Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

KHẢO SÁT MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ BỐNG TƯỢNG GIỐNG (Oxyeleotris marmorata Bleeker 1825) Sinh viên thực hiện: Trương Minh Long Ngành: Nuôi Trồng Thủy Sản Niên khóa: 2004 – 2008 Tháng 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.58 KB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA THUỶ SẢN
---oOo---

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

KHẢO SÁT MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG
TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ BỐNG TƯỢNG GIỐNG
(Oxyeleotris marmorata Bleeker 1825)

Sinh viên thực hiện: Trương Minh Long
Ngành: Nuôi Trồng Thủy Sản
Niên khóa: 2004 – 2008

Tháng 9/2008


KHẢO SÁT MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG
TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ BỐNG TƯỢNG GIỐNG
(Oxyeleotris marmorata Bleeker 1825)

Thực hiện bởi

Trương Minh Long

Khóa luận được đệ trình để đáp ứng yêu cầu cấp bằng Kỹ Sư Nuôi Trồng Thủy Sản

Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Phú Hoà

Thành phố Hồ Chí Minh



i


CẢM TẠ
Tôi xin chân thành cảm tạ:
Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh đã tạo
môi trường thuận lợi cho chúng tôi học tập.
Ban Chủ Nhiệm Khoa cùng toàn thể Quí Thầy Cô Khoa Thuỷ Sản đã tận tình
giảng dạy cho chúng tôi trong suốt bốn năm học vừa qua.
Cô Nguyễn Phú Hoà đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi trong quá trình thực
hiện đề tài.
Gia đình tôi đã hỗ trợ về vật chất và tinh thần cho tôi trong bốn năm học cũng
như trong thời gian thực hiện đề tài.
Chân thành cảm ơn các bạn cùng toàn thể anh em trong Trại Thực Nghiệm
Thuỷ Sản đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Do kiến thức và thời gian còn hạn chế nên luận văn này không thể tránh khỏi
những sai sót. Rất mong những ý kiến đóng góp của Qúi Thầy Cô và các bạn để luận
văn này được hoàn chỉnh hơn.

ii


TÓM TẮT
Đề tài “ Khảo Sát Một Số Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Tăng Trưởng Và Tỷ Lệ
Sống Của Cá Bống Tượng Giống (Oxyeleotris marmorata Bleeker 1825)” được
thực hiện tại trại Thực Nghiệm Khoa Thuỷ Sản trường Đại học Nông Lâm Thành Phố
Hồ Chí Minh từ tháng 4 đến tháng 9 năm 2008.
Đề tài được tiến hành trên đối tượng cá bống tượng có trọng lượng trung bình
4,04 g và 1,08 g với thí nghiệm ảnh hưởng của thức ăn (tép bò, trùn quế), mật độ nuôi

đến tăng trưởng của cá bống tượng và thí nghiệm ảnh hưởng của nhiệt độ, độ mặn đến
tỷ lệ sống..
Cá bống tượng có trọng lượng trung bình 4,04 g nuôi ở mật độ 15 con/bể và 25
con/bể được cho ăn tép bò sau 60 ngày đạt trọng lượng trung bình lần lượt tương ứng
là 22,1 g và 18,16 g. Đối với thức ăn là trùn quế thì đạt trọng lượng trung bình lần lượt
9,04 g và 8,44 g.
Với 45 ngày thí nghiệm ảnh hưởng của nhiệt độ và độ mặn đến tỷ lệ sống của
cá bống tượng có kích cỡ trung bình 1,08 g thu được các kết quả:
Với các nghiệm thức không quản lý nhiệt độ ở các độ mặn 0o/oo, 5o/oo, 10o/oo thì
tỷ lệ sống của cá bống tượng lần lượt tương ứng 17,8%, 20%, 22,2%.
Với các nghiệm thức có quản lý nhiệt độ ở các độ mặn 0o/oo, 5o/oo, 10o/oo thì tỷ
lệ sống của cá bống tượng lần lượt tương ứng 28,8%, 48,9%, 64,4%.

