Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tư tưởng của mac ăng ghen về xây dựng đảng về tư tưởng và tổ chức tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.29 KB, 25 trang )

1


PHẦN A . MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản ra đời từ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân với giai cấp
tư sản và các thế lực áp bức, bóc lột. Đảng Cộng sản là Đảng của giai cấp công
nhân, mang bản chất giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc.
Chính như vậy, sự ra đời, phát triển và trưởng thành của chính Đảng Cộng
sản là một quá trình gắn liền với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân,
gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể của cuộc đấu tranh cách mạng của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế , đặc biết phải phù hợp những điều kiện
và hòan cảnh lịch sử cụ thể của từng nước.

2


Tư tưởng của Mác,Ăngghen về chính đảng cách mạng của giai cấp công
nhân là một bộ phận cấu thành của chủ nghĩa xã hội khoa học - khoa học về cuộc
đáu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cách mạng vô sản, về những quy luật
chính trị - xã hội của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Học thuyết đó chỉ ra
những quy luật về sự ra đời của Đảng, những nguyên tắc về xây dựng tư tưởng, tổ
chức và hoạt động lãnh đạo chính trị của Đảng nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng
thành công xã hội chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Tư tưởng của Mác,
ăngghen về xây dựng đảng của giai cấp công nhân đã trải qua một quá trình phát
triển lâu dài. Quá trình đó gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể của cuộc đấu
tranh cách mạng của giai cấp công nhân, gắn liền với phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Hai ông đã luận giải và chứng minh rất khoa học về sự tất yếu ra đời
của đảng vô sản, những nguyên tắc xây dựng đảng tư tưởng, tổ chức và hoạt động
lãnh đạo chính trị của Đảng, những cơ sở khoa học của đường lối chiến lược, sách
lược của Đảng và các biện pháp thực hiện đường lối chiến lược, sách lược ấy. Tuy


nhiên, do giới hạn lịch sử hai ông chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu và đưa ra kết
luận một cách hệ thống toàn diện, đầy đủ về chính Đảng và xây dựng chính Đảng
vô sản trong một tác phẩm. Nhưng qua những tác phẩm của hai ông đã thể hiện
những tư tưởng về chính Đảng, về xây dựng chính Đảng vô sản khá cơ bản. Đó
chính là tư tưởng nền tảng cơ bản cho sự ra đời hàng lọat các đảng công nhân ở các
nước Châu Âu thời bấy giờ.

3


Học thuyết Mác-Ăngghen về xây dựng Đảng Cộng sản đã trải qua một quá
trình phát triển lâu dài. Đòi hỏi những người cộng sản phải nắm vững những nội
dung cơ bản và quán triệt trong họat động thực tiễn; đồng thời phải biết vận dụng
phát triển học thuyết đó một cách sáng tạo và phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể
của nước mình, của dân tộc mình nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng mìmh
trong từng thời kỳ cách mạng, điều mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin
luôn nhắc nhở những người cộng sản. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng nói
rằng, học thuyết của các ông không phải là giáo điệu mà là kim chỉ nam cho hành
động. VI.Lênin cũng chỉ rõ:
“Chúng ta không hề coi lý luận của C.Mác như là một cái gì đã xong xuôi
hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng
cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về
mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành hạc hậu đối với cuộc sống”[9- 201-202].
Trong tình hình thế giới và khu vực hiện nay có nhiều diễn biến hết sức phức
tạp nhưng vẫn là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những phát kiến thiên tài của
C.Mác và Ph.Ăngghen về Đảng cộng sản và những nguyên lý xây dựng Đảng cộng
sản vẫn còn nguyên giá trị, là kim chỉ nam hành động của các Đảng cộng sản trên
toàn thế giới. Nghiên cứu chủ nghĩa Mác về Đảng cộng sản, về những nguyên lý
xây dựng Đảng qua các tác phẩm kinh điển nhằm giúp chúng ta thấm thấu hơn nữa
tính cách mạng, tính khoa học trong việc xây dựng Đảng cộng sản để đáp ứng yêu

cầu cả trước mắt và lâu dài của sự nghiệp đổi mới. Qua đó giúp cho chúng ta thêm
ý trí, bản lĩnh chính trị để phê phán đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc,
phản động của các thế lực thù địch, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác, bảo
vệ chính Đảng cộng sản của giai cấp công nhân trên tòan thế giới.Tư tưởng của
Mác- ăngghen về xây dựng đảng cộng sản bao gồm nhiều lĩnh vực, riêng trong bài
tiểu luận này tôi chỉ thực hiện nội dung: “ Tư tưởng của Cácmác và Ăngghen về
xây dựng đảng về tư tưởng”.
4


