Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phương pháp Kluckohn Strodtbeck và Hoftstede. Kinh doanh quốc tế. VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÂN LOẠI VĂN HÓA ĐỂ SO SÁNH GIỮA VĂN HÓA VIỆT NAM VÀ VĂN HÓA MỸ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.91 KB, 12 trang )

ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÂN LOẠI VĂN HÓA ĐỂ SO SÁNH
GIỮA VĂN HÓA VIỆT NAM VÀ VĂN HÓA MỸ
MỤC LỤC

Contents

I.
1.

Văn hóa
Khái niệm

Từ "văn hóa" có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa
thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa
chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn)... Trong khi
theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến
tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động... Chính với cách hiểu rộng này, văn hoá mới là
đối tượng đích thực của văn hóa học.Tuy nhiên, ngay cả với cách hiểu rộng này trên thế
giới cũng có hàng trăm định nghĩa khác nhau. Để định nghĩa một khái niệm, trước hết
cần xác định được những đặc trưng cơ bản của nó. Đó là những nét riêng biệt và tiêu
biểu, cần và đủ để phân biệt khái niệm (sự vật) ấy với khái niệm (sự vật) khác. Phân tích
các cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay (coi văn hóa như tập hợp, như hệ thống, như
giá trị, như hoạt động, như kí hiệu, như thuộc tính nhân cách, như thuộc tính xã hội...), có
1


thể xác định được 4 đặc trưng cơ bản mà tổng hợp lại, ta có thể nêu ra một định nghĩa
văn hoá như sau:
VĂN HOÁ : là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạovà tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người
môi trường tự nhiên và xã hội.


2.

Đặc trương của văn hóa
a.

Văn hóa có tính hệ thống

Đặc trưng này cần để phân biệt hệ thống với tập hợp; nó giúp phát hiện những
mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa; phát hiện các
đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển của nó. Nhờ có tính hệ thống mà văn
hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được
chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội,
cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và
xã hội của mình. Nó là nền tảng của xã hội - có lẽ chính vì vậy mà người Việt Nam ta
dùng từ chỉ loại “nền” để xác định khái niệm văn hoá (nền văn hóa).
b.

Văn hóa có tính giá trị

Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị". Tính giá trị cần
để phân biệt giá trị với phi giá trị (vd: thiên tai, mafia). Nó là thước đo mức độ nhân bản
của xã hội và con người.Các giá trị văn hóa, theo mục đích có thể chia thành giá trị vật
chất (phục vụ cho nhu cầuvật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần);
theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mĩ; theo thời
gian có thể phân biệt các giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Sự phân biệt các giá trị theo
thời gian cho phép ta có được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá tính
giá trị của sự vật,hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan - phủ nhận sạch trơn
hoặc tán dương hết lời.Vì vậy mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trị
nhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo bình diện được xem xét. Muốn kết luận một hiện
tượng có thuộc phạm trù văn hóa hay không phải xem xét mối tương quan giữa các mức

độ "giá trị" và “phi giá trị" của nó. Về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng sẽ có thể có giá
trị hay không tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa của từng giai đoạn lịch sử. Áp dụng vào
Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo, các triều đại nhà Hồ,
nhà Nguyễn... đều đòi hỏimột tư duy biện chứng như thế. Nhờ thường xuyên xem xét các
giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọngthứ hai là chức năng điều chỉnh
xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện
và thích ứng với những biến đổi của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm
động lực cho sự phát triển của xã hội
2


c.

Văn hóa mang tính nhân sinh

Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hoá như một hiện tượng xã hội (do con
ngườisáng tạo, nhân tạo) với các giá trị tự nhiên (thiên tạo). Văn hóa là cái tự nhiên được
biếnđổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính vật
chất(như việc luyện quặng, đẽo gỗ...) hoặc tinh thần (như việc đặt tên, truyền thuyết cho
cáccảnh quan thiên nhiên...). Như vậy, văn hóa học không đồng nhất với đất nước học.
Nhiệm vụ của đất nước học là giới thiệu thiên nhiên - đất nước - con người. Đối tượng
của nó bao gồm cả các giá trị tự nhiên, và không nhất thiết chỉ bao gồm các giá trị. Về
mặt này thì nó rộng hơn văn hoá học. Mặt khác, đất nước học chủ yếu quan tâm đến các
vấn đề đương đại, về mặt này thì nó hẹp hơn văn hóa học.Do mang tính nhân sinh, văn
hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con người, nó thực hiện chức năng giao tiếp
và có tác dụng liên kết họ lại với nhau. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn
hóa là nội dung của nó.
d. Văn hóa có tính lịch sử
Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình và được tích luỹ
qua nhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát triển của

từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu; nó buộc văn hóa
thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị. Tính lịch sử
được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối
ổn định (những kinh nghiệm tập thể) được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua
không gian và thời gian, được đúc kết thành những khuôn mẫu xã hội và cố định hóa
dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán. nghi lễ, luật pháp, dư luận...Truyền thống văn
hóa tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng quan trọng thứ tư của văn
hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng nhữnggiá trị đã ổn
định (truyền thống), mà hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn
hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách (trồng người). Từ chức năng
giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo tính kế tục của tịch sử: Nó là
mộtthứ "gien" xã hội di truyền phẩm chất con người lại cho các thế hệ mai sau.
II.

Phương pháp Kluckhohn- Strodtbeck

Phương pháp Kluckhohn-Strodtbeck nghiên cứu sự khác nhau về văn hóa theo 6
tiêu chí, như về việc chú ý tới các sự kiện quá khứ hoặc tương lai, niềm tin vào trách
nhiệm cá nhân và nhóm đối với phúc lợi của mỗi người.
Phương pháp Kluckhohn-Strodtbeck nghiên cứu một nền văn hóa cụ thể bằng
việc đưa ra các câu hỏi sau:
3


1.




2.





3.

Liệu môi trường điều khiển con người hay con người điều khiển môi trường hay con
người chỉ là một bộ phận của thiên nhiên?
Ở Việt Nam con người thường bị phụ thuộc nhiều vào sự thay đổi của môi trường. Do tư
duy kém phát triển, không lường trước được sự thay đổi của môi trường trong tương lai
nên luôn bị động khi môi trường biến đổi, luôn chịu sự chi phối của môi trường. Dù nhận
thấy những dấu hiệu của sự thay đổi đó nhưng vì tư duy "nước đến chân mới nhảy" nên
con người thường không chủ động trang bị sẵn, đổi mới để đương đầu với thay đổi, luôn
bị chậm hơn so với nhiều quốc gia khác biết nắm bắt cơ hội hơn
- Ví dụ như đối với việc Việt Nam gia nhập TPP. Từ tháng 10/2010 tại hội nghị
thượng đỉnh APEC, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã thông báo Việt Nam sẽ chính
thực tham gia hiệp định TPP, 13/11/2010 Việt Nam tuyên bố tham gia đàm phán với tư
cách thành viên đầy đủ trở thành thành viên chính thức thứ 9 của hiệp định. Đến
4/2/2016, Việt Nam chính thức ký kết để xác thực lời văn Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP). Vậy là các doanh nghiệp Việt Nam có đến 6 năm để chuẩn bị, lường
trước được sự thay đổi sau khi đàm phán các điều khoản và ký kết hiệp định, nhưng cho
đến nay số doanh nghiệp có tầm nhìn chiến lược, đã thay đổi để sẵn sàng đối mặt với cơ
hội và thách thức khi mở cửa là không nhiều. Còn các doanh nghiệp chưa kịp thay đổi sẽ
sớm bị đào thải trong nền kinh tế cạnh tranh gay găt này.
Văn hóa Mỹ mang tính năng động cao: Họ quan niệm là con người có thể kiểm soát
đối với tự nhiên, có thể làm thay đổi số phận chứ không phụ thuộc vào số phận. Họ đánh
giá thành tựu cá nhân, những người luôn vươn lên. Họ có định hướng tương lai, nghĩ
về tương lai. Họ luôn phân tích sự biến động của môi trường để chủ động đối mặt không
bị môi trường chi phối.
Con người chú ý đến các sự kiện của quá khứ, hiện tại hay những ý định tương lai trong

