Tải bản đầy đủ (.doc) (205 trang)

Nhân vật và đối tượng trữ tình trong ca dao quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.65 MB, 205 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN BÍCH NGỌC

NHÂN VẬT VÀ ĐỐI TƯỢNG TRỮ TÌNH TRONG CA DAO
QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN, 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN BÍCH NGỌC

NHÂN VẬT VÀ ĐỐI TƯỢNG TRỮ TÌNH TRONG CA DAO
QUẢNG NINH
Chuyên ngành: Văn học Việt
Nam
Mã ngành:
60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HẰNG PHƯƠNG


THÁI NGUYÊN,
2017


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến
PGS.TS. Nguyễn Hằng Phương - Người đã tận tình hướng dẫn, động
viên, tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn, phòng
Đào tạo trường Đại học Khoa học Thái Nguyên đã dạy dỗ, tạo điều kiện cho
tôi trong quá trình học tập.
Xin cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè. Đó chính là
nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn
này.

Học viên

NGUYỄN BÍCH NGỌC

i


MỤC LỤC
LỜI

CẢM

ƠN

............................................................................................. i MỤC LỤC

..................................................................................................ii

MỞ

ĐẦU ................................................................................................... 1
1.

do
chọn
đề
.................................................................................... 1

tài

2.
Lịch
sử
vấn
........................................................................................ 2

đề

3.
Đối
tượng

mục
......................................................... 7

tiêu


nghiên

cứu

4.
Nhiệm
vụ

phương
.................................................. 8

pháp

nghiên

cứu

5.
Phạm
vi
nghiên
................................................................................ 9

cứu

6.
Cấu
trúc
của

luận
............................................................................. 9

văn

7.
Đóng
góp
của
văn........................................................................... 9

luận

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ LIÊN QUAN
ĐẾN

ĐỀ

TÀI

........................................................................................... 11
1.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, đời sống văn
hóa ở
Quảng
.............................................................................................. 11
1.1.1.
Vài
nét
về
điều

......................................................... 11
1.1.2.
Đặc
điểm
kinh
................................................................ 12

kiện
tế,

tự


1.1.3.
Đời
sống
hóa............................................................................ 14
1.2.
Một
số
vấn
đề
......................................................................... 15
1.2.1.
Nhân
vật
trữ
............................................................................ 15
1.2.2.
Đối

tượng
tình........................................................................... 18

ii

Ninh
nhiên
hội
văn



luận
tình
trữ


1.3.
Tổng
quan
về
văn
Ninh.................................... 19
1.3.1. Khái quát về
.................................. 19

văn

học


học

dân

1.3.2.
Diện
mạo
ca
........................................................ 25

dao

dân

gian

gian

Quảng

Quảng

Quảng

Ninh
Ninh

Chương 2. NHÂN VẬT TRỮ TÌNH TRONG CA DAO QUẢNG
NINH.....................................................................................................
... 33

2.1.
Khảo
sát
nhân
vật
................................................................. 33
2.2. Diện mạo và tâm
.................................... 34

trạng

của

2.2.1.
Diện
mạo
nhân
tình............................................................. 34

ii

nhân

trữ
vật
vật

tình
trữ


tình
trữ


2.2.2. Tâm trạng nhân vật trữ
tình............................................................ 52
Chương 3. ĐỐI TƯỢNG TRỮ TÌNH TRONG CA DAO QUẢNG
NINH ............................................................................................................................
........69
3.1. Khảo sát đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh......................
69
3.2. Diện mạo và cung bậc cảm xúc của đối tượng trữ tình trong ca
dao
Quảng Ninh
.............................................................................................. 70
3.2.1. Diện mạo đối tượng trữ tình...........................................................
70
3.2.2. Cung bậc cảm xúc của đối tượng trữ tình ......................................
85
KẾT LUẬN .............................................................................................
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................
101
PHỤ LỤC

