Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

TÌM HIỂU MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NUÔI SINH KHỐI MOINA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (877.67 KB, 64 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

TÌM HIỂU MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN NUÔI SINH KHỐI MOINA

Họ và tên sinh viên: TRẦN THỊ THANH PHƯỢNG
Ngành: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Niên khóa: 2004 - 2008

Tháng 10/2008


TÌM HIỂU MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN NUÔI SINH KHỐI MOINA

Tác giả

TRẦN THỊ THANH PHƯỢNG

Khóa luận được đệ trình để đáp ứng yêu cầu
cấp bằng Kỹ sư ngành
Nuôi Trồng Thủy Sản

Giáo viên hướng dẫn:
TS. NGUYỄN PHÚ HÒA

Tháng 10 năm 2008



LỜI CẢM TẠ
Tôi xin chân thành cảm tạ:
 Ban Giám Hiệu cùng quý Thầy Cô trong Trường Đại Học Nông Lâm Thành
Phố Hồ Chí Minh.
 Ban Chủ Nhiệm và quý Thầy Cô trong Khoa Thủy Sản đã tận tình giảng dạy,
giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt khóa học.
Tôi xin gởi lời biết ơn sâu sắc đến Cô Nguyễn Phú Hòa đã tận tình hướng dẫn và
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Đồng thời tôi cũng xin gởi lời cảm ơn đến:
 Ba Mẹ và gia đình đã động viên, hỗ trợ tôi trong suốt quá trình học tập.
 Các anh chị cùng các bạn trong và ngoài lớp DH04NT đã chia sẻ, động viên
và giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện đề tài.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do điều kiện khách quan nên đề tài không thể tránh
khỏi những thiếu sót, mong độc giả thông cảm. Tôi rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp quý báu từ quý Thầy Cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.

ii


TÓM TẮT
Đề tài “Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến nuôi sinh khối Moina” đã
được tiến hành tại Trại thực nghiệm Khoa Thủy Sản Trường Đại học Nông Lâm
Thành Phố Hồ Chí Minh từ tháng 6/2008 đến tháng 8/2008.
Với mong muốn tìm ra điều kiện thích hợp mang lại hiệu quả trong nuôi sinh
khối Moina, chúng tôi đã tiến hành thí nghiệm với nhiều hệ thống sục khí khác nhau
và nhiều loại thức ăn khác nhau. Kết quả thu được như sau:
Hệ thống sục khí với 3 ống nhựa cho mật độ Moina cao nhất là 18.011con/l ở
ngày thứ 10. Còn các hệ thống sục khí cho kết quả như sau: NT1 (2 viên đá bọt) là
7.702 con/l ở ngày thứ 11, NT2 (3 viên đá bọt) là 13.902 con/l ở ngày thứ 11, NT3 (2

đoạn ống nhựa) là 10.306 con/l ở ngày thứ 11.
Cùng hệ thống sục khí 3 đoạn ống nhựa, thì cám gạo với lượng 0,3 g/l cho ăn
hàng ngày cho mật độ Moina đạt cao nhất là 12.750 con/l ở ngày thứ 10. Còn ở NT2
với 0,15 g/l cám gạo kết hợp với 0,15 g/l men bánh mì cho đỉnh sinh khối là 10.050
con/l vào ngày thứ 9 và NT3 với 0,3 g/l men bánh mì cho mật độ cao nhất là 7.150
con/l.
Môi trường nuôi là cám gạo cho sinh khối Moina có kích thước nhỏ, tối đa chỉ
khoảng 0,88 mm, hơn 80% sinh khối Moina có kích thước < 0,45 mm ở ngày thứ 10.
Còn ở môi trường nuôi với men bánh mì lại cho kích thước Moina rất lớn, hơn 74%
sinh khối Moina có cỡ > 0,45 mm.

iii


MỤC LỤC
Trang
Trang tựa.......................................................................................................................... i
Lời cảm tạ ....................................................................................................................... ii
Tóm tắt........................................................................................................................... iii
Mục lục ...........................................................................................................................iv
Danh sách các bảng ...................................................................................................... vii
Danh sách các hình ...................................................................................................... viii
Danh sách các đồ thị và biểu đồ .....................................................................................ix
Chương 1. MỞ ĐẦU......................................................................................................1
1.1 Đặt Vấn Đề ................................................................................................................1
1.2 Mục Tiêu Đề Tài........................................................................................................2
Chương 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU...........................................................................3
2.1 Đặc Điểm Sinh Thái Của Moina ...............................................................................3
2.1.1 Phân loại .................................................................................................................3
2.1.2 Đặc điểm phân bố ...................................................................................................3

2.1.3 Sự thích nghi...........................................................................................................4
2.1.4 Đặc điểm sinh học ..................................................................................................5
2.1.4.1 Kích thước ...........................................................................................................5
2.1.4.2 Hình thái ngoài ....................................................................................................6
2.1.5 Vòng đời .................................................................................................................7
2.1.5.1 Thời kì trứng........................................................................................................7
2.1.5.2 Thời kì ấu niên.....................................................................................................7
2.1.5.3 Thời kì thành niên................................................................................................7
2.1.5.4 Thời kì trưởng thành............................................................................................8
2.1.6 Đặc điểm dinh dưỡng .............................................................................................8
2.1.7 Đặc điểm sinh sản...................................................................................................9
2.1.7.1 Hệ sinh dục ..........................................................................................................9
2.1.7.2 Sinh sản..............................................................................................................10
iv


