Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.36 KB, 80 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế, ngành tài chính
– ngân hàng là một trong những ngành có bước phát triển mạnh mẽ nhất. Đặc biệt là
khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế
giới WTO thì lĩnh vực ngân hàng lại càng trở nên nóng hơn bao giờ hết. Cùng với
sức ép từ sự gia nhập của các tổ chức tín dụng nước ngoài vòa thị trường, sự cạnh
tranh giữa các ngân hàng thương mại trong nước cũng ngày càng trở nên gay gắt
hơn. Điều đó đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có những thay đổi phù hợp, tự hoàn thiện
mình.
Ngân hàng thương mại là một trong những trung gian tài chính quan trọng
nhất của nền kinh tế, đóng vai trò đặc biệt thức đẩy nển kinh tế phát triển. Là nơi
tham gia tích cực vào hoạt động kinh doanh mặt hàng đặc biệt đó là tiền tệ. Đó là
việc ngân hàng thương mại tích cực huy động vốn nhàn rỗi từ nền kinh tế để cho
vay phát triển sản xuất và tiêu dùng.
Mục đích chính của ngân hàng là an toàn gắn liền với tăng trưởng. Nhưng để
có thể hoạt động một cách an toàn thì bất kỳ một ngân hàng nào cũng cần phải có
các biện pháp hạn chế rủi ro đem lại an toàn cao cho hoạt động của mình. Vấn đề
đặt ra ở đây là làm sao hạn chế được rủi ro cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng
trong điều kiện để tiến tới công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì việc gia tăng
số lượng các dự án đầu tư là điều tất yếu. Muốn vậy thì những dự án này phải đảm
bảo chất lượng, tức là phải làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, trong đó có việc lập,
thẩm định và phê duyệt dự án. Chính vì vậy, vai trò to lớn của công tác thẩm định
tín dụng dự án đầu tư, đặc biệt là thẩm định tài chính dự án đầu tư là không thể phủ
nhận được.
Hơn nữa, một yêu cầu có tính nguyên tắc đối với Ngân hàng trong hoạt động
đầu tư tín dụng là phải xem xét, lựa chọn những dự án đầu tư thực sự có hiệu quả
vừa mang lại lợi ích cho nền kinh tế, vừa phải đảm bảo lợi nhuận Ngân hàng, đồng


thời hạn chế thấp nhất rủi ro và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Công tác
thẩm định dự án đầu tư là công cụ đắc lực giúp các Ngân hàng thực hiện yêu cầu
này.
Với ý nghĩa đó việc thẩm định dự án đầu tư góp phần cực kỳ quan trọng đối
với sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thẩm định tài chính dự án,
trong quá trình thực tập tại Sở giao dịch I BIDV em đã tiến hành nghiên cứu và đề
ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án.
Những nghiên cứu đó được trình bày trong chuyên đề: “Nâng cao chất lượng công
tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và
phát triển Việt Nam”
Đề tài được nghiên cứu hoàn thiện ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo gồm có các nội dung sau:
Chương I: Những lý luận cơ bản về chất lượng công tác thẩm định dự án
đầu tư của Ngân hàng thương mại

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

1


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

Chương II: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở
giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự
án tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
Do giới hạn về trình độ, kinh nghiệm và thời gian tìm hiểu thực tế, khóa luận của

em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, đóng góp ý
kiến và chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo và các anh, chị cán bộ tại Sở giao dịch I để bài
viết thêm hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo: TS. Lê
Hương Lan và các anh chị trong Phòng Quan hệ khách hàng 1 ngân hàng Đầu tư và
phát triển Việt Nam đã giúp em hoàn thành bài viết này.
Em xin chân thành cảm ơn!

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

2


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH
DỰ ÁN ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển
của nền sản xuất hàng hoá: Các ngân hàng thương mại xuất hiện trong nền kinh tế
với tư cách là các nhà tổ chức trung gian, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế có
dư thừa và trên cơ sở đó cấp tín dụng cho các đơn vị kinh tế có nhu cầu tức là luân
chuyển vốn một cách gián tiếp. Hệ thống ngân hàng thương mại có phạm vi hoạt
động rộng rãi vì nó cung cấp các dịch vụ tài chính cho tất cả các lĩnh vực của nền
kinh tế và các tầng lớp dân cư. Tuỳ theo cách tiếp cận mà có các quan điểm khác

nhau về ngân hàng thương mại, điều đó còn phụ thuộc vào tính chất và mục tiêu của
nó trên thị trường tài chính của từng nước.
 Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp: Một doanh nghiệp đặc
biệt – hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng.
 Theo quan điểm của các nhà kinh tế Hoa Kỳ.
Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ
tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
 Theo quan điểm của các nhà kinh tế Pháp.
Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường
xuyên nhận được của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số
tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài
chính.
 Theo quan điểm của các nhà kinh tế Việt Nam.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức mà hoạt động chủ yếu và thường
xuyên là nhận tiền gửi, trên nguyên tắc hoàn trả, tiến hành cho vay, chiết khấu và
làm các phương tiện thanh toán.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về ngân hàng thương mại, nhưng tựu
chung lại có thể hiểu tổng quát: Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế có tư
cách pháp nhân hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chính là
huy động tiền gửi dưới các hình thức khác nhau của khách hàng, trên cơ sở nguồn
vốn huy động này và vốn chủ sở hữu của ngân hàng để thực hiện các nghiệp vụ cho
vay, đầu tư, chiết khấu đồng thời thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, môi giới, tư
vấn và một số dịch vụ khác cho các chủ thể trong nền kinh tế.
Theo Pháp lệnh ngân hàng ngày 23/05/1990 của hội đồng Nhà nước Việt
Nam thì ngân hàng được định nghĩa: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh
tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết
khấu và làm phương tiện thanh toán.


Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

3


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

1.1.1.2. Các hoạt động của ngân hàng thương mại
 Các hoạt động truyền thống của ngân hàng
- Thực hiện trao đổi ngoại tệ: Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ
ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà ngân hàng đứng ra
mua bán một loại ngoại tệ này, chẳng hạn USD lấy một loại tiền khác như EUR và
hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi đó rất quan trọng đối với khách du lịch vì họ sẽ cảm
thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc gia mà họ
đến. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân
hàng lớn nhất thực hiện vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời
yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
- Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại: Ngay từ thời kỳ đầu, các
ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân
địa phương, những người bán các khoản nợ của các khách hàng cho ngân hàng để
lấy tiền mặt. Đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực
tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn
phòng và thiết bị sản xuất.
- Nhận tiền gửi: Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân
hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những
nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng – một quỹ
sinh lợi được gửi tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần, nhiều tháng,
nhiều năm, đôi khi được hưởng mức lãi suất tương đối cao.

- Bảo quản vật có giá: Ngay từ thời trung cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực
hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản.
Một điều hấp dẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng lý phát cho khách hàng có
thể được lưu hành như tiền - đó là hình thức đầu tiên của séc, thẻ tín dụng. Ngày
nay, nghiệp vụ bảo quản vật có giá cho khách hàng thường do phòng “Bảo quản”
thực hiện.
- Tài trợ các hoạt động của chính phủ; trong thời kỳ trung cổ và những năm
đầu của cách mạng công nghiệp, khả năng huy động và cho vay khối lượng lớn của
ngân hàng đã thành trọng tâm chú ý của các chính phủ Âu-Mỹ. Thông thường, ngân
hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải mua trái phiếu chính
phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.
- Cung cấp các tài khoản giao dịch: Cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu
và Châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một
dịch vụ mới quan trong nhất được triển khai trogn thời kỳ này là tài khoản tiền gửi
giao dịch – một tài khoản cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua
hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một
trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng bởi vì nó cải
thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh
trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn.
- Cung cấp dịch vụ ủy thác: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện
quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương
mại. Theo đó, ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô vốn mà

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

4


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


Khoa Ngân hàng-Tài chính

họ quản lý. Chức năng quản lý tài sản này được gọi là dịch vụ ủy thác. Hầu hết các
ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ ủy thác thông thường cho cá nhân, hộ
gia đình và ủy thác thương mại cho các doanh nghiệp.
Thông qua ủy thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các khoản tiền
để cho con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khoản tiền đó cho đến khi khách
hàng cần. Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai trò là người được ủy thác
trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản,
bảo quản các tài sản thừa kế. Trong phòng Ủy thác thương mại, ngân hàng quản lý
danh mục đầu tư chứng khoán và ké hoạch tiền lương cho các công ty kinh doanh.
Ngân hàng đóng vai trò như những người đại lý cho công ty trong các hoạt động
phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Điều này đòi hỏi phòng Ủy thác phải trả lãi hoặc cổ
tức cho chứng khoán của công ty, thu hồi lại các chứng khoán đến hạn bằng cách
thanh toán toàn bộ cho những người nắm giữ chứng khoán.
 Các dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây
- Cho vay tiêu dùng: Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực
cho vay với các cá nhân, hộ gia đình vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói
chung có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở
nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ này, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào
tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Và rồi, sự
cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng
phải hướng tới người tiêu dùng như một khách hàng trung thành tiềm năng. Cho tới
những năm 1920 và 1930, nhiều ngân hàng lớn do Citicorp và Bank of America dẫn
đầu đã thành lập những phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới
thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng có mức
tăng trưởng nhanh nhất. Mặc dù vậy, tốc độ tăng trưởng gần đây đã chậm lại do
cạnh tranh về tín dụng tiêu dùng ngày càng trở nên gay gắt trong khi đó nền kinh tế
đã phát triển chậm lại. Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ
yếu của ngân hàng và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất.

- Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực
hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày
nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế
hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội thị trường trong nước và
ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ.
- Quản lý tiền mặt: Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng, một
số dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có lợi ích với các khách hàng. Một
trong những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng đồng
ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần
thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho
đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Trong khi các ngân hàng có xu
hướng chuyên môn hóa vào dịch vụ quản lý tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có
một xu hướng đang gia tăng về cung cấp các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng.
Sở dĩ khuynh hướng này đang gia lan rộng là do các công ty môi giới chứng khoán,

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

5


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

các tập đoàn tài chính khác cung cấp cho người tiêu dùng tài khoản môi giới với
hàng loạt dịch vụ tài chính có liên quan.
- Dịch vụ thuê mua thiết bị: Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng
kinh doanh lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê
mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đầu các qui định
yêu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê đồng thời

phải chịu chi phí sửa chữa và thuế. Năm 1987, quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu cho phép
ngân hàng quốc gia sở hữu ít nhất một số tài sản cho thuê khi hợp đồng thuê mua đã
hêt hạn. Điều đó có lợi cho các ngân hàng cũng như khách hàng bởi vì với tư cách
là người chủ thực sự của tài sản cho thuê, ngân hàng có thể khấu hao cúng nhằm
làm tăng lợi ích về thuế.
- Cho vay tài trợ dự án: Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong
việc tài trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong ngành công nghệ
cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao nên chúng thường được
thực hiện qua một công ty đầu tư, là thành viên cảu công ty sở hữu ngân hàng, cùng
với sự tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro.
- Bán các dịch vụ bảo hiểm: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bảo hiểm
tín dụng cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc trả trong trường hợp khách hàng vay
vốn bị chết hay tàn phế. Hiện nay, ngân thường bảo hiểm cho khách hàng thông qua
các liên doanh hoặc các thỏa thuận đại lý kinh doanh độc quyền theo đó một công ty
bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại hành lang của ngân hàng và ngân
hàng sẽ nhận một phần thu nhập từ dịch vụ ở đó.
- Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Phòng Ủy thác của ngân hàng rất năng động
trong việc quản lý kê hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao
động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế.
Ngân hàng cũng bán kế hoạch tiền gửi hưu trí cho các nhân và giữ nguồn tiền gửi
cho đến khi người sở hữu các kê hoạch này cần đến.
- Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Trên thị trường tài
chính hiện nay nhiều ngân hàng đang phấn đấu trở thành bách hóa tài chính thực sự,
cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép thỏa mãn mọi nhu cầu tại một địa
điểm. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch
vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hộ mua cổ phiếu, trái phiếu
và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán.
- Cung cấp dịch vụ tương hỗ và trợ cấp: Do ngân hàng cung cấp các tài
khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng về sử
dụng cái gọi là sản phẩm đầu tư đặc biệt là các khoản của quỹ tương hỗ và hợp

đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển vọng thu nhập cao hơn tài khoản tiền
gửi nhưng cũng nhiều rủi ro hơn. Hợp đồng trợ cấp bao gồm các kế hoạch tiết kiệm
dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ
một ngày nhất định trong tương lai (có thể ngày nghỉ hưu). Ngược lại quỹ tương hỗ
bao gồm các chương trình đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm vào
việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ.

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

6


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

- Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn: Ngân hàng
ngày nay theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp các dịch vụ
ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn cho các tập đoàn lớn. Những dịch vụ này
bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại công ty, mua bán chứng khoán
cho khách hàng, cung cấp dịch vụ marketing chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro
để bảo vệ khách hàng. Các ngân hàng cũng dấn sau vào thị trường đảm, hỗ trợ các
khoản nợ do chính phủ và công ty phát hành để những khách hàng này có thể vay
vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do hay các tổ chức cho vay khác.
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại
Trong khi nhiều người tin rằng các ngân hàng chỉ đóng một vai trò rất nhỏ
trong nền kinh tế là nhận tiền gửi và cho vay. Song trên thực tế, ngân hàng hiện đã
phải thực hiện nhiều vai trò mới có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu
cầu của xã hội. Các ngân hàng ngày nay có các vai trò cơ bản sau:
 Vai trò trung gian: Chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu từ hộ gia đình

thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần khác để đầu
tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác.
Như chúng ta đã biết, ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính tương tự
như các quỹ tương hỗ, các công ty bảo hiểm, các tổ chức kinh doanh dịch vụ tài
chính khác. Thuật ngữ trung gian tài chính đơn giảm là một khái niệm dùng để chỉ
những công việc kinh doanh đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức
trong nền kinh tế: (1) Các cá nhân, tổ chức thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu
dùng và đầu tư vượt qua thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn từ
bên ngoài thông qua việc vay mượn. (2) Các cá nhân, tổ chức thặng dư trong chi
tiêu tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ
và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Các ngân hàng thực hiện nhiệm vụ không thê
thiếu là làm trugn gian giữa hai nhóm nêu trên, cung cấp những dịch vụ tài chính
thuận lợi cho nhóm “thặng dư” để thu hút vốn và cho vay số vốn đó đối với nhóm
“thâm hụt”.
Hoạt động trung gian của các ngân hàng sẽ diễn ra: (1) Nếu có một mức
chênh lệch dương giữa thu nhập dự tính từ các khoản tín dụng đối với nhóm “thâm
hụt” và lãi suất dự tính trên các khoản vay từ nhóm “thặng dư”. (2) Nếu có một
tương quan dương giữa thu nhập trên khoản tín dụng và lãi suất phải trả cho các
khoản tiền gửi và các nguồn vốn vay khác từ nhóm “thặng dư”. Nếu quan hệ giữa
lãi suất cho vay và chi phí đi vay là tương quan dương thì nó sẽ giảm tính bất trắc
của lợi nhuận dự tính, khuyến khích ngân hàng huy động vốn để tiếp tục cho vay.
 Vai trò thanh toán: Thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc
mua hàng hóa và dịch vụ (bằng cách phát hành sec, cung cấp mạng lưới thanh toán
điện tử, kết nối các quỹ và phân phối tiền mặt).
Ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và
cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài
khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền
gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khác thu khác theo lệnh của họ.

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F


7


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

Việc ngân hàng thương mại thực hiện chức năng thanh toán có ý nghĩa rất to
lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, các ngân hàng thương mại cung
cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy
nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng,…Tùy theo nhu cầu, khách hàng
có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh
tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh
toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện
các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí,
thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này mô hình chung đã thúc
đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tố độ lưu chuyển vốn, từ đó
góp phần phát triển kinh tế. Đồng thời việc thanh toán không dùng tiền mặt qua
ngân hàng đã giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí
lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn, đếm nhận, bảo quản,…
Ngân hàng thương mại thu phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn
cho vạy của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng.
 Vai trò bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất khả
năng thanh toán.
 Vai trò đại lý: Thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát
hành hoặc chuộc lại chứng khoán.
 Vai trò thực hiện chính sách: Thực hiện các chính sách kinh tế của Chính
phủ góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội.
1.2. Thẩm định tài chính dự án đầu tư tại các ngân hàng thương mại

1.2.1. Lý thuyết chung về thẩm định tài chính dự án đầu tư
1.2.1.1. Đầu tư và dự án đầu tư
a. Đầu tư
Thuật ngữ đầu tư có thể được hiểu đồng nghĩa với sự bỏ ra, sự hy sinh cái gì
đó để tác động đến kết quả trong tương lai. Xuất phát nguồn gốc của đầu tư, Paul
Samuelson chỉ ra rằng: "Đầu tư là sự hy sinh tiêu dùng hiện tại để tăng tiêu dùng
cho tương lai". Các nhà kinh tế vĩ mô lại cho rằng: "Đầu tư là đưa thêm một phần
sản phẩm cuối cùng vào kho tài sản vật chất sinh ra thu nhập của quốc gia hay thay
thế các tài sản vật chất đã hao mòn". Và David Begg cho rằng: "Đầu tư là việc các
hãng mua sắm tư liệu sản xuất mới". Theo định nghĩa chung nhất, đầu tư là việc sử
dụng các nguồn lực trong một thời gian dài nhằm mục đích thu về lợi nhuận hoặc
các lợi ích kinh tế xã hội.
Dưới góc độ nào đi nữa thì mọi hoạt động đầu tư đều phải sử dụng các nguồn
lực ban đầu. Các nguồn lực này được sử dụng theo mục đích của chủ đầu tư để tạo
mới, mở rộng hoặc nâng cao chất lượng hiện có của các tài sản tài chính (tiền
vốn…), tài sản vật chất (như nhà máy, đường xá…), tài sản trí tuệ (như trình độ văn
hoá, chuyên môn…) và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Mục đích của công
cuộc đầu tư là thu được những kết quả nhất định lớn hơn so với nguồn lực đã bỏ ra.
Hoạt động đầu tư được tiến hành trong mọi lĩnh vực hoạt động của nền kinh
tế quốc dân, nó không chỉ bó hẹp trong đầu tư tài sản vật chất và sức lao động mà

