Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Nghiên cứu ứng dụng chỉ thị phân tử SSR trong chọn giống bạch đàn lai (e urophylla x e exserta)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 107 trang )

i

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

NGUYỄN THỊ LINH ĐAM

NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG CHỈ THỊ PHÂN TỬ SSR TRONG CHỌN
GIỐNG BẠCH ĐÀN LAI (EUCALYPTUS UROPHYLLA x E.
EXSERTA)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội, 2017


ii

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

NGUYỄN THỊ LINH ĐAM

NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG CHỈ THỊ PHÂN TỬ SSR TRONG CHỌN
GIỐNG BẠCH ĐÀN LAI (EUCALYPTUS UROPHYLLA x E.
EXSERTA)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Chuyên ngành: Sinh học thực nghiệm
Mã số: 60 42 01 14


\

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Nguyễn Việt Cường

Hà Nội, 2017


i

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Việt Cường – Trưởng
bộ môn Lai giống và sinh học hạt phấn đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Viện Nghiên cứu Giống và Công nghệ
sinh học Lâm nghiệp, phòng đào tạo sau đại học Viện sinh thái và Tài nguyên
sinh vật – Viện hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam, các thầy cô giáo
cùng toàn thể anh chị em đồng nghiệp đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt
chương trình học và luận văn của mình.
Cuối cùng, tôi xin tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè và các đơn vị
công tác đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017

Học viên


Nguyễn Thị Linh Đam


ii

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN…………………………………………………………...…….i
MỤC LỤC ........................................................................................................ ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ..................................................................... iv
DANH MỤC HÌNH ẢNH ............................................................................... v
DANH MỤC BẢNG BIỂU ............................................................................ vi
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................ 3
A. Ngoài nước .................................................................................................. 3
1.1. Những nghiên cứu về chọn giống bạch đàn............................................... 3
1.2. Giới thiệu về chỉ thị SSR và một số ứng dụng trong chọn giống .............. 5
1.2.1. Giới thiệu về chỉ thị SSR (Simple Sequence Repeat) ........................... 5
1.2.2. Ưu điểm của chọn giống bằng chỉ thị phân tử ...................................... 7
1.2.3. Một số ứng dụng của chỉ thị phân tử trong chọn giống ........................ 9
B. Trong nước ................................................................................................ 15
1.3. Những nghiên cứu về chọn giống bạch đàn ở Việt Nam ......................... 15
1.4. Ứng dụng của chỉ thị phân tử trong chọn giống ở Việt Nam................... 17
CHƯƠNG II. MỤC TIÊU, NỘI DUNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU............................................................................................... 20
2.1. Mục tiêu.................................................................................................... 20
2.2. Nội dung ................................................................................................... 20
2.3. Vật liệu nghiên cứu .................................................................................. 20
2.3.1. Vật liệu sử dụng để sàng lọc các cặp mồi SSR đa hình ...................... 20
2.3.2. Vật liệu sử dụng để phân tích sự liên quan của các cặp mồi SSR với
tính trạng sinh trưởng của bạch đàn lai ........................................................... 21

2.3.3. Các cặp mồi SSR sử dụng trong nghiên cứu ...................................... 24
2.4. Hóa chất và thiết bị .................................................................................. 24


1

2.4.1. Hóa chất .............................................................................................. 24
2.4.2. Thiết bị................................................................................................. 25
2.5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 25
2.5.1. Phương pháp tách chiết ADN tổng số từ mẫu lá ................................ 25
2.5.2.Phương pháp đo nồng độ bằng quang phổ kế ...................................... 26
2.5.3. Phương pháp PCR (Polymerase Chain Reaction)............................... 26
2.5.4. Phương pháp điện di trên gel agarose 1%........................................... 27
2.5.5. Phương pháp điện di trên gel polyacrylamide 5%. ............................. 27
2.5.6. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu. ............................................. 29
CHƯƠNG III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ................. 32
3.1. Thu thập thông tin về trình tự từ các mồi SSR có liên quan đến loài bạch
đàn ................................................................................................................... 32
3.2. Sàng lọc các cặp mồi SSR để tìm ra các cặp mồi SSR đa hình ............... 34
3.2.1. Tách chiết ADN tổng số và điện di kiểm tra ...................................... 34
3.2.2. Xác định điều kiện PCR tối ưu cho việc nhân đoạn SSR ................... 36
3.2.3. Kết quả phân tích sự đa hình bằng điện di trên gel polyacrylamide... 38
3.3. Xác định các cặp mồi SSR liên quan đến sinh trưởng nhanh .................. 47
3.4. Kiểm chứng các chỉ thị có liên quan đến tính trạng sinh trưởng ............. 53
CHƯƠNG IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................ 59
1. Kết luận ....................................................................................................... 59
2. Kiến nghị ..................................................................................................... 59
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 67



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TT

Chữ viết tắt

1

ADN

Giải
thích
Acid Deoxyribonucleic

2

AFLP

Amplified Fragments Length Polymorphism

3

ARN

Acid Ribonucleotide

4

bp

Cặp base (base pair)


5

C:I

Chloroform : Isoamyl Alcolhol

6

CTAB

Cetyl trimethylammonium bromide

7

dNTPs

Deoxynucleotide triphosphate

8

EDTA

Ethylene Diamin Tetra Acetate

9

OD

Optical density


10

PCR

Polymerase Chain Reaction

11

RAPD

12

QTL

Quantative trait locus

13

RFLP

Restriction Fragment Length Polymorphism

14

SSR

Simple sequence repead

15


TAE

Tris acetic EDTA

16

TBE

Tris boric EDTA

17

UV

Tia tử ngoại (Ultraviolet)

18

UC

Bạch đàn lai giữa Uro và Camal

19

UE

Bạch đàn lai giữa Uro và Eserta

Random Amplified Polymorphic ADN



DANH MỤC HÌNH ẢNH
Bảng

Nội dung

Trang

Hình 3.1

Kết quả điện di ADN tổng số các mẫu lá bạch đàn lai

35

Hình 3.2

Kết quả điện di sản phẩm PCR với các cặp mồi SSR ở 56°C

37

Hình 3.3

Kết quả điện di sản phẩm PCR với các cặp mồi SSR ở 58°C

37

Hình 3.4

Mức độ đa hình của một số cặp mồi EMBRA


39

Hình 3.5

Kết quả điện di sản phẩm PCR các mẫu với chỉ thị
EMBRA39

Hình 3.6
Hình 3.7
Hình 3.8

Kết quả điện di 9 dòng bạch đàn lai với EMBRA229
Kết quả điện di 9 dòng bạch đàn lai với EMBRA78 trên gel
polyacrylamide 5%
Kết quả điện di 9 dòng bạch đàn lai với EMBRA209
trên gel polyacrylamide 5%

