa nhập cộng đồng.
 Lợi ích của doanh nghiệp XKLĐ: Tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp
Theo sự phân công lao động xã hội, các tổ chức hoạt động XKLĐ là chủ
thể quan trọng nhất quyết định sự thực hiện thành công hay thất bại chiến
lược xuấ
t khẩu lao động trong giai đoạn hiện nay.
Nói cách khác, doanh nghiệp XKLĐ là nơi tạo ra lợi ích cho người lao
động và hiệu quả kinh tế quốc dân cho Nhà nước. Thông thường, khi hoàn
thành dịch vụ của mình tổ chức xuất khẩu lao động nhận được một khoản chi
phí dịch vụ từ tiền lương cơ bản của người lao động khoản từ 10 - 18% tuỳ
theo ngành nghề. Khoản thu này đủ để các tổ ch
ức XKLĐ trang trải các
khoản chi phí khai thác và tìm kiếm thị trường, tuyển chọn lao động, duy trì
bộ máy hoạt động và thực hiện nghĩa vụ với ngân sách theo luật định.
 Lợi ích của Nhà nước: Nhà nước tiết kiệm được chi phí đầu tư cho giải
quyết việc làm trong nước; tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
XKLĐ được coi là một hướng giải quyết việc làm cho ng
ười lao động và
thu ngoại tệ về cho đất nước. Theo kết quả điều tra nếu không tính đến giá trị
quyền sử dụng đất để xây dựng địa điểm làm việc thì muốn tạo ra một việc

Khoá luận tốt nghiệp

Lê Văn Tùng




18
làm trong nước phải đầu tư tối thiểu từ 45 đến 50 triệu đồng, như vậy thông
qua XKLĐ hàng năm Nhà nước đã tiết kiệm được một lượng vốn đầu tư tạo
chỗ làm mới cho người lao động, một con số đáng phải suy nghĩ trong hoàn
cảnh ngân sách của các quốc gia luôn trong tình trạng bội chi. Mức đầu tư chi
phí quản lý Nhà nước, mức bình quân cho một lao động mỗi n
ăm khoảng 30
USD và thu về cho ngân sách khoảng 37,6 USD, quả là chưa có suất đầu tư
nào có lợi như vậy. Ngân sách Nhà nước thu hàng trăm triệu USD qua phí bảo
hiểm xã hội, thuế thu nhập cao, thuế doanh thu của doanh nghiệp XKLĐ tính
trên số tiền phí dịch vụ thu từ người lao động, lệ phí cấp giấy phép hoạt động
XKLĐ, lệ phí cấp giấy phép thực hiện hợp đồng, lệ phí cấp hộ chiếu.....
Ở nước ta, riêng bốn năm 1991 -1994, 14.000 lao động được các tổ
chức dịch vụ hợp tác lao động đưa đi đã thu về cho Nhà nước khoảng 300
triệu USD. Hai năm 1996 - 1997, Việt Nam có khoảng 50.000 lao động làm
việc ở nước ngoài đã gửi về nước 350 triệu USD. Nếu tính cả số lao động của
ta đi theo các hình thức khác nhau đang làm việc ở nước ngoài thì con số lao
động vào khoảng 250.000, thu nhập hàng năm lên tới kho
ảng 1 tỷ USD. Chỉ
tính riêng năm 2002 người lao động đi làm việc ở nước ngoài có khoản thu
nhập gửi về nước khoảng 1,4 tỷ USD. Đây là con số mà chỉ một số ít ngành
sản xuất đạt được.
Bảng 1.1: Kết quả hoạt động xuất khẩu lao động giai đoạn 1991 - 1999
Năm
Số lao động xuất khẩu

(người)
Số ngoại tệ thu về (1.000 USD)
1992 810 6.800
1991 1.020 2.500
1993 3.960 15.800
1994 9.230 43.100
1995 10.050 77.900
1996 12.660 100.800
1997 18.470 129.200