iii


MỤC LỤC
ĐỀ MỤC

TRANG

Trang tựa

i

Cảm tạ

ii

Tóm tắt


iii

Mục lục

iv

Danh sách các bảng

vii

Danh sách biểu đồ và đồ thị

viii

Danh sách hình ảnh

ix

Chương 1. GIỚI THIỆU

1

1.1

Đặt vấn đề

1

1.2


Mục tiêu đề tài

2

Chương 2.TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3

2.1

Vài Nét Về Đặc Điểm Sinh Học Của Cá Bống Tượng

3

2.1.1

Phân loại cá bống tượng

3

2.1.2

Đặc điểm hình thái

3

2.1.3

Phân bố


4

2.1.4

Đặc điểm sinh thái

4

2.1.5

Đặc điểm dinh dưỡng

4

2.1.6

Đặc điểm sinh trưởng và phát triển

5

2.1.7

Đặc điểm sinh sản

6

2.1.7.1

Phân biệt giới tính


6

2.1.7.2

Tuổi và kích thước thành thục

6

2.1.7.3

Mùa vụ sinh sản

7

2.1.7.4

Đặc tính và môi trường sinh sản

7

2.2

Tình Hình Sản Xuất Giống Cá Bống Tượng

7

2.2.1

Trong nước


7
iv


2.2.2

Trên thế giới

8

2.3

Tình Hình Nuôi Cá Bống Tượng

9

2.3.1

Ở Campuchia

9

2.3.2

Ở Thái Lan

9

2.3.3


Ở Việt Nam

10

2.4

Ảnh Hưởng Của Một Số Yếu Tố Môi Trường Đến Ương

11

Nuôi Cá
2.4.1

Giá thể

11

2.4.2

Mật độ ương nuôi

11

2.4.3

Ánh sáng

12


2.4.4

Độ mặn

13

2.4.5

Nhiệt độ

13

2.5

Sơ Lược Về Thức Ăn Sử Dụng Trong Quá Trình Thí
Nghiệm

14

2.5.1

Tép bò

14

2.5.2

Trùn quế

14


Chương 3.VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

16

3.1

Thời Gian Và Địa Điểm Thực Hiện Đề Tài

16

3.2

Vật Liệu Thí Nghiệm

16

3.2.1

Đối tượng thí nghiệm

16

3.2.2

Dụng cụ và nguyên vật liệu bố trí thí nghiệm

16

3.3


Phương Pháp Thí Nghiệm

17

3.3.1

Thí nghiệm 1

17

3.3.1.1

Thức ăn

17

3.3.1.2

Phương pháp cân, đo

18

3.3.1.3

Phương pháp bố trí thí nghiệm

18

3.3.1.4


Phương pháp cho ăn và chăm sóc

19

3.3.1.5

Các chỉ tiêu theo dõi

19

3.3.2

Thí nghiệm 2

20

3.3.2.1

Thức ăn

20

3.3.2.2

Phương pháp cân, đo

20
v



3.3.2.3

Phương pháp bố trí thí nghiệm

20

3.3.2.4

Cho ăn

21

3.3.2.5

Chỉ tiêu nhiệt độ

21

3.4

Phương Pháp Xử Lý Số Liệu

21

Chương 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

22

4.1


22

Ảnh Hưởng Của Thức Ăn Và Mật Độ Nuôi Đến Tăng
Trưởng Của Cá Bống Tượng

4.1.1

Sự biến động các chỉ tiêu chất lượng nước

22

4.1.2

Sự tăng trưởng của cá bống tượng ương nuôi

23

4.1.3

Tỷ lệ sống của cá bống tượng ương nuôi

26

4.2

Ảnh Hưởng Của Độ Mặn Và Nhiệt Độ Đến Tỷ Lệ Sống Của

27


Cá Bống Tượng Ương Nuôi
4.2.1

Kết quả đo nhiệt độ

27

4.2.2

Tỷ lệ sống của ương nuôi cá bống tượng ở các độ mặn và

28

nhiệt độ khác nhau
4.2.2.1

Tỷ lệ sống của ương nuôi cá bống tượng khi có quản lý

29

nhiệt độ và không có quản lý nhiệt độ
4.2.2.2

Tỷ lệ sống của ương nuôi cá bống tượng ở các độ mặn khác

33

nhau
Chương 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ


36

5.1

Kết Luận

36

5.2

Đề nghị

36

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

vi


DANH SÁCH CÁC BẢNG
BẢNG

NỘI DUNG

TRANG

Bảng 2.1

Thành phần thức ăn trong dạ dày cá bống tượng


5

Bảng 2.2

Thành phần dinh dưỡng của các loại thức ăn

15

Bảng 4.1

Giá trị pH max, min của mỗi nghiệm thức

23

Bảng 4.2

Sự tăng trọng giữa các nghiệm thức

26

Bảng 4.3

Sự tăng trưởng về chiều dài của cá bống tượng

27

Bảng 4.4

Tỷ lệ sống của các nghiệm thức


28

Bảng 4.5

Giá trị nhiệt độ min, max của các nghiệm thức

28

Bảng 4.6

Tỷ lệ sống của các nghiệm thức

34

Bảng 4.7

Tỷ lệ sống của các nghiệm thức

36

vii


DANH SÁCH BIỂU ĐỒ VÀ ĐỒ THỊ
ĐỒ THỊ

NỘI DUNG

TRANG


Biểu đồ 4.1 Sự tăng trưởng về trọng lượng

24

Biểu đồ 4.2 Sự tăng trưởng về chiều dài

25

Đồ thị 4.1

31

Tỷ lệ sống của cá bống tượng ở môi trường có quản lý
nhiệt độ và không có quản lý nhiệt độ với độ mặn 0 o/oo

Đồ thị 4.2

Tỷ lệ sống của cá bống tượng ở môi trường có quản lý

32

nhiệt độ và không có quản lý nhiệt độ với độ mặn 5 o/oo
Đồ thị 4.3

Tỷ lệ sống của cá bống tượng ở môi trường có quản lý

33

nhiệt độ và không có quản lý nhiệt độ với độ mặn 10 o/oo

Đồ thị 4.4

Tỷ lệ sống của cá bống tượng ở các độ mặn khác nhau với

35

môi trường không có quản lý nhiệt độ
Đồ thị 4.5

Tỷ lệ sống của cá bống tượng ở các độ mặn khác nhau với
môi trường có quản lý nhiệt độ

viii

35


DANH SÁCH HÌNH ẢNH
HÌNH

NỘI DUNG

TRANG

Hình 2.1

Hình dạng ngoài của cá bống tượng

3


Hình 3.1

Bể thí nghiệm

17

Hình 3.2

Trùn quế

18

Hình 3.3

Các bể bố trí thí nghiệm 1

19

Hình 3.4

Các bể bố trí thí nghiệm 2

22

Hình 4.1

Cá bống tượng bị nấm

29


Hình 4.2

Cá bống tượng bị lở loét

30

ix


Chương 1
GIỚI THIỆU
1.1 Đặt Vấn Đề
Cá bống tượng (Oxyeleotris marmorata Bleeker) là loài cá nước ngọt có kích
thước lớn. Được người dân ở một số nước Đông Nam Á như Thái Lan, Campuchia,
Việt Nam...chọn làm đối tượng nuôi thuỷ sản.
Đây là đối tượng thuỷ sản có giá trị kinh tế cao, không những được tiêu thụ
trong nước mà còn được xuất khẩu. Do có giá trị thương mại cao nên nhiều người dân
mong muốn được nuôi đối tượng này. Tuy nhiên trong thời gian gần đây việc nuôi cá
bống tượng gặp rất nhiều khó khăn về con giống, kỹ thuật, phòng và trị bệnh. Để bảo
đảm cho nghề nuôi cá bống tượng phát triển trước hết phải giải quyết vấn đề con
giống.
Hiện nay con giống trong tự nhiên không đáp ứng đủ nhu cầu nuôi của người
dân cho nên đã có nhiều cơ sở sản xuất giống cá bống tượng ra đời. Nhưng cái khó
của những cơ sở sản xuất này chính là tăng tỷ lệ sống và rút ngắn thời gian ương từ cá
bột lên cá giống. Các Viện, Trường, Trung Tâm cũng đã nghiên cứu rất nhiều nhưng
kết quả đạt được thì không cao. Theo Tavarutmaneegul và Lin (1988) sức sinh sản của
cá bống tượng khoảng 140.000 trứng/kg nhưng tỷ lệ cá sống trong ương nuôi thấp,
khoảng 20% từ cá bột lên 60 ngày tuổi. Kết quả nghiên cứu trong nước cũng chỉ đạt
khoảng 15% (Ngô Bá Thành và ctv, 1988; trích bởi Hưng, 1998). Việc ương từ cá bột
lên cá giống (100g) mất thời gian từ 7 - 9 tháng (Nguyễn Mạnh Hùng và Phạm Khánh,