các hành động của họ?
Người Việt vẫn còn vương vấn nhiều với quá khứ, dân tộc ta có bề dày truyền thống lịch
sử với hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của ông cha ta vẫn luôn được nhắc lại.
Nước ta luôn tự hào tuy là một nước thuộc địa nhỏ bé nhưng đánh thắng hai cường quốc
lớn mà không lo đến tương lai khi nước ta đang bị bỏ xa trên nhiều mặt, kém phát triển
hơn nhiều nước Châu Á liền kề.
Người Mỹ nhìn về tương lai chứ không phải nhìn về quá khứ. Họ quan niệm con người
nên và cố gắng cải thiện cuộc sống của mình để vươn lên thay vì chìm đắm trong những
thứ đã qua. Họ không tin vào số phận hay định mệnh. Người Mỹ nghĩ đến tương lai trước
mắt đẹp hơn, do đó họ lạc quan dù có gặp phải khó khăn
Không nên tin tưởng con người, cần phải quản lý họ hay tin tưởng họ và để họ tự do hành
động?
4






-

4.


-



Người Việt Nam thường có phong cách làm việc ỷ lại, phụ thuộc vào người khác . Chỉ cố
gắng khi bị thúc ép, giám sát nếu không lại lơ là, chểnh mảng. Vì vậy so với nước ngoài,

ở các doanh nghiệp Việt Nam thường có nhiều quy định hơn kèm theo đó là khen thưởng,
xử phạt để làm động lực cho người lao động
Các doanh nghiệp Mỹ nhìn chung khá linh động trong phong cách làm việc. Doanh
nghiệp Mỹ cho phép nhân viên làm việc tại nhà, ngay tại nơi làm việc họ cũng còn có
những phỏng nghỉ giúp nhân viên có được sự yên tĩnh và thoải mái cần thiết.
Họ luôn có quan niệm về sự bình đẳng trong công việc, chủ nghĩa cá nhân được đề cao
nên thay vì quản lý, giám sát người Mỹ luôn tin tưởng nhau trong công việc, họ lấy thành
tích để đánh giá năng lực mỗi người
Liệu con người có khao khát thành đạt trong cuộc sống, có cuộc sống vô tư hay cuộc
sống tôn giáo?
Người Việt dễ dàng hài lòng với những gì mình đang có. Chấp nhận hiện tại hơn là thay
đổi để đối mặt với khó khăn. Người Việt cần cù thông minh nhưng đôi khi chỉ vì chạy
theo bằng cấp mà quên mất kiến thức, không chủ động học hỏi vận dụng cái mới. Nhiều
người không có suy nghĩ học cho mình, vì tương lai của mình mà ngay từ khi chọn ngành
chọn nghề đã chịu sự chi phối của nhiều yếu tố, của những người xung quanh khiến cho
việc học không đem lại hứng thú và động lực, không đem lại kết quả mà chỉ tốn thời gian
và tiền bạc.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Người dân Việt Nam có truyền thống
sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng từ lâu đời. Các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam đều có những tín ngưỡng riêng gắn liền với đời sống kinh tế và tâm linh của mình.
Ở Việt Nam hiện có 06 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài,
Hoà Hảo chiếm khoảng 27% dân số.
Văn hóa Mỹ mang tính thực dụng định hướng mục tiêu và thành đạt. Tiêu chuẩn của chủ
nghĩa thực dụng là thành công, thành đạt: mục tiêu là đạt được lợi ích.
- Thời gian cho bản thân và gia đình được ưu tiên hàng đầu với người Mỹ. Họ
luôn hướng tới sự cân bằng và cho đó là việc cần thiết. Các nhu cầu của mỗi cá nhân và
sự riêng tư dược đề cao đúng mức. Văn hóa Mỹ nhấn mạnh đến tự do cá nhân.
- Hoa Kỳ là một trong số ít các quốc gia trên thế giới mà trong đó hiện diện đầy
đủ các giáo hội tôn giáo lớn nhỏ, Theo các cuộc thăm dò ý kiến năm 2014; 70,8% tổng số
dân Mỹ nhận họ theo Kitô giáo (trong đó: 46,7% theo Tin Lành; 20,8% theo Công giáo);

1,9% theo Do Thái giáo và 0,9% theo Hồi giáo. Theo một cuộc khảo sát khác; 40% dân
số Mỹ nói rằng họ tham dự các buổi lễ gần như mỗi tuần hoặc nhiều hơn, và 58% nói
rằng họ cầu nguyện ít nhất mỗi tuần.Đa số người Mỹ cho biết tôn giáo giữ một vai trò
"rất quan trọng" trong cuộc sống của mình
5


5.