46
55
56
56


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng

Nội dung

Trang


2.1

Danh mục 22 mẫu được sử dụng để sàng lọc cặp mồi SSR đa hình

20

2.2

Các dòng bạch đàn lai sinh trưởng nhanh và chậm ở Bầu Bàng
Bình Dương (2002-2012)

21

2.3

Các dòng bạch đàn lai được sử dụng trong nghiên cứu

22

2.4

Thành phần phản ứng PCR

26

3.1

Kết quả đo OD các mẫu ADN tổng số


35

3.2
3.3
3.4

Nhiệt độ bắt cặp của 205 cặp mồi EMBRA sau khi tối ưu sử dụng
trong nghiên cứu (chi tiết ở phụ lục 2)
Số alen và hệ số PIC của 106 cặp mồi có đa hình
53 chỉ thị SSR có độ đa hình cao được sử dụng để sàng lọc chỉ thị
SSR liên kết với sinh trưởng nhanh

38
40
42

3.5

Các kiểu gen của 104 cây được phân tích bởi chỉ thị EMBRA39

43

3.6

Kết quả điện di của 8 cặp mồi liên quan đến sinh trưởng với 60
dòng
Tương quan của các cặp mồi EMBRA với năng suất bạch đàn lai

47


3.7
3.8
3.9

Các dòng bạch đàn lai thể hiện năng suất cao và thấp tại các hiện
trường khảo nghiệm Bầu Bàng Bình Dương (2002-2010)
Sự liên kết giữa các chỉ thị SSR với tính trạng (NS - năng suất)

50
54
54


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Cải thiện sinh trưởng (năng suất) cây rừng là một mục tiêu chọn giống
quan trọng trong nhiều chương trình nghiên cứu lâm nghiệp, tuy nhiên năng
suất có hệ số di truyền thấp. Năng suất là một tính trạng số lượng phức tạp
thể hiện qua các thông số đường kính và chiều cao, về cơ bản nó là tổng hợp
của nhiều tính trạng khác nhau, ảnh hưởng lớn bởi các yếu tố môi trường.
Sự khác biệt về năng suất không phải do sự phân li của một hoặc hai
gen mà là do sự phân li của rất nhiều gen, với ảnh hưởng của mỗi gen là nhỏ.
Tính trạng số lượng không phân li thành các nhóm cụ thể, do đó ta không thể
đơn giản chỉ sử dụng các nguyên lí di truyền Mendel để nghiên cứu.
Các nghiên cứu về chọn giống cây trồng lâm nghiệp trong nước và quốc
tế có sự trợ giúp của công nghệ sinh học đã có những thành công nhất định,
như nghiên cứu ứng dụng chỉ thị phân tử trong chọn giống bạch đàn (E.
globulus, E. nitens) đã được Bundock và cộng sự 2008; Freeman và cộng sự
2009 cho thấy các chỉ thị SSRs, RAPDs có tương quan đến sinh trưởng về

đường kính cây với mức đóng góp biến dị kiểu hình từ 3,8 đến 17,9%, ngoài
ra tác giả cũng chỉ ra một số tính trạng về chất lượng như mật độ gỗ, hàm
lượng xenlulô, lignin cũng đóng góp cho mức biến dị từ 5,6 - 12,3% [20] [28].
Theo Brondani và cộng sự, (2006) trên bản đồ liên kết cho loài E.
grandis, trong số 172 chỉ thị có 153 (89%) chỉ thị giữ nguyên vị trí trên bản
đồ chung cho Eucalyptus. Trong khi đó trên bản đồ liên kết cho loài E.
urophylla có 140 trên 152 (92%) chỉ thị giữ nguyên vị trí trên bản đồ chung
[19].
Anand Raj Kumar Kullan và cộng sự (2012) đã nghiên cứu về sự di
truyền của các tính trạng tăng trưởng, tỷ trọng gỗ và biểu hiện của gen ở trong
hai gia đình lai trở lại giữa loài Bạch đàn urô và Bạch đàn grandis đã xác định
được 2 QTL đường kính thân và 12 QTL cho tỷ trọng gỗ. Các QTLs cho
đường kính và tỷ trọng gỗ cho thấy mức đóng góp biến đổi kiểu hình là 3,1 -


12,2%. Như vậy cả tính trạng chất lượng lẫn số lượng ở các nghiên cứu chỉ
đóng góp dưới 18% biến dị cho các tính trạng nghiên cứu.
Một gợi ý của Bala R. Thumma và cộng sự 2010 là nghiên cứu chọn
giống truyền thống có sự trợ giúp của công nghệ sinh học (chỉ thị phân tử liên
kết với tính trạng sinh trưởng) để tăng hiệu quả lựa chọn cho những tính trạng
số lượng có di truyền thấp, như là năng suất vẫn là cách tiếp cận có hiệu quả.
Đây chính là hướng đề tài“ Nghiên cứu ứng dụng chỉ thị phân tử SSR trong
chọn giống bạch đàn lai (E. urophylla x E. exserta)” được đề xuất và thực
hiện [41].
Luận văn này là một phần của đề tài “Nghiên cứu chọn giống bạch đàn
lai bằng chỉ thị phân tử” giai đoạn 2012-2016, do TS. Nguyễn Việt Cường
làm chủ nhiệm đề tài và tôi là cộng tác viên đề tài.