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

8


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính


còn tham gia cả đầu tư tài chính và đầu tư thương mại, với nhiều hình thức đa dạng
và phong phú.
Trong thực tế có nhiều hình thái biểu hiện cụ thể của đầu tư. Tùy theo từng
góc độ tiếp cận với những tiêu thức khác nhau người ta có thể có các cách phân chia
hoạt động đầu tư khác nhau. Một trong những tiêu thức thường được sử dụng đó là
tiêu thức quan hệ quản lý của chủ đầu tư.
Theo tiêu thức này, đầu tư được chia thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực
tiếp.
- Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn không trực tiếp
tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Chẳng
hạn như nhà đầu tư thựch iện hành vi mua các trái phiếu trên thị trường chứng
khoán thứ cấp. Trong trường hợp này, nhà đầu tư có thể được hưởng các lợi ích vật
chất (tiền lãi trái phiếu), lợi ích phi vật chất (quyền tiên mãi) nhưng không được
tham gia quản lý trực tiếp tài sản mà mình bỏ vốn đầu tư.
- Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham
gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực
tiếp lại bao gồm đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển.
+ Đầu tư dịch chuyển là một hình thức đầu tư trực tiếp trong đó việc bỏ vốn
là nhằm dịch chuyển quyền sở hữu giá trị của tài sản. Thực chất trong đầu tư dịch
chuyển không có sự gia tăng giá trị tài sản. Chẳng hạn như nhà đầu tư mua một số
lượng cổ phiếu với mức khống chế để có thể tham gia hộ đồng quản trị một công ty,
các trường hợp thôn tính, sáp nhập doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
+ Đầu tư phát triển là một hình thức của đầu tư trực tiếp. Hoạt động đầu tư
này nhằm duy trì và tạo năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh
hoạt đời sống của xã hội. Đây là hình thức trực tiếp tạo ra sản phẩm mới cho nền
kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ. Hình thức đầu tư này đóng vai trò rất
quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế tại mỗi quốc gia.
b. Dự án đầu tư
Theo quan điểm chung nhất, dự án đầu tư được hiểu là tài liệu tổng hợp,
phản ánh kết quả nghiên cứu cụ thể toàn bộ các vấn đề về thị trường, về kinh tế, về

kỹ thuật, về tài chính,… có liên quan, ảnh hưởng đến sự vận hành và tính sinh lời
của một công cuộc đầu tư.
 Dự án đầu tư được xem xét từ nhiều góc độ:
- Về mặt hình thức: Dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách
chi tiết, có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch nhằm đạt được
nhứng kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Xét trên góc độ quản lý: Dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng
vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế xã hộ trong một thời
gian dài.
- Trên góc độ kế hoạch hóa: Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch
chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế-xã hội,
làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Xét trên góc độ này, dự án đầu tư là

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

9


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

một hoạt đông kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hóa nền kinh tế
nói chung.
- Xét về mặt nội dung: Dự án đầu tư là tổng thể các hoạt động và chi phí cần
thiết, được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch sử thời gian và địa điểm xác
định để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm thực
hiện những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Ở Việt Nam, theo nghị định số 177/CP về điều lệ quản lý dự án đầu tư và xây
dựng, dự án đầu tư được định nghĩa như sau: “ Dự án đầu tư là một tập hợp những

đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định
nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng sản
phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian nhất định.”
1.2.1.2. Thẩm định tài chính dự án đầu tư
Các dự án đầu tư sau khi được soạn thảo và thiết kế xong dù được nghiên
cứu tính toán rất kỹ lưỡng và chi tiết thì chỉ mới qua bước khởi đầu. Để đánh giá
tính hợp lý, tính hiệu quả, tính khả thi của dự án và ra quyết định dự án có được
thực hiện hay không thì phải có một quá trình xem xét kiểm tra, đánh giá một cách
độc lập và tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Quá trình đó gọi là thẩm định dự
án. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về thẩm định tuỳ theo tính chất của công
cuộc đầu tư và chủ thể có thẩm quyền thẩm định, song đứng trên góc độ tổng quát
có thể định nghĩa như sau:
Thẩm định dự án đầu tư là quá trình một cơ quan chức năng (Nhà nước hoặc
tư nhân) thẩm tra, xem xét một cách khách quan, khoa học và toàn diện về các mặt
pháp lý, các nội dung cơ bản ảnh hưởng đến hiệu quả, tính khả thi, tính hiện thực của
dự án, để quyết định đầu tư hoặc cấp giấy phép về đầu tư hay quy định về đầu tư…
Thẩm định dự án đầu tư được tiến hành trên bốn phương diện chính, đó là:
thẩm định phương diện thị trường, thẩm định phương diện kỹ thuật, thẩm định
phương diện tài chính và thẩm định về phương diện lợi ích kinh tế xã hội.
Thẩm định dự án là một khâu quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị cho vay,
có ý nghĩa quyết định tới các giai đoạn sau của chu kỳ dự án. Vì vậy, kết quả của
thẩm định phải độc lập với tất cả những ý muốn chủ quan cho dù đến từ bất kỳ phía
nào. Mục đích của thẩm định dự án là nhằm phát hiện ngăn chặn những dự án xấu,
không bỏ sót các dự án tốt trong quy luật ngày càng khan hiếm các nguồn lực.
Thông qua thẩm định dự án Ngân hàng có được cái nhìn tổng quát nhất về
chủ đầu tư và về dự án. Về chủ đầu tư Ngân hàng đánh giá được năng lực pháp lý,
năng lực tài chính, trình độ, tình hình sản xuất kinh doanh hiện tại của chủ dự án.
Còn về dự án, Ngân hàng đánh giá một cách toàn diện một dự án về các mặt: kỹ
thuật, hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và phân phối xuất phát từ
quan điểm của nhà đầu tư, nhà tài trợ vốn hay quan điểm của cả nền kinh tế.

Tuy nhiên, đối với Ngân hàng thì thẩm định tài chính vẫn là mục tiêu quan
tâm hàng đầu. Bởi vì, trong khi tiến hành thẩm định dự án, Ngân hàng đặc biệt quan
tâm tới hiệu quả tài chính của dự án, nhất là thời gian và các nguồn dùng để trả nợ
cho Ngân hàng.

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

10


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

Vì vậy, có thể hiểu hoạt động thẩm định tài chính dự án như sau: Thẩm định
tài chính dự án là thẩm định các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả tài chính của dự án.
Hay nói cách khác, thẩm định tài chính là thẩm định tính khả thi về mặt tài chính
của dự án, nhu cầu vay vốn của dự án cũng như khả năng trả nợ và lãi vay của dự
án. Thẩm định về tài chính là hoạt động cốt lõi nhất đánh giá hiệu quả của dự án đối
với các chủ thể liên quan tới hoạt động đầu tư dự án.
Nội dung thẩm định tài chính dự án bao gồm thẩm định tài chính trong doanh
nghiệp (hoặc chủ đầu tư) và thẩm định tài chính đối với dự án đang được xem xét.
Thẩm định tài chính trong doanh nghiệp là việc căn cứ vào các văn bản, số liệu
về tình hình sản xuất và tài chính của doanh nghiệp như quyết toán tài chính, định kỳ
được duyệt, bảng tổng kết tài sản, báo cáo lỗ lãi, biên bản kiểm kê và trích nộp khấu
hao, các số liệu về tình hình tài chính khác để xây dựng được khả năng của doanh
nghiệp như: Vốn kinh doanh có đảm bảo và tăng trưởng hay không? Quản lý tài sản
(Tình hình sử dụng tài sản cố định, tài sản lưu động như thế nào? Tình hình máy móc,
nhà xưởng, thiết bị ra sao?) Phân tích hiệu qủa tài chính: xác định các hiệu qủa về tài
chính, khả năng thanh toán, hiệu qủa kinh doanh, tình hình thực hiện ngân sách.

Thẩm định tài chính đối với dự án đang được xem xét nhằm đánh giá khả
năng sinh lời để nhằm đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của dự án, thông qua việc
tổng hợp các biến số tài chính kĩ thuật đã được tính toán trong phần thẩm định trước
để đưa ra những số liệu đầu vào cho việc tính toán hiệu quả kinh tế xã hội.
1.2.2. Sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án đầu tư tại các ngân
hàng thương mại
Trong quá trình thẩm định dự án đầu tư, Ngân hàng phải thẩm định trên nhiều
phương diện khác nhau để làm sao có cái nhìn khách quan trước khi quyết định cho vay.
NHTM với tư cách là người cho vay, tài trợ cho dự án đầu tư đặc biệt quan tâm đến khía
cạnh thẩm định tài chính dự án, nó có ý nghĩa quyết định trong các nội dung thẩm định.
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, các khoản cho
vay thường chiếm 60% tài sản của ngân hàng và 65 - 70% lợi tức ngân hàng sinh ra từ các
hoạt động cho vay. Thành công của một ngân hàng tùy thuộc chủ yếu vào việc thực hiện
kế hoạch tín dụng và thành công tín dụng, xuất phát từ chính sách cho vay của ngân hàng.
Trong các hoạt động cho vay của ngân hàng thì cho vay theo dự án được ngân hàng đặc
biệt quan tâm vì nó đòi hỏi vốn lớn, thời hạn kéo dài và rủi ro cao nhưng lợi nhuận cao. Vô
số các rủi ro khác nhau khi cho vay nói chung và cho vay theo dự án nói riêng, xuất phát từ
nhiều yếu tố và có thể dẫn đến việc không chi trả được nợ khi đến hạn. Trong quá trình
cho vay, không phải bất cứ một doanh nghiệp nào cũng được ngân hàng đáp ứng,
ngân hàng chỉ cho vay khi đã biết chắc chắn vốn vay được sử dụng đúng mục đích,
mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và ngân hàng. Muốn vậy, ngân hàng sẽ yêu
cầu người xin vay lập và nộp cho ngân hàng dự án đầu tư. Trên cơ sở đó, cùng với
các nguồn thông tin khác ngân hàng sẽ tiến hành tổng hợp và thẩm định dự án của
chủ đầu tư một cách khách quan hơn. Do đó để quyết định có chấp nhận cho vay hay
không, ngân hàng cần phải coi trọng phân tích tín dụng nói chung và thẩm định tài chính
dự án nói riêng. Thông qua việc thẩm định này, ngân hàng có cái nhìn toàn diện về dự án