iii


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Có thể nói văn học dân gian giống như là cội nguồn, là bầu sữa mẹ
trong trẻo, mát lành nuôi dưỡng nền văn học dân tộc ngay từ buổi đầu. Bởi
lẽ ngay từ khi thoát khỏi thời kì hồng hoang nguyên thủy, con người đã
biết mở rộng tâm hồn đến với thế giới xung quanh. Họ đã biết yêu, biết
ghét, có đầy đủ những cung bậc, trạng thái cảm xúc khác nhau và đó cũng
là lúc ca dao, dân ca xuất hiện như một phương tiện giúp họ giãi bày
những tâm tư trong tâm hồn. Với tư cách là hình thái văn học đầu tiên của
dân tộc, văn học dân gian nói chung, ca dao nói riêng đã phải trải qua
mọi biến cố thăng trầm của lịch sử, thời gian nhưng vẫn có một sức sống
bất diệt giống như nhà văn Serdin từng nhận xét: “Nghệ thuật nằm ngoài
sự băng hoại của thời gian, chỉ
mình nó là không thừa nhận cái chết”.
Ca dao Việt Nam có một vị trí vô cùng quan trọng trong lịch sử văn
hóa dân tộc, trong đời sống sinh hoạt và tinh thần của người dân Việt từ
bao đời nay “Ca dao tự vạch cho mình một lối đi, dẫu không hào nhoáng,
song hết sức hiên ngang, hết sức độc lập. Phát sinh vì Dân Tộc, sống còn
nhờ Dân Tộc, ca dao là kết tinh thuần tuy của tinh thần Dân Tộc” [31].
Không những thế, ở mỗi địa phương lại có những mảng ca dao riêng biệt,
góp phần tạo nên sự phong phú đa dạng cho kho tàng ca dao dân tộc.
Được sinh ra và lớn lên trên quê hương Quảng Ninh, nơi được coi là
địa đầu vùng Đông Bắc Tổ quốc - một trong những cái nôi đầu tiên xuất
hiện loài người - nơi hội tụ, giao thoa nhiều dân tộc khác nhau như Kinh,
Tày, Dao, Sán Chỉ, Hoa, Sán Dìu… nên tôi có cơ hội tìm hiểu, tiếp xúc với
một nền văn hóa đa dạng và đậm bản sắc riêng. Và văn học với chức năng
giống như một tấm gương phản ánh hiện thực cuộc sống khách quan vào
trong tác phẩm với những cảm xúc của con người một cách chân thực nhất
đã lưu giữ được những điều đó. Đặc biệt, ở thể loại ca dao - vốn là tiếng nói
của tình cảm, khúc tâm tình giàu nhạc điệu lại phản ánh sâu sắc đời sống
nội tâm của con người Quảng Ninh qua các thời kì. Đây chính là mảnh đất
màu mỡ, tạo nên nguồn thi liệu quý giá, phong phú để khám phá, tìm hiểu

về cuộc sống sinh hoạt, lao động, tâm tư tình cảm, khát vọng của con
người lao động trên quê hương từ xa xưa, nhất là những cư dân sống vùng
ven biển và những người thợ mỏ. Trong khi đó, chưa có một công trình nào

1


nghiên cứu để làm rõ đời sống tinh thần, tâm trạng của nhân vật và đối
tượng trữ tình trong các bài ca dao.

2


Ngay trong nội dung chương trình dạy học Ngữ văn địa phương
Quảng Ninh lớp 6, 7 có những bài nội dung dạy về ca dao như: Ngữ văn địa
phương lớp 6: có bài đọc thêm về “Ca dao vùng mỏ”; Ngữ văn địa phương
lớp 7 ở bài 18 - Tiết 74 theo phân phối chương trình mới dừng lại ở việc
hướng dẫn học sinh sưu tầm các bài ca dao, dân ca, tục ngữ lưu hành ở địa
phương; Bài 33 - tiết 134, 135 theo phân phối chương trình giáo viên tổ
chức, đánh giá, nhận xét các bài cảm nhận của cá nhân học sinh về ca dao
đã sưu tầm ở tiết 74 chứ chưa có bài dạy nào cụ thể định hướng cách thức
phân tích, đi sâu khai thác để giúp các em cảm nhận được tiếng nói của
tâm hồn nhân vật và đối tượng trữ tình gửi gắm qua các bài ca dao.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn: “Nhân vật và đối tượng trữ tình
trong ca dao Quảng Ninh”, đặc biệt ở mảng ca dao vùng mỏ, vùng biển
làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Mong rằng công trình nghiên
cứu này sẽ góp một phần công sức nhỏ bé vào việc khám phá, giữ gìn, bảo
tồn cho nền văn học dân gian nói chung và ca dao Quảng Ninh nói riêng;
khơi dậy tình yêu đối với văn học dân gian của dân tộc đồng thời tạo thêm
một nguồn tư liệu về văn học dân gian để giúp giáo viên Ngữ văn ở Quảng