1996; trích bởi Trần Quang Hưng, 1998), vì ương trong thời gian dài như vậy nên đầu
tư cơ sở vật chất rất tốn kém và làm tăng khả năng gặp rủi ro. Do đó vấn đề quan trọng
bây giờ là tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống
tượng. Trước tình hình đó, được sự phân công của Khoa Thuỷ Sản Trường Đại Học
Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Khảo Sát
Một Số Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Tăng Trưởng Và Tỷ Lệ Sống Của Cá Bống
Tượng Giống (Oxyeleotris marmorata Bleeker 1825)”

1


1.2 Mục Tiêu Đề Tài
Xác định sự tăng trưởng của cá bống tượng khi nuôi ở mật độ và thức ăn khác
nhau.
Xác định sự ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ và độ mặn đến tỷ lệ sống của cá
bống tượng trong thời gian ương nuôi.

2


Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Vài Nét Đặc Điểm Sinh Học Của Cá Bống Tượng
2.1.1 Phân loại cá bống tượng
Bộ: Perciformes
Bộ phụ: Gobioidei
Họ: Eleotridae
Giống: Oxyeleotris
Loài: Oxyeleotris marmorata Bleeker 1825
Tên tiếng Anh: Marble goby

Tên tiếng Việt: Cá bống tượng

Hình 2.1 Hình dạng ngoài của cá bống tượng

3


2.1.2 Đặc điểm hình thái
Cá bống tượng có đầu to, rộng, dẹp bằng. Mõm dài nhọn hướng lên trên, giữa
mõm có một u nhô cao. Miệng trên rộng, hàm dưới dài hơn hàm trên và đưa ra phía
trước. Răng nhọn, xếp thành nhiều hàng trên mỗi hàm. Không có râu. Mắt tròn nhỏ
lệch về phía đầu. Lưỡi rất phát triển, dẹp bằng, đầu lưỡi tròn. Lỗ mũi trước mở ra bằng
một ống ngắn.
Thân cá mập, phần trước hơi dẹp bằng, phần sau hơi dẹp bên. Cuống đuôi thon
dài. Vẩy nhỏ phủ khắp thân và đầu trừ mõm. Đầu và phần trước của thân phủ vẩy tròn,
phần sau phủ vẩy lược. Trên thân có những đốm vân lớn như da beo. Vi đuôi tròn, gốc
vi đuôi có một đốm đen to. Vi ngực hơi nhọn, có màu cam với nhiều hàng chấm đen
nằm song song với tia vi.
2.1.3 Phân bố
Theo Huỳnh Ngọc Anh (2006) cá bống tượng là loài đặc trưng của vùng nhiệt
đới. Cá tự nhiên bắt gặp ở: Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Brunei, Lào, Campuchia,
Sumatra. Ở miền nam Việt Nam cá xuất hiện ở hệ thống sông Cửu Long, Đồng Nai,
Vàm Cỏ. Trong tự nhiên, cá sống trong các thuỷ vực nước ngọt như: sông ngòi, kênh
rạch, ao, đìa, trong các hồ chứa tự nhiên và nhân tạo.
2.1.4 Đặc điểm sinh thái
Theo Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994; trích bởi Đào Ngọc Quyên,
2005), cá bống tượng sống ở đáy thuỷ vực, hoạt động về đêm. Ban ngày, nó thường
vùi mình xuống bùn đáy và có thể sống ở đó nhiều giờ. Nơi có điều kiện thuận lợi cá
hoạt động cả ban ngày. Trong ao, cá ưa ẩn nấp ven bờ, nơi có hang hốc, cỏ rong và
thực vật thuỷ sinh thượng đặng.

Cá sống thích hợp ở môi trường nước không bị nhiễm phèn, pH=7, song chúng
có thể chịu đựng được pH=5.
Cá sống ở nước ngọt, song có thể chịu đựng được nồng độ muối 15o/oo.
Nhiệt độ thích hợp nhất cho cá phát triển là 26 - 32oC, cá cũng có thể chịu đựng
được nhiệt độ nước 15 - 41,5oC.
Cá cần có dưỡng khí trên 3 mg/l nhưng có thể chịu đựng ở môi trường dưỡng
khí thấp vì cá có cơ quan hô hấp phụ.

4


2.1.5 Đặc điểm dinh dưỡng
Cá bống tượng trưởng thành có bộ máy tiêu hoá tiêu biểu cho loài cá dữ điển
hình. Miệng lớn, răng hàm dài và sắc (Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành, 1994; trích
bởi Út, 1996).
Theo Nguyễn Tuần (1993; trích bởi Quyên, 2005) cá bống tượng là loài cá ăn
động vật. Tỷ lệ chiều dài ruột trên chiều dài thân là Li/Ls =0,04 - 0,06 < 1. Cá bống
tượng thường rình bắt mồi tại chỗ.Thức ăn của chúng chủ yếu như: tôm tép, cá nhỏ,
cua, ốc, ấu trùng côn trùng thuỷ sinh.Cá bống tượng ăn mạnh về đêm hơn ngày, nước
rong ăn mạnh hơn nước kém, nước lớn ăn mạnh hơn nước ròng. Cá bống tượng không
thích ăn vật ương thối .
Theo tác giả Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994; trích bởi Hưng, 1998)
cũng như nhiều loài cá khác, sau khi tiêu hoá hết noãn hoàng, cá bống tượng bắt đầu
chuyển sang ăn thức ăn bên ngoài (thường sau khi nở 3 - 4 ngày). Kích cỡ miệng lúc
này 0,08 - 0,02 mm. Vì vậy phải cung cấp thức ăn kích cỡ nhỏ cho chúng như: luân
trùng hoặc thức ăn nhân tạo từ lòng đỏ trứng, bột đậu nành…Sau khi cá được 30 ngày
tuổi cá có thể ăn nhiều loại thức ăn như: trùn chỉ (Tubifex), ấu trùng muỗi lắc
(Chiromonus), cá, tép, nhuyễn thể xay nhuyễn.
Thành phần thức ăn trong dạ dày các mẫu cá bống tượng thu được ngoài tự
nhiên được trình bày ở bảng 2.1

