Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn ban học của học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.75 KB, 27 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tên đề tài : “Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn ban
học của học sinh THPT”
2.Lý do chọn đề tài
Từ xưa đến nay giáo dục luôn song hành với những bước phát triển của
thời đại, mục tiêu giáo dục luôn gắn liền với mục tiêu thời đại. Trong thời đại
ngày nay khi nước ta đang có những bước tiến vững chắc trên con đường công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập cùng thế giới (tháng 1 năm 2007 Việt Nam
đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO
1
), thì
mục tiêu quan trọng cấp thiết của ngành giáo dục là đào tạo ra đội ngũ lao động
có trình độ cao đáp ứng cho nhu cầu của xã hội, đào tạo ra những con người
Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp
Nhưng cho đến nay, nền giáo dục Việt Nam vẫn còn tồn tại khá nhiều
vấn đề bất cập bắt đầu từ việc xây dựng chương trình học, nội dung, phương
pháp giảng dạy, đội ngũ cán bộ giáo viên… và hậu quả tất yếu của nền giáo
dục chưa hiệu quả đó là sản phẩm của nền giáo dục (chất lượng lao động) còn
có một khoảng cách khá xa so với tiêu chuẩn chung của toàn thế giới nhất là so
với các nước trong khu vực. Theo đánh giá của tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO), chất lượng lao động của Việt Nam chỉ đạt 29,6% so với tiêu chuẩn của
Quốc tế(100%) trong khi đó Philippin đạt 49,7%, Trung Quốc 52,5%, Singapo
đạt 70,2% .Qua đó ta có thể thấy rằng nền giáo dục Việt Nam đang bị tụt hậu
so với nền giáo dục của thế giới và khu vực. Theo báo cáo của Ngân hàng thế
giới (WB) năm 2006 Việt Nam xếp hàng chót trong khu vực Châu Á về số
người học đại học. Nếu xét trong độ tuổi từ 20-24 chỉ có 10% học đến đại học
1
WTO Tổ chức thương mại quốc tế thành lập ngay 1/1/1995 hiện nay có 151 thành viên,
Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tố chức này ngày 11/1/2007


1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
so với thế giới là 15%, Thái Lan là 41%, Hàn Quốc là 89%. Tỷ lệ 167 sinh
viên/ 1 vạn dân của nước ta hiện nay là quá thấp trong khu vực.
Thực trạng này của nền giáo dục đã sớm được phát hiện và nền giáo dục
nước ta cũng đã và đang tiến hành nhiều lần đổi mới cải cách giáo dục để đưa
chất lượng nền giáo dục tiến lên. Có nhiều biện pháp đã được đưa vào thực
hiện như: cải cách chương trình SGK ở phổ thông, đổi mới phương pháp giảng
dạy trong nhà trường, chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo
dục....Chương trình phân ban được triển khai đại trà ở THPT năm học 2006-
2007 cũng là một trong những cố gắng của ngành giáo dục nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục Việt Nam, định hướng tương lai cho nền giáo dục nước nhà
nhưng cho đến nay nó vẫn bộc lộ khá nhiều bất cập.
Là những nhà giáo trong tương lai, chúng tôi cũng rất quan tâm và có
một số những băn khoăn thắc mắc xung quanh vấn đề này. Đó là:
1. Cho đến nay ngành giáo dục nước ta đã tiến hành khá nhiều lần phân
ban nhưng chưa có lần nào phát huy được hiệu quả của nó, cứ phân ban rồi lại
bỏ. Điều này tác động không tốt đến nền giáo dục nước nhà. Do vậy, chúng tôi
muốn tìm hiểu xem chương trình phân ban hiện nay đã thực sự phù hợp với
học sinh chưa? Nó có tác động như thế nào đến quá trình học tập của học sinh?
2. Khi chương trình phân ban được thực hiện đại trà có một thực trang
tại hầu hết các trường Phổ thông đó là phần lớn học sinh chọn ban cơ bản và
ban Tự nhiên còn ban KHXH-NV không có hoặc có rất ít học sinh lựa chọn.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục- Đào tạo với trên 1,1 triệu học sinh lớp 10
trong năm 2006- 2007 ở 64 tỉnh, thành phố thì ban KHXH- NV chiếm 6,47%,
ban KH cơ bản 72.76%. ban KH Tự nhiên chiếm 19,77%. Riêng tại TP Hồ Chí
Minh 1% học sinh học Ban KHXH
2
. Vậy nguyên nhân gì dẫn đến sự chênh
lệch này? Các yếu tố nào ảnh hưởng đến sự lựa chọn phân ban của học sinh