2.2 Thành Phần Dinh Dưỡng Của Moina......................................................................11
2.3 Tình Hình Sản Xuất Moina Trong Và Ngoài Nước ................................................14
2.3.1 Ngoài nước ...........................................................................................................14
2.3.2 Trong nước ...........................................................................................................16
2.4 Sơ Nét Về Thức Ăn Sử Dụng Trong Các Thí Nghiệm ...........................................18
Chương 3. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM.................................19
3.1 Thời Gian Và Địa Điểm ..........................................................................................19
3.2 Phương Pháp Nghiên Cứu Và Bố Trí Thí Nghiệm .................................................19
3.2.1 Vật liệu .................................................................................................................19
3.2.2 Bố trí thí nghiệm...................................................................................................21
3.2.2.1 Thí nghiệm 1......................................................................................................21
3.2.2.2 Thí nghiệm 2......................................................................................................22
3.2.3 Chăm sóc ..............................................................................................................22
3.2.4 Phương pháp xử lý thống kê.................................................................................22

Chương 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN..................................................................23
4.1 Ảnh Hưởng Của Các Hệ Thống Sục Khí Đến Sinh Khối Moina
Trong Thời Gian Nuối Cấy ...........................................................................................23
4.2 Kết Quả Theo Dõi Chất Lượng Nước Trong Quá Trình Tiến Hành
Thí Nghiệm 2.................................................................................................................28
4.3 Ảnh Hưởng Của Cám Gạo Và Men Bánh Mì Lên Mật Độ Và
Kích Thước Moina ........................................................................................................29
4.3.1 Ảnh hưởng của cám gạo và men bánh mì lên mật độ Moina
trong thời gian nuôi cấy.................................................................................................29
4.3.2 Ảnh hưởng của cám gạo và men bánh mì lên kích thước Moina
trong thời gian nuôi cấy.................................................................................................32
4.3.2.1 Ảnh hưởng của cám gạo và men bánh mì lên mật độ Moina (con/l)
có kích cỡ ≥ 0,45 mm ....................................................................................................33
4.3.2.2 Ảnh hưởng của cám gạo và men bánh mì lên mật độ Moina (con/l)
có kích cỡ < 0,45 mm ....................................................................................................36

v


Chương 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ......................................................................39
5.1 Kết Luận ..................................................................................................................39
5.2 Đề Nghị....................................................................................................................40
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

vi


DANH SÁCH CÁC BẢNG
Trang

Bảng 2.1: Thành phần acid béo có trong Moina...........................................................12
Bảng 2.2: Thành phần amino acid của một số loài phiêu sinh động vật ......................13
Bảng 2.3: Thành phần dinh dưỡng của cám gạo và men bánh mì................................18
Bảng 4.1: Sự biến động mật độ Moina (con/l) trong thời gian nuôi với các kiểu
bố trí sục khí khác nhau (trung bình ± SE)....................................................................24
Bảng 4.2: Sự biến động mật độ Moina (con/l) theo lượng cám gạo và men
bánh mì (trung bình ± SE) trong thời gian nuôi ............................................................29

vii


DANH SÁCH CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1: Moina sp ..........................................................................................................3
Hình 2.2: Kích thước Moina sp .......................................................................................6
Hình 2.3: Bồn nuôi Moina trong môi trường nước xanh ..............................................15
Hình 2.4: Sắp xếp bồn nuôi Moina và thức ăn của chúng.............................................16
Hình 2.5: Nuôi Moina trong lọ thủy tinh.......................................................................16
Hình 3.1: Các loại thức ăn sử dụng trong thí nghiệm ...................................................20
Hình 3.2: Đá bọt và ống nhựa dùng làm sục khí trong các thí nghiệm.........................20
Hình 3.3: Bố trí thí nghiệm............................................................................................21
Hình 4.1: Bố trí sục khí với 2 đá bọt .............................................................................25
Hình 4.2: Bố trí sục khí với 3 đá bọt .............................................................................26
Hình 4.3: Bố trí sục khí với 2 ống nhựa ........................................................................26
Hình 4.4: Bố trí thí nghiệm với 3 ống nhựa. .................................................................27
Hình 4.5: Màu nước ở ba nghiệm thức..........................................................................32
Hình 4.6: Moina với kích cỡ 0,45 mm ..........................................................................32
Hình 4.7: Moina với hai kích cỡ < 0,45 mm (trái) và > 0,45 mm (phải) ......................33

viii



DANH SÁCH CÁC ĐỒ THỊ VÀ BIỂU ĐỒ
Trang
Đồ thị 4.1: Sự biến động mật độ Moina theo cách bố trí sục khí khác nhau ...............24
Đồ thị 4.2: Biến động nhiệt độ trong quá trình thí nghiệm ..........................................28
Đồ thị 4.3: Sự biến động mật độ Moina theo lượng cám gạo và men bánh mì ...........30
Đồ thị 4.4: Sự biến động mật độ Moina có kích cỡ ≥ 0,45 mm theo
lượng cám gạo và men bánh mì.....................................................................................33
Đồ thị 4.5: Sự biến động mật độ Moina có cỡ < 0,45 mm theo lượng cám gạo
và men bánh mì..............................................................................................................36
Biểu đồ 4.1: Sự biến động kích cỡ Moina ở NT3 (men bánh mì).................................34
Biểu đồ 4.2: Sự biến động kích cỡ Moina ở NT1 (cám gạo) ........................................37
Biểu đồ 4.3: Sự biến động kích cỡ Moina ở NT2 (cám gạo và men) ...........................38

ix


Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1

Đặt Vấn Đề
Hiện nay ngành nuôi trồng thủy sản đang phát triển mạnh mẽ không chỉ ở Việt