Bảng 2.1 Thành phần thức ăn trong dạ dày cá bống tượng
Loại thức ăn
Tôm tép nhỏ
Cá nhỏ
Cua nhỏ

Số dạ dày có chứa thức ăn
7
4
1

Tần số xuất hiện (%)
58,33
33,33
8,33

(Nguồn: Theo Cheng Phen (trích bởi Quyên, 2005))
Kết quả khảo sát cho thấy cá bống tượng là loài cá có phổ thức ăn hẹp, đặc biệt
cá chỉ ăn động vật.

5


2.1.6 Đặc điểm sinh trưởng và phát triển
So với các loài cá khác cá bống tượng có tốc độ tăng trưởng trung bình chậm,
đặc biệt ở giai đoạn dưới 100 gr, từ 100 gr trở lên tốc độ tăng trưởng khá hơn.
Ở giai đoạn cá bột lên cá hương, cá phải mất thời gian là 3 tháng mới đạt chiều
dài khoảng 3 – 4 cm.
Từ cá hương cần phải nuôi 4 – 5 tháng mới đạt kích cỡ của cá giống là 100
g/con. Còn để có kích cỡ 100 g/con từ lúc mới nở phải mất 7 – 9 tháng. Trong tự

nhiên, những cá còn sống sót sau khi nở phải cần khoảng 1 năm để có thể đạt 100 –
300 g/con.
Nếu cá giống có trọng lượng 100 g/con, để có cá thương phẩm 400 g/con trở
lên, phải mất 5 – 8 tháng nếu nuôi ao, 5 – 6 tháng nếu nuôi bè.
Trong điều kiện nhiệt độ 26 – 30oC, trứng cá bống tượng sau khi đẻ 25 – 26 giờ
thì nở, lúc này có chiều dài 2,5 – 3 mm.
Sau khi nở 1 ngày, chiều dài cá đạt 3,8 mm, cá chuyển động thẳng đứng và từ
từ buông mình xuống đáy.
Cá nở sau 2 ngày, chiều dài 3,8 – 4 mm, mắt có sắc tố đen. Xuất hiện vây ngực,
cá vận động thẳng đứng.
Cá 3 ngày dài 4 – 4,2 mm, túi noãn hoàng tiêu biến.
Cá 12 ngày đã xuất hiện đầy đủ vây.
Cá 18 ngày tuổi hình thành vảy và có hình dáng của cá trưởng thành.
Cá 30 ngày tuổi dài khoảng 13 mm.
Cá 40 ngày tuổi dài khoảng 21 mm.
Cá 60 ngày tuổi dài khoảng 30 mm.
Cá 75 ngày tuổi dài khoảng 41 mm.
Cá 90 ngày tuổi dài khoảng 53 mm.
Cá bống tượng nuôi tốt sau một năm đạt trọng lượng 500 gr/con.
(Nguồn: Dương Tấn Lộc (2001))

6


2.1.7 Đặc điểm sinh sản
2.1.7.1 Phân biệt giới tính
Theo Dương Tấn Lộc (2001) thông thường sau khi nuôi vỗ được 1 – 2 tháng, cá
đã phát dục và có thể phân biệt đực cái qua quan sát hình dạng bên ngoài.
Cá đực có gai sinh dục nhỏ, đầu nhọn hình tam giác.
Cá cái có gai sinh dục lớn nhưng không nhọn đầu như gai sinh dục của cá đực.

2.1.7.2 Tuổi và kích thước thành thục
Theo Dương Tấn Lộc (2001) trong tự nhiên cá bống tượng thành thục và tham
gia sinh sản lần đầu sau 9 – 12 tháng tuổi. Thời gian tái phát dục của cá khoảng 30
ngày.
Trong nuôi và cho sinh sản nhân tạo, cá có thể thành thục sớm hơn 1 – 2 tháng.
Kích cỡ lúc này khoảng 200 g.
2.1.7.3 Mùa vụ sinh sản
Theo Dương Tấn Lộc (2001) mùa vụ đẻ ngoài tự nhiên kéo dài từ tháng 3 – 11.
Cá có hệ số thành thục thấp. Cá cái thành thục chỉ đạt 1,5 – 2% nhưng vì trứng có kích
thước nhỏ nên sức sinh sản cao.
Nhiều tác giả nghiên cứu và cho thấy rằng khả năng sinh sản của mỗi cá thể là
khác nhau, dao động từ 2.000 – 30.000 trứng, với số lượng trứng trung bình của mổi tổ
là 24.000 trưng/tổ. Mỗi kg cá cái có thể đẻ được từ 100.000 – 200.000 trứng. Mỗi cá
thể cái đẻ ít nhất 3 lần trong năm.
2.1.7.4 Đặc tính và môi trường sinh sản
Theo Dương Tấn Lộc (2001) đến mùa sinh sản cá bống tượng thường bắt cặp
và đẻ trứng dính ở ven bờ, trứng chìm sâu trong nước, nơi có các cây cỏ thủy sinh hay
các hang, hốc đá, các vật hình ống hay phiến gạch đặt ở dưới ao.
Trứng bống tượng giống hình quả lê, có chiều dài từ 1,2 – 1,4 mm.
Sau khi đẻ, cá đực canh tổ và tham gia ấp cùng cá cái, cá cái bơi quanh ổ trứng
và dùng đuôi quạt nước tạo thành dòng chảy lưu thông để cung cấp ôxy cho trứng phát
triển thành cá con.