THPT
Trong đề tài này, chúng tôi không có tham vọng có thể đưa ra được
những cải cách mới cho nền giáo dục Việt Nam nhưng rất mong rằng thông
2
Theo số liệu thống kê của Bộ GD-ĐT năm 2005-2006
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
qua đề tài này bước đầu chúng tôi có thể tìm thấy câu trả lời cho những băn
khoăn thắc mắc của mình. Thiết nghĩ nó cũng rất hữu ích cho công việc của
chúng tôi sau này. Là những người giáo viên tương lai chúng tôi có thể biết
được mình cần chuẩn bị những gì cho việc dạy học phân ban và xa hơn là dạy
học tự chọn sau này. Ngoài ra, khi hiểu được các yếu tố tác động đến sự lựa
chọn ban học của học sinh thì chúng tôi có thể định hướng cho học sinh giúp
các em có những lựa chọn đúng đắn vì việc lựa chọn ban học là một bước
ngoặt khá quan trọng quyết định đến việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai của
các em.
3.Lịch sử nghiên cứu đề tài
Giai đoạn THPT là giai đoạn quan trọng đối với việc lựa chọn nghề
nghiệp của các em sau này vì vậy công tác hướng nghiệp trong bậc THPT
3
đã
được ngành giáo dục chú trọng từ rất lâu. Đã có rất nhiều bài báo, các đề tài
nghiên cứu khoa học, nhiều cuốn sách viết về giáo dục Hướng nghiệp cho học
sinh THPT.
Từ năm học 2006-2007, khi Bộ Giáo dục Đào tạo thực hiện chủ trương
phân ban trên diện rộng thì sự lựa chọn ban học của học sinh khi bước vào đầu
lớp 10 cũng trở nên rất quan trọng. Nó là tiền đề cho việc lựa chọn khối thi và
lựa chọn nghề nghiệp của các em sau này. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được
chú trọng nghiên cứu. Mọi người mới chỉ tập trung thảo luận xem chương
trình phân ban đã phù hợp chưa? Nó bất cập ở điểm nào? Các trường thực hiện

phân ban ra sao? Chứ chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về tác động của một số
yếu tố trong việc lựa chọn ban và chọn nghề của học sinh THPT.
Trong Hội nghị khoa học sinh viên lần thứ VI (năm 2007) của Khoa
Sư Phạm- Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đã có một đề tài nghiên cứu về
chương trình phân ban của các bạn K50 SP Hoá nhưng mới chỉ dừng lại ở việc
đánh giá bước đầu về chương trình phân ban chứ chưa đặt nó trong mối tương
quan tác động đến tâm lý của học sinh khi chọn ban. Trong đề tài nghiên cứu
3
Công tác giáo dục hướng nghiệp bắt đầu được Đảng và NN chú trọng từ những năm
70.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của mình, chúng tôi muốn một cái nhìn sâu sắc hơn về một số yếu tố tác động
đến việc chọn ban học của học sinh THPT nhưng chúng tôi cũng không bỏ qua
những kiến thức tương đối sâu sắc về chương trình phân ban.
4. Đối tượng nghiên cứu
Là một số yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn ban học của học sinh
THPT ngoài ra còn nghiên cứu, tìm hiểu về chương trình phân ban hiện nay.
Nhưng do thời gian có hạn, chúng tôi mới chỉ tiến hành khảo sát tại một số lớp
10 và 11 trường THPT Nhân Chính – Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc các loại sách, tạp chí có nội
dung liên quan đến phân ban và tâm lý học sinh THPT sau đó tiến hành tổng
hợp phân tích tài liệu.
- Phương pháp điều tra thống kê: xây dựng mẫu phiếu điều tra gồm 14
câu hỏi có nội dung về : các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến việc lựa chọn ban
học của học sinh THPT ; việc có hay không thi đại học sau khi tốt nghiệp
THPT; về thế mạnh của học tập của học sinh…sau đó phát cho học sinh trường
THPT Nhân Chính để trưng cầu ý kiến của các em. Cuối cùng, tổng hợp số liệu
điều tra, rút ra nhận xét đánh giá.