Nam mà còn ở rất nhiều nước trên thế giới. Song song với việc đẩy mạnh nuôi trồng
thủy sản thì công tác sản xuất giống cũng rất được chú trọng, trong đó việc đảm bảo
nguồn thức ăn cho cá bột là một thách thức lớn và cần được giải quyết cấp bách. Điều
đáng lo ngại nhất là những loài cá bột sau khi tiêu hết noãn hoàng có kích thước nhỏ
và chúng bắt đầu sử dụng thức ăn ngoài. Giai đoạn này tỷ lệ sống của cá con có thể sẽ

thấp, thậm chí chết hết nếu không có nguồn thức ăn thích hợp.
Thức ăn có kích thước phù hợp với cỡ miệng cá bột, hàm lượng dinh dưỡng
cao và dễ tìm, đó là vấn đề đặt ra cho các nhà sản xuất giống và cả những người nuôi
cá cảnh hiện nay. Bởi vì, nguồn thức ăn không thích hợp sẽ làm giảm tỷ lệ sống, giảm
sức đề kháng và cá sẽ tăng trưởng chậm ở các giai đoạn sau (Trần Văn Vỹ, 1995; trích
bởi Anh, 1998).
Một loại thức ăn tự nhiên rất tốt và được sử dụng phổ biến cho cá con từ lâu
nay đó là Moina. Với kích thước nhỏ, giàu chất dinh dưỡng và vitamin, Moina là loại
thức ăn rất phù hợp, bổ dưỡng và không thể thiếu trong khẩu phần thức ăn của cá con,
hoàn toàn không thể thay thế bằng thức ăn nhân tạo (Rottmann và ctv, 2003).
Hiện nay, cùng với xu hướng mở rộng và phát triển các cơ sở sản xuất giống
và nuôi cá cảnh thì nhu cầu Moina ngày càng cao. Tuy nhiên, nguồn cung cấp thường
hạn chế, việc vớt Moina trong tự nhiên theo truyền thống không giải quyết chủ động
thức ăn cho cá bột do thời gian hiện diện và đạt sản lượng cao quá ngắn cũng như có
thể lẫn nhiều bọ gạo, bắp cày, ấu trùng muỗi lắc (Chironomus),… là những sinh vật có
hại cho cá bột. Trước tình hình đó, để chủ động trong việc tạo nguồn thức ăn cho cá,
cần phải có những biện pháp gây nuôi những loài thức ăn có lợi cho chúng mà đặc biệt
là Moina.


Từ những năm đầu thế kỉ 20 cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu trong và
ngoài nước nhằm xây dựng một mô hình nuôi Moina hoàn chỉnh và có hiệu quả trong
sản xuất với quy mô lớn. Mặc dù đã đạt được những thành công nhất định, song sinh
khối Moina thu được còn thấp, chưa đủ đáp ứng yêu cầu sản xuất.
Được sự phân công của Khoa Thủy Sản Trường Đại Học Nông Lâm TP Hồ
Chí Minh, chúng tôi đã thực hiện đề tài “Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến
nuôi sinh khối Moina” nhằm tìm ra điều kiện nuôi Moina hiệu quả để phục vụ sản
xuất.
1.2


Mục Tiêu Đề Tài
 Đánh giá ảnh hưởng của các hệ thống sục khí đến nuôi sinh khối Moina.
 Đánh giá ảnh hưởng của cám gạo và men bánh mì lên mật độ và kích thước

Moina trong cùng điều kiện sục khí như nhau.

2


Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1

Đặc Điểm Sinh Thái Của Moina

2.1.1

Phân loại

Hình 2.1: Moina sp
Ngành

: Arthropoda.

Lớp

: Crustacea.

Bộ


: Cladocera

Bộ phụ

: Eucladocera

Họ

: Daphnidae

Giống

: Moina

Tên Việt Nam : Bo bo, trứng nước, bọ đỏ.
2.1.2

Đặc điểm phân bố
Theo Rottmann và ctv (2003), Moina là giáp xác râu ngành phân bố khắp nơi

trên thế giới, sống chủ yếu trong các thủy vực nước ngọt. Chúng thường tập trung
thành đám dày đặc màu đỏ ở các ao, hồ, đầm lầy, vũng nước, cửa cống rãnh nơi có
nhiều chất hữu cơ. Moina được biết đến với tên dân gian là bo bo hay trứng nước.

3


Moina rất nhạy cảm với ánh sáng, ở ngoài tự nhiên chúng tập trung chủ yếu ở
nơi có bóng râm, ven các bụi cây cỏ ngập (Rottmann và ctv, 2003). Vào năm 1998,
Bùi Thị Kim Anh đã làm thí nghiệm khảo sát ảnh hưởng của các chế độ chiếu sáng

đến nuôi sinh khối Moina. Kết quả cho thấy, trong cùng điều kiện chăm sóc như nhau,
đỉnh cao sinh khối Moina nuôi trong điều kiện che tối (bằng cách dùng giấy che kín)
cao hơn trong ánh sáng tự nhiên.
Qua khảo sát của một số nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học Federal, ở
Brazil, năm 2005, cho thấy giáp xác râu ngành có sự biến động quần thể theo mùa.
Vào mùa mưa (từ tháng 3 đến tháng 8), một lượng rất lớn vật chất hữu cơ trên cạn bị
cuốn theo dòng nước mưa đổ vào các thủy vực tự nhiên, làm cho quần thể giáp xác râu
ngành phong phú cả về số lượng loài và mật độ cá thể trong cùng một loài. Trong mùa
khô, mật độ và thành phần loài có sự thay đổi đáng kể, một số loài thích nghi tốt sẽ có
mật độ quần thể cao hơn, nhưng phần lớn mật độ ở các loài đều giảm, thậm chí có một
số loài không thấy xuất hiện trong thủy vực ở thời gian này.
2.1.3 Sự thích nghi
Moina xuất hiện với mật độ cao ở các ao, hồ, vũng nước, dòng chảy chậm và
đầm lầy nơi có nhiều chất hữu cơ. Chúng đặc biệt tập trung ở những vùng nước ấm,
nơi có đầy đủ điều kiện để chúng phát triển (Rottmann và ctv, 2003).
Moina hoàn toàn thích nghi với nguồn nước kém chất lượng. Chúng có thể
sống nơi hàm lượng oxygen hòa tan từ 0 cho đến bão hòa, tốt nhất là trên 3 mg/lít.
Chúng đặc biệt thích nghi với sự biến đổi của hàm lượng oxygen và thường sinh sôi
với số lượng lớn trong môi trường nước ô nhiễm ở cống rãnh, do đó chúng được cho là
có vai trò quan trọng trong việc xử lý các hồ chứa nước thải. Sở dĩ Moina có thể sống
sót trong môi trường nghèo oxy là nhờ khả năng tổng hợp hemoglobin. Sự hình thành
hemoglobin dựa trên mức độ oxygen hòa tan trong nước và có lẽ cũng phát sinh bởi
nhiệt độ cao và mật độ Moina (Rottmann và ctv, 2003).
Moina cũng là loài giáp xác rộng nhiệt. Chúng dễ dàng vượt qua biến đổi
nhiệt độ trong ngày từ 5 – 31oC, nhiệt độ tối ưu với chúng là 24 – 31oC. Chúng có thể
chịu đựng được nhiệt độ cao hơn 32oC trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, nhiệt độ
thấp khiến chúng sinh sản chậm lại (Rottmann và ctv, 2003). Theo kết quả của
Trần Thị Kim Thanh (1982; trích bởi Anh, 1998) nhiệt độ ảnh hưởng đến số lần đẻ, số
4