5


PHẦN B: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG CỦA MÁC, ĂNGGHEN VỀ XÂY DỰNG
ĐẢNG VỀ TƯ TƯỞNG
Theo Bùi Đức Lại, trong chuyên đề “ Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng
và tổ chức”, được in trong “ Tập bài giảng chương trình cao cấp lý luận chính trịhành chính cho các đối tượng đào tạo ở Trung tâm Học viên Chính trị -Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh” thì “Xây dựng đảng về tư tưởng là xây dựng nền tảng tư
tưởng của Đảng, tạo sự thống nhất trong Đảng về mục tiêu, lý tưởng, về đường lối,
chính sách, về hành động; xây dựng nền tảng đạo đức vững trắc của Đảng, thể hiện
trong bộ mặt tinh thần của cán bộ, đảng viên; làm cho lý tưởng, đạo đức của Đảng
trở thành giá trị chung, trở thành động lực phát triển của toàn xã hội”.Trong các tác
phẩm của Mác, Ăngghen không có tác phẩm nào chuyên bàn về vấn đề xây dựng
đảng về tư tưởng, nhưng qua các tác phẩm giới thiệu nghiên cứu, vấn đề xây dựng
đảng về tư tưởng được hai ông bàn rất nhiều. Có thể khái quát ở một số nội dung
chủ yếu sau:
1.1. Mác, Ăngghen xây dựng học thuyết về sứ mệnh lịch sử thế giới của
giai cấp công nhân làm nền tảng tư tưởng của Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lê nin là hệ thống lý luận khoa học về cuộc cách mạng của

giai cấp công nhân nhằm tự giải phóng minh, là kết quả của sự phát triển một cách
khoa học những tư tưởng tiên tiến của xã hội loài người, thể hiện đúng đắn lợi ích
cơ bản giai cấp công nhân, đã chỉ ra cho giai cấp công nhân thấy rõ những phương
hướng chính trị của tất cả các mặt hoạt động cần thiết trong cuộc đấu tranh để thực
hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của minh.

6


Với tư cách là khoa học đại diện cho những lợi của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động, chủ nghĩa Mác đã hình thành và phát triển gắn liền với cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Không phải ngay từ đầu C.Mác và Ph.Ăngghen
do ý muốn chủ quan của mình mà gán cho giai cấp công nhân có vai trò, sứ mệnh
lịch sử là người đào nguyệt chôn chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới, xã hội xã
hội chủ nghĩa, mà chính C.Mác và Ph.Ăngghen đứng trên quan điểm duy vật lịch
sử, đã dựa trên những thành tựu tri thức của nhân loại đạt được, đặc biệt là hạt nhân
hợp lý của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội
không tưởng Pháp. Tất cả những hạt nhân hợp lý đó đều được C.Mác và
Ph.Ăngghen kế thừa một cách có chọn lọc, có phê phán và được kiểm nghiệm qua
phong trào công nhân và xây dựng, phát triển một cách sáng tạo theo quan điểm lập
trường của giai cấp vô sản. Hai ông đã tìm ra một lực lượng trung tâm có khả năng
lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội mới, xã hội xã hội cộng sản
chủ nghĩa.

7


Vào những năm 30-40 của thế kỷ XIX đã nổ ra các cuộc đấu tranh lớn của
công nhân. Năm 1831 thợ thuyền ở thành phố Lyon (Pháp) khởi nghĩa với lá cờ đen
có khẩu hiệu “Sống có việc làm hay là chết trong chiến đấu”. Công nhân khởi