Ninh có thể thực hiện tốt các tiết dạy Ngữ văn địa phương một cách thuận
lợi hơn.
2. Lịch sử vấn đề
Ca dao nảy sinh và xuất hiện ở Quảng Ninh từ rất sớm, nhất là ca
dao vùng biển. Còn mảng ca dao vùng mỏ ra đời muộn hơn một chút vì nó
gắn liền với quá trình đấu tranh của công nhân mỏ.
Trước Cách mạng tháng tám, do nhân dân ta vẫn phải chịu ách áp
bức một cổ hai tròng, chưa được giải phóng, điều kiện kinh tế xã hội còn
nghèo nàn, lạc hậu cho nên các nhà nghiên cứu khoa học chưa có điều
kiện thâm nhập thực tế ghi chép, sưu tầm, xuất bản phát hành thành sách
để lưu truyền cho thế hệ con cháu về sau. Chính vì thế, ca dao dân ca chủ
yếu là tiếng hát cất lên từ trong lao động, lưu truyền trong đời sống để giãi
bày tâm tư, tình cảm trong tâm hồn, làm xua đi những vất vả, lo âu, mệt
mỏi trong cuộc sống thường ngày. Những bài ca dao ấy nếu có giá trị thì
cũng chỉ được lưu truyền bằng miệng, dựa vào trí nhớ của nhân dân mà

3


thôi.

4


Sau khi cách mạng tháng tám năm 1945 thành công, đặc biệt là sau
khi miền Bắc được giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, tại Đại
hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II (tháng 2 năm 1957), Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định những đóng góp to lớn của các văn nghệ sĩ đối với
cách mạng, kháng chiến. Người nhấn mạnh vai trò quan trọng của người
nghệ sĩ trong thời bình và đưa ra lời khuyên: Các văn nghệ sĩ muốn hoàn

thành tốt nhiệm vụ thì phải học tập, phải “trau dồi tư tưởng, trau dồi nghệ
thuật, đi sâu vào quần chúng. Phải đi sát sự thực. Và trong lúc tiến tới thì
chúng ta phải trau dồi đạo đức cách mạng, trước hết là đức khiêm tốn” [24,
tr. 325, 326]. Làm theo lời căn dặn của Bác, các nhà văn, nhà thơ hăng
hái lên đường, hòa nhập vào cuộc sống của nhân dân để hiểu, cảm nhận và
khơi nguồn sáng tạo. Đây cũng là thời điểm thuận lợi để các nhà nghiên
cứu văn học dân gian có điều kiện đi sâu vào quần chúng, sưu tầm, nghiên
cứu, tập hợp lại các bài ca dao, dân ca đã bị thất lạc, còn lưu truyền trong
dân gian thành các bản thảo, tập tài liệu.
Trước năm 1955, Sở Văn hóa - Thông tin khu Hồng Quảng đã cho
xuất bản một tập tài liệu tuyên truyền có tựa đề là “Đời sống thợ mỏ thời
Tây qua một số bài ca dao… ”. Cuốn khảo cứu này dày khoảng 20 trang,
mang tính chất tài liệu tuyên truyền là chủ yếu. Tuy nhiên, từ đó đến trước
những năm 1968 việc thu thập, tìm kiếm và biên soạn một cách thống
nhất các bài ca dao của vùng mỏ và vùng biển còn bị bỏ ngỏ và thực hiện
chưa đồng bộ.
Từ đó đến năm 1969, ba nhà biên soạn Lý Biên Cương, Trần Nhuận
Minh và Sỹ Hồng đã kết hợp với Ty Văn hóa Quảng Ninh xuất bản tập “Ca
dao vùng mỏ” (chống Mỹ cứu nước) gồm 160 bài đã sưu tầm.
Đến năm 1980, Ty Văn hóa - Thông tin Quảng Ninh xuất bản cuốn
“Ca dao vùng mỏ (trước Cách mạng)” do nhà nghiên cứu Tống Khắc Hài
chủ biên, tập hợp lại các bài ca dao vùng mỏ được sáng tác, lưu truyền
trước cách mạng tháng 8 năm 1945. Cuốn sách này là tập tư liệu sinh
động, chia làm ba phần. Phần đầu tiên, tác giả giới thiệu vài nét về sự hình
thành, giá trị và đóng góp của ca dao vùng mỏ, phần thứ hai là một số các
bài ca dao chọn lọc và phần thứ ba là các sáng tác vận động Cách mạng
cùng vè dân gian ở nơi đây. Cuốn sách bước đầu đã thể hiện được về giá trị