lượng con sinh ra và tuổi thọ của Moina. Do đó, Rottman và ctv (2003) khuyên rằng
các bể nuôi Moina nên đặt nơi có ánh sáng khuyếch tán và bóng râm. Môi trường có
cây cối và mái che bằng vải bạt (giảm 50% - 80% cường độ chiếu sáng) là lý tưởng
nhất. Bên cạnh đó, bể nuôi cần được che mưa để tạo độ ổn định.
Moina thích ứng tốt với biên độ pH rộng, có thể sống trong các thủy vực có độ
pH từ 6,5 – 8,5. Cũng như các loài giáp xác râu ngành khác, Moina phát triển tốt trong
môi trường nước hơi kiềm, người ta thường sử dụng vôi để tăng độ cứng và pH của
môi trường nuôi. Hàm lượng ammonia phải được giữ ở mức dưới 0,2 mg/lít
(FAO, 2006).
Theo Rottmann và ctv (2003), Moina rất nhạy cảm với các chất hóa học và kim
loại (như đồng, kẽm là những chất thường xuất hiện trong nước máy), bột giặt, chất
tẩy và những chất độc khác trong nước, do đó phải đảm bảo nguồn nước không bị
nhiễm những chất độc trên. Nếu nuôi bằng nước máy thì nên trữ, sục khí nước trước ít
nhất hai ngày để chlorin bay hơi hết. Bên cạnh đó, các dụng cụ nuôi khi được tẩy rửa
vệ sinh cũng cần phải đảm bảo để những chất độc không đi vào môi trường nuôi.
Các loài Moina khác nhau về kích thước, sinh sản và điều kiện sống tối ưu. Do
vậy, cần điều chỉnh chế độ nuôi dưỡng tùy theo loài và dòng Moina nhất định. Gia
tăng diện tích bề mặt có thể thu được những kết quả tích cực trong sản xuất Moina.
Nhiều thí nghiệm cho thấy khi tăng diện tích nuôi lên 4 lần thì khối lượng thu hoạch
cũng tăng gấp 4 lần (Rottmann và ctv, 2003).
2.1.4

Đặc điểm sinh học

2.1.4.1 Kích thước
Theo Rottmann và ctv (2003), có sự khác biệt đáng kể về kích thước giữa các
chi, Moina có kích thước tối đa chỉ bằng một nửa Daphnia. Moina trưởng thành
(0,7 – 1,6 mm) có kích thước gần gấp đôi ấu trùng Artemia (0,5 mm) và gần gấp
2 – 3 lần kích thước của Rotifer trưởng thành. Tuy nhiên, Moina mới nở (≤ 0,4 mm)

gần bằng hay hơi lớn hơn Rotifer trưởng thành và nhỏ hơn ấu trùng Artemia. Hơn nữa,
Artemia chết khá nhanh trong nước ngọt, nên Moina được xem là thức ăn lý tưởng
dành cho cá con mới nở.

5


Kích thước cũng là một trong những yếu tố nhằm phân biệt giới tính của
Moina. Thông thường, con đực có kích thước từ 0,6 – 0,9 mm và nhỏ hơn con cái
1,0 – 1,6 mm (Tamaru và ctv, 2004; trích bởi Nguyên, 2007).
Vì Moina có kích thước nhỏ nên cá bột của hầu hết các loài cá nước ngọt có
thể ăn Moina ngay từ khi mới nở. Tuy nhiên, việc phân tách Moina theo kích thước là
rất khó khăn. Thí nghiệm lọc Moina bằng lưới nhuyễn kích thước 0,5 mm tại UF/IFAS
Tropical Aquaculture Laboratory cho kết quả với số lượng không đáng kể. Tốc độ tăng
trưởng của Moina rất nhanh nếu chúng tập trung với mật độ cao, cá bột sẽ không ăn
nổi và chuyển động “giật cục” của chúng có thể gây hoảng sợ cũng như tổn thương
cho cá bột (Rottmann và ctv, 2003).

