Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Những thành tựu và hạn chế về lý luận tiền tệ của các nhà kinh tế tư sản cổ điển việc kế thừa và phát triển lý luận này của c mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.95 KB, 22 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
vấn đề phát triển cơ cấu kinh tế được đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với
nền kinh tế Việt Nam. Các lý luận giá trị kinh tế của các nhà kinh tế tư bản cổ
điển là một bộ phận trong cơ cấu ấy, đã có những lý luận bị coi là đối lập với
kinh tế XHCN, vì vậy phải nằm trong diện cải tạo xoá bỏ. Song thực tiễn đã
cho thấy quan niệm như vậy là cực đoan vì các lý luận giá trị của các nhà kinh
tế cổ điển tư bản đã góp một phần không nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền
kinh tế theo hướng tích cực. Cùng với chủ trương chuyển nền kinh tế Việt
Nam sang nền kinh tế thị trường, Đảng và nhà nước Việt Nam đã ban hành
nhiều Chủ trương, Chính sách để khuyến khích sự phát triển của các thành
phần kinh tế. Tuy nhiên, các lý luận giá trị đó, còn nhiều những hạn chế trong
thực tế và nhiều vấn đề bất cập trong xã hội.
Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới.
Cơ hội phát triển rút ngắn, thực hiện thành công CNH-HĐH phấn đấu đưa
Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Tuy
nhiên, để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi phải có sự am hiểu về lý luận
kinh tế, với sự giải phóng tối đa lực lượng sản xuất xã hội. Trong bối cảnh các
nguồn lực kinh tế của Việt Nam còn đang hạn chế. Vì vậy bài viết này sẽ tập
trung làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau đây:
Những thành tựu và hạn chế về lý luận tiền tệ của các nhà kinh tế tư
sản cổ điển. Việc kế thừa và phát triển lý luận này của C.Mác
Tuy nhiên, do thời gian và không gian có hạn cho nên việc thu thập số
liệu và tài liệu vẫn chưa đựơc cập nhật vì thế không tránh khỏi những thiếu
sót, mong có những ý kiến đóng góp cho tiểu luận được hoàn chỉnh hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn cùng các
bạn đã giúp đỡ tôi trong quá trình làm tiểu luận.
1


NỘI DUNG


HỌC THUYẾT KINH TẾ TƯ SẢN CỔ ĐIỂN
I. SỰ XUẤT HIỆN CỦA TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ CỔ ĐIỂN VÀ ĐẶC
ĐIỂM CỦA NÓ

1. Hoàn cảnh lịch sử
Kinh tế chính trị học cổ điển là một trường phái đặc biệt có vai trò và
ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển tư tưởng kinh tế chung của nhân loại.
Nó xuất hiện từ thế kỷ XVII, trong thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã hình thành và phát triển mạnh mẽ ở phương Tây, đặc biệt là nước
Anh và nước Pháp. Trường phái này phát triển trong thời kỳ dài, trải qua
nhiều dai đoạn, đạt tới đỉnh cao rực rỡ vào thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX và
sau đó dần dần xã rời những nguyên tắc truyền thống trước khi chấm dứt thực
sự thống trị tuyệt đối của mình vào thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Đặc biệt nổi bật trong hoàn cảnh lịch sử cho sự ra đời của kinh tế học cổ
điển là sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản trong lĩnh vực sản xuất, tỏ
rõ ưu thế tất yếu của nó so với lĩnh vực lưu thông vốn là lĩnh vực chiếm ưu
thế trong thời kỳ phát triển của tư tưởng trọng thương trước đó. Phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa đang trên đà phát triển, chưa bộc lộ rõ những mâu
thuẫn của bản thân nó là một cơ sở thực tiễn để các đại biểu của trường phái
cổ điển tập trung nguyên cứu các quy lụât phát triển của chủ nghĩa tư bản, cổ
vũ và đề cao ưu thế của phương thức này.
2. Những đặc điểm chung
Đặc điểm nổi bật về phương pháp luận của kinh tế cổ điển là việc
chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất.
Bứơc ngoặt này đạt được chủ yếu là nhờ vào kết quả phát triển mạnh mẽ của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đưa tới nhận thức có tính chất cách
mạng rằng, toàn thể giá trị của cả xã hội được sáng lập ra những lĩnh vực lưu
thông như những người trọng thương trước đó quan niệm.

2



Về phương pháp nghiên cứu kinh tế học, có thể xem những người cổ
điển là những người lần đầu tiên vận dụng phương pháp trừu tượng hoá để
phân tích các mối quan hệ nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
do đó có thể vạch rõ được nhiều quy luật vận động và phát triển của phương
thức này. lần đầu tiên phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên được
vận dụng đầy đủ vào việc nghiên cứu các mối quan hệ sản xuất – xã hội vốn
là đối tượng của môn kinh tế học. Phương pháp này của những nhà cổ điển
được C.Mác đánh giá rất cao và được nhiều nhà kinh tế sau này trong đó cóa
cả nhà kinh tế mácxít sử dụng như một công cụ đặc biệt hữu hiệu để phân tích
lý luận kinh tế.
Là sản phẩm của sự phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
kinh học cổ điển cổ vũ nhiệt thành cho chủ nghĩa tụ do trong kinh tế, phản đối
mọi sự tác động từ bên ngoài vào thị trường tự do. Tự do kinh doanh, tự do
cạnh tranh là lý tưởng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mà những người cổ
điển ca ngợi và ủng hộ. Đặc điểm này, hay đúng hơn – sự cổ vũ cho tự do
kinh tế - đã từng là cơ sở lý luận cho một thời kỳ dài của chính sách đứng
ngoài, không can thiệp vào kinh tế của các nước tư sản. Thái độ của các nhà
kinh tế học cổ điển phủ nhận mọi sự can thiệp của nhà nước vào đời sống
kinh tế là kết quả đương nhiên của phương pháp luận nghiên cứu xem xét sự
vận động và phát triển của phương thức sản xuất chỉ đơn thuần do các quy
luật tự nhiên điều tiết, tuyệt đối hoá quy luật ấy mà không tính tới đặc điểm
lịch sử, cụ thể trong sự phát triển và tác động của chúng.
Đặc điểm bao trùm của kinh tế học cổ điển là tính chất hai mặt trong
phương pháp nghiên cứu cúng như mọi quan điểm lý luận của nó. Là người
chứng minh một các khoa học cho sự phát triển khách quan không thể phủ
nhận được của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đồng thời là người bảo
vệ cho trường phái này, với tư cách là phương thức sản xuất vĩnh viễn, cuối
cùng của xã hội loài người.