5



nội dung (lời tố cáo đanh thép, tình yêu thương và tiếng cười cay đắng,
tiếng thét rực lửa cách

6


mạng của công nhân mỏ) và chỉ ra giá trị nghệ thuật của ca dao vùng mỏ
là nghệ thuật hiện thực, chủ nghĩa hiện thực trong hình thức thơ ca dân
gian. Những luận điểm mà nhà nghiên cứu Tống Khắc Hài nêu ra đã đề cập
tương đối đầy đủ giá trị của ca dao vùng mỏ trước Cách mạng. Và trong bài
viết còn đưa ra luận điểm ca dao vùng mỏ phản ánh tình yêu thiên nhiên.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, thiên nhiên ở đây là phương tiện nghệ thuật để
con người bày tỏ tình cảm với quê hương, đất nước và thể hiện tình yêu lứa
đôi chứ không phải đối tượng hướng tới.
Trong giai đoạn hợp tác và hội nhập với quốc tế như hiện nay thì yếu
tố văn hóa bản địa, văn học dân gian càng ngày được coi trọng hơn, là
mảnh đất màu mỡ thu hút các nhà nghiên cứu tìm tòi, sưu tầm một cách
đầy đủ, hoàn chỉnh hơn. Năm
2007, nhà biên soạn Vũ Thị Gái kết hợp với Sở Văn hóa - Thông tin Quảng
Ninh đã xuất bản cuốn “Ca dao - dân ca vùng biển Quảng Ninh”. Trong
cuốn sách, PGS.TS Nguyễn Thị Huế trong bài giới thiệu “Đọc ca dao, dân
ca vùng biển Quảng Ninh đôi điều cảm nhận” đã nhận định ca dao vùng
biển là bộ phận ca dao mang đậm chất biển vùng Quảng Ninh bởi nó thể
hiện được tâm hồn người dân biển, tình yêu, niềm tự hào về quê hương;
đồng thời bước đầu tác giả đã phác thảo được đặc điểm thi pháp ca dao của
người Việt ở Quảng Ninh.
Đến năm 2010, trong cuốn “Di sản văn hóa làng chài Vịnh Hạ Long”
do Thạc sỹ Cao Đức Bình và Thạc sỹ Hoàng Quốc Thái đồng nghiên cứu và
biên soạn đã đi vào hướng “Phục dựng, bảo tồn và phát huy một số sinh

hoạt văn hóa dân gian của ngư dân làng chài Cửa Vạn (Vịnh Hạ Long)”.
Cuốn sách đã thể hiện được quan điểm của tác giả về sự phong phú, giàu
giá trị nhân văn, đậm tính trữ tình của các bài ca dao - dân ca vùng biển.
Công trình nghiên cứu đã bước đầu khái quát về nội dung và nghệ thuật
cũng như hình thức lưu truyền gắn với môi trường diễn xướng của ca dao
- dân ca vùng biển Quảng
Ninh.
Cũng trong năm 2010, Hội văn nghệ dân gian Quảng Ninh kết hợp
với Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam xuất bản cuốn “Ca
dao vùng mỏ” do Tống Khắc Hoài chủ biên gồm hai phần: Ca dao Vùng mỏ
trước Cách mạng tháng
8/ 1945 và Ca dao Vùng mỏ sau ngày giải phóng 25/ 4/ 1955. Cuốn sách

7


đã sưu tầm thêm được hơn vạn câu ca dao làm sống lại không khí sinh
hoạt văn hóa xã hội sâu rộng tại Vùng mỏ Quảng Ninh: lịch sử hình thành,
truyền thống đấu tranh của giai