- Phương pháp quan sát : thu thập thông tin thông qua những quan sát
nghi chép mọi yếu tố liên quan đến đối tượng nghiên cứu. Trong báo cáo này
chúng tôi quan sát một buổi học ngoại khoá của các em học sinh về lựa chọn
nghề nghiệp
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
I. Vài nét về phân ban
1. Khái quát chung về phân ban:
Khái niệm phân ban:
- “Phân ban”
4
được thực hiện trong quá trình dạy học ở cấp THPT. Khi
thực hiện phân ban những học sinh có năng lực, sở thích nhu cầu, điều kiện học
tập tương đối giống nhau được tổ chức thành nhóm học theo cùng một chương
trình. Mỗi nhóm học sinh như vậy gọi là một ban. Tuỳ theo số lượng học sinh
mà mỗi ban có thể chia thành một lớp. Ví dụ những học sinh có cùng khả năng
nhu cầu sở thích về lĩnh về toán và khoa học tự nhiên có thể học ở ban KHTN,
những học sinh có cùng khả năng sở thích về lĩnh vực khoa học xã hội có thể
tham gia ban KHXH và NV.
1.2 Phân biệt khái niệm Phân ban với các khái niệm: Phân hoá, Phân
luồng và dạy học tự chọn :
+ Dạy học phân hoá là quan điểm dạy học đòi hỏi phải tiến hành hoạt
động dạy học dựa vào những khác biệt về năng lực, sở thích, nguyện vọng, các
điều kiện học tập….nhằm phát triển tốt nhất cho người học, đảm bảo công
bằng giáo dục.
+ Phân luồng được thực hiện sau cấp THCS và THPT nhằm tạo ra
những cơ hội cho học sinh tiếp tục học tập hoặc làm việc sau cấp THCS có
những luồng như: tiếp tục học THPT, học trung cấp chuyên nghiệp, học nghề,
tham gia làm việc tại các cơ sở lao động sản xuất….

+ Dạy học tự chọn được thực hiện trong quá trình dạy học ở các cấp học.
Nếu Phân ban hướng đến các nhóm học sinh với khả năng, sở thích, nhu cầu
điều kiện học tập tương đối giống nhau thì Dạy học tự chọn hướng đến từng cá
nhân học sinh.
4
Khái niệm Phân ban được một nhà giáo dục học người Pháp đưa ra lần đầu tiên ở Châu Âu.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Dạy học tự chọn cho phép mỗi học sinh, ngoài việc học theo chương
trình chung còn có thể học một chuơng trình học với các môn học khác nhau,
hoặc có thể học các chủ đề khác nhau trong một môn học.
Như vậy, ta thấy rằng: các hình thức học tập này đều là những hình thức
học tập tiên tiến phát huy tối đa khả năng của người học, tạo cho người học
điều kiện học tập tốt nhất. Hiện nay, các hình thức dạy học này đã và đang
được các nước tiên tiến trên thế giới áp dụng để nâng cao chất lượng giáo dục
nhưng nó đòi hỏi điều kiện cơ sở vật chất cao và đội ngũ giáo viên trình độ cao
mà những điều kiện này hiện nay chúng ta chưa thể đáp ứng ngay được.
2. Lịch sử phân ban ở nước ta:
- Phân ban ra đời từ khoảng Thế kỷ XVIII ở nhiều nước Châu Âu, sau
đó hình thức này càng được hoàn thiện và áp dụng rộng rãi ở các nước Châu
Âu và các nước thuộc địa chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Pháp.
2.1 Trước cách mạng Tháng Tám 1945
Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, phân ban THPT đã có từ thời Pháp
thuộc. Năm 1906, với cải cách của Toàn quyền Paul Beau
5
bậc trung học được
chia làm hai: trung học đệ nhất cấp và trung học đệ nhị cấp, trong đó trung học
đệ nhị cấp được phân làm hai ban là Ban văn học và Ban khoa học. Hình thức
phân ban này nhằm đào tạo ra những nhân viên phục vụ cho nền thông trị của
Pháp.