3


Kinh tế học cổ điển ra đời và phát triển mạnh mẽ nhất ở nước Anh và
nước Pháp với nhiều tên tuổi nổi tiếng. ở Anh phải kể trước hết tới W.Petty,
ông vẫn được coi là người sáng lập trường phái kinh tế học cổ điển nói chung,
sau đó là A.Smith, linh hồn thực sự của kinh tế học cổ điển, người thực hiện
đầu tiên trong bước ngoặt đầu tiên trong lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại
và đặc biệt là D.Ricácdo, người phát triển các tư tưởng kinh tế học cổ điển tới
đỉnh cao rược rõ nhất trước khi trường phái này bước vào thời kỳ khủng
hoảng. Với nước pháp, kinh tế học cổ điển xuất hiện và gắn liền với tên tuổi
của các nhà trọng nông nổi tiếng như P.Boisguilebert, A.Turgot và nhất là
F.Quesney. Đại biểu cuối cùng của kinh tế học cổ điển ở Pháp là Sismondi,
người được C.Mác đánh giá là “kết thúc trường phái cổ điển ở Pháp” và là đại
biểu nổi tiếng của trường phái kinh tế học tiểu tư sản sau này.

II. MỘT SỐ LÝ LUẬN TIỀN TỆ CỦA CÁC NHÀ KINH TẾ TƯ BẢN
CỔ ĐIỂN

1. Lý luận tiền tệ của WILLIAM PETTY
a. Lý luận tiền tệ
Wiliam Petty cố gắng gạt bỏ những quan niệm Trọng thương về tiền tệ,
nên đã có những cống hiến đáng kể về lý luận tiền tệ.
Trước hết, ông phê phán chế độ song bản vị dùng cả vàng và bạc đóng
vai trò tiền tệ, theo ông chỉ nên dùng một loại tiền tệ, đó là dùng tiền vàng.
Qua đây, ông cũng phê phán việc phát hành tiền tệ không đúng giá trị. Theo
ông, tiền tệ nhất thiết phải có đủ giá trị trước khi nó lưu hành, việc giảm giá
trị thực tế của tiền tệ là một tai hoạ thực sự cho nền kinh tế.
Tiếp đó, Wiliam Petty còn phê phán tư tưởng tích trữ tiền lại của học

thuyết kinh tế Trọng thương. Ở đây, ông đã thấy được vai trò của lưu thông
tiền tệ, ông cho rằng: Tiền trong lưu thông hàng hoá giống như mỡ trong cơ
thể con người, sự thừa tiền cũng tác hại như sự thiếu tiền vậy.
Ông viết: Tiền là mỡ của một cơ thể chính trị (Nhà nước), béo phị cũng
như thiếu mỡ là bệnh tật của cơ thể.
4


Từ sự phê phán đó, Wiliam Petty là người đầu tiên nghiên cứu lượng
tiền tệ cần thiết cho lưu thông. Theo ông, khối lượng tiền trong lưu thông dựa
trên cơ sở số lượng hàng hoá và tốc độ chu chuyển của tiền tệ. Nghĩa là khối
lượng tiền tệ lưu thông phụ thuộc vào giá trị khối lượng hàng hoá và tốc độ
vòng quay của đồng tiền. Giá trị hàng hoá tăng thì khối lượng tiền tệ trong lưu
thông tăng, còn tốc độ vòng quay của đồng tiền tăng thì khối lượng tiền trong
lưu thông giảm. Như vậy, khối lượng tiền trong lưu thông tỷ lệ thuận với giá
trị hàng hoá và tỷ lệ nghịch với tốc độ vòng quay của đồng tiền.
b. Lý luận tiền lương
Lý luận tiền lương của Wiliam Petty được xây dựng trên cơ sở lý luận
giá trị lao động. Ông coi lao động là hàng hoá và tiền lương là giá cả của lao
động.
Tiền lương thoạt nhìn là do sự thoả thuận của hai bên mua - bán lao
động quy định, nhưng tại sao người ta lại quy định ở một mức nào đó? Có
phải họ tuỳ tiện quy định tiền lương hay không? Trước Wiliam Petty chưa ai
giải thích tiền lương một cách khách quan.
Wiliam Petty đã tìm ra tính khách quan của việc quy định mức tiền
lương. Theo ông tiền lương là khoản giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết tối thiểu
cho công nhân. Nếu thấp hơn thì người công nhân không đủ tái sản xuất sức
lao động và người công nhân không thể tồn tại được. Đây là phát hiện mới
của Wiliam Petty. Mặt khác, ông còn cho rằng, nếu tiền lương cao thì công
nhân sinh ra lười biếng, thích uống rượu hay bỏ việc. Muốn cho công nhân

làm việc phải có biện pháp hạ thấp tiền lương tới mức tối thiểu nhất. Chính đề
nghị của ông về việc duy trì tiền lương tối thiểu lại được xem là người đặt nền
móng đầu tiên cho lý thuyết “Quy luật sắt về tiền lương” rất được phổ biến
trong các lý luận kinh tế sau này.
Lý luận tiền lương tối thiểu của Wiliam Petty, một mặt phản ánh trình
độ phát triển của nền sản xuất Tư bản chủ nghĩa chưa cao, chưa tạo ra được sự