6.


-



Con người có tin rằng cá nhân hoặc nhóm phải có trách nhiệm đối với phúc lợi từng
người không?
Người Việt thường đạt hiệu quả cao khi làm việc cá nhân nhưng làm việc nhóm thì
không. Do xu hướng phụ thuộc khi làm việc nhóm, nhiều người thường có suy nghĩ mình
không làm thì có người khác làm, không cần làm vẫn được hưởng, không có sự liên kết,
hợp tác tốt giữa các thành viên khiến cho kết quả của làm việc nhóm rất thấp, không phản
ánh đúng năng lực mỗi cá nhân. Khi làm việc nhóm sẽ xảy ra hiện tượng đùn đẩy trách
nhiệm, hay cho rằng sai phạm là lỗi của tập thể chứ không phải cá nhân nào nên không
thể tìm ra nguyên nhân và khắc phục được sai phạm.
Văn hóa Mỹ mang tính cạnh tranh cao, họ thích tự do và tự lực cánh sinh hơn là nhờ sự
giúp đỡ của người khác. Họ luôn đề cao sự bình đẳng con người, đặt cuộc sống cá nhân

lên trên mối quan hệ tập thể. Tuy nhiên khi cần hợp tác, người Mỹ luôn thể hiện tốt tính
tập thể nhờ biết lắng nghe người khác giúp đạt hiệu suất cao trong công việc nhóm.
Con người thích hoạt động trong lĩnh vực công cộng hay lĩnh vực tư nhân?
Người Việt thường thích vào làm viêc tại các cơ quan nhà nước, thích làm công chức do
quan niệm được làm việc trong nhà nước đảm bảo sự ổn định lâu dài có chế độ đãi ngộ
cao, có hưu trí và quan trọng là làm trong nhà nước không bị áp lực về mặt công việc,
không đòi hỏi sự sáng tạo, nỗ lực của bản thân, khó bị đuổi việc.
Tuy nhiên trong thời buổi kinh tế hội nhập, đã có nhiều hơn những người tài giỏi, năng
động, sáng tạo lựa chọn làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân để phát triển bản thân
cũng như đem lại nguồn thu nhập lớn hơn
Người Mỹ luôn yêu thích tự do, tôn trọng sự độc lập và tự chủ. Họ thích môi trường làm
việc năng động, sáng tạo không thích bị ràng buộc bởi các quy tắc, luật lệ nên các công ty
tư nhân luôn là sự lựa chọn tốt hơn so với doanh nghiệp nhà nước
III.
Phương pháp Hofstede
So sánh nền văn hóa Việt Nam và nền văn hóa Mỹ theo phương pháp hofstede
Các chiều văn hóa của Hofstede có thể được sử dụng nhằm phát triển một chiến
lược hiệu quả để hợp tác với những người ở nhiều nước khác nhau.
Bằng việc nghiên cứu các dữ liệu khảo sát về các giá trị nhân viên của IBM tại
hơn 50 quốc gia, Hofstede đã kết luận rằng có nhiều khác biệt lớn trong các giá trị văn
hóa này.
Ở nhiều nước, thách thức và rắc rối xung quanh các giá trị văn hóa này có vẻ
giống nhau nhưng cách giải thích và giải pháp sau đó lại khác xa nhau ở mỗi nước.
Mô hình của Hofstede giúp tương tác hiệu quả hơn với mọi người ở các nước
khác. Các loại giá trị được xác định trong nghiên cứu thể hiện bốn chiều của văn hóa.
6