Hình 2.2: Kích thước Moina sp
2.1.4.2 Hình thái ngoài
Theo Rottmann (2003), cơ thể Moina có hình bầu dục hoặc gần tròn, được bao
bọc bởi một lớp vỏ giáp trong suốt và chúng tự lột lớp vỏ này một cách định kì theo
điều kiện môi trường sống. Đầu mang một đôi mắt kép hợp lại thành một mắt giữa
nằm ở bên hông đầu.
Ngoài ra, phần đầu còn mang 2 đôi râu, dài bằng 1/2 chiều dài cơ thể hoặc hơn.
Râu I thường nhỏ, hình que, không phân đốt, mọc ở gần ngọn chủy. Phần đầu ngọn
của râu I mang chùm tơ cảm giác. Ở con cái, râu này ngắn và thẳng, còn ở con đực thì
dài và cong. Đây là một trong những đặc điểm để phân biệt giới tính Moina. Râu II lớn
hơn nằm ở hai bên đầu, là cơ quan chuyển động chủ yếu, gồm phần gốc và hai nhánh
6



ngọn có phân đốt, trên các đốt râu còn có tơ dạng lông chim. Khi di chuyển, râu II đập
mạnh tạo nên những bước nhảy ngắt quãng, giật cục. Bên cạnh đó, râu còn làm nhiệm
vụ vận chuyển thức ăn và oxy đến miệng và mang, góp phần tham gia vào quá trình
trao đổi chất của cơ thể.
Cơ thể Moina trong suốt, nếu quan sát dưới kính hiển vi, có thể dễ dàng thấy
được cử động của các cơ quan bên trong như: tim, chân ngực,… Chúng ta còn có thể
thấy được thức ăn nằm trong đường ruột của Moina, đặc biệt nếu chúng ăn tảo thì ruột
sẽ có màu xanh của tảo rất đẹp mắt.
Theo Lê Thị Bình (2000), phần ngực nằm trong vỏ giáp, gồm có 4 – 6 đôi chân
ngực. Cạnh sau của con đực bằng, có thể phân biệt với cạnh lưng và cạnh bụng, trong
khi cạnh lưng của con cái kéo dài liên tục với cạnh bụng. Phần bụng Moina kéo dài tạo
thành đuôi bụng. Cạnh trên gốc đuôi bụng mang lỗ hậu môn. Ở phần gốc đuôi bụng
trước hậu môn có một núm lồi nhỏ mang hai tơ dài.
2.1.5

Vòng đời
Theo Hambright (2002), một chu kì sống của giáp xác râu ngành được bắt đầu

khi trứng được đẻ vào bên trong buồng ấp, gồm 4 thời kì: trứng, ấu niên, thành niên và
trưởng thành. Chu kì sống dài hay ngắn tùy thuộc vào điều kiện môi trường sống,
trung bình khoảng 4 – 7 ngày.
Thông thường, chu kì sống của Moina sẽ kéo dài khi nhiệt độ giảm hoặc điều
kiện sống không thuận lợi, nguyên nhân là khi đó quá trình trao đổi chất trong cơ thể
Moina bị giảm xuống, làm hạn chế tốc độ tăng trưởng của chúng.
2.1.5.1 Thời kì trứng
Sau khi được đẻ vào bên trong buồng ấp, trứng trải qua nhiều giai đoạn phân
cắt để hình thành cá thể con.
2.1.5.2 Thời kì ấu niên

Trứng sau quá trình phân cắt sẽ nhanh chóng nở thành cá thể con. Các cá thể
con ở đầu thời kì này có hình dạng giống như cá thể trưởng thành và sẽ được giải
phóng ra khỏi buồng ấp sau hai ngày, khi cá thể mẹ lột xác.
2.1.5.3 Thời kì thành niên
Theo Hambright (2002), thời kì thành niên của giáp xác râu ngành là thời kì
chuyển tiếp từ giai đoạn ấu niên cuối cùng sang giai đoạn trưởng thành đầu tiên. Lúc
7


này, bên trong buồng trứng của chúng, ổ trứng đầu tiên bắt đầu phát triển và chín. Mỗi
ổ trứng chứa khoảng 6 – 10 trứng.
2.1.5.4 Thời kì trưởng thành
Ở thời kì này, cơ thể giáp xác râu ngành trải qua nhiều giai đoạn tuổi ứng với
nhiều sự biến đổi trong cơ thể chúng. Bắt đầu thời kì này cũng là giai đoạn tuổi đầu
tiên, ổ trứng đầu tiên sẽ được đẻ vào buồng ấp, đồng thời ổ trứng thứ hai tiếp tục phát
triển và chín trong buồng trứng.
Đến giai đoạn tuổi thứ hai, khi cá thể mẹ lột xác, cá thể con đầu tiên sẽ được
giải phóng ra ngoài và rồi lần lượt đến các con còn lại trong cùng ổ trứng đầu tiên
cũng sẽ được giải phóng. Cùng lúc đó, ổ trứng thứ hai đã chín sẽ được chuyển vào bên
trong buồng ấp và tiếp tục phát triển như ổ trứng đầu tiên. Số lượng ổ trứng do một cá
thể Moina đẻ ra nhiều hay ít phụ thuộc vào điều kiện dinh dưỡng và nhiệt độ môi
trường (Rottmann, 2003).
Qua đó cho thấy, mỗi giai đoạn tuổi của Moina là tập hợp các sự việc diễn ra
dưới đây:
– Sự đẻ ổ trứng mới vào bên trong buồng ấp.
– Sự tăng kích thước cá thể con.
– Sự lột xác của Moina mẹ.
– Sự giải phóng cá thể con ra khỏi buồng ấp.
Thời gian tồn tại của mỗi giai đoạn tuổi có thể từ một ngày đến vài tuần và
thông thường khoảng 2 ngày trong điều kiện sống thuận lợi.