5


phụ thuộc hoàn toàn của người công nhân vào tư bản, nên giai cấp tư sản phải
dựa vào Nhà nước để duy trì mức lương tối thiểu.
Mặt khác, ông đã đặt nền móng cho sự phân tích về sự bóc lột của giai
cấp tư sản đối với giai cấp công nhân. Bởi vì, theo lý luận giá trị lao động thì
toàn bộ giá trị và sản phẩm là do công nhân sáng tạo ra, nhưng người công
nhân chỉ được nhận từ sản phẩm do mình tạo ra một khoản tiền lương tối
thiểu, số còn lại đã bị nhà tư bản chiếm đoạt. Đứng về ý nghĩa này, C.Mác cho
rằng: Wiliam Petty là người đã nêu ra nền móng về sự bóc lột, tức là vạch ra
mầm mống của lợi nhuận và giá trị thặng dư.
* Kết luận: Số lượng lao động = nhau bỏ vào sản xuất là cơ sở để so
sánh giá trị hàng hóa, giá cả tự nhiên (giá trị), tỷ lệ nghịch với năng suất lao
động khai thác vàng và bạc
Giá cả chính trị chính là giá cả thị trường của hàng hoá phụ thuộc vào
nhiều yếu tố ngẫu nhiên và khó xác định. Chi phí lao động trong giá cả chính
trị thường cao hơn chi phí lao động trong giá cả tự nhiên .
Tuy nhiên lí thuyết gt lao động của ông chịu ảnh hưởng của CNTT. Ông
chỉ tập chung nghiên cứu mặt lượng , nghĩa là nghiên cứu về giá cả một bên
là hàng hóa, một bên là tiền tệ. Ông giới hạn giả thiết đào tạo giá trị trọng lao
động khai thác vàng và bạc. Các loại lao động khác chỉ so sánh với lao động
tạo ra tiền tệ. Giá trị hàng hoá là sự phản ánh giá trị tiền tệ .

Mặc dù bị ảnh hưởng của phái TT nhưng trong trường phái thị trường
chỉ thoả mãn với việc đơn thuần đưa ra những biện pháp kinh tế hay chỉ mưu
tả lại những hiện tượng kinh tế theo kinh nghiệm như W.Petty đã tiếp cận với
các quy luật khách quan  nghiên cứu lĩnh vực sản xuất .
Trong những tác phẩm đầu tiên W.Petty còn mang nặng tư tưởng trọng
thương nhưng trong tác phẩm cuối cùng của ông thì không còn dấu vết của
CNTT. Ông là người đầu tiên nhấn mạnh tính chất khách quan của những quy
luật tác động trong XHTB.
6


2. Lý luận tiền tệ của F.QUESNEY
* Lý luận sản phẩm thuần tuý.
F.Quesney quan niệm sản phẩm thuần tuý là sự chênh lệch giữa tổng sản
phẩm xã hội và các chi phí sản xuất, tức là sản phẩm dư thừa sau khi đã bù
đắp các chi phí sản xuất. Nết độc đáo, điển hình cho quan điểm trọng nông
của F.Quesney là:
Sản phẩm thuần tuý chỉ được tạo ra trong lĩnh vực nông nghiệp mà
không có trong công nghiệp (lĩnh vực này chỉ làm biến đổi hình thức giá trị
sản phẩm mà không làm tăng thêm khối lượng của chúng).
Sản phẩm thuần tuý được quy chỉ về lao động thặng dư trong nông
nghiệp.
Sản phẩm thuần tuý vẫn chỉ là tăng vật của tư nhân và tồn tại vĩnh viễn.
Hình thái duy nhất của sản phẩm thuần tuý chỉ có thể là đia tô, còn lợi
nhuận được coi là một bộ phận của chi phí sản xuất - đó là tiền công - thu
nhập của các nhà tư bản.
Từ quan niệm về sản phẩm thuần tuý, F.Quesney đề ra một căn cứ để
phân chia các loại lao động sản xuất và lao động không sản xuất. Theo ông,
chỉ có lao động nào tạo ra sản phẩm thuần tuý mới là lao động sản xuất và rõ
ràng với con mắt của người trọng nông, ông chỉ thừa nhận lao động trong lĩnh

vực nông nghiệp mới là lao động sản xuất, còn tất cả các loại lao động khác,
kể cả lao động trong công nghiệp, đều là lao động không sản xuất.
3. Lí luận tiền tệ của Adam. Smith.
Trước hết, ông giải thích nguồn gốc của tiền tệ. Ông cho rằng, phân công
một khi đã được xác lập, tuyệt đại bộ phận sản phẩm mà con người cần thiết
đều phải dựa vào sản phẩm lao động của người khác mà có, tức là mọi người
đều phải dựa vào trao đổi để sống, khi mới bắt đầu phân công thì việc thực
hiện phân công thường gặp rất nhiều khó khăn. Do chỗ mọi người sản xuất
đều chỉ có sản phẩm của mình, mà một khi trong số đó cần sản phẩm của một
người khác nhưng khi người đó lại không cần sản phẩm của người kia thì
7


không thể trao đổi với nhau. Vậy thì giải quýêt vấn đề này như thế nào ? Ông
nói,”Từ khi có phân công, trong mọi thời đại và mọi xã hội, người có suy nghĩ
để tránh sự phiền hà nêu ở trên ngoài sản phẩm do mình sản xuất ra còn luôn
mang theo mình một số lượng nhất định một loại sản phẩm nào đó, loại sản
phẩm của bất kỳ người nào khác, đều không thể bị từ chối”. Loại hàng hoá mà
ai nấy đều bằng lòng tiếp nhận, đó chính là tiền tệ. Ông nêu ra rằng trong lich
sử có nhiều loạii hàng đã có tác dụng như tiền tệ, cuối cùng mới do kim loại
quý đảm nhiệm, và như vậy đã xuất hiện tiền đúc.
Ông cho rằng tiền tệ là hàng hóa, là giá trị của lý luận về tiền tệ của ông.
Nhưng ông không hiểu được bản chất của tiền tệ, và cũng không lý giải được
nguồn gốc đích thực của tiền tệ. Cho nên, ông không biết tiền tệ là một loại
hàng hoá đặc biệt có tác dụng vật ngang giá chung, mà chỉ coi tiền là công cụ
kỹ thuật làm cho việc đổi chác mua bán tiến hành dễ dàng mà thôi. Do
nguyên nhân tương tự, ông coi phương tiện lưu thông là chức năng có tính
quyết định của tiền tệ, mà không trình bày rõ được các chức năng khác của
tiền tệ, khiến ông không phân biệt được rõ ràng tiền đúc và tiền giấy và tiền
giấy với tiền đúc.AdamSmith (1723- 1790) đã mở ra giai đoạn phát triển mới