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

11



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

đánh giá về như cầu tổng vốn đầu tư, cơ cấu nguồn vốn và tình hình sử dụng nguồn vốn,
hiệu quả tài chính mà dự án mang lại cũng như khả năng trả nợ của dự án.
Với mục tiêu hoạt động là an toàn và sinh lời, do đó Ngân hàng chỉ cho vay đối với
các dự án có hiệu quả tài chính tức là dự án mang lại lợi nhuần và khả năng trả nợ thì ngân
hàng mới có thể thu hồi được gốc và lãi, khoản cho vay mới đảm bảo, Ngân hàng mới có
được khoản vay có chất lượng.
Tóm lại, đối với ngân hàng, công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư là rất
quan trọng, nó giúp cho ngân hàng ra quyết định có bỏ vốn đầu tư hay không? Nếu
đầu tư thì đầu tư như thế nào? Mức độ bỏ vốn là bao nhiêu? Điều này sẽ giúp ngân
hàng đạt được những chỉ tiêu về an toàn và hiệu quả trong sử dụng vốn, giảm thiểu
nợ quá hạn và nợ khó đòi, hạn chế những rủi ro có thể xảy đến với ngân hàng.
1.2.3. Quy trình thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại
Quy trình thẩm định tài chính dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động
đánh giá xem xét phân tích các chi phí và lợi ích tài chính dự toán của dự án. Lợi
ích tài chính dự toán của dự án được xem xét thông qua các dòng tiền thu và dòng
tiền chi dự toán. Thông qua lợi ích tài chính dự toán và qua các chỉ tiêu tài chính để
ngân hàng quyết định cho vay hay bác bỏ cho vay. Thông thường ngân hàng thương
mại thẩm định tài chính dự án theo quy trình sau:
Sơ đồ 1.1: Quy trình thẩm định tài chính dự án tại NHTM
Phân tích dự báo
về nhu cầu thị
trường

Phân tích đánh

giá về nhu cầu
sản xuất

Phân tích kế hoạch tài chính

Phân tích kế hoạch thu chi hàng năm

Tính dòng tiền thu chi hàng năm của dự án

Thẩm định hiệu quả tài chính

Chấp nhận hay bác bỏ quyết định cho vay
Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

12


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

1.2.4. Nội dung thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại
1.2.4.1. Xác định tổng mức vốn đầu tư
Đây là nội dung quan trọng đầu tiên cần xem xét khi tiến hành thẩm định tài
chính dự án. Tổng mức vốn đầu tư của dự án bao gồm toàn bộ số vốn cần thiết để
thiết lập và đưa dự án vào hoạt động, là cơ sở để lập kế hoạch và quản lý nguồn
vốn đầu tư , xác định hiệu quả đầu tư của dự án.
Theo tính chất các khoản chi phí, tổng mức vốn đầu tư của dự án được chia
ra thành các thành phần sau:
a. Chi phí cố định:

 Chi phí xây dựng: Chi phí xây dựng các công trình, hạng mục công trình
thuộc dự án, chi phí phá và dỡ các vật kiến trúc cũ; chi phí san lấp mặt bằng xây
dựng; chi phí xây dựng các công trình phụ trợ phục vụ cho thi công; nhà tạm tại
hiện trường để ở và điều hành thi công.
 Chi phí thiết bị: Chi phí mua sắm thiết bị công nghệ, chi phí đào tạo và
chuyển giao công nghệ, chi phí lắp đặt các thiết bị và thử nghiệm, chi phí mau sắm
các thiết bị vận chuyển.
 Chi phí quản lý dự án và chi phí khác: Các khoản chi phí này tuy không
trực tiếp tạo ra tài sản cố định nhưng là các chi phí gián tiếp hoặc có liên quan đến
việc tạo ra và vận hành khai thác tài sản đó để đạt được mục tiêu đầu tư. Chi phí này
bao gồm: Chi phí cho công tác điều tra khảo sát, lập và thẩm định dự án; chi phí
khởi công, đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư; thuê đất trong thời gian xây
dựng và chuyển quyền sử dụng đất; chi phí cho tư vấn khảo sát, thiết kế và thẩm
định thiết kế, tổng mức dự toán; chi phí thực hiện côgn tác đấu thầu; chi phí quản lý
dự án; chi phí đào tạo huấn luyện, thuê chuyên gia hướng dẫn vận hành; chi phí
nguyên vật liệu, năng lượng cho quá trình chạy thử… Các khoản chi phí này thường
được thu hồi đều trong một số năm đầu khi dự án đi vào hoạt động.
b. Vốn lưu động ban đầu: Gồm các chi phí để tạo ra các tài sản lưu động ban
đầu đảm bảo cho dự án có thể đi vào hoạt động theo các điều kiện kinh tế ký thuật
dự tính.
 Vốn sản xuất (tài sản lưu động sản xuất) là những tài sản dự trữ cho quá
tình sản xuất (nguyên, nhiên, vật liệu, công cụ, dụng cụ… đang dự trữ trong kho) và
tài sản trogn sản xuất (giá trị những sản phẩm dở dang).
 Vốn lưu thông (tài sản lưu động lưu thông) gồm tài sản dự trữ cho quá
trình lưu thông (thành phẩm, hàng hóa dự trữ trogn kho hay gửi bán) và tài sản
trogn quá trình lưu thông (vốn bằng tiền, các khoản phải thu).
 Vốn dự phòng: là chi phí dự phòng cho các khoản chi phí phát sinh khôgn
dự kiến trước được.
1.2.4.2. Xác định nguồn vốn, cơ cấu vốn, sự đảm bảo của nguồn vốn tài trợ
cho dự án và tiến độ bỏ vốn

Đối với một dự án thì các nguồn tài trợ cho dự án có thể do ngân sách cấp
phát, ngân hàng cho vay, góp vốn cổ phần, vốn liên doanh do các bên liên doanh
góp, vốn tự có hoặc vốn huy động từ các nguồn khác. Để đảm bảo cho tiến độ thực
hiện đầu tư của dự án, vừa để tránh ứ đọng vốn, các nguồn tài trợ nên được xem xét

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

13


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

không chỉ về mặt số lượng mà còn cả về thời điểm được tài trợ. Các nguồn vốn dự
kiến này phải được đảm bảo chắc chắn, sự đảm bảo này phải có cơ sở pháp lý và cơ
sở thực tế. Chẳng hạn nếu nguồn tài trợ này bằng văn bản sau khi các cơ quan này
đã ký vào hồ sơ thẩm định dự án. Nếu là vốn góp cổ phần hoặc liên doanh phải có
sự cam kết về tiến độ và số lượng vốn góp của các cổ động hoặc các bên liên doanh
được ghi trong điều lệ liên doanh. Nếu là vốn tự có thì phải có bản giải trình về tình
hình hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở 3 năm trước đây và hiện tại chứng tỏ
cơ sở đã, đang và sẽ tiếp tục hoạt động có hiệu quả, có tích luỹ và do đó đảm bảo có
vốn để thực hiện dự án.
Tiếp đó, phải so sánh nhu cầu về vốn với khả năng đảm bảo vốn cho dự án từ
các nguồn về số lượng và tiến độ. Nếu khả năng lớn hơn hoặc bằng nhu cầu thì dự
án được chấp nhận. Nếu khả năng nhỏ hơn nhu cầu thì phải giảm quy mô của dự án,
xem xét lại khía cạnh kỹ thuật để đảm bảo tính đồng bộ trong việc giảm quy mô
của dự án.
Sau khi đã xác định được các nguồn tài trợ cho dự án thì cần xác định cơ cấu
nguồn vốn cho dự án. Điều này có nghĩa là tính toán tỷ lệ từng nguồn chiếm trong

tổng mức vốn đầu tư dự kiến. Trên cơ sở nhu cầu vốn, tiến độ thực hiện của các
công việc đầu tư (trong phần phân tích kỹ thuật) và cơ cấu nguồn vốn, lập tiến độ
huy động vốn hàng năm đối với từng nguồn cụ thể. Tiến độ huy động vốn phải tính
tới lượng tiền cần thiết thực tế phải huy động hàng năm trong trường hợp có biến
động giá cả hoặc lạm phát.
1.2.4.3. Xác định chi phí sản xuất và giá thành____
Sau khi đã xác định được nguồn vốn cho dự án, ngân hàng tiếp tục xác định
tổng chi phí sản xuất và giá thành của sản phẩm dự kiến. Tổng doanh thu bao gồm
cho phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất. Chi phí sản xuất bao gồm các loại chi
phí vật chất, chi phí nhân công, chi phí quản lý, chi phí sử dụng vốn và khấu hao tài
sản cố định. Chi phí ngoài sản xuất bao gồm các loại như chi phí quảng cáo, chi phí
dự phòng lưu thông sản phẩm và các chi phí khác… Ngân hàng cần xác định giá
thành của từng loại sản phẩm, đánh giá các khoản mục chi phí tạo nên giá thành sản
phẩm cao hay thấp, có hợp lý hay không, so sánh với giá thành sản phẩm của các
loại sản phẩm tương tự trên thị trường và từ đó rút ra những kết luận cụ thể. Để tính
giá thành sản phẩm cần căn cứ vào tổng mức chi phí, mức chênh lệch giá, xác định
được các hao hụt ngoài dự kiến để tiến hành phân bổ cho số lượng thành phẩm một
cách hợp lý. Khi đó trong quá trình thẩm định cần chú ý tới toàn bộ chi phí để sản
xuất sản phẩm, các loại khấu hao (hữu hình và vô hình), kiểm tra chi phí nhân công,
phân bổ các chi phí lãi vay ngân hành, tính toán lại các mức thuế phải nộp, tránh
thừa thiếu hay áp dụng sai mức thuế.
1.2.4.4. Xác định doanh thu và lợi nhuận của dự án
Doanh thu của dự án là tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ thu được trong năm
dự kiến. Doanh thu của dự án được xác định trên cơ sở chi phí sản xuất giá bán
buôn sản phẩm dịch vụ của dự án. Cần chú ý tới các chỉ tiêu tổng sản lượng, tổng
doanh thu, lợi nhuận trước thuế, công suất hoạt động… Doanh thu cần được xác
định rõ từng nguồn dự kiến theo năm. Thông thường trong những năm đầu, hoạt