CHƯƠNG I

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
A. Ngoài nước
1.1. Những nghiên cứu về chọn giống bạch đàn
Các loài bạch đàn (Eucalyptus) có nguồn giống từ Australia và Indonesia
đã được gây trồng rộng rãi trên thế giới và đóng vai trò hết sức quan trọng
trong trồng rừng cung cấp nguyên liệu giấy, ván dăm, gỗ xây dựng và đồ nội
thất. Tổng diện tích rừng trồng bạch đàn trên thế giới đến năm 2000 là 17,9
triệu ha, tập trung chủ yếu ở các nước như Braxin, Công Gô, Trung Quốc, Ấn
Độ, Nam Phi. Chỉ riêng các nước khu vực Đông Nam Á và Nam Trung Quốc
(gồm có 2 tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây), diện tích trồng rừng keo và bạch
đàn lên tới khoảng 7 triệu ha (Harwood và Nambiar, 2014) [30].
Nghiên cứu chọn giống bạch đàn là một khâu quan trọng trong chiến
lược cải thiện giống nhóm loài bạch đàn. Mặc dù, nhiều loài bạch đàn có biên
độ sinh thái rộng nhưng khi được trồng trên nhiều quốc gia khác nhau thì
bạch đàn có sự phân hóa mạnh về sinh trưởng. Các chương trình khảo nghiệm
bạch đàn ở một số quốc gia đã và đang được chú trọng như Công Gô (1970 1981) đã khảo nghiệm trên 100 xuất xứ của loài Bạch đàn urô. Hafeez. M,
Seikh M.I. (Pakistan) (1972) đã khảo nghiệm 22 xuất xứ của loài Bạch đàn
caman với nguồn hạt giống được nhập từ Úc, qua khảo nghiệm tác giả đã
chọn ra được 6 xuất xứ thích hợp và nhập nội hạt giống để trồng trên quy mô
lớn [29].
Chew T.K. (1980) đã khảo nghiệm 10 loài tại 3 nơi khác nhau trên bán
đảo Malaysia. Sau 10 năm trồng, tác giả nhận thấy sinh trưởng tốt nhất là loài
Bạch đàn caman (2 xuất xứ Bắc Úc) và Bạch đàn degluta, các loài triển vọng
khác là Bạch đàn brassiana, Bạch đàn urô và Bạch đàn tere [25].
Tại Nam Phi từ năm 1973 - 1974 đến năm 1980, Darrow W.K. (1983) đã
tiến hành 9 khảo nghiệm phối hợp của 26 xuất xứ Bạch đàn caman và 23 xuất


xứ của Bạch đàn tere. Kết quả cho thấy: ở những vùng ẩm thì Bạch đàn
grandis cho năng suất cao nhất, sau đó đến Bạch đàn tere, còn ở những vùng

khô hạn và có sương giá thì Bạch đàn caman lại cho năng suất cao hơn.
Rao D.V. (1984) tiến hành khảo nghiệm nhiều xuất xứ khác nhau của
Bạch đàn caman, Bạch đàn tere tại các vùng Pradesh, Maharastra và Haryana
của Ấn Độ. Qua điều tra sinh trưởng cho thấy có 10 xuất xứ Bạch đàn caman
và 5 xuất xứ Bạch đàn tere sinh trưởng tốt [34].
Ngoài ra, các năm 80 - 90 của thế kỷ XX còn có nhiều tác giả nghiên
cứu về chọn loài và xuất xứ bạch đàn ở nhiều nước khác nhau như: Agpaoa
A.C (1986) khảo nghiệm loài và xuất xứ bạch đàn tại Philippine. Watanabe H.
(1987) tiến hành khảo nghiệm các xuất xứ của loài Bạch đàn caman tại Thái
Lan [43]. Sun D., Dickinson G.R. (1997) thí nghiệm tuyển chọn 28 loài trên
đất mặn và đất không mặn tại miền Đông bắc nhiệt đới khô ở Úc [40].
Năm 1975 Viện nghiên cứu lâm nghiệp Quảng Tây (Trung Quốc) đã lai
giữa Bạch đàn saligna với Bạch đàn liễu tạo ra được một số tổ hợp lai có khả
năng vượt trội hơn loài Bạch đàn liễu tới 82% về thể tích thân cây, trong đó tổ
hợp lai nghịch Bạch đàn liễu x Bạch đàn saligna có sinh trưởng nhanh hơn tổ
hợp lai thuận Bạch đàn saligna x Bạch đàn liễu (Shuxiong, 1989) [39]. Hiện
các giống lai được trồng chủ yếu ở các vùng ven biển vì chúng có khả năng
chịu gió bão tốt đồng thời sinh trưởng nhanh.
Từ năm 1989 Viện lâm nghiệp nhiệt đới của Trung Quốc cũng tạo ra 204
cây lai từ các cặp bố mẹ giữa Bạch đàn urô với các loài Bạch đàn tere, Bạch
đàn caman, Bạch đàn liễu, Bạch đàn grandis, Bạch đàn saligna và Bạch đàn
pellita. Trong đó một số cá thể cây lai từ các tổ hợp Bạch đàn urô x Bạch đàn
tere và Bạch đàn urô x Bạch đàn caman đã có ưu thế lai rõ rệt về sinh trưởng
so với bố mẹ của chúng, cây lai có thể tích vượt bố mẹ với các trị số tương
ứng là 120,7% và 89,4% (Xiang & Wang, 1996; Shen, 2000) [38], [44] .


Các tổ hợp lai thuận nghịch giữa Bạch đàn urô và Bạch đàn grandis cũng
đã được tạo ra ở Trung Quốc (Wang ADN Yang, 1996, Rezende, G. và
Rezende, M., 2000; Bouvet và Combes, 1997), ở Brazil và ở Indonesia

(Hardlyanto & Tridasa, 2000) [15], [35], [42] . Hiện các giống này đang được
trồng phổ biến tại Trung Quốc, năng suất các giống này gấp rưỡi các giống
Bạch đàn urô thuần.
Trong những năm gần đây ở các nước Đông Nam Á và Nam Trung Quốc
(Quảng Tây và Quảng Đông) ngoài 3 loài keo còn có 5 loài bạch đàn (Bạch
đàn grandis, Bạch đàn urô, Bạch đàn pellita, Bạch đàn globulus, Bạch đàn
dunnii) và bạch đàn lai là cây trồng chủ đạo và các chương trình cải thiện
giống cường độ cao cũng chỉ tiến hành với 2 nhóm loài này, với diện tích
trồng rừng lên tới 7 triệu ha (Hawood & Nambiar, 2014) [30].
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc lựa chọn các cặp bố mẹ trong lai giống
có tác động nhiều đến biểu hiện của ưu thế lai, thường các cặp bố mẹ có sinh
trưởng tốt cho ưu thế lai mạnh hơn các cặp bố mẹ có sinh trưởng kém. Ngoài
ra các nghiên cứu cũng cho thấy ảnh hưởng của việc chọn loài để lai cũng tác
động đến biểu hiện ưu thế lai, các loài có quan hệ di truyền xa nhau cho ưu
thế lai mạnh hơn những loài có quan hệ gần gũi (Brawner và cộng sự, 2012)
[23].
Nhìn chung, các công trình khảo nghiệm trên đều cho thấy các loài Bạch
đàn urô, Bạch đàn caman, Bạch đàn liễu... có nhiều xuất xứ tốt, thích nghi cao
với điều kiện hoàn cảnh gây trồng khác nhau. Đây cũng là những loài mà đề
tài sẽ chọn sử dụng làm vật liệu nghiên cứu lai giống với sự trợ giúp của chỉ
thị phân tử (MAS).
1.2. Giới thiệu về chỉ thị SSR và một số ứng dụng trong chọn giống
1.2.1. Giới thiệu về chỉ thị SSR (Simple Sequence Repeat)
SSR còn được gọi là Microsatellite được Litt và Luty phát triển thành
một kỹ thuật chỉ thị phân tử năm 1989 (Litt M., Luty J. A. (1989) [32].
Microsatellite có chứa các trình tự ADN, hiện nay đã có những nghiên cứu về