của sự phát triển các học thuyết kinh tế. Ông đi sâu phân tích bản chất để tìm
ra các quy luật sự vận động của các hiện tượng và các quá trình kinh tế .
So với W.Petty và trường phái trọng nông, lý thuyết giả thiết lao động
của A.Smith có bước tiến đáng kể .
Cũng chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị, lao
động là thước đo cuối cùng của giá trị.
- Phân biệt rõ ràng giá trị sử dụng và giá trị trao đổi và khẳng định. Giá
trị sử dụng không quy định giá trị trao đổi. Ông bác bỏ quan điểm ích lợi
quyết định giá trị trao đổi.
- Khi phân tích giá trị hàng hoá: Giá trị được biểu hiện ở giá trị trao đổi
của hàng hoá trong mối quan hệ với số lượng hàng hoá khác, còn trong nền
sản xuất hàng hoá phát triển nó được biểu hiện ở tiền.
8


- Ông chỉ ra lượng giá trị hàng hoá do lao động hao phí lao động trung
bình cần thiết quy định. Lao động giản đơn và lao động phức tạp ảnh hưởng
khác nhau đến lượng giá trị hàng hoá. Trong cùng một thời gian, lao động
chuyên môn, phức tạp xẽ tạo ra một lượng giá trị nhiều hơn so với lao động
có chuyên môn hay lao động giản đơn.
- Phân biệt giá cả tự nhiên và giá cả thị trường: giá cả tự nhiên là biểu
hiện = tiền của giá trị. Ông khảng định hàng hoá được bán theo giá cả tự
nhiên, nếu giá cả đó ngang với mức cần thiết để trả cho tiền lương, địa tô, và
lợi nhuận . Theo ông giá cả tự nhiên là Truy tâm, giá cả thị trường là giá bán
thực tế của hàng hoá giá cả này nhất trí với giá cả tự nhiên khi được đưa ra
thị trường với số lượng đủ “thoả mãn lượng cầu thực tế’’. Giá cả tự nhiên có
tính chất khách quan còn giá cả thị trường phụ thuộc vào những yếu tố như
quan hệ cung cầu và các loại quan hệ đường khác .
* Mâu thuẫn và sai lầm :
- Đưa ra hai định nghĩa :+ “giá trị toàn điểm là do lao động quy định, giá

trị là do hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá quy định”.
+ Giá trị của một hàng hóa = số lượng lao động mà nhờ hàng hoá đó có
thể mua được .
 Đây là điều sai lầm, luẩn quẩn của A.Smith. Ông đã đưa vào hiện
tượng, một bên là chủ nghĩa lao động cho nhà tư bản, một bên là nhà tư bản
trả lương cho công nhân.
- Về cấu thành lượng giá trị hàng hoá : Theo ông trong sản xuất tư bản
chủ nghĩa, tiền lương, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi
thu nhập, cũng như của mọi giá trị tác động. A. Smith coi tiền lương, lợi
nhuận và địa tô là nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập, đó là quan điểm đúng
đắn. Song ông lại lầm ở chỗ coi các khoản thu nhập là nguồn gốc đầu tiên của
mọi giá trị tác động. Ông đã lẫn lộn hai vấn đề hình thành giá trị và phân phối
giá trị, hơn nữa, ông cũng xem thường tư bản bất biến; coi giá trị có (v+m)
công lao to lớn của A.Smith trong việc nghiên cứu lý luận giá trị là ở chỗ ông
9


dứt khoát xác định giá trị bằng lao động chi phí trong việc sản xuất hàng hoá
nhất thiết phải tương ứng với lượng lao động chứa đựng trong nó.
Hơn tất cả các nhà nghiên cứu trước đó, A.Smith phân biệt một cáh rõ
rành và tỉ mỉ hai thuộc tính của hàng hoá: giá trị sử dung và giá trị. ông cũng
nêu nên là người ta thường nhầm lẫn khi dùng phạm trù giá trị để chỉ công
dụng một loại hàng hoá nào đó. Chính ông đề nghị gọi đã là giá trị sử dụng,
còn “khả năng một vật mà giá trị của nó có thể đổi lấy được những vật khác”
thì được ông gọi là giá trị trao đổi. Nguồn gốc tạo ra giá trị trao đổi là lao
động vật hoá của công nhân và chỉ có lao động mới tạo ra kha năng trao đổi
cho một vật. Để chứng minh cho điều này, A.Smith đưa ra ví dụ nói rằng
“Không có gì hữu ích bằng nước, nhưng với nó hầu như không thể mua được
gì cả”. coi lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị và giá trị trao đổi - đó là một
quan điểm chân chính của A.Smith.

Nhưng A.Smith không chỉ dừng lại ở điền khẳng định chung đó. Ông bác
bỏ quan niệm của cả những người trọng thương lẫn những trọng nông quy sự
sáng tạo giá trị về một loại lao động cụ thể, riêng biệt, trái lại, A.Smith khẳng
định rằng mọi thứ lao động sản xuất đều bình đẳng trong việc tạo ra giá trị.
Như thế là ông đã đi xa hơn những nhà tiền bối trong vấn đề xác định giá trị
lao động, tiến trên con đường trừu tượng hoá vấn đề khoa học khi phân tích
giá trị. Sự tiến bộ này được C.Mác đánh giá rất cao trong quá trình đi tới phát
minh vĩ đại về thuộc tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
Khi nghiên cứu vấn đề lượng của giá trị, A.Smith đã đạt thêm một thành
tựu quan trọng khác. Ông xác định lượng giá trị là lao động xã hội trung bình
chứ không phải lượng lao động chi phí thực tế để sản xuất hàng hoá. Như vậy
là bằng cách trừu tượng hoá tất tất cả các dạng lao động cụ thể. A.Smith cùng
trừu tượng luôn cả những chi phí lao động cá biệt, cụ thể để xem xét giá trị
lao động tạo ra như là một đại lượng xác định mang tính chất xã hội. Với
quan điểm này, A.Smith cũng xoá bỏ được bao điều khó hiểu và mâu thuẫn
mà những người khác thường không giải thích được.
10