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




19
1998 12.240 148.300
1999 20.700 150.800
Tổng cộng 89.140 675.200
(chỉ tính số thu ngoại tệ ngoại tệ qua các tổ chức lao động đưa đi).
Nguồn: Tạp chí kinh tế Châu Á Thái Bình Dương số 2(31)4/2001
Doanh thu từ XKLĐ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của
những đơn vị hoạt động ở lĩnh vực này. Theo báo cáo của một số doanh
nghiệp tỷ suất lợi nhuận bình quân trên doanh thu của hoạt động XKLĐ đạt
khoảng 15 - 20%.
1.4.2. Lợ
i ích xã hội
Trong điều kiện nền sản xuất trong nước còn lạc hậu, nhiều doanh
nghiệp còn gặp không ít khó khăn lúng túng trong cơ chế thị trường cạnh

tranh khốc liệt, ngân sách Nhà nước dành cho đầu tư để tạo mới công ăn việc
làm còn rất hạn chế thì việc xuất khẩu lao động đã tạo việc làm cho hàng vạn
người lao động, góp phần giải quyết việc làm cho toàn xã hội đặ
c biệt là lực
lượng thanh niên, giải quyết tình trạng ứ đọng lao động, giải quyết về sức ép
việc làm cho đất nước, giảm được các tệ nạn xã hội do người lao động không
có việc làm gây nên " nhàn cư vi bất thiện".
Thông qua XKLĐ người lao động đi làm việc ở nước ngoài được nâng
cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, tiếp thu được những công nghệ
tiên tiến, tác phong làm việc công nghiệp, hình thành nên
đội ngũ lao động có
trình độ tay nghề chuyên môn cao. Lao động Việt Nam cần cù khéo léo, thông
minh ham học hỏi, có thể nhanh chóng tiếp thu các kiến thức về khoa học kỹ
thuật nhanh chóng thích ứng với công nghệ sản xuất hiện đại. Đa số lao động
Việt Nam trước khi đi XKLĐ không có tay nghề chỉ sau 2 năm làm việc đã có
thể đạt được tối thiểu bậc thợ trung bình. sau khi trở về nước phần l
ớn trong
số họ có tay nghề vững vàng, đây là điều kiện để đáp ứng các yêu cầu của sự
nghiệp CNH - HĐH đất nước khi họ trở về

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




20
Người Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài cũng góp phần
làm tăng cường sự hiểu biết từ phong tục tập quán đến lối sống của các nước,
các dân tộc trên thế giới. Bằng tài năng và trí tuệ của mình người lao động

Việt Nam đã tạo ra những của cải vật chất có giá trị cùng người lao động
nước sở tại tích cực lao động góp ph
ần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế
của nước nhập khẩu lao động, và thông qua XKLĐ người Việt Nam của ta
cũng làm cho nhân dân bạn hiểu biết thêm về đất nước và con người Việt
Nam, góp phần làm công tác "ngoại giao nhân dân", tăng cường quan hệ hợp
tác giữa nước ta với các nước trên thế giới.
1.4.3. Các chỉ tiêu đánh giá lợi ích của hoạt động XKLĐ
Lợi ích đạt được

* Số lượng lao động được giải quyết việc làm trong năm
Công thức tính:

L = Lc + Lx - Ln
Trong đó:
L: Số lao động được giải quyết việc làm trong năm
Lc: Số lao động từ năm trước vẫn còn đang tiếp tục
Lx: Số lao động được đưa sang hoạt động trong năm
Ln: Số lao động kết thúc hợp đồng trở về nước trong năm
Ý nghĩa của chỉ tiêu

Chỉ tiêu này nêu ra được chi tiết kết quả đạt được trong một năm qua
của công tác XKLĐ. Nó chỉ ra được những đóng góp của lĩnh vực này đối với
việc tạo công ăn việc làm cho xã hội mà Nhà nước ta đã không phải bỏ vốn
đầu tư để tạo việc làm mới, giải quyết một phần tình trạng ứ đọng lao động
của đất nước (mặc dù tr
ước khi đi XKLĐ những người lao động này không
phải tất cả đều thuộc diện thất nghiệp).
* Thu nhập quốc dân về ngoại tệ thông qua hoạt động XKLĐ
Công thức tính:


Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




21
P =∑Yj (j = 1 đến n)
Yj = Xij . Kj
Trong đó:
P : Mức thu của Nhà nước
Y : Mức thu của Nhà nước ở mỗi thị trường
n : Số thị trường đưa lao động sang
i : Biến số người
j : Nước đưa lao động sang
K : Tỉ số hối đoái quy đổi ra ngoại tệ quy ước
X : Thuế thu nhập mỗi người phải đóng
Ý nghĩa chỉ tiêu:

Chỉ tiêu này cho biết số tiền Nhà nước thu được thông qua XKLĐ.
* Mức tiết kiệm đầu tư vào việc làm của Chính phủ
Công thức tính