vai trò chức năng của chúng trong hệ gen của cây bạch đàn. Chỉ thị
microsatellite đóng một vai trò quan trọng trong cây bạch đàn ở các cấp độ

khác nhau của sự cải thiện di truyền. Các chỉ thị microsatellite có tiềm năng
phân tích được sự liên quan chặt chẽ giữa các cá thể và ngày càng phát hiện
được nhiều hơn nữa các SSR trên các nhóm liên kết và các nghiên cứu di
truyền khác. Hiện nay, đã phát hiện được một số lượng lớn các microsatellite
có mối liên hệ từ nhóm liên kết (LG) đến vị trí vật lý (Murugan Sumathi and
Ramasamy Yasodha, 2014). Gần đây, 223 marker microsatellite mới đã được
khảo sát về đa dạng alen và được bổ sung vào bản đồ bạch đàn SSR hiện có,
nâng tổng số các lôcut SSR đến hơn 400 và giúp nâng cao việc so sánh bản đồ
hệ gen (Grattapaglia et al, 1996) [27].
Sự thay đổi các alen xảy ra ở lôcut SSR là kết quả của sự thay đổi số lần
lặp lại của các đơn vị. Sự khác nhau về độ dài ở lôcut SSR được phát hiện bởi
sự nhân đoạn ADN nhờ PCR dùng một cặp mồi oligonucleotide có trình tự bổ
sung với SSR. Kích thước của sản phẩm PCR được xác định một cách chính
xác bằng điện di trên gel polyacrylamide. Sự khác nhau về độ dài có thể rất
nhỏ (2bp). SSR thích hợp cho lập bản đồ, nghiên cứu QTL và in dấu ADN
(ADN fingerprinting).
SSR cho thấy mức độ đa hình cao ở hầu hết các loài thực vật, thậm chí
trong các kiểu gen có quan hệ gần gũi, với số lượng lớn các alen tìm thấy ở
mỗi lôcut và dị hợp tử được đánh giá thường lớn hơn 0,7. Di truyền đồng trội
được quan sát ở các alen này ở nhiều loài khác nhau (Dow và cộng sự., 1995;
Rongwen và cộng sự., 1995) [26], [36].
Vì SSR được phân tích nhờ PCR, chỉ đòi hỏi một lượng nhỏ ADN mẫu,
phản ứng có thể hoàn thành (từ chuẩn bị mẫu đến phân tích kiểu gen) chỉ
trong hai ngày. Mỗi mồi có từ 1 đến 12 lôcut được tổ hợp trong một phản ứng
PCR cho phép đồng thời ghi nhận các kiểu gen nhiều lôcut, điều này tiết kiệm
đáng kể thời gian và hoá chất.


Có thể tóm lại một số ưu điểm của chỉ thị SSR được các nhà di truyền và
chọn giống thực vật quan tâm là:

Chúng có tính đa hình rất cao cho phép phân biệt một cách chính xác các
cá thể có quan hệ họ hàng gần;
Là chỉ thị “đồng trội” (có thể phân biệt được đồng hợp tử AA, hay BB,
hoặc dị hợp tử AB);
Kỹ thuật đơn giản, tiện lợi;
Chúng tồn tại rất nhiều và phân bố đều trong bộ gen thực vật;
Một trong những ưu điểm đặc biệt là số liệu khi phân tích chỉ thị SSR có
tính lặp lại rất cao và có thể dễ dàng chia sẻ giữa các nhóm nghiên cứu và
phòng thí nghiệm (Brondani và cộng sự 1998) [16]. Chính vì những ưu điểm
trên đây mà chỉ thị SSR đã ứng dụng rất nhiều trong các nghiên cứu chọn
giống cây trồng theo hướng chọn lọc các tính trạng có lợi như chống chịu sâu
bệnh, trong các nghiên cứu phân tích sự đa dạng bộ gen, trong các nghiên cứu
lập bản đồ gen (Yasodha và cộng sự 2008) [45].
Hạn chế của chỉ thị SSR là đòi hỏi công sức và giá thành cao trong việc
xây dựng các cặp mồi đặc hiệu cho mỗi lôcut đa hình, bao gồm việc tách
dòng và đọc trình tự một số lượng lớn các đoạn ADN hệ gen chứa SSR. Tuy
nhiên, nhiều thành công đạt được trong lĩnh vực này khiến giá thành của chỉ
thị có thể được làm giảm đi (Brown và Kresovich, 1996) [19].
So sánh giữa ưu nhược điểm của từng phương pháp cộng với mục đích
của vấn đề nghiên cứu, đề tài chọn chỉ thị SSR để nghiên cứu chọn giống
bạch đàn lai và RADP trong nghiên cứu quan hệ di truyền giữa các bố mẹ
tham gia lai giống.
1.2.2. Ưu điểm của chọn giống bằng chỉ thị phân tử
Các cá thể trong cùng một quần thể của một loài sinh sản hữu tính sẽ có
một mức độ của sự biến đổi di truyền gây ra bởi đột biến, chèn/mất
(INDELS), đảo đoạn, trùng lặp, và đảo vị trí. Biến đổi như vậy có thể được


phát hiện và sàng lọc bằng cách sử dụng chỉ thị phân tử, hoặc di truyền. Theo
định nghĩa, chỉ thị phân tử là lôcut gen có thể dễ dàng theo dõi và định lượng