Một thành tựu khác của A.Smith là sự phân chia lao động thành lao
động phức tạp, lành nghề và lao động giản đơn, không nghề. Trong hai loại
lao động ấy, A.Smith cho rằng lao động phức tạp, lành nghề trong cùng một
thời gian tạo ra được nhiều giá trị hơn số với lao động giản đơn, không lành
nghề. Đó là một đóng góp rõ rang, không thể phủ nhân của A.Smith cho lý
luận giá trị.
Bên cạnh những đóng góp quan trọng đó, A.Smith cũng bộc lộ nhiều hạn
chế và mâu thuẫn trong lý luận giá trị của mình. Ông không phân biệt được
lao động tạo giá trị mới và lao động chuyển giá trị trong hàng hoá, tức không
đi sâu được vào vào bản chất cuối cùng của giá trị - lao động. Sự nghiên cứu
của ông vân tập chung vào giá trị trao đổi và lượng giá trị biểu hiện trong trao

đổi là giá cả. Đó là một vật cản lớn trên con đường giải quyết triệt để vẫn đề
bản chất của giá trị mà chỉ có C.Mác sau này mới vượt qua được khi ông phát
minh ra thuộc tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Mặt khác, dù cho
A.Smith có một quan điểm khoa học trong lý luận giá trị, ông vẫn tỏ ra không
nhất quán trong việc định nghĩa hàng hoá. Sai lầm cơ bản của ông là vừa xác
nhận giá trị bằng giá trị lao động chứa đựng trong hàng hoá lại vừa xác định
nó bằng lượng lao động có thể mua được bằng hàng hoá này. Ở đây, A.Smith
không phân biệt được sản xuất hàng hoá giản đơn với sản xuất hàng hoá tư
bản chủ nghĩa khi mà người sản xuất trở thành người làm thuê cho nhà tư bản
và chỉ được trả công bằng giá trị thấp hơn mà giá trị anh ta tạo ra. Cũng do
vậy mà A.Smith không hiểu và giải thích đúng đắn quy luật giá trị trong chủ
nghĩa tư bản. Ông cho rằng quy luật này chỉ đúng trong lền sản xuất hàng hoá
giản đơn, còn trong sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong mối quan hệ giữa nhà tư
bản và công nhân làm thuê, quy luật này bị vo phạm và nhà đàu tư chỉ trả cho
công nhân một phần giá trị do họ tạo ra. Từ đó, ông đi đến một sự khẳng định
không khoa học là trong điều kiện sản xuất tư bản chủ nghĩa, giá trị là kết hợp
của tiền công, lợi nhuận và địa tô (trong điều kiện không có sự thuê đất thì nó
chỉ bao gồn tiền công của công nhân và lợi nhuận của nhà tư bản). Ông kết
11


luận rằng “tiền công, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc ban đầu của mọi
thu nhập, và mọi giá trị trao đổi cũng bằng đúng như vậy”. Thế là từ chỗ xác
định lao động là nguồn gốc của mọi giá trị, A.Smith lại đi đến phủ nhận điều
đó, coi cả các gía trị đã vật hoá khác cũng bình đẳng trong việc cũng tạo ra
giá trị. Đây là một mâu thuẫn chủ yếu về lý luận dẫn đến một loại sai lầm
khác của ông. Ông đã dừng lại trước mâu thuẫn này, đó cũng là một hạn chế
lơn của A.Smith mà chính các lý luận gia tư bản đã sử dụng để bác bỏ qquan
điểm của ông về lý luận giá trị.
4. Lý Luận tiền tệ của ĐAVID RICARDO

David Ricardo phát triển quan điểm A.Smith về những thu nhập lần đầu
của ba giai cấp cơ bản trong xã hội. Lý thuyết thu nhập của ông được xây
dựng trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động.
* Về tiền lương, ông coi lao động là hàng hoá. Tiền lương, hay giá cả thị
trường của lao động, được xác định trên cơ sở giá cả tự nhiên và xoay quanh
nó. Giá cả tự nhiên của hàng hoá lao động là giá trị những tư liệu sinh hoạt
nuôi sống người công nhân và gia đình anh ta, ông đã chỉ ra cấu thành tư liệu
sinh hoạt cho người công nhân phụ thuộc vào yếu tố lịch sử, truyền thống dân
tộc, song ông lại chủ trương những tư liệu sinh hoạt đó chỉ ở mức tối thiểu.
Hay nói một cách khác, ông ủng hộ "lý thuyết quy luật sắt về tiền lương".
Ông giải thích rằng, tiền lương phải ở mức tối thiểu, đó là quy luật chung
tự nhiên cho mọi xã hội. Chỉ trong điều kiện đặc biệt thuận lợi, khả năng tăng
lực lượng sản xuất mới vượt khả năng tăng dân số, còn trong điều kiện bình
thường, với đất đai hạn chế và sự giảm sút hiệu quả của đầu tư bổ sung, sẽ
làm cho của cải tăng chậm hơn dân số. Khi đó, cơ chế điều tiết tự phát sẽ hoạt
động. Điều đó sẽ kìm hãm tốc độ tăng dân số. Ông ủng hộ việc Nhà nước
không can thiệp vào hoạt động của thị trường lao động, phê phán sự giúp đỡ
đối với người nghèo, vì theo ông, làm như vậy sẽ ngăn cản hoạt động của quy
luật tự nhiên.
12


* Về lợi nhuận, David Ricardo thấy rằng, lợi nhuận là số còn lại ngoài
tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân. Ông đã thấy xu hướng giảm sút tỉ
suất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân của sự giảm sút nằm trong sự vận
động, biến đổi thu nhập giữa ba giai cấp địa chủ, công nhân và nhà tư bản.
Ông cho rằng, do vậy quy luật màu mỡ đất đai ngày càng giảm, giá cả nông
phẩm tăng lên làm cho tiền lương công nhân tăng và địa tô tăng lên, còn lợi
nhuận không tăng. Như vậy, địa chủ là người có lợi, công nhân không có lợi
cũng không bị hại, còn nhà tư bản có hại, vì tỉ suất lợi nhuận giảm xuống.