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F


14


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

động doanh thu đạt thấp hơn những năm sau ( khoảng 50 – 60%doanh thu khi ổn
định).
Lợi nhuận của dự án là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí sản xuất các sản
phẩm. Lợi nhuận của dự án mà người thẩm định quan tâm bao gồm lợi nhuận gộp,
lợi nhuận ròng trước thuế, lợi nhuận ròng sau thuế…
1.2.4.5. Xác định dòng tiền dự kiến
Dòng tiền ròng = Tổng các khoản thu trong kỳ - Chi phí trong kỳ
NCF
=
B
C
Trong đó, khoản thu trong kỳ (ký hiệu là B): nó có thể là doanh thu thuần
của các năm trong kỳ, giá trị thanh lý tài sản cố định ở các thời điểm trung gian
(khi các tài sản này hêt tuổi thọ quy định) và ở cuối đời dự án…
Các khoản chi trong kỳ (ký hiệu là C): nó có thể là chi phí vốn đầu tư ban
đầu để tạo ra tài sản cố định và tài sản lưu động ở thời điểm đầu và tạo ra tài sản cố
định ở các thời điểm trung gian, chi phí hàng năm của dự án (chi phí này không bao
gồm khấu hao)…
1.2.4.6. Tính toán chỉ tiêu chi phí sử dụng vốn của dự án
Để tính được các chỉ tiêu hiệu quả tài chính, đặc biệt là những chỉ tiêu hiệu
quả tài chính có liên quan đến tỷ suất chiết khấu, ta cần tính được chi phí sử dụng
vốn bình quân.
m


r

 I k .rk

k 1
m

 Ik

k 1

Trong đó:
Ik: là số vốn đầu tư của nguồn thứ k
rk: là lãi suất tương ứng của nguồn đó
m: là số nguồn vốn huy động được cho dự án
Tỷ suất chiết khấu r sẽ được dùng trong thẩm định tài chính dự án.
1.2.4.7. Xác định các chỉ tiêu phân tích tài chính dự án (hiệu quả đầu tư)
Trên thực tế có khá nhiều chỉ tiêu đánh giá dự án về mặt tài chính, song các
chỉ tiêu phổ biến và cơ bản nhất thường được dùng trong thẩm định tài chính dự án
gồm có:
 Giá trị hiện tại của thu nhập thuần – NPV (Net Present Value)
NPV là thu nhập ròng có được do thực hiện dự án tính ở thời điểm hiện tại.
Chỉ tiêu NPV cho phép ta đánh giá được một cách đầy đủ quy mô lãi của cả đời dự
án. Thu nhập thuần của dự án là thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi các khoản chi phí
của cả đời dự án. Với ý nghĩa như vậy, NPV được xem như là chỉ tiêu quan trọng
nhất để đánh giá và lựa chọn dự án. NPV được tính theo công thức sau:

Bi  C i
i 0 (1  r ) i

n

NPV  

- Đánh giá dự án theo chỉ tiêu này đòi hỏi phải tuân thủ một số nguyên tắc sau:

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

15


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

+ Chỉ chấp nhận các dự án có NPV > 0
+ Nếu lựa chọn dự án trong một tập hợp các dự án được chọn là dự án có
NPV lớn nhất.
- Chỉ tiêu NPV có các hạn chế sau:
+ Không thấy được lợi ích thu được từ một đồng vốn đầu tư.
+ Phụ thuộc vào cách lựa chọn tỷ suất triết khấu
+ Không áp dụng được trực tiếp để so sánh, lựa chọn các dự án có vòng đời
hay vốn đầu tư khác nhau.
 Hệ số hoàn vốn nội bộ IRR (Internal Rate of Returns)
Hệ số hoàn vốn nội bộ là mức lãi suất mà nếu dùng nó làm tỷ suất chiết khấu
để tính chuyển các khoản thu và các khoản chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện
tại, thì tổng thu sẽ cân bằng với tổng chi, hay nói cách khác là giá trị hiện tại của
thu nhập thuần của dự án sẽ bằng không. Đây là một chỉ tiêu cơ bản trong phân tích
tài chính dự án. Nó cho biết mức lãi suất mà dự án có thể đạt được. Dự án được lựa
chọn khi IRRda > MARR (Minimum Attractive Rate of Return). MARR được gọi là

mức lãi suất thấp nhất có thể chấp nhận được. Nó chủ yếu được tính trên cơ sở kinh
nghiệm của người chủ đầu tư hoặc ngân hàng thẩm định. IRRda được tính theo công
thức:
n
Bi
Ci


0
i 0 (1  r ) i
i 0 (1  r ) i
n



Ưu điểm: Có thể tính toán được mà không cần số liệu về tỷ suất chiết khấu.
Nhược điểm: không xác định được IRR trong trường hợp dòng tiền bị biến dạng,
thay đổi nhiều lần từ (-) sang (+) hoặc ngược lại, vì có rất nhiều đáp số khác nhau.
 Thời gian hoàn toàn vốn (Pay - back Period)
Thời gian hoàn vốn của dự án là thời gian cần thiết để dự án hoạt động thu
hồi đủ số vốn đầu tư ban đầu đã bỏ ra. Nó chính là khoảng thời gian cần thiết để
hoàn trả số vốn đầu tư ban đầu bằng các khoản lợi nhuận thuần hoặc tổng lợi nhuận
thuần và khấu hao thu hồi hàng năm.
Thời gian hoàn vốn có thể được tính theo hai cách: Thời gian hoàn vốn giản
đơn (không triết khấu) và thời gian hoàn vốn có chiết khấu.
Thời gian hoàn vốn giản đơn:
T

T


i 0

i 0

 Bi   C i 0

Chỉ tiêu này cho phép tính toán nhanh nhưng không xét đến thời giá của
đồng tiền nên không mang nhiều ý nghĩa thực tiễn.
Trong đó: T: là thời gian hoàn vốn chưa tính đến yếu tố thời gian của tiền.
Thời gian hoàn vốn có chiết khấu:
T
Bi
Ci


0
i 0 (1  r ) i
i 0 (1  r ) i
T



Trong đó: T là khoảng thời gian hoàn vốn có chiết khấu

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

16


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


Khoa Ngân hàng-Tài chính

Ưu điểm: Mang tính thực tế cao, là căn cứ để ra quyết định đầu tư, giảm
thiểu rủi ro vì dữ kiện trong những năm đầu của dự án bao giờ cũng đạt độ tin cậy
cao hơn.
Nhược điểm: Không cho biết thu nhập lớn hay nhỏ sau kỳ hoàn vốn, trong
thực tế đây cũng là mối quan tâm lớn của nhà đầu tư. Có những dự án thời gian đầu
mang lại thu nhập rất thấp nhưng triển vọng về lâu dài lại có thể tốt đẹp
 Điểm hoà vốn của dự án (Break - Even Point)
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu vừa đủ để trang trải các khoản chi
phí bỏ ra. Tại điểm hoà vốn, tổng doanh thu bằng tổng chi phí, do đó tại đây dự án
chưa có lãi nhưng cũng không bị lỗ. Bởi vậy, chỉ tiêu này cho biết khối lượng sản
phẩm hoặc mức doanh thu (do bán sản phẩm đó) thấp nhất cần phải đạt được của dự
án để đảm bảo bù đắp được chi phí bỏ ra. Điểm hoà vốn có thể được biểu hiện bằng
chỉ tiêu hiện vật (sản lượng tại điểm hoà vốn) hoặc chỉ tiêu giá trị (doanh thu tại
điểm hoà vốn). Nếu sản lượng hoặc doanh thu của cả đời dự án lớn hơn sản lượng
hoặc doanh thu của dự án tại điểm hoà vốn thì dự án có lãi, ngược lại nếu thấp hơn
thì dự án bị lỗ. Do đó, chỉ tiêu điểm hoà vốn càng nhỏ càng tốt, mức độ an toàn của
dự án càng cao, thời gian thu hồi vốn càng ngắn. Có hai cách xác định điểm hoà vốn
đó là phương pháp đại số và phương pháp đồ thị.
Theo phương pháp đại số, người ta gọi x là khối lượng sản phẩm sản xuất
hoặc bán đựơc, gọi x0 là khối lượng sản phẩm tại điểm hoà vốn, f là chi phí cố định
(định phí), v là chi phí biến đổi cho một đơn vị sản phẩm (biến phí), v . x là tổng
biến phí, p là đơn giá sản phẩm. Ta có hệ phương trình sau:
yDT = px
yCF = v.x + f
Tại điểm hoà vốn thì px0 = vx0 + f suy ra:
Sản lượng hoà vốn:


x0 

f
p v

Doanh thu hoà vốn:

f
DT0 
v
1
p
Người ta có thể tính các loại điểm hoà vốn khác nhau như điểm hoà vốn lãi
lỗ, điểm hoà vốn hiện kim hoặc điểm hoà vốn trả nợ.
 Số lần quay vòng của vốn lưu động:

L

0i
W ci

Trong đó: Oi: Doanh thu thuần bình quân năm kỳ nghiên cứu
Wci: Vốn lưu động bình quân năm kỳ nghiên cứu

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

17


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


Khoa Ngân hàng-Tài chính

Nếu L = [L]: dự án có số quay vòng vốn tỷ lệ thuận với hiệu quả hoạt động
của dự án. L > [L]: dự án không đạt hiệu quả hoạt động, cần được sửa đổi.
Trong đó [L] là số vòng quay vốn lưu động bình quân năm cho phép.
 Tỷ suất sinh lời vốn của vốn đầu tư:

Wipv
RRi 
Ivo
Trong đó:
Wipv: Lợi nhuận thuần thu được năm thứ i theo mặt bằng giá trị khi các kết
quả đầu tư bắt đầu phát huy tác dụng.
Ivo: Tổng vốn đầu tư thực hiện ước tính đến thời điểm các kết quả đầu tư bắt
đầu phát huy tác dụng.
Trường hợp RRi = [RRi], dự án có tỷ suất sinh lời vốn đầu tư càng lớn thì
hiệu quả tài chính dự án càng cao. RRi < [RRi], dự án đầu tư không đạt hiệu quả cần
được sửa đổi bổ sung. Trong đó [RRi] là tỷ suất sinh lời vốn đầu tư cho phép.
1.2.5. Phương pháp thẩm định
Dự án đầu tư sẽ được thẩm định đầy đủ và chính xác khi có phương pháp
thẩm định khoa học kết hợp với các kinh nghiệm quản lý thực tiễn và nguồn thông
tin đáng tin cậy. Việc thẩm định dự án có thể tiến hành theo nhiều phương pháp
khác nhau trong quá trình thẩm định, tuỳ thuộc vào nội dung và yêu cầu đối với dự
án. Sau đây là những phương pháp thẩm định thường gặp nhất.
1.2.5.1. Phương pháp so sánh các chỉ tiêu
Đây là phương pháp phổ biến và đơn giản, các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật chủ
yếu của dự án được so sánh bởi các dự án đã và đang xây dựng, đang hoạt động.
Phương pháp so sánh được tiến hành theo một số chỉ tiêu sau:
- Tiêu chuẩn thiết kế, xây dựng, tiêu chuẩn về cấp công trình do nhà nước

quy định hoặc điều kiện tài chính mà dự án có thể chấp nhận được.
- Tiêu chuẩn về công nghệ, thiết bị trong quan hệ chiến lược đầu tư công
nghệ quốc gia, quốc tế.
- Tiêu chuẩn đối với loại sản phẩm của dự án mà thị trường đang đòi hỏi.
- Các chỉ tiêu tổng hợp như cơ cấu vốn đầu tư, suất đầu tư…
- Các định mức về sản xuất, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu, nhân công,
tiền lương, chi phí quản lý… của ngành theo các định mức kinh tế - kỹ thuật chính
thức hoạc các chỉ tiêu kế hoạch và thực tế.
- Các chỉ tiêu về hiệu quả đầu tư.
- Các định mức tài chính doanh nghiệp phù hợp với hướng dẫn, chỉ đạo hiện
hành của nhà nước, của ngành đối với doanh nghiệp cùng loại.
- Các chỉ tiêu mới phát sinh…
Trong việc sử dụng các phương pháp so sánh cần lưu ý các chỉ tiêu dùng để
tiến hành so sánh cần phải được vận dụng phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể
của từng dự án và doanh nghiệp. Cần hết sức tranh thủ ý kiến của các cơ quan
chuyên môn, chuyên gia (kể cả thông tin trái ngược). Tránh khuynh hướng so sánh
máy móc, cứng nhắc, dập khuôn.

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

18


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

1.2.5.2.Phương pháp thẩm định theo trình tự
Trong phương pháp này, việc thẩm định dự án được tiến hành theo một trình
tự biện chứng từ tổng quát đến chi tiết, lấy kết luận trước làm tiền đề cho kết luận

sau.
- Thẩm định tổng quát: là việc xem xét một cách khái quát các nội dung cơ
bản thể hiện tính pháp lý, tính phù hợp, tính hợp lý của dự án. Thẩm định tổng quát
cho phép hình dung khái quát dự án, hiểu rõ quy mô, tầm quan trọng của dự án
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, xác định các căn cứ pháp lý
của dự án đảm bảo khả năng kiểm soát được của bộ máy quản lý dự án dự kiến.
- Thẩm định chi tiết: là việc xem xét một cách khách quan, khoa học, chi tiết
từng nội dung cụ thể ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi, tính hiệu quả, tính hiện
thực của dự án trên các khía cạnh pháp lý, thị trường, kỹ thuật công nghệ, môi
trường, kinh tế… phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời
kỳ phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Trong giai đoạn thẩm định chi tiết, cần đưa ra những ý kiến đánh giá đồng ý
hay sửa đổi bổ xung hoặc không thể chấp nhận được. Khi tiến hành thẩm định chi
tiết sẽ phát hiện được các sai sót, kết luận rút ra từ nội dung trước có thể bác bỏ toàn
bộ dự án mà không cần đi vào thẩm định các nội dung còn lại của dự án.
1.2.5.3. Phương pháp thẩm định dựa trên việc phân tích độ nhạy của dự án
Phương pháp này thường dùng để kiểm tra tính vững chắc về hiệu quả tài
chính của dự án. Cơ sở của phương pháp này là dự kiến một số tình huống bất trắc
có thẩy xảy ra trong tương lai đối với dự án rồi khảo sát tác động của những yếu tố
đó đến hiệu quả đầu tư và khả năng hoà vốn của dự án.
Mức độ sai lệch so với dự kiến của các bất trắc là tuỳ thuộc vào điều kiện cụ
thể. ở đây, ta nên chọn các yếu tố tiêu biểu dễ xảy ra gây tác động xấu đến hiệu quả
của dự án để xem xét. Nếu dự án vẫn tỏ ra có hiệu quả kể cả trong trường hợp có
nhiều bất trắc phát sinh đồng thời thì đó là những dự án vững chắc, có độ an toàn
cao. Trong trường hợp ngược lại thì cần phải xem xét lại khả năng phát sinh bất trắc
đề xuất kiến nghị các biện pháp hữu hiệu để khắc phục hay hạn chế.
1.2.5.4. Phương pháp dự báo
Cơ sở của phương pháp này là dùng số liệu dự báo, điều tra thống kê để kiểm
tra cung cầu của sản phẩm dự án trên thị trường, giá cả và chất lượng của công
nghệ, thiết bị, nguyên liệu… ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và tính khả thi của

dự án.
1.2.5.5. Phương pháp triệt tiêu rủi ro
Dự án là một tập hợp các yếu tố dự kiến trong tương lai, từ khi thực hiện dự
án đến khi đi vào khai thác, hoàn vốn thường rất dài, do đó có nhiều rủi ro phát sinh
ngoài ý muốn chủ quan. Để đảm bảo tính vững chắc của dự án, người ta thường dự
đoán một số rủi ro có thể xảy ra để có biện pháp kinh tế hoặc hành chính thích hợp,
hạn chế thấp nhất các tác động của rủi ro hoặc phân tán rủi ro cho các đối tác có liên
quan đến dự án.
Một số loại rủi ro bắt buộc phải có biện pháp xử lý như: đấu thầu, bảo hiểm
xây dựng, bảo lãnh hợp đồng. Trong thực tế, biện pháp phân tán rủi ro quen thuộc

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

19


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

nhất là bảo lãnh của ngân hàng, bảo lãnh của doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và
uy tín, thế chấp tài sản. Để tránh tình trạng thế chấp tài sản nhiều lần khi vay vốn
nên thành lập Cơ quan đăng ký quốc gia về giao dịch bảo đảm.
1.3. Chất lượng thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
Chất lượng nói chung được định nghĩa là tập hợp các đặc tính của một thực
thể, đối tượng tạo cho thực thể, đối tượng đó có khả năng thoả mãn nhu cầu đã nêu
ra hoặc tiềm ẩn. Mặc dù chất lượng thẩm định dự án đầu tư là một cái gì đó khó có
thể định lượng được và khái niệm này còn trừu tượng hơn cả chất lượng sản phẩm
nhưng về cơ bản vẫn thể hiện được định nghĩa trên. Có nhiều đối tượng cùng thẩm

định dự án đầu tư nói chung, thẩm định tài chính nói riêng, đứng trên góc độ khác
nhau của người thẩm định với những mục tiêu nhất định thì chất lượng thẩm định tài
chính dự án đầu tư được hiểu như sau.
Với nhà đầu tư: Việc thẩm định tài chính có chất lượng có nghĩa là cung cấp
cho chủ đầu tư những thông tin mang ý nghĩa cơ sở đáng tin cậy cho việc lựa chọn
được dự án đầu tư (trong số các dự án hay hay là sự giới hạn nguồn lực) có hiệu quả
tài chính cao nhất (mang lại lợi nhuận lớn nhất cho chủ đầu tư).
Với cơ quan quản lí nhà nước (cơ quan có thẩm quyền thẩm định để chấp
nhận cho phép đầu tư), chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là việc chấp
nhận, phê duyệt những dự án có tính khả thi về mặt tài chính, mang lại lợi ích cho
chủ đầu tư và góp phần thực hiện định hướng kinh tế xã hội cho đất nước trong từng
thời kì (cũng như dự án được lựa chọn là dự án tốt nhất trong số các dự án xem xét
đứng trên quan điểm xã hội).
Với nhà tài trợ (cụ thể ở đây là NHTM): Chất lượng thể hiện ở việc trên cơ
sở phân tích, đánh giá một cách khách quan, toàn diện sâu sắc Ngân hàng quyết
định tài trợ cho những dự án mà sau này khi đi vào thực hiện mang lại hiệu quả tài
chính cũng như trả được nợ Ngân hàng như dự kiến, do đó Ngân hàng đạt được mục
tiêu kinh doanh của mình, ở khía cạnh nào đó, chất lượng thẩm định tài chính dự án
đầu tư được thể hiện ở chất lượng tín dụng hay bảo đảm cho dự án.
Hoạt động thẩm định dự án nói chung và hoạt động thẩm định tài chính dự
án nói riêng có ảnh hưởng quyết định và trực tiếp đến các khoản cho vay, từ đó ảnh
hưởng đến lợi nhuận, sự an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó,
nâng cao chất lượng thẩm định tài trợ dự án đầu tư là nhiệm vụ cấp bách và thường
xuyên của mỗi ngân hàng.
Chất lượng thẩm định dự án đầu tư được hiểu là sự đáp ứng một cách tốt
nhất các yêu cầu của ngân hàng trong hoạt động cho vay: nâng cao chất lượng cho
vay, hỗ trợ cho việc ra quyết định cho vay với phương châm sinh lợi và an toàn của
ngân hàng. Trong quá trình thẩm định tài chính dự án đầu tư, các cán bộ phải xem
xét, đánh giá một cách khách quan những vấn đề có liên quan đến khía cạnh tài
chính của một dự án đầu tư. Các cán bộ phải đánh giá xem: dự án có mang lại lợi

nhuận để có khả năng trả nợ cho ngân hàng không? Thời gian trả nợ là bao lâu?...
Một dự án đạt hiệu quả về mặt tài chính khi dự án đó đã thẩm định phải có khả
năng trả nợ (cả gốc và lãi) theo dự kiến, thời gian thẩm định nhanh, có hiệu quả về mặt xã