8


cấp công nhân mỏ - đây là một sản phẩm văn hóa phi vật thể vô giá
không phải ở vùng đất nào, ngành nghề nào có được. Cuốn sách ghi lại nội
dung nổi bật, phong phú, sinh động cuộc sống tinh thần, lao động và chiến
đấu của ca dao vùng mỏ cũng như một số hình thức nghệ thuật đặc trưng.
Năm 2011, trong cuốn “Địa chí Quảng Ninh” tập 3, ca dao vùng mỏ
được giới thiệu tại mục “Ca dao vùng mỏ trước Cách mạng tháng 8 - những
sáng tác văn học đầu tiên của giai cấp công nhân”. Hai phương diện nội

dung và nghệ thuật trong những sáng tác trước Cách mạng đã được đề cập
đến một cách khái quát, đem đến cái nhìn tổng quan cho người đọc.
Năm 2012, luận văn thạc sỹ của Lê Thị Nga với đề tài “Khảo sát ca
dao - dân ca người Việt lưu truyền ở Quảng Ninh” đã khảo sát diện mạo ca
dao - dân ca người Việt trên phương diện ngôn từ (nội dung, nghệ thuật
biểu hiện) và trên phương diện diễn xướng, nghiên cứu sự gắn bó mật thiết
với chức năng thực hành - sinh hoạt của một số hình thức dân ca tiêu biểu.
Bên cạnh đó, còn rất nhiều các bài báo viết về ca dao vùng mỏ và ca
dao vùng biển ở Quảng Ninh. Trên tạp chí Than - Khoáng sản vào ngày
11/11/2014, nhân kỉ niệm 78 năm ngày truyền thống Công nhân Vùng mỏ
- truyền thống ngành than (12/11/1936 12/11/2014) đăng bài “Từ ca dao vùng mỏ nghĩ về thợ mỏ ngày xưa”
nhằm ôn lại cuộc sống của công nhân và giới thiệu về ca dao vùng mỏ trước
Cách mạng.
“Ca dao vùng mỏ là “mỏ đá quý” mà hiện vẫn chưa được khai thác
nhiều…” là
tiêu đề bài báo của tác giả Huỳnh Đăng đăng trên báo điện tử Báo Quảng
Ninh ngày
13/12/2015. Bài báo là cuộc trò chuyện xung quanh công trình nghiên
cứu của ông Lê Văn Lạo - một lương y nhưng lại say mê khảo cứu văn hóa
dân gian Quảng Ninh, đặc biệt là về công nhân vùng mỏ qua ca dao nơi
đây.
Tiếp theo, bài “Ca dao vùng mỏ trước Cách mạng: Giá trị văn hóa
phi vật thể quý báu của Quảng Ninh” của nhà văn Vũ Thảo Ngọc in trên
báo điện tử Báo Quảng Ninh ngày 20/12/2015 đã giới thiệu lịch sử sưu tầm
các bài ca dao vùng mỏ từ những tư liệu đầu tiên cho đến cuốn “Ca dao
vùng mỏ” xuất bản năm 2010 là cuốn sách hoàn thiện nhất. Đồng thời, tác

9



giả còn khẳng định giá trị của ca dao vùng mỏ trước Cách mạng đối với lịch
sử và với văn hóa dân gian Quảng Ninh.

10


Cũng trên báo điện tử Quảng Ninh, trang “Văn hóa Đất và Người
Quảng Ninh”
tác giả Hoàng Long có bài viết “Người đi gom những câu ca trên vịnh Hạ
Long” ngày
12/ 2/ 2016.