Mtk = M
dt
.
L
Trong đó:
Mtk : Mức tiết kiệm vốn đầu tư tạo ra việc làm

M
dt
: Mức đầu tư trung bình tạo ra một chỗ làm việc mới
L : Số người có việc làm thường xuyên ở nước ngoài
Ý nghĩa chỉ tiêu

Cho biết mức độ tiết kiệm không phải bỏ vốn đầu tư tạo ra chỗ làm
việc mới ở trong nước và đồng nghĩa với việc tăng thêm nguồn vốn đầu tư
cho giải quyết việc làm.
* Giá trị hàng hoá do người lao động đưa về
Công thức tính

G = ∑Hj (j = 1 đến n)
Hj = ∑h
ij
. Nj
Trong đó:
G : Giá trị hàng hoá do người lao động đem về
h : Giá trị hàng hoá do người lao động ở mỗi thị trường đem về
H : Giá trị hàng hoá trung bình của một người lao động đem về

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




22
N : Số người gửi hàng hoá về trong năm
i : Biến số người

j : Biến số thị trường
Ý nghĩa của chỉ tiêu

Cho biết lượng hàng hoá do người lao động đem về góp phần vào việc
cân đối quỹ hàng hoá trong nước và cải thiện đời sống gia đình, tăng thêm
máy móc thiết bị làm tư liệu sản xuất.
* Thu nhập do lao động đi làm việc ở nước ngoài bổ sung vào thu nhập
quốc dân.
Công thức tính

Q = ∑(Pj +Vij) . k
j
(j = 1 đến n)
Trong đó:
Q : Thu nhập của người lao động làm việc ở nước ngoài tính vào thu
nhập quốc dân
P : Các khoản phải nộp của mỗi người lao động
V : Thu nhập của người lao động sau khi đã khấu trừ phần phải nộp
K : Tỉ giá hối đoái quy đổi ngoại tệ
i : Biến số người
j : Biến số nước sử dụng lao động
Ý ngh
ĩa của chỉ tiêu
Chỉ tiêu cho biết phần thu nhập của người lao động ở nước ngoài được
tính vào phần thu nhập quốc dân.
Ngoài các chỉ tiêu có thể lượng hoá được để so sánh nói trên còn có
một số chỉ tiêu khác cũng có thể lượng hoá được như số lao động có nghề
được đào tạo nâng cao trình độ, mức tiết kiệm chi phí đào tạo trên một người
lao động…song nói chung còn ở mức thấp. Một số khía cạnh khác như
việc

du nhập kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm sản xuất mới, việc du nhập nếp
sống tiến bộ, tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa hai nước, tranh thủ sự ủng
hộ quốc tế…phản ánh hiệu quả về mặt xã hội.
Chi phí bỏ ra


Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




23
Bao gồm có các chi phí cho người lao động trong lĩnh vực tham gia, chi
phí cho bộ máy quản lý, tổ chức tuyển mộ, đưa đi và quản lý ở nước ngoài, xử
lý các công việc sau khi người lao động hết hạn trở về nước, tiền nộp phạt cho
nước bạn do người lao động tự ý bỏ hợp đồng…
Chi phí về mặt xã hội có ý kiến cho rằng còn có những tiêu cực do lao
động gây ra ở nước ngoài. Song những cái đ
ó là yếu tố chủ quan có thể khắc
phục được nếu có biện pháp và chính sách thích hợp.














*
* *
Toàn bộ chương I đã nêu được một cách khái quát về các vấn đề lý luận
chung của xuất khẩu lao động và đặc điểm của xuất khẩu lao động trên thế
giới. Xét về mặt lịch sử, di cư lao động đã hình thành từ thời k
ỳ đầu tiên xuất
hiện con người và được chính thức hoá thành hoạt động xuất khẩu lao động từ
nhiều thập kỷ nay. Đây là hoạt động mang tính tất yếu khách quan. Đứng
trước tình hình phát triển xuất khẩu lao động thế giới bằng các kinh nghiệm
tích lũy được từ hoạt động xuất khẩu lao động, việc phát triển lĩnh vực này đã

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Văn Tùng




24
và đang trở thành một trong những mục tiêu cấp bách của nước ta. Để có thể
tiến tới thành công và những bước đi chắc chắn đòi hỏi chúng ta phải nắm rõ
và nghiên cứu kỹ về vấn đề này.
Chương I của khoá luận sẽ là tiền đề cho việc phân tích thực trạng và
triển vọng hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam trong chương II và
chương III.

×