trong một quần thể và có thể được liên kết với một gen hoặc đặc điểm đặc
biệt quan tâm (Alice C. Hayward và cộng sự, 2014).
Kiểu gen của các lôcut chỉ thị phân tử có thể được xác định tại bất kỳ
giai đoạn nào và ở bất kỳ mức độ nào: tế bào, mô hay toàn bộ cơ thể.
Số lượng các chỉ thị phân tử là cực lớn, trong khi số lượng của các chỉ thị
hình thái là hạn chế.
Các alen của chỉ thị phân tử phần lớn là đồng trội, vì thế cho phép phân
biệt mọi kiểu gen ở bất kỳ thế hệ phân ly nào, còn các alen của chỉ thị hình
thái thường tương tác theo kiểu trội - lặn, do đó bị hạn chế sử dụng trong
nhiều tổ hợp lai.
Đối với chỉ thị hình thái, các hiệu ứng lấn át thường làm sai lệch việc
đánh giá các cá thể phân ly, còn đối với chỉ thị phân tử, hiệu ứng lấn át hoặc
cộng tính rất hiếm gặp.
Sự thành công của hệ thống chọn giống nhờ MAS phụ thuộc vào các yếu
tố:
Bản đồ di truyền với một số lượng hợp lý các chỉ thị đa hình tại các vùng
tương đồng (uniformly-spaced polymorphic markers) để định vị chính xác
QTLs hay gen quan tâm.
- Mối liên kết chặt giữa chỉ thị và các gen hay các QTLs. Có 3 kiểu
quan hệ giữa chỉ thị và gen quan tâm:
+ Chỉ thị phân tử được định vị ngay trong gen được quan tâm. Đây là
trường hợp lý tưởng nhất cho MAS, nhưng rất khó tìm thấy loại chỉ thị này.
+ Chỉ thị có mối liên kết không cân bằng (linkage disequilibrium LD) với gen được quan tâm. Đây là nhóm chỉ thị có khuynh hướng di truyền
cùng nhau. Mối quan hệ này tìm thấy khi gen và chỉ thị có khoảng cách vật lý
gần nhau.


+ Chỉ thị có mối liên kết cân bằng (linkage equilibrium - LE) với gen
được quan tâm. Đây là trường hợp khó cho việc ứng dụng MAS.
- Mức độ chính xác của MAS phụ thuộc rất lớn vào mối liên kết chặt

giữa gen quan tâm và chỉ thị phân tử. Mặc dù chỉ thị và gen có mối quan hệ
về di truyền, nhưng mối liên kết này có thể bị phá vỡ do có sự tái tổ hợp giữa
chúng. Mối liên kết giữa chỉ thị phân tử và gen quan tâm được tính bằng
khoảng cách di truyền, phản ánh tỷ lệ tái tổ hợp giữa gen quan tâm và chỉ thị.
Vì thế, để có độ tin cậy cao, làm giảm sự tái tổ hợp giữa gen quan tâm và chỉ
thị chỉ áp dụng MAS với những chỉ thị cách gen quan tâm không quá 5 cM và
với những nhóm chỉ thị nằm cả 2 phía của gen. Theo lý thuyết, với những chỉ
thị cách gen trong khoảng 5cM, độ chính xác thu được khi sử dụng MAS là
99,75% hoặc có thể cao hơn.
1.2.3. Một số ứng dụng của chỉ thị phân tử trong chọn giống
Chỉ thị phân tử có thể được sử dụng để nghiên cứu các mô hình di
truyền, biến đổi gen, hiện tượng tiến hóa và chọn lọc, mối liên kết alen-alen,
và các liên kết giữa alen và kiểu hình. Các ứng dụng của chỉ thị phân tử có
thích hợp hay không phụ thuộc vào tính chất vật lý của nó và vị trí của bộ
gen, các chi phí liên quan, dễ sử dụng, và hiệu suất cần thiết. Marker phân tử
đã được áp dụng thành công trong khoa học thực vật theo hướng di truyền và
lập bản đồ vật lý của bộ gen, xác định các gen kiểm soát quá trình khác nhau
và kiểu hình, đa dạng di truyền và phân tích tiến hóa, trợ giúp cho cải thiện
giống cây trồng (Bala Thumma và cộng sự 2015) [24].
Trước đây, vị trí của một chỉ thị gen thường không rõ và không cần thiết
cho mục đích của sự đa dạng và phân tích và ứng dụng giống tiến hóa. Với
những tiến bộ trong công nghệ gen, sử dụng chỉ thị phân tử khi biết vị trí gen
và điều kiện môi trường đang trở nên phổ biến hơn và được áp dụng ngày
càng phổ biến với phạm vi mục tiêu ngày càng đa dạng.


Chỉ thị phân tử cung cấp các ứng dụng phong phú trong nghiên cứu di
truyền phân tử và chọn giống. Mặc dù ngày nay khả năng tiếp cận và cải tiến
các công nghệ gen ngày càng phát triển, nhưng chỉ thị phân tử vẫn là thành
phần thiết yếu của tất cả các phân tích di truyền quy mô lớn, không chỉ bằng

việc lắp ráp bộ gen mà còn chứng minh được giá trị của chúng trong kiểu gen,
so sánh và tiến hóa gen, lập bản đồ tính trạng, chọn giống. Chỉ thị phân tử đó
có khả năng tiếp tục được phát triển và áp dụng thành công đối với tiến bộ
gen thực vật trong nhiều năm tới (Alice C. Hayward và cộng sự, 2014).
Chỉ thị phân tử thường được phân thành chỉ thị dựa trên cơ sở phép lai
ADN và các chỉ thị dựa trên cơ sở phản ứng PCR. Chỉ thị phân tử được sử
dụng rộng rãi trong các nghiên cứu lập bản đồ gen phục vụ cho chọn tạo
giống cây trồng ở nhiều đối tượng khác nhau. Tính ưu việt của các chỉ thị
phân tử không những ở tiềm năng nghiên cứu về đa dạng di truyền giữa các
giống trong cùng một loài mà còn theo dõi được sự di truyền bền vững và ổn
định của những chỉ thị này trong các thế hệ sau. Sự xuất hiện của các chỉ thị
còn cho phép dự đoán khả năng di truyền của những tính trạng quan trọng liên
kết với nhau trên cùng một nhiễm sắc thể. Khác với các tính trạng về hình
thái, sinh lý dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường, các chỉ thị phân tử không bị biến
đổi dưới tác động ngoại cảnh, có mặt trong tất cả các giai đoạn sinh trưởng
của cây.
Sử dụng chỉ thị phân tử trong chọn giống cây rừng đã được thực hiện tại
nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt các nước có nền lâm nghiệp phát triển
mạnh và mang tính hàng hóa cao như Thụy Điển, Braxin, Australia, Trung
Quốc... Việc chọn lọc có sự trợ giúp của chỉ thị phân tử là công cụ tiềm năng
giúp tăng cường hiệu quả công tác chọn tạo giống.
Khoa Tế bào sinh học của trường Đại học Brasilia (Brazil) đã nghiên cứu
phát triển lập bản đồ gen liên kết sử dụng chỉ thị SSR cho Bạch đàn grandis
và Bạch đàn urô. Nghiên cứu này xây dựng một số lượng lớn các chỉ thị SSR


có thể sử dụng được đối với các loài bạch đàn, các chỉ thị SSR này chứa đựng
rất nhiều thông tin hữu ích cho việc thiết lập bản đồ và xác định các đặc điểm
cá thể và đã chứng minh được khả năng xây dựng một bản đồ liên kết dựa vào
các chỉ thị SSR một cách hoàn thiện. Họ đã xây dựng được một bộ bao gồm