Bài báo ghi lại cuộc trò chuyện với nhà nghiên cứu Tống

Khắc Hài khi biết tin công trình nghiên cứu, sưu tầm “Ca dao - dân ca của
dân chài trên Vịnh Hạ Long” mà ông là chủ biên đã được trao giải nhì Giải
thưởng Văn nghệ dân gian Việt Nam năm 2015. Bản thảo của cuốn sách
gồm hai phần: phần đầu giới thiệu những nét đặc sắc về nội dung, nghệ
thuật, nguồn gốc xuất xứ v.v.. trong ca dao, dân ca của dân chài Hạ Long
như một nét đặc trưng chỉ riêng có ở đây. Phần thứ hai là tập hợp những
câu ca dao, dân ca, hát chèo đường và hát đám cưới… của dân chài trên
Vịnh Hạ Long do ông cùng những cộng sự sưu tầm từ năm 1965 đến nay.
Ông Hài nói: “Kho tàng ca dao, dân ca làng chài trên Vịnh Hạ Long rất
lớn, rất đồ sộ. Những gì đã in thành sách còn quá ít, quá nhỏ nhoi. Vậy mà
trong xu thế đô thị hoá hiện nay, nếu không tổ chức sưu tầm, gom nhặt
nhanh thì chẳng còn cơ hội nào nữa! Những câu ca dao, dân ca của người
dân ở các làng chài tích luỹ từ bao đời nay sẽ “theo” người già về với cội
nguồn mất thôi!” “Ca dao, dân ca thợ mỏ nặng về phản ánh hiện thực
thống khổ của người thợ dưới ách áp bức bóc lột của chủ mỏ; còn ca dao,
dân ca của dân chài trên Vịnh Hạ Long thì thiên về phản ánh khát vọng

chinh phục thiên nhiên, tình yêu lứa đôi v.v.. một cách hồn hậu. Chính đây
là cái vốn quý đã góp phần làm cho “hòn ngọc” Hạ Long càng trở nên
lung linh hơn!”. Hội Văn nghệ dân gian Quảng Ninh đang trong quá trình
thực hiện việc in ấn và phát hành cuốn sách “Ca dao dân ca của dân chài
trên Vịnh Hạ Long”.
Năm 2016, Nhà xuất bản Lao Động cho phát hành cuốn “Một số
loại hình ca dao, dân ca ở Quảng Ninh” do nhà báo Phạm Văn Học sưu
tầm, nghiên cứu. Cuốn sách tập hợp, tuyển chọn những bài viết của tác
giả đã đăng trên Báo Quảng Ninh về một số loại hình ca dao, dân ca
thuộc lĩnh vực Văn học dân gian Quảng Ninh như: Ca dao Vùng mỏ, hát
Soóng cọ của người dân tộc Sán Chỉ, hát giao duyên trên Vịnh Hạ Long
của dân chài, hát Đúm ở Hà Nam (Quảng Yên), hát Nhà tơ - Hát múa cửa
đình ở các huyện miền Đông, hát Then của người Tày, há t Sán cô của

11


người Dao... Ở mỗi bài viết, tác giả đã có những nhận xét, đánh giá tương
đối xác đáng về đặc điểm nội dung, nghệ thuật nổi trội của mỗi loại hình
ca dao, dân ca ở

12


Quảng Ninh, những kiến nghị nhằm bảo tồn, phát huy giá trị của chúng
trong thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi những thiếu sót
trong quá trình nghiên cứu.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên là những chỉ dẫn quý báu,
định hướng cho chúng tôi có cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn, sâu sắc hơn
về kho tàng ca dao Quảng Ninh. Tuy nhiên, những bài viết trên mới chỉ

nghiên cứu một vài phương diện về nội dung, nghệ thuật hay môi trường
diễn xướng trên từng mảng ca dao riêng lẻ. Từ những lí do đó, chúng tôi
chọn đề tài: “Nhân vật và đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh”
nhằm tiếp bước quá trình tìm hiểu về ca dao Quảng Ninh, đặc biệt là ca
dao vùng biển và vùng mỏ, đi sâu vào khám phá, phân tích tâm trạng của
nhân vật và đối tượng mà các bài ca dao hướng tới để hiểu thêm về cuộc
sống vật chất và tinh thần của người lao động xưa.
3. Đối tượng
nghiên cứu



mục

tiêu

3.1. Đối tượng nghiên
cứu
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn này là ca dao Quảng Ninh.
Trong đó, chúng tôi tập trung vào nghiên cứu:
- Nhân vật trữ tình trong ca dao Quảng Ninh
- Đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh
3.2.
Mục
nghiên cứu

tiêu

Luận văn nhằm mục đích nghiên cứu, tìm hiểu hai hình tượng nghệ
thuật đặc trưng của ca dao Quảng Ninh, khám phá những giá trị thẩm mĩ

tinh túy trong tâm hồn, tình cảm, những cung bậc cảm xúc, diễn biến tâm
trạng… của người dân lao động.
Thông qua việc sưu tầm, tìm hiểu, nghiên cứu về các văn bản ca dao
ở Quảng Ninh, luận văn sẽ làm sống lại hiện thực khách quan về cuộc sống
và tâm tư, tình cảm của ông cha ta ngày trước gửi gắm trong các bài ca
dao. Từ đó góp phần kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giúp cho con người
thời nay không quên lịch sử, nguồn cội của quê hương mình, có ý thức giữ
gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa nói chung và văn học dân
gian nói riêng thông qua các bài ca dao do nhân dân lao động xưa sáng

13


tác, làm phong phú hơn vốn hiểu biết và bồi dưỡng tâm hồn thông qua các
bài ca dao trữ tình mượt mà, đằm thắm.