Khoảng cách quyền lực



Chủ nghĩa cá nhân/chủ nghĩa tập thể



Giới tính: Nam/ Nữ giới



Tâm lý né tránh
Tuy nhiên trên cơ sở sự khác nhau giữa các nước Phương đông và Phương Tây,
chiều thứ năm được bổ sung là:
Định hướng dài hạn
Nắm bắt sự khác biệt trong văn hóa của các quốc gia giúp hiểu được các hành vi
đặc thù. Có thể nhận thức và nhận biết những khác biệt này là bước đầu tiên để tương tác
hiệu quả hơn trong các môi trường đa văn hóa.
Hầu hết chúng ta đều có cơ hội giao dịch kinh doanh với những người đến từ các
nền văn hóa khác nhau. Quốc tế hóa dẫn đến nhiều khách hàng, đối tác, nhà cung cấp và
có thể đưa đến việc thuê mướn lao động từ khắp nơi trên thế giới.
Xu hướng này gia tăng rủi ro trong hiểu lầm và cư xử sai lệch về văn hóa. Mô
hình các chiều văn hóa của Hofstede và vị trí của các quốc gia liên quan đối với những
chiều này có thể giúp ngăn chặn những xung đột và có một khởi đầu tốt đẹp với khách
hàng.
Mô hình các chiều văn hóa của Hofstede không phải là một sự chỉ dẫn cho sự
tương tác người với người, nó chỉ giúp hiểu rõ về một hành vi nhất định.




Chỉ số khoảng cách quyền lực (Power distance index-PDI) là phạm vi mà các thành viên
ít quyền lực hơn trong tổ chức chấp nhận và kỳ vọng quyền lực được phân bố không
ngang bằng giữa các cá nhân.
Ở Mỹ, bình đẳng được coi như một mục đích chung của cả xã hội và việc một cá
nhân từ đáy tháp quyền lực leo lên đỉnh là chuyện bình thường. Một người dân có thể nói
chuyện bình thường với tổng thống, nhân viên có thể thẳng thắn nói suy nghĩ của mình
với sếp, con cái có thể tranh luận thoải mái và được nhìn nhận như người lớn có suy nghĩ
độc lập trong mắt của cha mẹ.
Việt Nam, nhân dân sẽ ngoan ngoãn phục tùng lãnh đạo, nhân viên làm theo lời
sếp, học sinh răm rắp nghe theo thầy cô, con cái không dám cãi cha mẹ - bởi họ coi đó là
bổn phận, là điều đương nhiên. Sự phân chia đẳng cấp rất rõ ràng. Việc một người ở đẳng
7


cấp thấp chuyển lên đăng cấp cao hơn là khó khăn (có thể hiểu như "con vua thì lại làm
vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa").


Chủ nghĩa cá nhân (individualism- IDV) và chủ nghĩa tập thể, mô tả mối quan hệ giữa cá
nhân và tập thể phổ biến trong một quốc gia.
Chủ nghĩa cá nhân gắn liền với những xã hội trong đó sự ràng buộc giữa các cá
nhân hết sức lỏng lẻo. Mọi người đều chỉ mong chăm lo cho bản than và gia đình mình.
Chủ nghĩa tập thể gắn liền với những xã hội trong đó mọi người kết hợp trong những
nhóm lợi ích găn bó chặt chẻ.
Các nhóm lợi ích này bảo vệ không ngừng các thành viên trong nhóm suốt cuộc
đời họ để đổi lấy lòng trung thành tuyệt đối.
So với các công ty Việt Nam, các công ty của Mỹ hiện nay người ta có vẻ quan
tâm nhiều tới lợi ích bản thân hơn là sự toàn diện của nhóm.
Mỹ đề cao về Chủ nghĩa Cá Nhân có nghĩa là mỗi cá nhân và các quyền cá nhân

được tôn trọng. Trong xã hội đề cao chủ nghĩa cá nhân, mối liên hệ giữa các cá nhân
thường lỏng lẻo: Anh A chị B chỉ chăm lo cho cuộc sống của mình và của gia đình gần
gũi nhất với mình, anh/ chị ta có thể lựa chọn tham gia một cộng đồng nào đó, nhưng
cũng có thể thoải mái từ bỏ - nếu thích.
Ngược lại, tại Việt Nam , con người từ khi sinh ra đã buộc phải hòa nhập vào một
cộng đồng rộng lớn hơn, thường là tập hợp của các gia đình (với cô, chú, bác và ông bà
v.v...). Cộng đồng này sẽ bảo vệ họ những khi khó khăn, nhưng đổi lại họ phải trung
thành với cộng đồng mà không được quyền thắc mắc. Trong cộng đồng như thế, thành
viên của nó thường phải theo đuổi cái gọi là trách nhiệm với cộng đồng (thể diện dòng
họ, thể diện hàng xóm láng giềng, v.v...)