7


2.2 Tình Hình Sản Xuất Giống Cá Bống Tượng
2.2.1 Trong nước
Qua nghiên cứu của nhiều tác giả trong nước thì mùa vụ sinh sản của cá bống
tượng kéo dài từ tháng 3 – 11. Tác giả Ngô Bá Thành và ctv (1988; trích bởi Lâm Thị

Út, 1996) đã kết luận cá đẻ tập trung vào tháng 5, tháng 6.
Ở Việt Nam, từ những năm 1984 – 1985, các trường đại học, các trung tâm
nghiên cứu đã bắt đầu nghiên cứu đối tượng này. Khoa thuỷ Sản Trường Đại Học
Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh đã nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh
sản nhân tạo (Nguyễn Văn Thạnh, 1984, Ngô Bá Thành và ctv, 1988; trích bởi Anh,
2006), ương nuôi cá bột lên cá hương, giống (Nguyễn Duy Hoà và Huỳnh Thị Ngọc
Anh, 1994), sản xuất cá bống tượng tại Trà Vinh (Lâm Thị Út, 1996), thực nghiệm
ương cá bống tượng (Trần Quang Hưng, 1997), khảo sát tập tính dinh dưỡng cá bống
tượng với loại và cỡ mồi khác nhau (Huỳnh Ngọc Anh, 2006), bước đầu tìm hiểu, xác
định tập tính tìm mồi của cá bống tượng ở giai đoạn cá hương (Lê Quý Tiểu Hải,
2006).
Ngô Bá Thành và ctv (1988; trích bởi Đào Ngọc Quyên, 2006) đã thử nghiệm
sản xuất giống và ương nuôi cá bống tượng với ba loại thức ăn khác nhau. Tỷ lệ sống
trung bình của các lô ương từ 3 – 60 ngày tuổi đạt được như sau: 21,78% đối với lô
cho ăn lòng đỏ trứng gà, 13,43% đối với lô cho ăn bột đậu nành, 12,15% đối với lô cho
ăn thức ăn tự nhiên.
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản II đã nghiên cứu: đặc điểm sinh học,
đặc điểm phân loại, kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ, sinh sản nhân tạo, ương nuôi từ cá bột
lên cá hương, cá giống…(Trích bởi Huỳnh Ngọc Anh, 2006)
Năm 1999, tác giả Phạm Văn Khánh (trích bởi Lê Hữu Hiệp và Bùi Văn Hên,
2006) nghiên cứu hoàn thiện quy trình sản xuất giống và nuôi thành phẩm cá bống
tượng ở TP. Hồ Chí Minh. Về sinh sản, tác giả đã cho đẻ cá tự nhiên trong ao bằng
cách làm tổ cho đẻ, kết quả cá đẻ tốt trong ao. Về ương nuôi cá bột lên cá giống đã đạt
kết quả ương nuôi trong bể ciment đến 35 ngày tỉ lệ sống từ 31,9 – 53% . Ương nuôi
cá 35 ngày đến 120 ngày đạt tỉ lệ sống 35 - 42%. Thức ăn trong tuần thứ 1 và tuần thứ
2 là lòng đỏ trứng và bột đậu nành, trong tuần thứ 3 có bổ sung Moina.

8



2.2.2 Trên thế giới
Năm 1973, Tan và Lam (trích bởi Lâm Thị Út, 1996) lần đầu tiên cho đẻ nhân
tạo cá bống tượng thành công bằng cách tiêm chế phẩm HCG với phương pháp thụ
tinh ướt, đạt được tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ nở rất cao (90%) nhưng tất cả cá bột đều chết
ngay sau đó vài ngày.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa sự phát triển của các cơ quan giác quan, miệng
và ấu trùng bống tượng cho thấy ấu trùng cá bống tượng lựa chọn những thức ăn khác
nhau trong suốt quá trình phát triển. Ấu trùng 3 ngày tuổi bắt đầu ăn thức ăn là phiêu
sinh thực vật, sau đó là Brachionus ở giai đoạn 6 ngày tuổi, Cylops ở 7 ngày tuối sau
khi nở, Moina ở 10 ngày sau khi nở, ấu trùng Artemia salina ở 15 ngày sau khi nở và
chuyển sang sống đáy, ở ngày tuổi 35. Điều này kết luận rằng sự thay đổi này có thể
do sự phát triển của miệng và sự chuyển động của ấu trùng hơn là sự phát triển của cơ
quan giác quan (Senoo và ctv, 1994).
Mặc dù cá bống tượng đã sản xuất thành công trên thế giới nhưng ban đầu công
tác nghiên cứu gặp không ít khó khăn, đặc biệt trong quá trình ương cá bột có tỉ lệ tử
vong rất cao lên tới 100% (Tan (1973) và Phinal (1980), trích bởi Tavarutmaneegul và
Lin, 1988 ). Với giá thể thích hợp, Tavarutmaneegul và Lin (1988) đã thành công
trong việc thu trứng cá bống tượng và số lượng trứng thụ tinh hơn 80%. Thức ăn
không phù hợp cho cá bột cũng có thể làm cho cá chết nhiều (90%) ví dụ như lòng đỏ
trứng gà và luân trùng. Có nhiều giải thích cho hiện tượng này: cá có thể chết đói do
thức ăn không phù hợp (Tan và ctv, 1973), hay do mật độ các hạt thức ăn
(Tavarutmaneegul và Lin, 1988).
Theo Nguyễn Tuần (1993; trích bởi Lâm Thị Út, 1996) thì vào những năm cuối
của thập niên 70 các nước vùng Đông Nam Á đã bắt đầu nuôi và cho đẻ nhân tạo
thành công như: Indonesia (1978), Singapo (1980), Thái Lan (1980)…
Mặc dù có nhiều cố gắng để cải thiện tỉ lệ sống của ấu trùng bống tượng ở giai
đoạn nhỏ nhưng các tác giả vẫn khuyên rằng cần có sự nghiên cứu nhiều hơn nữa về
mối quan hệ giữa ấu trùng và tảo (Liem, P.T, 2001), tập tính ăn (Tavarutmaneegul và
Lin, 1988) ở các giai đoạn khác nhau và môi trường thuận lợi cho ấu trùng (Tan và ctv,
1973).