Năm 1917, Toàn quyền Albert Saurraut
6
lại tiến hành cải cách giáo dục
lần hai, vẫn chia giáo dục trung học làm hai ban Cao đẳng Tiểu học và Trung
học nhưng không phân ban.
2.2 Sau cách mạng Tháng Tám 1945
Sau cách mạng Tháng Tám 1945, ta tiếp quản nền giáo dục của Pháp. Hệ
thống giáo dục Phổ thông được sửa đổi thành hệ 11 năm trong đó bậc Trung
học được chia làm 3 ban: ban Toán- Lý-Hoá, ban Lý- Hoá- Sinh, ban Văn-Sử-
5
Paul Beau - người Pháp giữ chức Toàn quyền Đông Dương từ 1902-1907
6
6 Albert Saurraut – Toàn quyền Đông dương từ 1912-1919
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Địa. Năm 1950, ta tiến hành cải cách giáo dục lần thứ nhất chia làm 3 cấp học:
Cấp I, CấpII, Cấp III không phân ban.
Từ 1954 đến 1975, khi đất nước bị chia cắt, ở miền Nam vẫn duy trì
chương trình phân ban gồm 4 ban: mỗi ban có 3 môn chính: ban khoa học thực
nghiệm- Ban A gồm Sinh-Hoá-Lý, ban toán- ban B gồm Toán-Lý-Hoá, ban
Ngôn ngữ hiện đại- ban C gồm Văn-Sử-Địa-Ngoại ngữ và ban Cổ ngữ gồm
Hán Nôm-Văn-Ngoại ngữ.
Đến năm 1981-1982, Bộ Giáo dục bỏ chương trình phân ban cũ và cả
nước thống nhất chương trình Phổ thông 12 năm không phân ban.
Năm 1993- 1994, phân ban lại tiếp tục được thực hiện, lần này Bộ Giáo
dục Đào tạo chỉ chia thành 3 ban: Ban A(KHTN), Ban B (KHTN-KT), Ban C
(KHXH) thực hiện ở 214 trường với gần 2000 học sinh (chiếm gần 20% tổng
số trường toàn quốc) Nhưng trong quá trình thực hiện rất ít học sinh chọn ban
B lại thêm nhiều rắc rối trong thi cử năm 1998 nên Bộ quyết định dừng tuyển
sinh lớp 10 chuyên ban. Thủ tướng đã có chỉ thị số 30 về việc điều chỉnh chủ