Nam giới (Masculinity-MAS) đối lập với nữ giới, nhưng đối tượng này chỉ những khác
biệt giữa giới tính. Trong văn hóa nam tính, quyết đoán là tính cách nổi trội nhất chứ
không phải là mục đích của thỏa mãn cá nhân.
Chiều văn hóa này nói lên mức độ xã hội chấp nhận hay không chấp nhận quyền
lực truyền thống của người đàn ông trong xã hội.
Việt Nam là quốc gia có phân biệt giới tính. Trong các xã hội như thế, đàn ông có
xu hướng thống trị trong phần lớn cấu trúc quyền lực gia đình và xã hội.
Còn ở Mỹ xã hội chấp nhận nam nữ bình quyền nhiều hơn. Trong xã hội như thế,
phụ nữ được đối xử khá bình đẳng với nam giới trong mọi khía cạnh.
8




Chỉ số tâm lý né tránh (uncertainty avoidance index- UAI) cho biết các tình huống không
rõ ràng làm những người thuộc nền văn hóa cảm thấy nguy cơ tới mức nào.
Các nền văn hóa né tránh rủi ro cố gắng giảm thiếu khả năng xảy ra các tình

huống như vậy bằng phương pháp an ninh và an toàn. Thêm vào đó, các nền văn hóa này
được đặc trưng bởi việc sử dụng nhân viên lâu dài. Các nền văn hóa có UAI thấp có xu
hướng tương đối sẵn sàng chấp nhận rủi ro.
Chiều văn hóa này nói lên mức độ sẵn sàng chấp nhận những thay đổi, những
điều mới mẻ của một cộng đồng.
Một quốc gia có điểm số cao về tránh rủi ro như Việt Nam sẽ không sẵn sàng
chấp nhận những điều mới lạ, những thay đổi mà họ chưa từng trải nghiệm. Kết quả là
những xã hội như thế thường sống bằng truyền thống, bằng các luật định và suy nghĩ do
người xưa để lại. Các tư tưởng mới thường khó khăn khi xâm nhập vào quốc gia có điểm
số tránh rủi ro cao.
Một quốc gia có điểm số thấp về Tránh Rủi ro như là Mỹ sẽ không quan tâm lắm
đến rủi ro và những điều không lường trước được. Họ sẵn sàng chấp nhận thay đổi và thử
nghiệm. Trong xã hội như thế, các giá trị được coi là truyền thống sẽ thay đổi thường
xuyên, và ít gò bó bởi các luật định trước.



Định hướng dài hạn (long term orientation – LTO) đối lập với định hướng ngắn hạn. các
giá trị gắn kết với định hướng dài hạn là tiết kiệm và kiên trì.
Sau khi giáo sư Hofstede đưa ra bốn chiều văn hóa nêu trên, Michael
Harris Bond và các đồng nghiệp của mình ở Hồng Kông nhận thấy rằng, nếu chỉ dựa trên
4 chiều nói trên, thì khó lòng đánh giá được sự khác biệt giữa văn hóa Châu Âu và Châu
Á. Họ đã đưa ra chiều thứ năm, chiều mà ban đầu họ gọi là chiều "động lực Khổng Tử"
(Confucian dynamism). Giáo sư Hofstede sau đó đã đưa thêm chiều này vào nghiên cứu
ban đầu của mình với tên là chiều Hướng tương lai:
Định hướng tương lai mô tả cách nhìn của một xã hội là hướng tương lai, hay
sống chỉ hướng vào quá khứ và hiện tại. Trong xã hội hướng tương lai (long-term
orientation), người ta sẽ quý trọng sự bền bỉ (hay kiên nhẫn, bền chí), thích tiết kiệm, sắp
xếp các mối quan hệ theo thân phận hay đẳng cấp xã hội, có khái niệm về "xấu hổ". Nói
cách khác, các cá nhân trong xã hội hướng tương lai luôn lo lắng tương lai của mình sẽ