9


2.3 Tình Hình Nuôi Cá Bống Tượng
2.3.1 Ở Campuchia
Hiện nay, cá bống tượng trở thành loài được mong ước nuôi của người dân vì
giá cao ở thị trường. Ở Campuchia, cá bống tượng là một trong những loài nuôi bè chủ
yếu (Bộ Thuỷ Sản, Campuchia, 2001; trích bởi Nguyễn Phú Hoà, 2006). Người dân
thả cá trong bè bằng tre hoặc gỗ trong hai tháng. Nguồn thức ăn cho bè phụ thuộc vào
nguồn thức ăn tự nhiên theo mùa có sẵn. Tuy nhiên, người dân dang phải đối mặt với
những khó khăn như: thiếu nguồn cá, thức ăn, kỹ thuật, công thức thức ăn, quản lý bè.
Sản lượng cá bống tượng từ nuôi ao là 21 tấn vào năm 2001 và nguồn thức ăn cung
cấp vẫn chủ yếu từ tự nhiên (Bộ Thuỷ Sản, Campuchia, 2001; trích bởi Nguyễn Phú
Hoà, 2006).
2.3.2 Ở Thái Lan
Dạng nuôi cá bống tượng chủ yếu ở Thái Lan là nuôi trong lồng nổi ở các thuỷ
vực khác nhau như: sông, hồ chứa, kênh chứa nước (Lin và Kaewpaitoon, 2000; trích
bởi Nguyễn Phú Hòa, 2006)). Cá bống tượng được nuôi thâm canh trong lồng nổi (từ
10-30 m3) làm bằng gỗ hay tre. Mật độ ban đầu là 30-180 con/m2 ở giai đoạn cá giống
100g/con. Cá được cho ăn cá biển một lần mỗi ngày vào lúc chiều tối. Dựa vào sự di
chuyển của dòng chảy, lồng di chuyển theo và chất bẩn được rửa trôi. Hơn nữa, nước
sông do sự tích luỹ số lượng lớn chất rắn tạo điều kiện thuận lợi cho cá ẩn mình. Với
90 % tỉ lệ sống, sản lượng cá thương phẩm 500 g/con có thể đạt mức cao 20-60 kg/m2
trong 8 tháng (Lin và và Kaewpaitoon, 2000; trích bởi Nguyễn Phú Hoà, 2006).
Năm1979, xuất khẩu cá bống tượng của Thái Lan đến các nước khác là 165 tấn, đạt
giá trị là 1,5 tỉ đôla. Sản lượng đạt đến đỉnh cao 522 tấn vào 1990 và giảm xuống 15
tấn vào 1996 (Menasvata, 2000). Tuy nhiên, bệnh và nguồn giống làm giảm và hạn
chế việc nuôi loài cá có giá trị cao này.
2.3.3 Ở Việt Nam

Với kỹ thuật nuôi bè cá bống tượng, người dân ở miền nam Việt Nam (đặc biệt
ở Đồng Nai, Đồng Tháp, Tiền Giang) đã thu được số lượng và lợi nhuận lớn từ loài cá
này. Bống tượng được nuôi trong bè có kích thước 1x1,5x1,2 m3 hay 3x4x1,5 m3. Mật
độ thả từ 50-200 g cá giống/m2 (Dương Tấn Lộc, 2001). Cá giống được tắm ở nồng độ
muối từ 3-4 % trước khi thả. Cá được cho ăn với tép, cá tạp, trùng, ốc, cua hai lần mỗi
10


ngày (sáng sớm và chiều tối). Sau 5-7 tháng, cá có thể đạt kích cỡ trên 400 g/con. Tuy
nhiên, bệnh từ môi trường bên ngoài làm cho việc nuôi cá bè bống tượng sụp đổ vào
thập niên 90 (Hảo và ctv, 1996; trích bởi Nguyễn Phú Hoà, 2006).
Vũ Cẩm Lương và ctv (2005) báo cáo rằng người dân ở tỉnh Đồng Nai thu
được lợi nhuận cao từ nuôi cá bống tượng trong ngách ở hồ Trị An. Cá giống ở kích cỡ
trung bình 81 g được đánh bắt từ hồ chính, nuôi ở mật độ 960 con/ha. Bống tượng
được nuôi kết hợp với cá chép (31g), cá mè trắng (14 g), cá mè hoa (17g), cá trắm cỏ
(20 g) toàn bộ được nuôi ở mật độ 2540 con/ha. Không bổ sung thức ăn vào hồ chứa.
Sự phát triển của cá phụ thuộc vào nguồn thức ăn tự nhiên trong hồ. Sau 7 tháng cá
bống tượng đạt trung bình khoảng 353 g/con cho sản lượng 172 kg/ha/mùa. Tỷ lệ sống
của cá bống tượng là 73,7 %. Phân tích kinh tế cho thấy thu nhập thô từ bán cá, cá
bống tượng chiếm khoảng 88 %.
Tin từ báo kinh tế Việt Nam (24-3-2005), cá bống tượng 500-800 g/con được
bán ngay tại chổ nuôi là 265.000 VND/kg (gần bằng 16,7 USD/kg). Tờ báo này cũng
nói rằng người dân ở tỉnh Cà Mau đang chuyển sang nuôi trong ao. Họ nuôi cá bống
tượng (>100 g/con) trong ao từ 5-12 tháng và nguồn thức ăn từ thiên nhiên. Kích
thước ao lớn nhất từ 300 - 400 m2, độ sâu 1,5-1,8 m. Mật độ nuôi là 4-5 con/m2, cá
được tắm trong nước muối 2-3 % trước khi thả cá tạp cho ăn với tỉ lệ hợp lý. Theo
Dương Tấn Lộc (2001) đề nghị tỉ lệ cho ăn như sau:
Tỷ lệ 8-12 % thức ăn cho cá dưới 10 g/con.
Tỷ lệ 6-10 % thức ăn cho cá từ 10-12 g/con.
Tỷ lệ 4-8 % thức ăn cho cá từ 20-50 g/con.