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

20


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

hội, rủi ro tín dụng thấp, không phát sinh các khoản nợ khó đòi, quá hạn, từ đó giúp ngân
hàng có lợi nhuận. Một dự án thẩm định tồi không có hiệu quả về mặt tài chính không chỉ
làm cho Ngân hàng không thu được vốn, suy giảm lợi nhuận mà còn có khả năng dẫn đến
bờ vực phá sản. Do đó nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là nhiệm vụ
quan trọng của mỗi ngân hàng, nó đòi hỏi phải được làm thường xuyên có khoa học và
nghiêm túc.
Vậy, chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư thể hiện mức độ chính xác,
trung thực và linh hoạt trong việc đánh giá khía cạnh tài chính của dự án đầu tư.
Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tốt sẽ đảm bảo cho các quyết định đầu
tư của ngân hàng hợp lý, tăng lợi nhuận cho ngân hàng, rủi ro không thu hồi được
vốn là thấp.
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
Thẩm định tài chính dự án là một công cụ quản lý và kiểm tra quan trọng của
ngân hàng nhằm đưa ra những quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay đồng thời
tham gia góp ý kiến cho các chủ đầu tư, tạo tiền đề đảm bảo hiệu quả cho vay, thu
đủ gốc và lãi đúng hạn, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Mặt khác, thẩm định tài
chính dự án còn là cơ sở để xác định số tiền cho vay, mức thu nợ, thời hạn hợp lý,

tạo tiền đề cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn trong quá trình hoạt
động kinh doanh của mình.
Vì vậy, chất lượng của công tác thẩm định dự án có ảnh hưởng rất lớn đến
các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Trên cơ sở các yếu tố, các quy trình thẩm định,
các ngân hàng thương mại có thể xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu phản ánh chất
lượng thẩm định làm cơ sở, căn cứ cho công tác thẩm định. Đó là yêu cầu và trách
nhiệm đồng thời cũng là mong muốn của tất cả hệ thống ngân hàng. Hiện nay ở
nước ta chưa có một cơ quan, ban ngành nào thực hiện được điều này.
Chất lượng thẩm định thể hiện ở chỗ, các kết luận, các đánh giá về dự án có
phải là căn cứ quan trọng để nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư cho dự án hay
không. Đối với các nhà quản lý ngân hàng, hoạt động thẩm định được coi là có chất
lượng khi nó hỗ trợ đắc lực cho việc ra quyết định có đầu tư, có cho vay hay không
và tất nhiên, là đầu tư phải an toàn, sinh lợi cho ngân hàng.
Để thực hiện được mục đích và phát huy được vai trò của thẩm định tài chính
dự án, các yêu cầu đặt ra khi thẩm định tài chính dự án là:
 Nguồn số liệu sử dụng thẩm định tài chính phải đầy đủ và đảm bảo độ tin
cậy cao đáp ứng mục tiêu phân tích.
 Công tác tổ chức thẩm định phù hợp với hoạt động của ngân hàng.
 Phương pháp phân tích phải phù hợp và mang tính khoa học
 Hệ thống các chỉ tiêu để thẩm định phải phản ánh đầy đủ các khía cạnh tài
chính của dự án.
 Phải đưa ra được nhiều phương án đầu tư để từ đó lựa chọn phương án tối
ưu. Dự báo được các rủi ro có thể xảy ra và các biện pháp phòng ngừa rủi ro.
 Thẩm định với thời gian ngắn, chi phí thấp.
Khi đánh giá chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án phải dựa vào các
chỉ tiêu trên để đi đến kết luận một cách chính xác nhất. Kết quả của quá trình thẩm

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

21



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

định này là căn cứ để ngân hàng quyết định có nên đầu tư hay không? Bởi mối quan
tâm chủ yếu của ngân hàng thương mại là việc đầu tư vào dự án có mang lại lợi
nhuận thích đáng hoặc có đem lại nhiều lợi nhuận hơn so với việc đầu tư vào dự án
khác hay không.
Tuy nhiên, việc đánh giá chính xác hiệu quả của từng quá trình thẩm định tài
chính dự án là rất khó khăn và đòi hỏi thời gian dài. Mỗi khâu của quá trình thẩm
định đạt chất lượng tốt thì chất lượng thẩm định dự án sẽ cao, đem lại hiệu quả cho
ngân hàng trong công tác cho vay đầu tư của mình.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án
Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư ở ngân hàng thương mại phụ
thuộc rất nhiều yếu tố khác nhau, muốn nâng cao chất lượng hoạt động này ngân
hàng phải xem xét kỹ từng nhân tố. Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư bị chi
phối bởi nhiêu nhân tố, song có thể phân chia thành nhân tố chủ quan và nhân tố khách
quan. Nhân tố chủ quan là nhân tố thuộc về nội bộ ngân hàng mà ngân hàng có thể kiểm
soát, điều chỉnh. Nhân tố khách quan là những nhân tố bên ngoài môi trường tác động nó
không thể kiểm mà chỉ khắc phục để thích nghi. Việc xem xét, đánh giá các nhân tố đó là
rất cần thiết đối với ngân hàng trong việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
thẩm định tài chính dự án.
1.3.3.1. Nhân tố khách quan
Thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng bị chi
phối bởi nhiều nhân tố khách quan, đó là những nhân tố bên ngoài tác động vào dự
án làm cho chất lượng thẩm định tài chính dự án bị giảm sút. Các dự án thường có
tuổi thọ dài, do đó rủi ro mà các nhân tố khách quan mang lại là rất khó dự báo như:
tình hình kinh tế, chính trị, các cơ chế chính sách, pháp luật của nhà nước... mà các

nhân tố này luôn luôn thay đổi và nằm ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng và chủ
dự án.
a. Nhân tố khách hàng
Một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án
thuộc về phía doanh nghiệp (Chủ dự án) đó là hồ sơ dự án mà chủ dự án trình lên ngân
hàng. Do đó năng lực lập, thẩm định và thực hiện dự án của chủ đầu tư yếu kém sẽ ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng thẩm định của ngân hàng như thời gian phân tích, đánh
giá, thu thập thông tin, tính toán kéo dài. Nhiều khi hồ sơ dự án chủ đầu tư trình quá sơ sài,
thiếu sức thiếu phục do năng lực quá yếu kém đã khiến ngân hàng không thể chấp nhận
được, nhất là đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi mà khả năng quản lý tài chính và
tiềm lực tài chính rất hạn chế, rủi ro dự án đi vào hoạt động không hiệu quả như dự kiến là
rất lớn. Bên cạnh đó, tính trung thực của nguồn thông tin mà chủ dự án cung cấp cho ngân
hàng trong các báo cáo tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính hiện có
của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân
hàng trong việc quyết định tài trợ cho dự án.
Đối với khách hàng, các dự án mà khách hàng mang tới ngân hàng phải đưa
ra các con số tương đối chính xác về khoản chi phí, doanh thu của khách hàng bởi
nhiều khi khách hàng đưa ra những con số không chính xác về giá cả, chi phí,
doanh thu, các cán bộ ngân hàng phải mất nhiều thời gian và công sức điều tra lại

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

22


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

để có những con số chính xác hoặc ít nhất là tương đối chính xác. Nhưng nếu gặp

những cán bộ không có trách nhiệm nghề nghiệp họ sẽ chẳng cần phải kiểm tra lại
khi đó tính thiếu chính xác trong những con số mà khách hàng đưa ra sẽ dẫn đến
một hậu quả nghiêm trọng là kết luận sai về tính khả thi của dự án và nếu ngân hàng
cho vay thì sẽ dẫn đến thua lỗ. Do đó chất lượng thẩm định dự án của ngân hàng sẽ
bị đánh giá là thấp.
b. Môi trường kinh tế
Một nền kinh tế của một quốc gia phát triển thiếu đồng bộ, không ổn định, chưa
phát triển sẽ hạn chế trong việc cung cấp những thông tin chính xác phục vụ cho việc thẩm
định. Đồng thời những định hướng, chính sách, chiến lược phát triển kinh tế, xã hội theo
vùng, lãnh thổ, ngành... chưa được xây dựng cụ thể, đồng bộ và ổn định cũng là một yếu tố
gây rủi ro trong phân tích, đánh giá và đi đến chấp nhận dự án. Nhiều yếu tố nằm ngoài
tầm dự báo của ngân hàng như: thiên tai, chiến tranh, khủng bố... làm cho ngân hàng
không thể thu hồi được vốn bởi vì rủi ro này ảnh hưởng nghiêm trọng đến dự án và doanh
nghiệp không thể chống đỡ được. Yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ nhất, thường xuyên nhất
của môi trường kinh tế tới công tác thẩm định tài chính dự án chính là yếu tố lạm phát.
Có thể nói: “Lạm phát là yếu tố bất định ảnh hưởng đến việc thẩm định tài
chính dự án”. Lạm phát gây nên sự thay đổi về giá cả theo thời gian, do vậy nó làm
biến đổi dòng tiền kỳ vọng và tỷ lệ chiết khấu khi đánh giá tài chính dự án đầu tư.
Mức lạm phát không thể dự đoán một cách chính xác vì nó phụ thuộc vào nhiều
nhân tố: quy luật cung cầu, tâm lý người tiêu dùng, sức mạnh nền kinh tế. Các biến
số tài chính trong dự án, các yếu tố đầu vào của các chỉ tiêu NPV, IRR đều chịu tác
động của lạm phát. Do vậy để đánh giá tính hiệu quả của một dự án nào đó cần phải
xác định một cách chính xác hợp lý giá cả của các yếu tố trong chi phí hay doanh
thu của dự án. Nếu giá được cung cấp trong dự án là giá cố định, không thay đổi
theo thời gian và nếu có được áp dụng trong suốt thời gian hoạt động của dự án thì
một mặt người lập dự án đã đơn giản hoá việc xây dựng các bảng tóm tắt tài chính
của dự án, mặt khác nó đã loại ra khỏi dự án sự phân tích các thông tin kinh tế, tài
chính có thể ảnh hưởng đến kết quả của dự án. Nếu giá cả đầu vào đầu ra của dự án
được điều chỉnh trong suốt thời gian hoạt động của dự án theo một xu hướng mà
nhà thẩm định giả định cho các thời kỳ trong tương lai thì đó là giá thực. Đó là giá