14


Một trong những mục tiêu nữa mà luận văn muốn hướng tới là dùng
kết quả sưu tầm, nghiên cứu để ứng dụng vào việc giảng dạy trong chương
trình Ngữ văn địa phương ở các đơn vị trường trung học cơ sở trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ của đề tài, trước tiên cần tìm hiểu và nắm vững
những vấn đề lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài làm nền tảng khoa
học cho việc nghiên cứu. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến các điều kiện tự
nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội và đời sống văn hóa của nhân dân sống ở
vùng mỏ và vùng ven biển Quảng Ninh bởi đó là những yếu tố quan trọng

thúc đẩy sự phát triển của văn học dân gian, trong đó có ca dao từ khi ra
đời cho đến ngày nay ở mảnh đất vùng ven biển Đông Bắc của Tổ quốc.
Tập hợp các bài ca dao trong những cuốn sách sưu tầm về ca dao
Quảng Ninh làm có sở triển khai đề tài luận văn.
Ngoài ra, trong điều kiện có thể, chúng tôi còn đi điền dã để sưu tầm
thêm những bài ca dao đang được lưu truyền trong đời sống dân gian ở
tỉnh Quảng Ninh.
Trên cơ sở hệ thống những văn bản, tác phẩm đã được tập hợp, sưu
tầm, chúng tôi khảo sát, phân loại, phân tích để từ đó rút ra những giá trị
cơ bản về nội dung, nghệ thuật được phản ánh thông qua tâm trạng của
nhân vật và đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điền dã văn học dân gian: Chúng tôi đi thực tế về các
phường, xã, thu thập thêm những bài ca dao còn lưu truyền trong nhân
dân, tìm hiểu về đời sống văn hóa của người dân Quảng Ninh từ cổ truyền
đến hiện đại để hiểu sâu sắc hơn về văn hóa, sức sống của văn học dân
gian, trong đó có ca dao đối với con người nơi đây.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Dựa trên cơ sở đi thực tế thu
thập tài liệu và nghiên cứu các văn bản hiện có, chúng tôi phối hợp với một
số phương pháp sử học, địa lí học, dân tộc học... để nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này giúp người nghiên cứu
sau khi đọc, sưu tầm tác phẩm sẽ thống kê, xác định số lượng, tần số xuất
hiện của nhân vật và đối tượng trữ tình trong các bài ca dao để có được sự
phân loại hợp lí nhất.

15


- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ kết quả thống kê, phân loại ở
trên, phương pháp phân tích, tổng hợp sẽ giúp chúng tôi đưa ra những lời

nhận xét, đánh giá, làm nổi bật sự phong phú, đa dạng trong đời sống tâm
hồn của các nhân vật thông qua diễn biến tâm trạng của của nhân vật và
đối tượng trữ tình trong các bài ca dao.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Trong quá trình phân tích, tổng
hợp chúng tôi cố gắng so sánh, đối chiếu với các thể loại văn học dân gian
khác ở Quảng Ninh và ca dao ở các vùng miền khác nhằm làm rõ những
nét tương đồng hay dị biệt trong những trường hợp cần thiết.
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Phạm vi tư liệu nghiên cứu
Tư liệu nghiên cứu chủ yếu ở các bài ca dao trong các cuốn sách:
1. Tống Khắc Hài (chủ biên) (2010), Ca dao vùng mỏ Quảng Ninh,
Hội văn nghệ dân gian Quảng Ninh, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng
sản Việt Nam.
2. Vũ Thị Gái (2007), Ca dao - Dân ca vùng biển Quảng Ninh, Sở
Văn hóa thông tin Quảng Ninh.
3. Thu thập thêm những bài ca dao về vùng biển và vùng mỏ còn
lưu truyền trong dân gian mà các tác giả chưa đưa vào tác phẩm hiện có.
5.2. Phạm vi vấn đề nghiên cứu
Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi tập trung đi sâu vào việc tìm
hiểu, hệ thống hóa nhân vật và đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh.
Phạm vi khảo cứu chính là ca dao vùng biển và vùng mỏ Quảng Ninh.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lí luận và thực tế liên quan đến đề tài
Chương 2. Nhân vật trữ tình trong ca dao Quảng Ninh
Chương 3. Đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối hệ thống, toàn diện về
hai hình tượng nghệ thuật quan trọng trong thể loại ca dao ở Quảng Ninh một vùng miền có truyền thống văn hóa, văn học dân gian.