trương phân ban ở PTTH và đào tạo 2 giai đoạn ở đại học.
Năm 2003-2004, một chương trình phân ban THPT mới lại được thí
điểm tại 48 trường THPT thuộc 11 tỉnh, thành phố với 2 ban KHTN (ban A) và
KHXH(ban C) và dự kiến 2005-2006 sẽ triển khai đại trà chương trình này.
Nhưng sau 2 năm thí điểm chương trình phân ban đã bộc lộ nhiều khuyết điểm.
Cụ thể là số học sinh vào ban KHXH rất thấp(23,3%) nhiều trường chỉ có 10%
học sinh học ban C và có tới 60% học sinh không đủ trình độ học ban A lẫn
ban C nhưng không biết chọn chương trình nào khác để học.
Trước tình hình đó, tại hội nghị giao ban giám đốc Sở giáo dục-đào tạo
năm 2005 diễn ra tại Hà Nội từ ngày 23- 24/3/2005, Ban chỉ đạo về chuơng
trình phân ban đã đưa ra 3 phương án:
+ Phương án 1: thực hiện phân thành hai ban từ lớp 10 gồm 2 ban
(KHTN, KHXH-NV) như hiện nay và có điều chỉnh kế hoạch giảng dạy của 2
ban, điều chỉnh số tiết học tự chọn.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Phương án 2: thực hiện phân 4 ban ở lớp 12. Theo đó, học sinh lớp
10 và 11 cùng học theo chương trình chuẩn gồm 12 môn và các hoạt động giáo
dục kết hợp với chủ đề tự chọn. Đến lớp 12, học sinh được chọn 1 trong 4 ban:
KHTN I- ban A với các môn nâng cao Toán, Lý, Hoá; KHTN II- ban B với các
môn nâng cao Toán, Hoá, Sinh; KHXH-NV- ban C với các môn nâng cao
Văn, Sử, Địa; ban Tổng hợp- ban D với các môn nâng cao Toán, Ngoại ngữ,
Văn
+ Phương án 3: phân ban sớm và sâu dần ở cuối cấp. Theo đó, học sinh
lớp 11 và 12 được phân thành 2 ban như đang thí điểm (KHTN, KHXH). Lớp
12 phân thành 4 ban (KHTN I, KHTN II, KHXH I, KHXH II). Mức độ phân
hoá ở một số môn lớp 12 sâu hơn nhiều so với phân ban thí điểm, so với
phương án 1,2 được đề xuất ở trên.
Mỗi phương án trên đều có những ưu điểm, thuận lợi cũng như những
hạn chế khó khăn khi thực hiện trong đó phương án 3 phân ban sớm và sâu dần

ở cuối cấp được nhiều người lựa chọn vì phương án này bắt đầu từ lớp 10 sâu
dần ở lớp cuối cấp vừa tránh đột ngột cho học sinh, chuẩn bị tốt hơn cho thi
CĐ, ĐH đồng thời nó đảm bảo sự ổn định và kế thừa được những gì đã chuẩn
bị cho thí điểm ở lớp 10,11.
Năm học 2006-2007, chương trình phân ban được đưa vào thực hiện
đại trà với nội dung phân ban như sau: học sinh học phân ban ngay từ lớp 10
với 3 ban: KHTN học theo chương trình nâng cao của 4 môn Toán, Lý, Hoá,
Sinh và chương trình chuẩn của các môn còn lại; KHXH học theo chương trình
nâng cao của 4 môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ và chương trình
chuẩn của các môn còn lại; KH Cơ bản học sinh sử dụng thời lượng dạy học tự
chọn 4 tiết/ tuần để học theo chương trình và sách giáo khoa nâng cao của một
số môn có nội dung nâng cao Toán, Lý, Hoá, Sinh, Văn, Sử, Địa, Ngoại ngữ và
học chủ đề tự chọn thuộc một số môn học. Các môn còn lại học SGK biên soạn
theo chương trình chuẩn.
1. Thực trạng lựa chọn ban học hiện nay
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khi chương trình phân ban được đưa vào thực hiện đại trà thì có một
thực tế đang diễn ra ở nhiều trường phổ thông trong toàn quốc đó là số học
sinh chọn ban KHXH rất ít thậm chí không có, còn số học sinh chọn ban KH
Cơ bản là khá cao. Có thể dẫn ra đây một vài số liệu thống kê như sau:
Đơn vị %
KHTN KHXH KHCB KHTN KHXH KHCB
Cả
nước
19,77 6,47 73,76 Cả nước
Hà Nội 29 10 51 Hà Nội 30 8 62
Tp
HCM
21,9 4,51 75 Tp