2.1.6

Đặc điểm dinh dưỡng
Theo Rottmann (2003), chân ngực Moina có dạng hình lá, phủ rất nhiều lông

tơ, thích nghi với tập tính ăn lọc. Khi chân ngực chuyển động, sẽ tạo nên dòng nước
cuốn theo những phần tử thức ăn đến các phần phụ miệng và được nghiền bởi hàm
trên trước khi đưa vào bên trong miệng. Những chất không tiêu hóa được sẽ được đưa
tới giữa hai hàm trên và bị đẩy ra ngoài bởi các gai ở gốc của chân ngực I.
Thức ăn của Moina là các loại vi khuẩn, men bia, vi tảo, và mùn bã hữu cơ,…
Trong đó, vi khuẩn và nấm men được xem là hai loại thức ăn có giá trị dinh dưỡng
cao. Số lượng Moina phát triển nhanh nhất khi lượng vi khuẩn, men bia và vi tảo dồi
dào. Moina là một trong những sinh vật phù du có thể tiêu thụ tảo xanh Microcystis
8


aeruginosa. Cả bã hữu cơ động lẫn thực vật đều cung cấp năng lượng cho sự tăng
trưởng của Moina. Chất lượng của mùn bã hữu cơ phụ thuộc vào nguồn gốc và độ tuổi
của chúng (Rottmann và ctv, 2003).
Ngoài ra, theo Rottmann và ctv (2003) cho biết cũng có thể dùng phân vô cơ
như NPK, DAP, Urê,… để nuôi Moina, nhưng tốt nhất nên dùng loại phân này cho ao
đất hơn là bồn và hồ nhân tạo. Thực tiễn cho thấy phân hữu cơ tốt hơn phân hóa học vì
phân hữu cơ cung cấp vi khuẩn, nấm, bã hữu cơ và sinh vật phù du là những thức ăn
của Moina.
Theo Trần Văn Vỹ (1995; trích bởi Nguyên, 2007), tốc độ lọc thức ăn của giáp
xác phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mật độ thức ăn, loại và kích thước thức ăn. Bên
cạnh đó tốc độ lọc thức ăn của giáp xác còn phụ thuộc vào kích cỡ của chúng cũng
như điều kiện nhiệt độ, pH, ánh sáng,…
Tuy nhiên, dù chọn loại thức ăn nào thì cũng phải đáp ứng đủ số lượng và đảm
bảo dinh dưỡng cho Moina, để chúng sinh trưởng và phát triển tốt. Nếu lượng vitamin

trong khẩu phần ăn vượt quá nhu cầu của Moina, sẽ dẫn đến sự ức chế trong sinh sản
và phát triển của chúng, tỷ lệ giữa tinh bột/protien tốt nhất cho Moina trong khoảng
0,5/1 – 1,5/1 (Conklin và Provasoli, 1997; trích bởi Nguyên, 2007). Vì thế, việc chọn
lựa loại và lượng thức ăn thích hợp cũng là một trong những yếu tố quan trọng quyết
định sự thành công trong nuôi sinh khối Moina.
Vào năm 2007, Phạm Nguyễn Hồng Nguyên đã làm thí nghiệm nuôi sinh khối
Moina với nhiều loại thức ăn khác nhau như: cám gạo, men bánh mì, bột đậu nành,
men bánh mì kết hợp với tảo. Kết quả cho thấy, với lượng cho ăn hàng ngày là 0,3g/l,
cùng với ưu điểm giàu dinh dưỡng, rẻ tiền và dễ tìm thì cám gạo là môi trường tốt nhất
để nuôi Moina.
2.1.7

Đặc điểm sinh sản

2.1.7.1 Hệ sinh dục
Theo Hambright (2002), khi quan sát hình dạng bên ngoài của Cladocera,
chúng ta có thể dễ dàng phân biệt được đực cái. Con đực có kích thước nhỏ hơn con
cái, râu I dài và cong trong khi của con cái ngắn và thẳng, phần đuôi bụng có một số
biến đổi, cặp chân ngực thứ nhất phân nhánh tạo thành các móc nhọn để bám vào cơ
thể con cái trong suốt quá trình giao cấu.
9


Cơ quan sinh sản của Cladocera cái gồm hai buồng trứng mảnh, dài nằm dọc
trên phần lưng và được nối với một buồng ấp thông qua ống dẫn trứng. Màu sắc của
buồng trứng thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của trứng. Buồng tinh của con đực
nhỏ hơn buồng trứng của con cái và nó được nối với ống dẫn tinh mở ra ở phần đuôi
bụng bên cạnh hậu môn (Hambright, 2002).
2.1.7.2 Sinh sản
Hình thức sinh sản của Moina khá đặc biệt: trinh sản hay sinh sản đơn tính,

nghĩa là con cái có thể sinh ra những thế hệ con hoàn toàn cái trong điều kiện môi
trường thuận lợi về thức ăn, nhiệt độ và mật độ. Những thế hệ Moina tiếp theo cũng
đều sinh sản theo hình thức này, và kết quả là tạo ra một sinh khối Moina toàn là con
cái. Nhưng khi điều kiện sống không thích hợp, sẽ có sự xuất hiện của con đực và
chuyển sang sinh sản hữu tính cho ra trứng ở trạng thái tiềm sinh, tương tự như trứng
Artemia, giúp chúng vượt qua điều kiện bất lợi của môi trường. Trứng này sẽ nở ra con
cái khi điều kiện môi trường sống thuận lợi (Rottmann, 2003).
Trứng tiềm sinh hay trứng nghỉ được chứa trong một túi nhỏ (gọi là
Ephippirum), mỗi túi có thể chứa khoảng một, hai trứng hoặc nhiều hơn nữa. Lúc đầu
trứng chỉ giống như một giọt nước nhỏ màu trắng, dần dần chuyển sang màu nâu sẫm
hoặc nâu đen. Trứng tiềm sinh có thể sống trong môi trường khô hạn hay trong điều
kiện nhiệt độ thấp. Vì thế, chúng ta có thể thu trứng rồi phơi khô hoặc trữ lạnh, khi cần
gây nuôi Moina thì đem trứng cho vào môi trường nước. Khi đó trứng sẽ nở thành
Moina con (Srijankul, 1985).
Theo Hambright (2002), trứng nghỉ của giáp xác râu ngành phân bố rất rộng
rãi, có thể nằm trong ruột cá hoặc chim (ở dạng không tiêu hóa được) và có thể bay
phát tán theo gió đi xa, đặc biệt chúng có khả năng sống sót ở vùng đất khô cằn
khoảng vài năm. Hình dạng và màu sắc của Ephippirum giúp cho chúng phát tán rộng
rãi hơn. Với màu nâu sẫm hoặc nâu đen của trứng, cho phép cá và chim dễ dàng trông
thấy chúng và những góc cạnh trên Ephippirum có thể giúp chúng gắn chặt vào cơ thể
của cá, chim. Theo đó, trứng nghỉ có thể có mặt ở mọi nơi, từ dưới nước cho tới trên
cạn và cả trong không khí.
Năm 2003, Rottmann và ctv cho biết, điều kiện chuyển đổi từ sinh sản vô tính
sang hữu tính là việc cắt giảm nguồn thức ăn, thay đổi môi trường sống đột ngột, kéo
10