70 chỉ thị SSR ký hiệu từ EMBRA1 đến EMBRA70 (Eucalyptus
microsatelites from Brazil) với tính đa hình cao khi sử dụng với Bạch đàn
grandis và Bạch đàn urô (Brondani và cộng sự 1998, 2002) [16], [17].
Một nghiên cứu tiếp tục của nhóm tác giả Brondani và cộng sự (2006),
đã mô tả sự phát triển của một bộ mới bao gồm 230 chỉ thị SSR, ký hiệu
EMBRA 71... EMBRA395 cho bạch đàn. Từ 380 chỉ thị ban đầu được nghiên
cứu đánh giá, có 230 chỉ thị có tính đa hình cao, có thể dễ dàng dùng để giải
thích cho các kiểu gen, các kiểu gen này có thể sử dụng để đánh dấu các cá
thể độc lập và lập bản đồ gen liên kết. Trong số các chỉ thị SSR này, đã có 48
chỉ thị phát triển riêng cho Bạch đàn globulus (đặt tên là EMCRC), 8 chỉ thị
phát triển cho Bạch đàn nitens (ký hiệu EMEn), 8 chỉ thị cho Bạch đàn sieberi
(ký hiệu EMEs), 13 chỉ thị cho Bạch đàn leucoxyon (ký hiệu EMEl). Và gần
đây đã có thêm 35 chỉ thị SSR được phát triển dựa vào chuỗi ADN lục lạp
(cp-ADN) của Bạch đàn globulus.
Tại trường Đại học Tasmania, Úc, Bundock và cộng sự (2000) cũng đã
nghiên cứu sử dụng chỉ thị phân tử RAPD và SSR để lập bản đồ liên kết của
cho cây Bạch đàn globulus. Trong nghiên cứu này nhóm tác giả đã sử dụng
các chỉ thị SSR phát triển cho loài Bạch đàn urô và Bạch đàn grandis để lập
bản đồ liên kết cho cây Bạch đàn globulus. Các chỉ thị SSR được sử dụng như
EMBRA17, EMBRA18, EMBRA5, EMBRA12, EMBRA16, EMCRC7,
EMCRC6,... Kết quả nghiên cứu đã lập được các bản đồ sử dụng chỉ thị
RAPD và chỉ thị SSR cho cả nhóm cây bố và cây mẹ. Kết quả nghiên cứu
cũng chỉ ra rằng các chỉ thị SSR phát triển cho các loài bạch đàn có quan hệ


gẫn gũi với nhau như các loài bạch đàn trên đều có thể sử dụng để lập bản đồ
liên kết [21].
Năm 2002, tại Mỹ, Agrama và cộng sự (2002) công bố đã lập bản đồ
gen liên kết cho Bạch đàn caman, nhóm tác giả đã sử dụng các dữ liệu phân
ly từ 92 cây con Bạch đàn trắng có quan hệ gần gũi với nhau, kỹ thuật để xây

dựng bản đồ gen liên kết dựa vào các chỉ thị phân tử RAPD, RFLP
(Restriction Fragment Length Polymorphism) và SSR. Các dữ liệu được phân
tích mối liên kết sử dụng phần mềm lập bản đồ gen JOINMAP. Phân tích mối
liên kết đã xác định được 168 chỉ thị phân tử bao phủ bộ gen của Bạch đàn
caman với độ dài 1.236 cM. Số lượng các nhóm liên kết được xác định tương
đương với số lượng chromosomes (n=11) của loài bạch đàn. Bản đồ gen này
được sử dụng để xác định các vùng hay các đoạn gen của loài Bạch đàn
caman liên quan đến một số tính trạng quan trọng như xác định chất lượng gỗ,
tinh dầu. Trong số 18 chỉ thị SSR sử dụng để nghiên cứu phân tích đã có tới
14 chỉ thị là EMBRA1, EMBRA2, EMBRA3, EMBRA5, EMBRA8,
EMBRA9, EMBRA10, EMBRA11, EMBRA14, EMBRA15, EMBRA16,
EMBRA17, EMBRA19 và EMBRA20 được dùng để lập bản đồ gen liên kết.
Với 14 chỉ thị SSR này mang lại thông tin rất có ý nghĩa trên bản đồ gen của
bạch đàn Bạch đàn caman [14].
Chọn lọc gián tiếp dựa trên liên kết chỉ thị phân tử với lôcut tính trạng số
lượng (QTL) có thể kể đến công trình nghiên cứu của Verhaegen và cộng sự
(1997) về giống bạch đàn lai (Bạch đàn urô x Bạch đàn grandis) đã sử dụng
chỉ thị RAPDs xác định được 4 QTL có liên quan đến độ thẳng thân với mức
đóng góp cho biến dị kiểu hình là 5,1-11%. Tiếp đến là nghiên cứu của Byrne
và cộng sự, (1997) đã ứng dụng chỉ thị RFLPs cho sinh trưởng của Bạch đàn
nitens cho thấy đã xác định được 3 QTL có mức đóng góp biến dị kiểu hình là
10,3-14,7%. Còn nghiên cứu Bundock và cộng sự, (2008) về ứng dụng chỉ thị
RAPDs và SSRs cho sinh trưởng về đường kính của Bạch đàn globulus, đã


xác định được 3 QTL có mức đóng góp biến dị kiểu hình là 7,8 -17,9% [20].
Tuy nhiên chọn lọc theo phương pháp này cho thấy mức đóng góp cho biến dị
kiểu hình không vượt quá 20%, hơn thế nữa nó cũng có những hạn chế nhất
định như QTL xác định ở quần thể này khó áp dụng cho các quần thể khác vì
nền tảng di truyền của các quần thể khác nhau cũng như điều kiện môi trường