* Về địa tô: Sự phân tích địa tô là công lao của David Ricardo. Điểm nổi
bật của lý thuyết địa tô là ông phân tích lý thuyết này trên cơ sở lý thuyết giá
trị lao động. Ông lập luận rằng, do "đất đai canh tác hạn chế", độ màu mỡ đất
đai giảm sút, "năng suất đầu tư bất tương xứng", trong khi đó, dân số tăng
nhanh làm cho nạn khan hiếm tư liệu sinh hoạt là phổ biến trong mọi xã hội.
Điều này buộc xã hội phải canh tác trên ruộng đất xấu. Vì canh tác trên ruộng
đất xấu, nên giá trị nông sản phẩm do hao phí lao động trên ruộng đất xấu
nhất quyết định. Vì vậy, ở những ruộng đất tốt, trung bình, cùng với mức đầu
tư chi phí, sẽ thu được lượng sản phẩm lớn hơn so với ruộng đất xấu. Khoản
chênh lệch đó trả cho địa chủ gọi là địa tô.
Cũng nh A.Smith, David Ricardo đã phân biệt được địa tô và tiền tô. Địa
tô là việc trả công cho những khả năng thuần túy tự nhiên. Ngoài địa tô, tiền
tô còn bao gồm cả lợi nhuận do tư bản đầu tư vào ruộng đất.
Các nhà kinh tế khác cho rằng, địa tô là dấu hiệu sự giàu có của xã hội.
Ngược lại, David Ricardo cho rằng, địa tô là biểu hiện sự bần cùng của xã
hội. Vì nếu đất đai phì nhiêu, màu mỡ, người ta không cần phải canh tác trên
ruộng đất xấu. Do vậy, địa tô giảm, giá cả nông sản phẩm giảm, địa tô càng
cao thì xã hội càng thiếu nông sản phẩm. Với sự phát triển của khoa học kỹ
thuật, tăng màu mỡ đất đai sẽ làm cho địa tô giảm đi.

13


Hạn chế quan trọng nhất trong lý thuyết địa tô của David Ricardo là ông
không thừa nhận địa tô tuyệt đối. Ông cũng cho rằng, thừa nhận địa tô tuyệt
đối là vi phạm quy luật giá trị.
Sau khi ngẫu nhiên được biết đến tác phẩm kinh tế nổi tiếng của
A.Smith, D.Ricardo đã đánh giá rất cao công trình này. Trong quá trình
nghiên cứu của mình, ông đã đưa vào các kết luận của A.Smith và cố gắng
phát triển triệt để chúng.

Trước hết ông phân biệt rõ ràng và dứt khoát hơn hai thuộc tính của hàng
hoá.
Giá trị sử dụng được ông gọi là tính có ích của hàng hoá, là điều kiện cân
đối với giá trị trao đổi, song không thể là thước đo của giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi của đại đa số hàng hoá (ở đây D.Ricardo loại trừ những
hàng hoá không mang tính chất sản xuất như tranh cổ, hoặc rượu vang quá
lâu năm) được D.Ricardo xác định bằng chi phí lao động sản xuất ra chúng.
Song D.Ricardo đi xa hơn trong sự phân tích của mình. Ông coi giá trị
trao đổi biểu hiện ở khối lượng hàng hoá khác (hoặc tiền), do đó trong hàng
hoá tồn tại một giá trị tuyệt đối. Gía trị tuyệt đối này chính là kết tinh giá trị,
chứa dựng một khối lượng nhất định.
Giá trị trao đổi là một hình thái cần thiết cần thiết và duy nhất có thể biểu
hiện giá trị tuyệt đối của hàng hoá. Tư tưởng này của D.Ricardo là rất sâu sắc
và sau này được C.Mác phát triển.
Tiếc thay, tư tưởng của D.Ricardo bị dứt đoạn, nó chỉ tồn tại như một
nhận xét rời rạc, không kịp hoàn chỉnh trong một tác phẩm dự kiển của
D.Ricardo về “giá trị tuyệt đối và tương đối”.
- David. Ricardo đã gạt bỏ tính không triệt để, không nhất quan điểm về
các xác định giá trị của A. Smith (giả thiết bàng lao động mua được).
D.Ricardo kiên định với quan điểm: lao động là nguồn gốc giá trị, công lao to
lớn của ông đã được đứng trên quan điểm đó để xác định lí luận khoa học của
mình. Đồng thời ông cũng phê phán A. smith cho rằng giá trị là do các nguồn
14


gốc thu nhập hợp thành. Theo ông giá trị hàng hoá không phải do các nguồn
thu nhập hợp thành mà ngược lại được phân thành các nguồn thu nhập.
Về cơ cấu giá trị hàng hóa, ông cũng có ý kiến khác với sai lầm giáo
diễn của A.Smith bỏ c ra ngoài giả thiết hàng hoá. Ông cho rằng : giả thiết
hàng hoá không chỉ do lao động trực tiếp tạo ra mà còn là lao động cần thiết