theo nhiều trứng được tạo ra. Như vậy, việc cung cấp đầy đủ thức ăn, ổn định môi
trường sống là cần thiết, vì nó kích thích Moina sinh sản theo cách vô tính, nhờ đó có
rất ít trứng tiềm sinh được tạo ra. Ở điều kiện tối ưu, Moina cái từ 4 – 7 ngày tuổi bắt

đầu sinh sản với số lượng từ 4 – 22 con cho một lần đẻ đối với một con cái. Mỗi lứa
cách nhau từ 1,5 – 2 ngày, mỗi con cái đẻ từ 2 – 6 lần trong đời.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Hữu Dụng và ctv (1998, trích bởi Nguyên, 2003)
cho thấy trong mỗi cá thể Moina dubia sinh ra khoảng 50 con non, một tốc độ phát
triển rất cao. Rottmann và ctv (2003) đã kết luận rằng mật độ cao ở Daphnia có thể
làm giảm sự sinh sản một cách đáng kể nhưng ở Moina thì điều này không xảy ra. Số
lượng trứng sinh ra ở Daphnia magna sụt giảm mạnh khi mật độ từ 95 – 115 cá thể
trưởng thành trên 25 – 30 lít. Mật độ nuôi thích hợp ở Daphnia được ghi nhận là
500 con/lít. Trong khi đó, mật độ nuôi thích hợp ở Moina là 5.000 con/lít và do đó
chúng thích hợp trong nuôi với quy mô lớn và mật độ cao.
2.2

Thành Phần Dinh Dưỡng Của Moina
Qua nghiên cứu, năm 2003, Rottmann đã cho biết Moina tuy là loài giáp xác

có kích thước nhỏ nhưng trong cơ thể chúng lại chứa nhiều enzyme tiêu hóa như
Proteinases, Peptidases, Amylases, hàm lượng HUFA (Highly Unsaturated Fatty Acid)
là những acid amine thiết yếu mà cơ thể cá, tôm không thể tự tổng hợp được. Khi được
tiêu thụ vào, Moina sẽ cung cấp nhiều men tiêu hóa rất có lợi cho hoạt động của cơ thể
tôm cá.

11


Bảng 2.1: Thành phần acid béo có trong Moina (tính trên % lipid tổng số)
Moina được nuôi với
Acid béo
Men

Men + Phân gia cầm


Phân gia cầm

14:00

2,4

0,8

1,3

16:00

6,5

5,8

10,7

16:1n7

33,6

19,9

13,8

18:00

2,5


3,0

5,6

18:1n9

24,1

26,2

10,4

18:2n6

4,2

6,6

7,3

18:3n3

0,8

0,8

10,1

20:00


0,1

1,1

2,0

20:01

0,3

0,2

0,1

20:4n6

4,4

8,9

5,5

20:4n3

0,1

0,2

0,2


20:5n3

1,5

7,0

14,5

22:5n3

-

0,2

0,2

22:6n3

-

0,3

-

(Nguồn Watanabe và ctv, 1978)
Giá trị dinh dưỡng của Moina phụ thuộc vào độ tuổi và loại thức ăn mà chúng
tiêu thụ. Dù vậy, lượng protein ở Moina chiếm 50% khối lượng khô. Moina trưởng
thành chứa nhiều chất béo hơn Moina non. Lượng chất béo chiếm 20 – 27% khối
lượng khô ở Moina cái trưởng thành và 4 – 6% ở Moina non (Rottmann và ctv, 2003).

Moina là thức ăn có giá trị đối với cá hương, vì nó phù hợp cỡ miệng và khả
năng di chuyển thụ động của Moina sẽ kích thích tập tính bắt mồi của cá con. Nếu so
với Daphnia thì Moina nhỏ hơn nhưng có giá trị protein cao hơn (Shirota, 1966; trích
bởi Anh, 1998).

12


Bảng 2.2: Thành phần amino acid của một số loài phiêu sinh động vật (tính theo đơn
vị g/100 g protein thô)
Amino acid

Moina sp. Artemia salina Brachionus plicatilis

Isoluecine

2,5

2,6

3,4

Luecine

6,0

6,1

6,1


Metionine

1,0

0,9

0,8

Cystine

0,6

0,4

0,6

Phenylalanine

3,6

3,2

3,9

Tyrosine

3,3

3,7


3,1

Thereonine

3,8

1,7

3,2

Tryptophan

1,2

1,0

1,2

Valine

3,2

3,2

4,2

Lysine

5,8


6,1

6,1

Arginine

5,1

5,0

4,6

Histidine

1,6

1,3

1,5

Alanine

4,9

4,1

3,8

Aspartic acid


8,3

7,5

8,0

Glutamic acid

9,8

8,8

9,8

Glycine

3,7

3,4

3,1

Proline

4,2

4,7

6,7


Serine

4,0

4,6

4,0

Total

72,6

74,1

74,1

(Nguồn Watanabe và ctv, 1978)
Moina có thể được trữ lâu dài bằng cách trữ lạnh trong nước muối nồng độ
thấp (7ppt) hay trữ khô. Cả hai phương pháp đều làm Moina chết, vì vậy khi cho cá ăn,
cần phải sục khí liên tục nhằm giữ chúng lơ lửng trong nước để cá bột có thể ăn.
Moina đông lạnh và Moina khô không bổ dưỡng bằng Moina tươi. Vả lại, cá con cũng
không thích thức ăn ở dạng này lắm mà lại thích Moina tươi sống hơn.
Tuy nhiên, thành phần dinh dưỡng của Moina đông lạnh và khô không bị thay
đổi nhiều, những chất dinh dưỡng không tan quá nhanh vào nước. Hầu hết những
13


enzyme hoạt động bị phân hủy trong vòng 10 phút sau khi bỏ Moina vào nước. Sau
một giờ, tất cả những acid amin tự do và acid amin kết hợp đều bị phân hủy (Rottmann
và ctv, 2003).