Tỷ lệ 3,5-6 % thức ăn cho cá từ 50-100 g/con.
Tỷ lệ 3-5 % thức ăn cho cá trên 100 g/con.
2.4 Ảnh Hưởng Của Một Số Yếu Tố Môi Trường Đến Ương Nuôi Cá
2.4.1 Giá thể
Herbert và ctv (2003; trích bởi Nguyễn Phú Hoà, 2006) đã nghiên cứu ảnh
hưởng của giá thể và mật độ thả lên sự tăng trưởng của cá Oxyeleotris lineolatus, một
loài có quan hệ gần với cá bống tượng Oxyeleotris marmorata. Kết quả cho thấy việc
cho thêm giá thể trong quá trình ương nuôi cá hương (62,8 ± 0,8 mm) có ảnh hưởng
một mức nào đó đến sự tăng trưởng nhưng không khác biệt rõ nét, cá trong ao được
11


cho thêm giá thể có tăng trọng nhỉnh hơn cá trong ao không có giá thể. Giá thể cũng
làm tăng tỷ lệ sống và tăng trưởng của cá trê Clarias gariepinus trong điều kiện của
trại giống (Hossain và ctv, 1998).
2.4.2 Mật độ ương nuôi
Mật độ cao trong ương nuôi được xem như là một yếu tố gây strees với những
ảnh hưởng xấu đến lượng ăn, tăng trưởng và tiến trình sinh lý trong cơ thể cá
(Wedermeyer, 1997; trích bởi Lê Hữu Hiệp và Bùi Văn Hên, 2006). Những ảnh
hưởng xấu có thể do hậu quả của chất lượng nước suy giảm hoặc sự giảm tương xứng
trong phân phối thức ăn khi nuôi ở mật độ cao. Chẳng hạn trong môi trường mà thức
ăn giới hạn về số lượng và sự phân bố của chúng trong môi trường thì mật độ nuôi cao
có thể dẫn đến làm giảm tăng trưởng, gia tăng mức độ phân đàn và thậm chí thúc đẩy
sự ăn lẫn nhau khi không phải tất cả cá đều lấy được thức ăn như nhau ở cá hồi
(Thorpe và ctv,1990; trích bởi Kestemont và Baras, 2001). Tuy nhiên, trong một số
nghiên cứu lại cho thấy rằng, thả cá ở mật độ nuôi cao dẫn đến gia tăng tỷ lệ sống,
tăng trưởng tốt hơn và giảm kích cỡ cá không đồng nhất trong quần đàn như ở cá rô
phi (Merlard, 1986; trích bởi Kestemont và Baras, 2001) hay cá hồi núi (Jorgensen,
1993; trích bởi Kestemont và Baras, 2001).
2.4.3 Ánh sáng

Những tác động của cường độ chiếu sáng, thời gian chiếu sáng lên sự phát triển
ở giai đoạn ấu trùng và ấu niên của một số loài cá đã được nghiên cứu. Kết quả cho
thấy, ngưỡng cường độ ánh sáng yếu là cần thiết cho phép ấu trùng phát triển và tăng
trưởng bình thường. Như ở cá hồi 200-600 lux (Mortensen và Damsgard, 1993; trích
bởi Kestemont và Baras, 2001). Wallace và ctv (1998; trích bởi Kestemont và Baras,
2001) nhận thấy sự tăng trưởng cao hơn ở cá hồi cỡ 0,7 g duy trì trong thời gian 35
ngày ở cường độ ánh sáng 700 lux (so với 200, 50, và 10 lux). Ở cá trê (Clarias
garpriepinus) cỡ 0,79 g ở mật độ thấp cho tăng trưởng cao hơn một cách có ý nghĩa
trong điều kiện cường độ ánh sáng giảm ở những nơi có giá đỡ (Hossain và ctv, 1998;
trích bởi Kestemont và Baras, 2001). Menasveta (2000) cũng cho rằng cá bống tượng
thường ẩn nấp ở đáy ao trong suốt cả ngày và trở lên hoạt động vào ban đêm như thể
chúng không ưa ánh sáng mạnh.

12


Những thay đổi về cường độ ánh sáng có thể dẫn đến những khác biệt trong
đặc điểm bắt mồi của cá như kích cỡ con mồi, sự vận động, màu sắc của con mồi.
Độ đục của môi trường ngăn cản ánh sáng xuyên sâu vào môi trường và khả
năng phát hiện con mồi của cá vì vậy nó được cho rằng có ảnh hưởng tiêu cực đến
lượng ăn của cá (Ang và Petrell, 1997; Mallekh và ctv, 1998; trích bởi Kestemont và
Baras, 2001). Tuy nhiên ở một số loài, chẳng hạn như cá vược măng Stizostedion
lucioperca, việc giảm cường độ ánh sáng do tăng độ đục đã cho thấy thúc đẩy việc bắt
mồi (Bristow và Summerfelt, 1994; trích bởi Kestemont và Baras, 2001).
Sự phản chiếu ánh sáng từ bên ngoài bể nuôi có thể dẫn đến sinh ra những
bóng do các hoạt động của con người, những sự lay động này có thể dẫn đến cá ngừng
ăn trong nhiều giờ ở cá vược măng (Nagel, 1978; trích bởi Kestemont và Baras, 2001)
và cá vược vàng (Malison và Held, 1992; trích bởi Kestemont và Baras, 2001). Nhiều
loài cá ăn động vật nổi được quan sát cho thấy rằng dường như chúng bị hạn chế trong
đáp ứng ăn mồi khi sự phản chiếu là đủ cho sự nhận biết con mồi chẳng hạn như cá