khác nhau (Neale và Savolainen 2004; Eugenia và cộng sự 2002) [62].
Thumma và cộng sự (2005) đã xác định được mối tương quan giữa mức độ đa
hình của gen Cinnamoyl CoA reductase (CCR), một gen chính liên quan đến
quá trình sinh tổng hợp lignin của Bạch đàn nitens và Bạch đàn globulus)
bằng chỉ thị SNP.
Cho đến nay với đối tượng cây bạch đàn, số lượng chỉ thị SSR đã lên
đến hàng nghìn chỉ thị, nhưng bộ chỉ thị phân tử SSR đang được sử dụng
trong nghiên cứu phổ biến nhất là EMBRA, trong đó có 300 mồi SSR với tên
gọi EMBRA đã được các nhà khoa học tại Braxin phát triển (ký hiệu
EMBRA--) (Brondani và cộng sự 1998, 2002, 2006). Tại Trường Đại học
Pretoria của Nam Phi đã có 5 cặp mồi kí hiệu FMRSA được phát triển bằng
phương pháp ISSR và có khả năng sử dụng chúng ở các loài khác loài cây
khác nhau. Còn ở Trường Đại học Tasmania của Úc (Steane và cộng sự 2001)
đã sử dụng 12 cặp mồi có kí hiệu EMCRC dùng để nhân bản các chỉ thị SSR
ở cây bạch đàn. Ngoài ra còn khoảng 30 cặp mồi mang các đoạn lặp lại (CA)n
và (CAG)n cũng được tạo ra bằng việc sử dụng thư viện bộ gen (Ottewell và
cộng sự 2005). Mặc dù số lượng các đoạn mồi dùng cho việc phân tích chỉ thị
SSR rất đa dạng, tuy nhiên cho đến nay chỉ có hệ thống mồi EMBRA là được
sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu chọn dòng, thiết lập bản đồ di truyền
liên kết cho các cặp lai và phân tích các lôcut tính trạng số lượng (QTL) có lợi
(Marques và cộng sự 2002; Rungis và cộng sự 2004; Kirst và cộng sự 2005)
[33], [37], [31]. Có thể thấy rằng việc kết hợp giữa chỉ thị SSR và thông tin về


trình tự nucleotide đã làm cho phương pháp sử dụng SSR trở thành công cụ
khá hiệu quả, nhanh chóng và chính xác trong công tác chọn giống cây trồng.
Nghiên cứu ứng dụng chỉ thị phân tử trong chọn giống bạch đàn Bạch
đàn globulus, Bạch đàn nitens đã được Bundock và cộng sự 2008; Freeman và
cộng sự 2009 cho thấy các chỉ thị SSRs, RAPDs có tương quan đến sinh
trưởng về đường kính cây với mức đóng góp biến dị kiểu hình từ 3,8 đến

17,9%, ngoài ra tác giả cũng chỉ ra một số tính trạng về chất lượng như mật
độ gỗ, hàm lượng xenlulô, lignin cũng đóng góp cho mức biến dị từ 5,612,3%. Như vậy cả tính trạng chất lượng lẫn số lượng chỉ đóng góp dưới 18%
biến dị cho các tính trạng nghiên cứu [20], [28].
Jules S. Freeman và cộng sự (2013) tại nghiên cứu về tính ổn định của
các locut của tính trạng số lượng cho sự tăng trưởng và thuộc tính gỗ trên
nhiều phả hệ và môi trường tương phản trong loài Bạch đàn globulus đã chỉ ra
được vị trí của QTL cho các thuộc tính và sự tăng trưởng của gỗ. Nghiên cứu
này đã xây dựng được bản đồ liên kết bão hòa bằng cách sử dụng 663 kiểu
gen từ bốn gia đình riêng biệt, được trồng tại ba địa điểm cách xa nhau, và đã
được sử dụng để xây dựng một bản đồ sự đồng thuận. Bản đồ này đã được sử
dụng để phân tích QTL của các tính trạng tăng trưởng, tỷ trọng gỗ và đặc tính
hóa học gỗ, bao gồm cả sản lượng bột giấy. 98 QTLs đã được xác định qua
các gia đình và các địa điểm: trong đó có 87 QTL cho các thuộc tính gỗ và 11
QTL cho tăng trưởng. Những QTL ánh xạ tới 38 khu vực riêng biệt, một số
trong đó có đồng vị trí với gen mục tiêu. Mặc dù 16% các QTL đã được xác
nhận trong các họ khác nhau, nhưng có tới 24% QTL cho tính chất gỗ và 38%
QTL cho tăng trưởng được biểu hiện nhờ sự tương tác môi trường. Nghiên
cứu này đã đánh giá về tác động của môi trường đến sự phát hiện QTL của
các phả hệ, mặc dù môi trường của mỗi phả hệ khác nhau rõ rệt, nhưng có
nhiều QTL ổn định, kết quả này đã mang đến nhiều hứa hẹn cho chọn giống
nhờ sự trợ giúp của chỉ thị phân tử.


Thumma và cộng sự (2010) đã phát hiện 36 QTL liên kết với một số tính
trạng chất lượng gỗ ở Bạch đàn nitens [41]. Còn về tính trạng số lượng (thể
tích thân cây) của Bạch đàn grandis chỉ có 3 QTL (Grattapaglia et al 1996)
[27]. Tương tự như vậy, 3 QTL được xác định cho đường kính của cây trong
một phép lai giữa Bạch đàn grandis và Bạch đàn urô (Verhaegen et al 1997).
Bundock và cộng sự. (2008) xác định được 1 QTL cho sự tăng trưởng chiều
cao trong khi Freeman et al. (2009) đã xác định 2 QTL cho đường kính của

cây. Số ít QTL được phát hiện trong những nghiên cứu này có thể phản ánh
hệ số di truyền thấp thường gắn liền với những đặc điểm tăng trưởng. Nghiên
cứu QTL là những cách tiếp cận hữu ích để khám phá sự kiểm soát di truyền
của các tính trạng di truyền thấp và có thể làm sáng tỏ về sự kiểm soát phân tử
của kiểu hình chưa được hiểu rõ như tăng trưởng cây (Thumma và cộng sự,
2010) [41].
Anand Raj Kumar Kullan và cộng sự (2012) đã nghiên cứu về sự di
truyền của các tính trạng tăng trưởng, tỷ trọng gỗ và biểu hiện của gen ở trong
hai gia đình lai trở lại giữa loài Bạch đàn urô và Bạch đàn grandis đã xác định
được 2 QTL đường kính thân và 12 QTL cho tỷ trọng gỗ. Các QTL cho
đường kính và tỷ trọng gỗ cho thấy mức đóng góp biến đổi kiểu hình là 3,1 12,2%.
B. Trong nước
1.3. Những nghiên cứu về chọn giống bạch đàn ở Việt Nam
Bạch đàn được du nhập vào nước ta từ những năm 1930, đến nay đã trở
thành nhóm cây trồng chủ lực trong các chương trình trồng rừng tập trung và
phân tán ở nước ta. Tổng diện tích trồng bạch đàn ở nước ta đến năm 2001 là
348.000 ha chiếm 30% diện tích trồng rừng cả nước. Cùng với nhóm loài keo,
rừng trồng bạch đàn đã góp phần đáng kể đáp ứng nhu cầu gỗ nguyễn liệu,
ván dăm, gỗ trụ mỏ góp phần cải thiện đời sống cho người dân làm nghề rừng.