có thể có trong tương lai, được dự đớn trên mức cung cầu hàng hoá hay sản phẩm
của dự án trong một khoảng thời gian với các nguồn cung cấp sẵn có và các yếu tố
bên ngoài khác có thể ảnh hưởng đến chi phí sản xuất. Sử dụng giá này giúp cho
việc tính toán xây dựng các biến số của bảng tài chính sẽ đáng tin cậy hơn, chính
xác hơn, giúp cho công tác thẩm định có hiệu quả hơn.
c. Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý với những khiếm khuyết trong tính hợp lý, đồng bộ và hiệu lực
của các văn bản pháp lý, chính sách quản lý của nhà nước đều tác động xấu đến chất lượng
thẩm định tài chính dự án cũng như kết quả hoạt động của dự án. Các dự án thường có thời
gian kéo dài và thường liên quan đến nhiều văn bản luật, dưới luật về các lĩnh vực như các
văn bản về quản lý tài chính trong các doanh nghiệp, các văn bản về thuế, luật doanh
nghiệp, ... Dó đó nếu các văn bản luật này không có tính ổn định trong thời gian dài cũng

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

23


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

như không rõ ràng, minh bạch, chồng chéo... sẽ làm thay đổi tính khả thi của dự án theo
thời gian cũng như gây khó khăn cho ngân hàng trong việc phân tích, đánh giá các chỉ tiêu
hiệu quả, dự báo rủi ro, làm đảo lộn mọi con số tính toán ảnh hưởng lợi nhuận của ngân
hàng và khả năng thu hồi nợ của ngân hàng.
Tác động của hệ thống các chính sách các quyết định của ngân hàng nhà nước
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công tác thẩm định tại chính dự án của ngân
hàng thương mại. Cụ thể như việc thay đổi lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước: Lãi
suất chiết khấu là yếu tố quan trọng trong thẩm định tài chính dự án đầu tư. Việc thay

đổi lãi suất có ảnh hưởng đến giá trị hiện tại của các khoản thu nhập và chi phí. Nếu lãi
suất này quá thấp sẽ khuyến khích đầu tư vào các dự án kém hiệu quả, nếu nó quá cao
sẽ hạn chế đầu tư. Hiện nay chúng ta chưa có một quy định thống nhất nào về tỷ lệ này
đối với từng ngành nghề cụ thể cũng như không có một chuẩn mực nào để xác định lãi
suất chiết khấu dẫn đến dùng các tỷ lệ khác nhau để đánh giá, so sánh dự án gây nên sự
khó khăn không chính xác trong công tác thẩm định. Hay các văn bản hướng dẫn tính
khấu hao, tính tiền thuế đất đai của nhà nước, tính giá trị của tài sản, hay những
hướng dẫn về thuế là những văn bản có ảnh hưởng trực tiếp tới công tác thẩm định
của ngân hàng.
1.3.3.2. Nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan ở đây chính là các yếu tố trong nội bộ hệ thống ngân hàng
thương mại tác động tới chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư. Các nhân tố
đó bao gồm:
a. Hệ thống thông tin của ngân hàng thương mại
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, việc thu thập những thông tin về
khách hàng phục vụ cho quá trình thẩm định không phải là vấn đề khó khăn nhưng mà làm
sao để các nguồn thông tin thu thập được phải đảm bảo đầy đủ, chính xác và kịp thời lại là
vấn đề nan giải đối với các ngân hàng. Việc lấy tài liệu, thông tin ở đâu với số lượng bao
nhiêu phải được cân nhắc tính toán thận trọng trước khi tiến hành phân tích, đánh giá dự
án.
Thông tin là cơ sở cho phân tích đánh giá, là nguyên liệu cho quá trình tác
nghiệp của cán bộ thẩm định. Muốn có kết quả thẩm định chính xác cao độ thì phải
có được thông tin, số liệu đầy đủ, chính xác trên nhiều góc độ khác nhau. Để có
được nguồn thông tin cần thiết cho dự án, ngân hàng có thể dựa vào các thông tin
do chủ đầu tư cung cấp hoặc thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau liên quan
đến vấn đề cần đánh giá và tiến hành sắp xếp thông tin, sử dụng các phương pháp
xử lý thông tin một cách thích hợp theo nội dung của quy trình thẩm định.
Hiện nay để có được thông tin về khách hàng của mình không khó đối với
ngân hàng nhưng làm sao để có những thông tin chính xác mới là vấn đề ngân hàng
phải quan tâm. Thông thường để thuận lợi cho việc đi vay, dự án mà chủ đầu tư đưa

đến ngân hàng đều khả thi và mang tính chủ quan của người lập, các báo cáo tài
chính của doanh nghiệp đều cho thấy tình hình tài chính là lành mạnh. Nếu ngân hàng
chỉ dựa vào các thông tin này thì kết quả thẩm định sẽ không phản ánh đúng thực chất
hiệu quả của dự án. Như vậy, việc thiết lập hệ thống thông tin đầy đủ, chính xác luôn
được đặt ra như một nhu cầu cấp bách đối với công tác thẩm định dự án, thiết lập

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F

24


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng-Tài chính

được một hệ thống thông tin như vậy sẽ giúp cho ngân hàng rất nhiều trong việc nâng
cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư của ngân hàng.
b. Cán bộ thẩm định tài chính dự án
Trong quá trình thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói
riêng cán bộ thẩm định luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng. Bởi lẽ họ chính là
những người trực tiếp tiến hành hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư, và
thẩm định tài chính dự án đầu tư không phải là nghiệp vụ đơn giản, nó đòi hỏi cán
bộ thẩm định không những phải có kiến thức sâu về nghiệp vụ, phải am hiểu các
lĩnh vực cho vay, đầu tư của ngân hàng mà còn phải có những hiểu biết về các vấn
đề liên quan như: Thuế, môi trường, thị trường, khoa học công nghệ… Do vậy phần
nào hiệu quả của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư sẽ phụ thuộc vào chất
lượng nhân tố con người. Sự hiểu biết và toàn bộ những kiến thức về khoa học, kinh
tế, xã hội mà người thẩm định có được dều phải thông qua đào tạo hay sự bồi
dưỡng kiến thức mà có; kinh nghiệm, kỹ năng là những gì tích luỹ được thông qua
hoạt động thực tiễn; năng lực là khả năng nắm bắt, xử lý công việc trên cơ sở các tri

thức, kiến thức đã được tích luỹ. Tính kỷ luật cao, phẩm chất đạo đức tốt của cán bộ
thẩm định là điều kiện để đảm bảo cho chất lượng thẩm định và ngược lại, người
thẩm định không có kỷ luật, đạo đức không tốt sẽ phá hỏng mọi việc, không đánh
giá đúng được tính khả thi của dự án.
Để đạt được chất lượng tốt trong thẩm định tài chính dự án, yêu cầu quan
trọng đầu tiên đối với cán bộ thẩm định là phải nắm vững chuyên môn nghiệp vụ.
Phải nắm vững các văn bản pháp luật, các chế độ chính sách do Nhà nước quy định
đối với các lĩnh vực: Ngân hàng, xây dựng cơ bản, tài chính kế toán…
Như vậy cán bộ thẩm định là một trong những nhân tố quyết định chất lượng
thẩm định tài chính dự án đầu tư. Lấy thông tin gì? Ở đâu? Áp dụng chỉ tiêu nào để
đánh giá đều được tiến hành bởi cán bộ thẩm định. Do vậy muốn nâng cao chất
lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trước hết bản thân trình độ kiến thức, năng
lực đạo đức của cán bộ thẩm định phải cao.
c. Phương pháp thẩm định và các tiêu chuẩn thẩm định tài chính dự án
Trên cơ sở các thông tin đễ thu thập được thì việc lựa chọn phương pháp thẩm định
cũng rất quan trọng. Với nguồn thông tin đã có được, vấn đề đặt ra với ngân hàng là
làm thế nào? Lựa chọn phương pháp nào, chỉ tiêu nào để thẩm định dự án có hiệu
quả tốt nhất. Mỗi dự án có một đặc trưng nhất định, không phải bất cứ dự án nào
cũng cần phải áp dụng và tính toán tất cả các chỉ tiêu trong hệ thống thẩm định.
Việc sử dụng phương pháp nào, chỉ tiêu nào để thẩm định phụ thuộc vào quyết định
của mỗi ngân hàng. Với mỗi dự án, phương pháp tốt nhất là phương pháp phù hợp
nhất nhưng chưa chưa chắc chắn rằng phương pháp đấy là hiện đại nhất. Nhưng trong
giai đoạn hiện nay, những phương pháp thẩm định tài chính dự án hiện đại đã giúp
cho việc phân tích, đánh giá dự án được toàn diện, chính xác và hiệu quả hơn. Song
điều quan trọng là ngân hàng phải biết áp dụng đồng bộ các chỉ tiêu đảm bảo tính
toàn diện và cũng phải lựa chọn những chỉ tiêu quan trọng nhất phù hợp với tình hình
thực tế của ngành, dự án cũng như khả năng điều kiện cụ thể của ngân hàng.

Phan Thị Xuân Dung – Lớp: TCDN48F


25


×