chẽm Lates calcarifer (Davis, 1985; trích bởi Kestemont và Baras, 2001).
2.4.4 Độ mặn
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên ảnh
hưởng đến tỉ lệ sống của cá bột cá bống tượng. Rojanapittaykul (2000; trích bởi Hoà,
2006) đã thực hiện ảnh hưởng của độ mặn đối với sự thích nghi của trứng và ấu trùng
ở những độ mặn khác nhau (0, 10, 20 ppt), kết quả cho thấy rằng tỉ lệ nở đạt cao nhất
khi cá được nuôi trong môi trường nước ngọt. Sau 23 ngày tuổi, tỷ lệ tử vong khá cao,
sau 60 ngày tuổi, ở độ mặn 10 ppt tỷ lệ tăng trưởng 1,94 cm và tỷ lệ sống đạt rất cao
(96,88%). Thức ăn được sử dụng để ương cá bống tượng từ sau khi nở đến 30 ngày
tuổi là Chlorella sp, Rotifer, Artemia sp và Moina sp.
2.4.5 Nhiệt độ
Nhìn chung các loại thuỷ sản vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới sẽ phát triển chậm
khi nhiệt độ dưới 25oC và có thể bị chết khi nhiệt độ thấp hơn 10 hoặc 15oC. Với các
loại thuỷ sản vùng ôn đới thì nhiệt độ tối ưu khoảng 20 - 28oC và có thể chịu đựng
được tới xấp xỉ 0oC.
Tại vùng cận nhiệt độ cho phép, thuỷ động vật có cơ hội sống sót nhiều hơn khi
nhiệt độ thay đổi chậm (không quá 2oC/ngày). Sự thay đổi chậm về mhiệt độ cho phép
13


chúng dễ thích nghi, về thực chất là các quá trình trao đổi chất trong hệ enzym và
màng tế bào vẫn đạt được hiệu qủa ở nhiệt độ mới. Khi nhiệt độ thay đổi quá nhanh
thì thuỷ động vật bị ức chế mạnh do không kịp thích nghi sinh lý.
Nhiệt độ cũng ảnh hưởng gián tiếp tới sức khoẻ của động vật thuỷ sinh về
phương diện bệnh truyền nhiễm. Khả năng kháng bệnh hay nhiễm bệnh do yếu tố
nhiệt độ của từng loài có tính đặc thù cao và thường tốt nhất tại vùng nhiệt độ phát
triển tối ưu của loài đó. Ở vùng nhiệt độ cao hay thấp khả năng kháng bệnh giảm. Sự
thay đổi nhiệt độ đột ngột cũng tác động xấu đến khả năng kháng bệnh ngay cả ở vùng
nhiệt độ tối ưu.
(Nguồn: Lê Văn Cát (?))

2.5 Sơ Lược Về Thức Ăn Sử Dụng Trong Quá Trình Thí Nghiệm
2.5.1 Tép bò
Theo Nguyễn Văn Xuân (1978; trích bởi Hưng,1998) tép bò (Macrobrachium
lanchesteri) là một loài tôm nước ngọt, có khả năng thích ứng với nhiều môi trường
khác nhau (chịu đựng được một sự biến thiên rộng rãi về nhiệt độ, độ vẫn đục, cũng
như một phần nào về diêm độ...) và đặc biệt có khả năng sống nơi nước đọng với mực
nước hết sức thấp 3-5 cm, chu kỳ sinh sản của tép bò thì ngắn, rất thích hợp cho việc
nuôi trong ruộng.
Kích thước con đực lớn hơn con cái. Theo Nguyễn Văn Xuân (1979) tép bò cái
có chiều dài 38 mm đẻ được 236 trứng và khả năng sinh sản trung bình là 434 trứng/g
trọng lượng cơ thể.
Có nhiều cố gắng để nuôi tép bò cho mục đích thương mại (trích bởi Hoà,
2006). Việc đánh bắt loài nay đóng góp sản lượng lớn cho tổng sản lượng giáp xác ở
miền nam Viêt Nam (1,5 tấn/ngày vào mùa lũ), (Nguyễn Văn Xuân, 2000). Tuy nhiên,
do kích thước nhỏ, tép bò không là loài có mục đích nuôi, giá rẻ và thường được làm
mồi trong nuôi cá cảnh (Nguyễn Văn Xuân, 2000).
Theo Bạch Thị Quỳnh Mai và ctv (1993; trích bởi Trần Quang Hưng, 1998)
hàm lượng các yếu tố vi khoáng trong tôm tép cao hơn hàng chục lần so với cá, chúng
có nhiều và đầy đủ axit amin cần thiết và phong phú các chất dẫn dụ nên tôm tép hấp
dẫn cá khi được làm thức ăn.
2.5.2 Trùn Quế
14


Trùn quế rất dễ nuôi vì kỹ thuật nuôi đơn giản, không cần những k năng đặc
biệt, nguồn thức ăn phong phú và rẻ tiền. Chuồng trại đơn giản. Có thể nuôi trong nhà,
ngoài trời với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Trùn quế qua thực tế đã tỏ ra thích ứng với
mọi vùng khí hậu ở nước ta nhất là các tỉnh phía nam (trích bởi Lê Hữu Hiệp và Bùi
Văn Hên, 2006).
Nuôi trùn quế đã tạo ra một nguồn thức ăn giàu đạm động vật cho các đối tượng

thuỷ sản như: tôm, cá, lươn, ếch, ba ba. Trùn quế được ưa chuộng và được nuôi phổ
biến hiện nay là loài Perionyx exkavatus loài này có thân hơi dẹt, nhọn hai đầu rất hoạt
động, dài từ 150-250 mm, đường kính vòng thân từ 1,5-2 mm, màu mận chín (Ngô
Trọng Lư, 1994; trích bởi Lê Hữu Hiệp và Bùi Văn Hên, 2006).
Bảng 2.2 Thành phần dinh dưỡng của các loại thức ăn (trọng lượng tươi)
Thành phần
Glucide Lipide
(%)
(%)

Thức ăn

Protein
(%)

Tro
(%)

Tép bò

26

-

0,83

1,58

Trùn quế


11,76

6,64

1,32

-

15

Nguồn
Trích bởi Trần Quang Hưng
( 1998)
Ngô Trọng Lư (1994, trích bởi
Lê Hữu Hiệp và Bùi Văn Hên)


×