trước đó nữa như máy móc, nhà xưởng ( tức ông chỉ biết có C1 - chỉ có đến
Mã mới hoàn chỉnh được công thức tính giả thiết hàng hoá = c+vm.)
- Ricardo đã có những nhận xét tiến gần đến lợi nhuận lq, ông cho rằng
những tư bản có đại lượng = nhau thì đem lại lợi nhuận như nhau. Nhưng
cũng không chứng minh được vì ông hiểu được giá cả sản xuất. Theo ông sự
chênh lệch giữa giá cả và giá trị là ngoại lệ, trên thực tế chỉ có giá trị chứ
không có giá cả sản xuất. Mã đã chỉ ra cơ cấu lẻ háo giá trị thặng dư thành lợi
nhuận bg và giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất trong điề kiện tự do cạnh
tranh. Từ đó Mã đã giải quyết được nhiều vấn đề mà các nhà kthh trước
không vượt qua được.
Trong vấn đề lợi nhuận bình quân, D.Ricardo đã nhận xét được khuynh
hướng san bằng của tỷ xuất lợi huận giũa các ngành khác nhau, đã thấy được ảnh
hưởng của tư bản sử dụng đối với việc hình thành giá cả và phần nào hiểu được
cơ chế di chuyển của tư bản trong quá trình san bằng tỷ xuất lợi nhuận. Sự phát
triển mạnh mẽ của hệ thống tín dụng thời kỳ này, cùng với những kiến thức thực
tế của D.Ricardo trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ đã giúp cho ông hiểu được
rằng việc di chuyển tư bản được thực hiện không chỉ bằng con đường giản đơn,
mà là chuyển các nhà tư bản từ ngành có lợi nhuận sang ngành có lợi nhuận cao,
trên quy mô lớn hơn. Đó là con đường thu hẹp tư bản đi vay ở các ngành mang
lại ít lợi nhuận và tăng cường chúng ở ngành có lợi cao.
Rõ ràng là các vấn đề lý luận giá trị, D.Ricardo đã đi gần đến chỗ hoàn
hảo. Đánh giá cao những cố gắng của D.Ricardo, C.Mác viết rằng: “Nếu
D.Ricardo đi sâu hơn trong sự phân tích của mình thì ông đã có thể tìm ra
rằng chính sự khác biệt giữa giá trị với giá cả các chi phí là một điều có ý
15


nghĩa quan trọng hơn rất nhiều so với việc ông ta đi phân tích những thay đổi
trong các giá cả đó bị ảnh hưởng bởi việc nâng cao hay hạ thấp mức tiền
công như thế nào”.


ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Thành tựu
Kinh tế chính trị cổ điển là trường phái khoa học có nhiều đóng góp to
lớn cho lịch sử chung của loài người. Trong số những thành tưu nổi bật của
trường phái này, phải kể tới trước hết là phương pháp nghiên cứu khoa học.
Sử dụng sức mạnh của phương pháp trừu tượng hoá, những người cổ điển đã
phát hiện và đi sâu nghiên cứu, vạch rõ nhiều vẫn đề có tính quy luật nội tại
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, lý luận kinh tế cổ điển
được phân tích trên cơ sở được phân tích các phạm trù và khái niệm kinh tế
vẫn còn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Những đóng góp to lớn nhất về lý
luận của trường phái cổ điển bao gồm giá trị - lao động, lý luận về tiền tệ, tiền
công, lợi nhuận về địa tô. Công lao to lớn của các nhà kinh tế học cổ điển
không chỉ thể hiện ở chỗ họ là những người đầu tiên đặt cơ sở khoa học cho
việc phân tích các phạm trù về quy luật của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Chính việc phân tích sâu sắc và toàn diện các phạm trù và quy luật này
của họ đã giúp cho nhiều nhà kinh tế sau này phát triển lý luận kinh tế tới
những đỉnh cao rực rỡ. Những đại biểu nổi tiếng nhất của trường phái cổ điển
cũng đồng thời là những tên tuổi lớn nhất của lịch sử kinh tế học. Đặc biệt,
chủ nghĩa cổ điển có thể được coi là đã thực hiện những bước cách mạng
quan trọng nhất trong việc phân tích các quy luật của lền kinh tế thị trường
nói chung, và cơ chế thị trường nói riêng trong chủ nghĩa tư bản. Điều đó có ý
nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế học hiện đại ở tất cả các nước đang
thực hiện nề kinh tế thị trường, kể cả đối với nước ta trong điều kiện xác định
định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế đó.

16


2. Hạn chế

Tui nhiên, trường phải cổ điển trong kinh tế học cổ điển có những hạn
chế nhất định. Đó là tính chất hai mặt trong phương phát luận nghiên cứu vừa sử dụng các nghiên cứu khoa học, khách quan để phân tích bản chất của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lại vừa bị ràng buộc bởi tính chất phi
lịch sử trong việc đánh giá phương thức sản xuất này. hơn nữa cổ vũ một cách
mạnh mẽ cho tự do kinh tế của thị trường và tuyệt đối hóa vai trò tự điều tiết
của thị trường, những người cổ điển cũng chưa có thái độ khách quan và thực
tế đối với việc xem xét vai trò kinh tế của nhà nước - điều mà chính thực tế
phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng khan thể phủ nhận được. Trong khi cống
hiến cho lý luận kinh tế học nhiều thành tựu xuất xắc, các nhà kinh tế học cổ
điển cũng để lại nhiều quan điểm tầm thường mà những người kế thừa họ
biến thành trào lưu tầm thường hoá và làm giảm giá trị của học thuyết cổ điển
nói chung.

17


III. Lý luận về tiền tệ của C.Mác
a. Chức năng thuớc đo giá trị:
Như trên đã nêu, tiền lương là sự thể hiện bằng tiền của giá trị sức lao động,
được biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả của sức lao động. Vì vậy tiền lương
chính là thuớc đo giá trị sức lao động, được biểu hiện như giá trị lao động cụ
thể của việc làm được trả công. Nói cách khác, giá trị của việc làm được phản
ánh thông qua tiền lương. Nếu việc làm có giá trị càng cao thì mức lương
càng lớn.
b. Duy trì và phát triển sức lao động:
Theo Mác tiền lương là biểu hiện giá trị sức lao động, đó là giá trị của những
tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người có sức lao động,
theo điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ văn minh của mỗi nước. Giá trị sức
lao động bao hàm cả yếu tố lịch sử, vật chất và tinh thần. Ngoài ra, để duy trì
và phát triển sức lao động thì người lao động còn phải sinh con (như sức lao