2.3

Tình Hình Sản Xuất Moina Trong Và Ngoài Nước

2.3.1

Ngoài nước
Từ rất sớm, nhiều nước trên thế giới đã biết dùng Moina như là một nguồn

thức ăn không thể thiếu cho cá bột của nhiều loài cá và nhất là trong nuôi cá cảnh. Và
để chủ động trong việc tạo nguồn thức ăn cho cá, nhiều công trình nghiên cứu đã được
tiến hành nhằm tìm ra qui trình nuôi hoàn chỉnh và có hiệu quả.
Từ những năm cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, hàng loạt công trình nghiên cứu
được công bố ở Châu Âu và Châu Á bởi Sars năm 1903; ở Nam Phi năm 1916 của
Sars; ở Mỹ năm 1875 bởi Herrick, năm 1918 bởi Birge; năm 1937 của Bellosillo ở
Philipin,… (Nguồn Srijankul và ctv, 1985)
Trên cơ sở đó, việc nuôi Moina diễn ra sôi nổi ở rất nhiều nước trên thế giới,
đạt được nhiều thành tựu khả quan và được ứng dụng phổ biến trong thực tiễn sản
xuất. Chưa dừng lại ở việc nuôi theo phương pháp cũ, các nhà nghiên cứu luôn tìm tòi
ra những phát minh mới với mong muốn tìm ra điều kiện tối ưu và hiệu quả nhất để
thu được sinh khối Moina với năng suất cao.
Người ta tiến hành thử nghiệm nuôi Moina với nhiều loại thức ăn khác nhau
như: men bia kết hợp tảo Chlorella và phân gia cầm (Nandy, 1977), phân gia súc trộn
với đất (Bellosillo, 1937), phân gia cầm (Ventura và Enderez, 1980), cây cỏ tươi ủ
mục rã (Matsudaira, 1943),… và còn rất nhiều thử nghiệm khác (Nguồn Srijankul và
ctv, 1985).
Ở Singapore, loài Moina micrura nuôi trong ao hồ bón chủ yếu bằng phân gà
hay phân heo, được sử dụng làm thức ăn chính cho cá bột của các loài cá cảnh nhiệt
đới, tỷ lệ cá sống bình quân lên đến 95 – 99% ở kích thước 20 cm (Rottmann, 2003).
Tại một số trại thủy sản ở Florida thuộc Nam Mỹ, người ta dùng nước tảo

Spirulina (môi trường “nước xanh”) để nuôi cấy Moina làm thức ăn cho cá cá vàng
(Goldfish) và cá chép (Koi) bột. Theo hình thức này thì Moina được nuôi sẵn vài ngày
trước khi cá bột tiêu hết noãn hoàng. Mật độ Moina được thả lúc ươm nuôi tùy thuộc
vào dự tính chủ quan của người nuôi. Nếu ươm ít, đàn Moina sẽ phát triển chậm hơn,
14


còn nếu ươm nhiều thì có thể thu hoạch sớm hơn và giảm nguy cơ nhiễm bệnh. Đến
khi cá con có khả năng ăn được, Moina được thả vào với mật độ thấp, khoảng vài chục
con/l và tăng dần mật độ Moina lên ở những ngày sau đó (Hopkins, 2005).

Hình 2.3: Bồn nuôi Moina trong môi trường nước xanh
(Nguồn )
Rottmann và ctv (2003) cho biết, phần lớn ở các nước thường nuôi Moina
trong các bồn, có thể tích trung bình khoảng 38 lít. Tuy nhiên, thể tích này chỉ đủ cung
cấp cho nhu cầu của một người nuôi cá bình thường. Để nuôi với mục đích thương mại
thì phải sử dụng bồn chứa, hồ nhân tạo (bằng xi măng, kim loại, plastic hay sợi thủy
tinh) và hồ đất. Ngoài ra, bất cứ dụng cụ nào có khả năng chứa nước đều được tận
dụng như bồn tắm cũ, bồn rửa chén, ngăn tủ lạnh và chậu nhựa. Không nên sử dụng
loại bồn kim loại, trừ khi chúng được làm bằng loại thép không rỉ.
Nguyên tắc sản xuất Moina dựa trên chuỗi bầy nuôi liên tiếp, nghĩa là bầy nuôi
mới được tạo ra hàng ngày trong các bồn chứa riêng biệt. Moina có thể được sản xuất
bằng cách nuôi kết hợp với thức ăn của chúng hay nuôi riêng lẻ. Nuôi kết hợp đơn giản
hơn nhưng nuôi riêng lẻ lại cho kết quả tốt hơn. Khi nuôi riêng lẻ, bồn nuôi vi tảo
được đặt sao cho nó chảy vào bồn nuôi Moina. Sản xuất từ những bồn riêng biệt có
điểm bất lợi là cần nhiều không gian để nuôi vi tảo. Tuy nhiên cũng có điểm thuận lợi
là ít có khả năng lây nhiễm bệnh, điều khiển tốt hơn và thu hoạch được nhiều Moina
hơn (Rottmann và ctv, 2003).

15



×