về đâu, họ tiết kiệm chi tiêu để dành dụm cho những lúc trái nắng trở trời hay về già, họ
trông đợi việc kiên gan sẽ đem lại thành công trong tương lai. Xã hội Hướng tương lai
cũng coi trọng "kết quả cuối cùng" (virtue) hơn là "sự thật" (truth), họ thường lấy kết quả
9


biện hộ cho phương tiện. Việt Nam và các nước châu Á như Trung Quốc thường đạt điểm
rất cao về chiều này.
Ngược lại, xã hội hướng hiện tại và quá khứ thường thích hưởng thụ, trưng diện
cho bằng bạn bằng bè hơn là dành dụm. Người trong xã hội hướng hiện tại nhấn mạnh
vào kết quả tức thời, thay vì trông đợi vào sự kiên nhẫn. Quan hệ xã hội mang tính xòng
phẳng, ngang hàng, không phụ thuộc vào thân phận hay đẳng cấp. Họ coi trọng "sự thật"
(truth) hơn là "kết quả cuối cùng" (virtue), do đó thường làm điều [mà họ cho là] đúng tại
thời điểm hiện tại, thay vì băn khoăn về kết quả trong tương lai. Mỹ và Châu Âu có điểm
thấp ở chiều này.

Kết luận
Mô hình các chiều văn hóa của Hostede hữu ích trong việc giúp nhận thức những
khác biệt của nhiều nền văn hóa hiện hữu khi công ty bắt đầu vươn ra quốc tế.
Tuy nhiên, trong vài thập kỷ gần đây, khoảng cách đã giảm dần, các nền văn hóa
đã hòa trộn và những khác biệt không còn rõ rệt.
Thêm vào đó, người ta có thể đặt dấu chấm hỏi về việc xếp loại một số nước còn
tùy thuộc vào tất cả các nhóm văn hóa của nước đó có hiện diện hay không. Nếu câu trả
lời là không, sự xếp loại trong các chiều văn hóa có thể khác biệt giữa những nhóm dân
cư trong chính quốc gia đó.
Cuối cùng, chẳng có hai cá thể nào giống hệt nhau, và vì vậy người ta phải nhận
thấy rằng hiểu lầm vẫn có thể xảy ra.
Phương pháp kết hợp Kluckohn- Strodtbeck và Hoftstede

IV.


Nếu kết hợp hai phương pháp của Kluckhonh- Strodbeck và Hofstede chúng ta có
thể nhận biết qua 10 tiêu chí văn hóa ảnh hưởng tới các quyết định quản lý bao gồm việc
thiết lập các chương trình đào tạo nhân công, những hệ thống thưởng phạt và các cách
tiếp cận thuyên chuyển nhân sự trong công ty. Mười tiêu chí này cũng cho chúng ta thấy
cách thức trong đó con người liên hệ với người khác và thiết lập thể chế kinh doanh của
họ. Nếu xem xét sự khác nhau giữa các nền văn hóa theo một trong các tiêu chí quan
trọng là nhấn mạnh vào trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm nhóm chúng ta sẽ thấy được
các đặc điểm của nền văn hóa định hướng theo cá nhân và nền văn hóa định hướng theo
nhóm.
a.