HCM
23,2 3 73,8

Nam
24 11 65 Hà Nam 20 4 85,9

Mau
9,5 4,51 85,99 Cà Mau 11 7,3 81,7


Trên đây là số liệu về sự lựa chọn ban học của học sinh THPT qua 2
năm thực hiện phân ban đại trà. Nhìn vào bảng số liệu trên, ta có thể thấy tỷ lệ
lựa chọn giữa các ban rất chênh lệch nhau. Ban cơ bản được lựa chọn nhiều
hơn cả (chiếm tỷ lệ cao nhất) còn ban KHXH có ít sự lựa chọn nhất. Điều đáng
chú ý là tỷ lệ chênh lệch nhau giữa hai ban này rất lớn 73,76/6,7(năm 2006-
2007). Trên địa bàn Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh hầu hết các trường THPT đều
không có ban KHXH vì số học sinh lựa chọn không đủ để thành lập một lớp.
Đây là một bất cập mà hiện nay chúng ta chưa giải quyết được.
Hiện nay đang có rất nhiều ý kiến xung quanh vấn đề phân ban nhưng
hầu hết đều chưa đánh giá cao chương trình phân ban hiện nay (từ ban học
chưa hợp lý, chưa phong phú đến chương trình học quá nặng, phương pháp
giảng dạy chưa hiệu quả, cơ sở vật chất không đáp ứng được nhu cầu của học
sinh và giáo viên….) Nhìn chung, đây là một vấn đề đang được xã hội quan
tâm và là một vấn đề còn gây nên nhiều tranh cãi.
9
Bảng 2:Tỷ lệ tham gia ban học của học
sinh năm học 2007-2008(chưa thống kê đ
ược số liệu của cả nước)
Bảng 1: Tỷ lệ tham gia ban học của học
sinh năm học 2006-2007

Website: Email : Tel : 0918.775.368
I. Khái quát chung về tâm lý học sinh THPT
Yếu tố tâm lý lứa tuổi cũng có tác động rất lớn đến sự lựa chọn ban học
của học sinh THPT. Để thấy được sự tác động này trước hết ta đi tìm hiểu một
số đặc điểm tâm lý lứa tuổi THPT.
Học sinh THPT là học sinh lứa tuổi từ 15-18. Đặc điểm nổi bật nhất của
thời kỳ này là các em đã đạt đến sự trưởng thành về mặt cơ thể, có sức lực dồi
dào và hệ thần kinh khoẻ mạnh. Chính sự phát triển khá hoàn thiện về mặt thể
chất ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tâm lý giai đoạn này.
1.Đặc điểm về nhận thức và sự hình thành thế giới quan
7
Nhận thức của các em đã khác về chất so với tuổi thiếu niên, ví dụ như
khi nhìn nhận một sự vật hiện tượng các em không chỉ dừng lại ở đánh giá bề
ngoài mà đã có những nhận xét về bản chất bên trong của sự vật hiện tượng. Ở
giai đoạn này cảm giác và tri giác đã đạt đến mức độ tinh nhạy, tư duy logic, tư
duy lý luận phát triển cao, các em đã biết xâu chuỗi các sự kiện để đưa ra kết
luận cuối cùng. Giai đoạn này là giai đoạn quyết định sự hình thành thế giới
quan, do sự phát triển tương đối cao về mặt nhân cách những nguyên tắc
chuẩn mực đã có từ trước được đưa vào hệ thống toàn vẹn.
Sự hình thành thế giới quan trong giai đoạn này quy định tính tích cực
về nhận thức. Hoạt động chủ đạo của các em vẫn là hoạt động học tập, sự phát
triển về mặt nhận thức giúp cho quá trình lĩnh hội tri thức tốt hơn, các em chủ
động hơn trong việc tìm tòi khám phá tri thức mới. Học sinh THPT đã có sự
phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan vận động: mắt nhìn- tai nghe- tay viết-
óc suy nghĩ; khả năng quan sát tốt theo một kế hoạch chung. Ngoài ra, các em
đã có những khám phá hiểu biết về thế giới xung quanh và từ đó có thể xây
dựng lên quan điểm của riêng mình, các em muốn sống tích cực vì xã hội.
2. Về tính cách và đời sống tình cảm
Các em ở giai đoạn này luôn có xu hướng thoát khỏi những sự ràng
buộc, muốn hoà nhập vào cuộc sống tập thể, luôn muốn tìm hiểu khám phá cái

mới và muốn khẳng định “cái tôi” của bản thân, khẳng định vị trí xã hội của
7
7 Thế giới quan của các em đã được hình thành từ rất sớm tuy nhiên đến giai đoạn này mới
có tính hệ thống, quy tắc và chuẩn mực.
10

×