16


Nghiên cứu về nhân vật và đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng
Ninh giúp người ta hiểu rõ hơn về đời sống, những tâm tư, tình cảm, khát
vọng, ước muốn của nhân dân lao động xưa, đặc biệt là những người dân
sống ở vùng mỏ và ven biển. Khơi dậy truyền thống yêu quê hương đất
nước, trân trọng quá khứ của quê hương và có ý thức giữ gìn, trân trọng
hiện tại.
Cung cấp thêm một tài liệu thiết thực cho nhà trường THCS tại địa
phương
Quảng Ninh giảng dạy.
Góp phần giữ gìn, phát huy vốn văn hóa, văn học dân gian truyền
thống của quê hương.

17


Chương
1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Để hiểu được nguồn cội sản sinh ra ca dao Quảng Ninh, trước hết
phải nắm được một cách khái quát về vùng đất mỏ này cũng như hiểu được
một số khái niệm cơ bản có liên quan đến nội dung nghiên cứu trong luận
văn.
1.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, đời sống văn
hóa ở Quảng
Ninh
1.1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên

Quảng Ninh là một tỉnh ven biển, nằm ở địa đầu phía Đông Bắc. Nơi
đây phần lớn là đồi núi nhưng do kinh tế đặc biệt phát triển và là một cực
của tam giác kinh tế nên Quảng Ninh được xếp vào nhóm các tỉnh đồng
bằng sông Hồng, thuộc vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ. Với toạ độ địa lý
khoảng 106 độ 26' đến 108 độ 31' kinh độ Đông và từ 20 độ 40' đến 21 độ
40' vĩ độ Bắc, tỉnh Quảng Ninh có dáng một con cá sấu nằm chếch theo
hướng Đông Bắc - Tây Nam. Phía Đông hướng ra phía Vịnh Bắc Bộ; phía
Tây Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang; phía Tây Nam giáp tỉnh Hải Dương
và thành phố Hải Phòng; phía Bắc giáp huyện Phòng Thành và thị trấn
Đông Hưng (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) với cửa khẩu Móng Cái và Trinh
Tường.
Diện tích toàn tỉnh Quảng Ninh là 8.239,243 km2. Trong đó diện tích
đất liền là 5.938 km2 (chiếm 87%) còn vùng đảo, vịnh, biển (nội thuỷ) là
2.448,853 km2 (chiếm 13%). Riêng các đảo có tổng diện tích là 619,913
km2 với hơn 2000 hòn đảo (chiếm 2/3 số đảo cả nước) đã liên kết lại thành
tuyến dài 200km theo hướng vòng cung, tạo thành bức tường vững chãi
chống xâm lược. Trong sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” đã miêu tả vùng
đất này “Lấy núi làm thành, chiếm chỗ cao, giữ chỗ hiểm, núi che sau
lưng, biển bọc quanh mình, thế đất hẻo lánh mà ổn định, trong vững,
ngoài kín. Quả thật là nơi hình thẳng của nước Nam”. [21]
Với vị trí địa lý đắc địa như trên cùng kiến tạo địa hình tự nhiên, có
cả núi cao (chiếm 80% diện tích đất đai) và sông suối (có khoảng 30 sông

18


suối) đã chia Quảng Ninh thành 3 vùng: vùng núi gồm những dãy núi có
độ cao từ 900 - 1100m với hướng chủ đạo là Đông Bắc - Tây Nam; vùng
trung du và đồng bằng ven biển - nơi được bồi đắp phù sau màu mỡ quanh
năm từ các con sông; vùng biển và hải đảo. Ba tiểu vùng


19


×