Nền văn hóa định hướng theo cá nhân
10


Nền văn hóa trong đó mỗi các nhân có xu hướng chịu trách nhiệm cho sự sung
túc cá nhân được gọi là văn hóa định hướng theo cá nhân.
Mỹ là một trong những nước được đánh giá là nước có nền văn hóa chủ nghĩa cá
nhân cao nhất.
Thiết chế của một nền dân chủ, tự do là chất xúc tác để hình thành nên cá tính dân
tộc Mỹ và nó được biểu trưng bằng những cá nhân trong xã hội. Chủ nghĩa tự do Mỹ dựa
trên chủ nghĩa bình quân và thuyết đa nguyên cho thấy tiêu chí sinh tồn của một nước Mỹ
đa sắc tộc, đó là có lợi ích cá nhân thì mới có tiến bộ, sự bình đẳng về cơ hội cho phép ai
cũng có thể phát huy khả năng trong bối cảnh “trăm hoa đua nở”. Mỗi người Mỹ đều tự
khẳng định rằng, dù trong xã hội làm nghề gì, giàu hay nghèo, đã có những hành động
gì... thì chính tôi đã tự tạo ra bản sắc của tôi. Vì vậy, mỗi người Mỹ không chịu nhờ vả ai,
họ đi lên bằng chính đôi chân của mình bởi họ quan niệm rằng, “vận mệnh không ai trao
cho mình bằng chính mình tạo ra”. Với suy nghĩ đó, họ chấp nhận hứng trải cuộc sống
trong niềm tin, sự lạc quan về một kết cục tốt đẹp. ở Mỹ, chủ nghĩa tự do là cơ sở cho

chủ nghĩa cá nhân phát triển, vì trong dòng chảy cuộc sống mỗi cá nhân tự khẳng định
mình trong sự sáng tạo. Sự sáng tạo đó được xã hội công nhận trong chừng mực cá nhân
đó thành đạt và có ích cho xã hội.

b.

Một phương châm sống đã thành truyền thống của người Mỹ là phải tự làm nên
chính mình - thân lập thân (self made man). Người Mỹ quan niệm rằng, giá trị hữu dụng
với cá nhân không thể có được từ một sự may rủi nào, nó phải là kết quả của sự nỗ lực cá
nhân. Đây chính là cơ sở tạo nên tính tự chủ về hành vi trong mỗi hành động của người
Mỹ, họ quyết đoán trong hành động và có bản lĩnh chịu trách nhiệm đối với những hành
động của mình. Để làm được điều này, đôi khi người Mỹ chấp nhận mạo hiểm. Nhưng vì
lợi ích, họ chấp nhận lao vào vòng xoáy của sự tiến thân, “vươn vượt” lên phía trước để
theo đuổi lợi ích, và xem mạo hiểm chỉ là một yếu tố trên con đường đi đến thành công.
Nền văn hóa định hướng theo nhóm
Một nền văn hóa trong đó một nhóm cùng chia sẻ trách nhiệm về sự sung túc của
mỗi thành viên được gọi là nền văn hóa định hướng theo nhóm.
Chủ nghĩa tập thể cũng đã tồn tại từ lâu đời ở Việt Nam.
Tại Việt Nam , con người từ khi sinh ra đã buộc phải hòa nhập vào một cộng
đồng rộng lớn hơn, thường là tập hợp của các gia đình (với cô, chú, bác và ông bà v.v...).
Cộng đồng này sẽ bảo vệ họ những khi khó khăn, nhưng đổi lại họ phải trung thành với
cộng đồng mà không được quyền thắc mắc. Trong cộng đồng như thế, thành viên của nó
thường phải theo đuổi cái gọi là trách nhiệm với cộng đồng (thể diện dòng họ, thể diện
hàng xóm láng giềng, v.v...)
Nó được đặc trưng bởi hệ thống lề lối xã hội chặt chẽ và các cộng đồng tự vận
hành.Những người trong nhóm trông cậy vào việc cả nhóm bảo vệ và che chở cho mình,
11


vàđảm bảo cuộc sống không rủi ro cho họ, và trả lại là họ sẽ trung thành tuyệt đối.Người

Việt đặt nặng vấn đề sống hòa hợp và tránh làm mất mặt người khác.Trong xung đột, họ
muốn giải pháp hai bên cùng có đạt kết quả. Một đặc tính quan trọng của xã hội Việt là
không dám nói thẳng, bởi họ coi đó là việc làm mất mặt người khác.Bù lại, người Việt có
khiếu hài hước, và thường sử dụng những chuyện tếu táo để nói ra lòng mình. Văn hóa
Việt Nam thể hiện sự tránh thay đổi ở mức độ trung bình. Mọi người trong xã hội có cảm
giác bị đe dọa bởi các tình huống không rõ ràng (hay không biết trước kết quả), và cố gắn
tránh những tình huống như thế bằng cách tìm công việc ổn định, thiết lập các luật lệ chặt
chẽ và tránh những ý tưởng và hành vi mang tính đột biến.

12



×