động tiềm tàng), phải nuôi dưỡng con, cho nên những tư liệu sinh hoạt cần
thiết để sản xuất ra sức lao động phải gồm có cả những tư liệu sinh hoạt cho
con cái học. Theo họ, chức năng cơ bản của tiền lương còn là nhằm duy trì và
phát triển được sức lao động.
Giá trị sức lao động là điểm xuất phát trong mọi bài tính của sản xuất xã hội
nói chung và của người sử dụng lao động nói riêng. Giá trị sức lao động mang
tính khách quan, được quy định và điều tiết không theo ý muốn của một các
nhân nào, dù là người làm công hay người sử dụng lao động. Nó là kết quả
của sự mặc cả trên thị trường lao động giữa người có sức lao động “bán” và
người sử dụng sức lao động “mua”
c. Kích thích lao động và phát triển nguồn nhân lực
Tiền lương là bộ phận thu nhập chính đáng của người lao động nhằm thoả
mãn phần lớn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của người lao động. Do
vậy, các mức tiền lương là các đòn bẩy kinh tế rất quan trọng để định hướng
sự quan tâm và động cơ trong lao động của người lao động. Khi độ lớn của
18


tiền lương phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất của công ty nói chung và cá nhân
người lao động nói riêng thì họ sẽ quan tâm đến việc không ngừng nâng cao
năng suất và chất lượng công việc
d. Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển
Nâng cao hiệu quả lao động, năng suất lao động suy cho cùng là nguồn gốc để
tăng thu nhập, tăng khả năng thoả mãn các nhu cầu của người lao động.
Khác với thị trường hàng hoá bình thường, cầu về lao động không phải là cầu
cho bản thân nó, mà là cầu dẫn xuất, tức là phụ thuộc vào khả năng tiêu thụ
của sản phẩm do lao động tạo ra và mức giá cả của hàng hoá này. Tổng mức
tiền lương quyết định tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ cần thiết phải sản xuất
cũng như giá cả của nó. Do vậy, tiền lương phải dựa trên cơ sở tăng năng suất
lao động. Việc tăng nưang suất lao động luôn luôn dẫn đến sự tái phân bố lao

động. Theo qui luật thị trường, lao động sẽ tái phân bố vào các khu vực có
năng suất cao hơn để nhận được các mức lương cao hơn.
e. Chức năng xã hội của tiền lương
Cùng với việc kích thích không ngừng nâng cao năng suất lao động, tiền
lương còn là yếu tố kích thích việc hoàn thiện các mối quan hệ lao động.
Thực tế cho thấy, việc duy trì các mức tiền lương cao và tăng không ngừng
chỉ được thực hiện trên cơ sở hài hoà các mối quan hệ lao động trong các
doanh nghiệp. Việc gắn tiền lương với hiệu quả của người lao động và đơn vị
kinh tế sẽ thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lần nhau, nâng cao hiệu
quả cạnh tranh của công ty. Bên cạnh đó, tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện
của con người và thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng dân chủ và văn minh.

19


KẾT LUẬN
Kinh tế chính trị tư sản cổ điển là một trường phái khoa học có nhiều
đóng góp to lớn cho lịch sử tư tưởng kinh tế chung của loài người . Trong
những thành tựu nổi bật của trường phái này phải kể tới trước hết là phương
pháp nghiên cứu khoa học, nhờ đó đã vạch rõ nhiều vấn đề có tính quy luật
nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Lý luận kinh tế cổ điển được phân tích trên cở sở một hệ thống các phạm
trù còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Chính việc phân tích sâu sắc các
phạm trù và quy luật đã giúp cho nhiều nhà kinh tế sau này phát triển lý luận
kinh tế đến đỉnh cao rực rỡ.
Tuy nhiên trường phái cổ điển cũng có những hạn chế nhất định. Đó là
tình chất hai mặt trong phương pháp luận nghiên cứu-vừa sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học, khách quan để phân tích bản chất của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, lại vừa bị ràng buộc bởi tính chất phi
lịch sử trong việc đánh giá phương thức sản xuất này. Hơn nữa họ cổ vũ mạnh

mẽ cho tự do kinh tế, tuyệt đối hóa vai trò của thị trường trong việc phát triển
kinh tế. Bên cạnh những cống hiến vĩ đại cho khoa học kinh tế, các nhà kinh
tế cổ điển đã để lại nhiều quan điểm tầm thường mà những người kế tục họ
biến thành một trào lưu tầm thường hóa và làm giảm giá trị của học thuyết cổ
điển nói chung.

20


Danh mục tài liệu tham khảo
TS. Ngô Văn lương - TS. Đồng Văn Phường (Đồng chủ biên) Lịch sử các học
thuyết kinh tế năm 2012
Mai Quế Anh, Phạm Văn Chiến… Lịch sử tư tưởng kinh tế, Trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội.
Phân viện Báo chí và Tuyên truyền-Lịch sử các học thuyết kinh tế,
NXBCTQG 2003
PGS.TS. Mai Ngọc Cường-GT Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB Thống
Kê 2001.
S. An Như Hải-Tìm hiểu môn học Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXBLLCT
2006.
GS. I.Đ.Uđanxôp -Lịch sử tư tưởng kinh tế (phần thứ nhất, Tập 3), NXB
Khoa học xã hội Hà Nội 1974.

21


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU..................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
I. SỰ XUẤT HIỆN CỦA TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ CỔ ĐIỂN VÀ ĐẶC

ĐIỂM CỦA NÓ................................................................................................2
1. Hoàn cảnh lịch sử........................................................................................2
2. Những đặc điểm chung...............................................................................2
II. MỘT SỐ LÝ LUẬN TIỀN TỆ CỦA CÁC NHÀ KINH TẾ TƯ BẢN CỔ
ĐIỂN.................................................................................................................4
1. Lý luận tiền tệ của WILLIAM PETTY.....................................................4
2. Lý luận tiền tệ của F.QUESNEY................................................................7
3. Lí luận tiền tệ của Adam. Smith.................................................................7
4. Lý Luận tiền tệ của ĐAVID RICARDO..................................................12
ĐÁNH GIÁ CHUNG....................................................................................16
1. Thành tựu...................................................................................................16
2. Hạn chế.......................................................................................................17
III. Lý luận về tiền tệ của C.Mác.................................................................18
KẾT LUẬN....................................................................................................20
Danh mục tài liệu tham khảo...........................................................................21

22



×