Các loài bạch đàn được nhập nội vào nước ta chủ yếu lựa chọn để làm
nguyên liệu giấy. Các kết quả nghiên cứu các giai đoạn trước đã xác định
được một số loài bạch đàn có triển vọng trong trồng rừng là Bạch đàn urô chủ
yếu cho các tỉnh miền Bắc và Tây Nguyên, Bạch đàn caman và Bạch đàn tere
chủ yếu cho các tỉnh miền Trung và miền Nam, Bạch đàn pellita cũng là một
loài rất có triển vọng trên các vùng sinh thái trong cả nước, một số loài có
triển vọng như Bạch đàn uro, Bạch đàn tere, Bạch đàn caman, Bạch đàn
pellita cũng đã được xây dựng rừng giống và vườn giống. (Lê Đình Khả và
cộng sự, 2003, Hà Huy Thịnh, 2005) [7], [12].

Các nghiên cứu về chọn giống bạch đàn nói riêng các các loài khác nói
chung từ 1996 đến 2000 là giai đoạn đặt nhiều dấu ấn trong là cải thiện giống
cây rừng, các nghiên cứu tập trung vào tập hợp nguồn gen xây dựng quần thể
chọn giống có đa dạng di truyền cao cho các loài bạch đàn, keo, thông , tràm,
thông qua các dự án quốc tế cũng như các đề tài nghiên cứu, các nghiên cứu
về nhân giống mô - hom được phát triển mạnh, các giống mới được công
nhận nhiều, nỗi bật ở giai đoạn này là các giống keo lai tự nhiên, bạch đàn
lai, bạch đàn kháng bệnh… (Lê Đình Khả và cộng sự 2003) [7].
Nguyễn Hoàng Nghĩa (2005) nghiên cứu chọn giống bạch đàn theo sinh
trưởng và kháng bệnh, cho thấy 3 loài bạch đàn là Bạch đàn caman, Bạch đàn
brassiana và Bạch đàn tere có nhiều xuất xứ sinh trưởng khá, có khả năng
kháng bệnh hại, đề tài chọn được số dòng có sinh trưởng nhanh và kháng
bệnh cao. Qua nghiên cứu và kế thừa ở các giai đoạn trước đề tài đã thu được
các kết quả sau: Tuyển chọn được 8 dòng bạch đàn có chỉ số bệnh thấp, sinh
trưởng nhanh từ khu khảo nghiệm 50 dòng ở Sông Mây, trong đó 2 dòng
SM16 và SM23 đã được công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật. Hai dòng này
3

sinh trưởng nhanh đạt trên 25 m /ha/năm và chống chịu tốt với bệnh hại lá tại
Bình Dương và Bình Phước [9].


Nguyễn Việt Cường báo cáo tổng kết đề tài (2005, 2010, 2016) “Nghiên
cứu lai tạo giống một số loài bạch đàn, keo, tràm thông” đã chọn được 26
dòng bạch đàn lai (CU89, UE35, UE52, GU94, UE34, UE46, UE69, UC80,
UE27, UE30, UE73, UU9, UE24, UE3, UE85, UE23, UC2, UU80, UG24,
CU98, CU82, UG54, UG55, TU104, TP12) có sinh trưởng nhanh hơn các đối
chứng U6, GU8, PN2 và PN14 ở giai đoạn từ tuổi 2 đến tuổi 6. Và 5 dòng keo
lai nhân tạo là MA1, MAM8, MA2, AM2, AM3 đều có sinh trưởng nhanh
hơn hoặc bằng các giống keo lai tự nhiên được công nhận giống. Trong 26

dòng bạch đàn lai đã có 5 dòng được công nhận là giống quốc gia là UE24,
UC80, UG24, CU82, CU98 [1], [2].
1.4. Ứng dụng của chỉ thị phân tử trong chọn giống ở Việt Nam
Trong lĩnh vực lâm nghiệp việc ứng dụng chỉ thị phân tử trong nghiên
cứu còn rất hạn chế. Cho đến nay chỉ có một vài công trình nghiên cứu sử
dụng phương pháp chỉ thị phân tử để chọn giống Bạch đàn urô, Keo lá tràm ở
Việt Nam. Còn một số ứng dụng khác của chỉ thị phân tử trong đánh giá đa
dạng di truyền, nhận biết xuất xứ, nhận biết con lai và bố mẹ, xác định quan
hệ họ hàng giữa các dòng, có đa dạng hơn chút ít thể hiện ở các công trình:
Năm 2001 đề tài chọn giống và nhân giống cho một số loài cây trồng
rừng chủ yếu giai đoạn 1996-2000 do GS. TS Lê Đình Khả làm chủ nhiệm đề
tài đã kết hợp với Tổ chức khoa học và công nghệ Australia (Cộng sự IRO)
ứng dụng chỉ thị di truyền để nhận biết các dòng Keo lá tràm, đề tài sử dụng 3
microsatellite là Am030, Am136 và Am770 để xác định quan hệ di truyền
giữa các dòng Keo lá tràm, tác giả kết luận dòng Aa81 và Aa85 đều có alen
giống nhau, còn 6 dòng Aa18, Aa25, Aa28, Aa30, Aa32, Aa35 được chọn
trong số 40 dòng tham gia khảo nghiệm ở Cẩm Quỳ là khác nhau và khác các
dòng Aa81, Aa82, Aa83, Aa84 và Aa85 (Butcher, 2001) [22].
Nguyễn Việt Cường và cộng sự (2007) đã ứng dụng chỉ thị phân tử
(RAPD và ADN lục lạp) trong nghiên cứu đa dạng di truyền cho 40 dòng cây


×