nghĩa chiếm giữ thành phố Lyon được vài ngày, nhưng sau đó cuộc khởi nghĩa bị
đàn áp. Sau thất bại đến năm 1834, cũng tại đây công nhân lại khởi nghĩa với lá cờ
đỏ và khẩu hiệu mang nội dung kinh tế trước đây được thay bằng khẩu hiệu mang
nội dung chính trị “Cộng hòa hay là chết”. Nhưng cả lần này cũng vì chưa có chính
đảng của giai cấp công nhân và chưa có cương lĩnh hướng dẫn đấu tranh, nên cuộc
khởi nghĩa sau 5 ngày cũng bị thất bại. Song các cuộc khởi nghĩa của công nhân
thành phố Lyon mặc dù mang tính chất tự phát nhưng có ý nghĩa lịch sử lớn lao. Đó
là những cuộc đấu tranh độc lập đầu tiên của giai cấp công nhân trong lịch sử, nó
biểu hiện sự mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản không
thể điều hòa được. Trong tác phẩm “ Gia đình và thần thánh” C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ ra rằng:
“Giai cấp hữu sản và giai cấp vô sản đều là sự tha hóa của con người. Nhưng
giai cấp thứ nhất cảm thấy mình được thỏa mãn và vững vàng trong sự tha hóa đó,
thấy sự tha hóa là sự chứng minh cho sự hùng mạnh của bản thân mình và có được
trong đó cái bề ngoài của sự tồn tại có tính người của mình. Còn giai cấp thứ hai thì
cảm thấy mình bị hủy diệt trong sự tha hóa dó, thấy trong sự tha hóa đó, sự bất lực
và hiện thực về sự sinh tồn không có tính người của mình. Theo cách nói của Hêghen thì giai cấp này là sự căm phẫn trong tình trạng bị đày đọa đối với tình trạng
đó, một sự căm phẫn tất nhiên phải nảy sinh ra trong giai cấp này từ mâu thuẫn
giữa bản tính người của nó với tình hình sinh họat của nó, cái tình hình sinh hoạt
phủ định một cách công nhiên, quyết liệt và toàn diện chính bản thân ấy.

8


Như vậy, trong phạm vi toàn bộ sự đối lập, người tư hữu là mặt bảo thủ,
người vô sản là mặt phá hoại. Từ người thứ nhất nảy sinh ra hành động nhằm duy
trì sự đối lập, từ người thứ hai nảy sinh ra hành động nhằm xóa bỏ sự đối lập”. [254-55].
Phong trào Hiến chương của công nhân Anh kéo dài suốt 10 năm (18381848) thật sự là cuộc đấu tranh chính trị có tính chất quần chúng trên qui mô toàn
quốc đầu tiên của giai cấp công nhân Anh, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển xã
hội nước Anh và bắt buộc giai cấp thống trị phải nhượng bộ. Ph.Ăngghen đã xác

định, phong trào Hiến chương như một hình thức phản đối tập thể của giai cấp công
nhân chống lại giai cấp tư sản, tương lai của phong trào Hiến chương cũng như
tòan bộ phong trào công nhân phụ thuộc vào sự kết hợp của nó với chủ nghĩa xã
hội. Đồng thời chỉ khi nào điều kiện trên được thực hiện, thì giai cấp công nhân
mới thực sự trở thành giai cấp cầm quyền ở nước Anh.
Chính trong tác phẩm “Gia đình thần thánh” C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chứng minh rằng, trong tiến trình lịch sử vai trò của quần chúng nhân dân, với tính
cách là lực lượng quyết định sự tiến bộ xã hội và là người thật sự định đoạt vận
mệnh của nhân loại ngày càng tăng:
“Cuộc cách mạng diễn ra càng rộng và sâu bao nhiêu thì quần chúng thực
hiện cuộc cách mạng ấy càng đông đảo bấy nhiêu. Do đó cùng với tính chất lớn lao
của hoạt động lịch sử thì khối lượng quần chúng lấy hoạt động đó làm sự nghiệp
hoạt động của mình sẽ tăng lên. [ 2-90]
Cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt Xilêdi ở Đức năm 1844 là cuộc đấu tranh
lớn của giai cấp công nhân Đức vào nữa đầu thế kỷ XIX. Ph.Ăngghen đánh giá cao
cuộc khởi nghĩa và các ông cho rằng, cuộc cách mạng tư sản chín mùi ở Đức có thể
mở màn` cho cuộc cách mạng vô sản:

9


“Cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa không những sẽ có tính chất dân tộc
mà sẽ đồng thời xảy ra ở trong tất cả các nước văn minh, tức là ít nhất, ở Anh, Mỹ,
Pháp và Đức. Trong mỗi một nước đó, cách mạng cộng sản chủ nghĩa sẽ phát triển
nhanh hay chậm, là tùy ở chỗ nước nào trong những nước đó có công nghiệp phát
triển hơn, tích lũy được nhiều của cải hơn và có nhiều lực lượng sản xuất hơn. Cho
nên ở Đức, cách mạng cộng sản chủ nghĩa sẽ thực hiện chậm hơn và khó khăn hơn,
còn ở Anh thì nhanh hơn và dễ dàng hơn. Cách mạng cộng sản chủ nghĩa cũng có
ảnh hưởng rất lớn đến các nước khác trên thế giới, nó sẽ làm thay đổi hoàn toàn và
thúc đẩy cực kỳ nhanh chóng tiến trình phát triển trước kia của các nước đó”.[4470]

Đến Công xã Pari-một cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới đã nổ ra
ở Pari nước Pháp vào năm 1871, đã chứng minh rằng, giai cấp công nhân là giai
cấp duy nhất có khả năng chủ động về mặt xã hội và chỉ có giai cấp công nhân mới
có bản chất cách mạng. Thực tiễn đó, đã nói lên sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác, là
ngọn đuốc soi đường cho giai cấp công nhân phải chủ động tự giải phóng mình
khỏi chế độ bóc lột, đồng thời cũng giải phóng toàn thể xã hội khỏi chế độ bóc lột.
Lần đầu tiên trong lịch sử, lợi ích của giai cấp tiên tiến hòa làm một cùng lợi ích
của quần chúng nhân dân hết sức rộng rãi và theo nghĩa đó nó có được tính chất lợi
ích của con người nói chung.

10


Trong tác phẫm “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”, Ph.Ăngghen đã hiểu rõ
những nhu cầu và nguyện vọng của những người vô sản và chỉ rõ rằng, họ là những
người không chỉ đau khổ nặng nề dưới ách thông trị của chủ nghĩa tư bản, mà còn
dũng cảm đấu tranh cho sự tồn tại chính đáng của con người, là người cuối cùng có
khả năng phá những xiềng xích của chế độ làm thuê tư bản chủ nghĩa, vạch rõ sự
làm giàu của giai cấp tư sản và sự bần cùng hóa của giai cấp công nhân. Ông đánh
giá tình cảnh hiện nay và tương lai của giai cấp công nhân, của phong trào công
nhân xuất phát từ vị trí của giai cấp vô sản trong hệ thống sản xuất vật chất.
Ph.Ăngghen chứng minh tính tất yếu của cuộc cách mạng xã hội là cuộc cách mạng
có nhiệm vụ “Lật đổ trật tự xã hội hiện tồn” mà giai cấp vô sản sẽ thực hiện cuộc
cách mạng ấy. Đó là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” C.Mác và Ph.Ăngghen bước đầu phát
thảo ra một số nét lớn về chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu gọi là chủ nghĩa xã
hội. Trước hét, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định về thiết lập chủ nghĩa cộng sản,
về thực chất, là có tính chất kinh tế. C.Mác và Ph.Ăngghen viết:
“Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải
sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi

chủ nghĩa cộng sản là một trào lưu hiện thực nó xóa bỏ trạng thái hiện nay”[3 47].
“Trong xã hội cộng sản, trong đó không ai bị hạn chế trong một phạm vi hoạt
động độc chuyên, mà mỗi người đều có thể tự hoàn thiện mình trong bất kỳ lĩnh
vực nào thích, xã hội điều tiết toàn bộ nền sản xuất, thành thử tôi có khả năng hôm
nay làm việc này, ngày mai làm việc khác, buổi sáng đi săn, quá trưa đi đánh cá,
buổi chiều chăn nuôi, sau bữa ăn thì làm việc phê phán, tùy theo sở thích của tôi,
mà chẳn bao giờ trở thành người đi săn, người đánh cá, người chăn nuôi hoặc nhà
phê phán cả”[3-51].

11


Phân tích tính tất yếu của cách mạng vô sản, từ đấu tranh giai cấp trong lịch
sử đến đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Cũng trong tác phẩm “Hệ tư tưởng
Đức”, C.Mác và Ph.Ăngghen còn nhấn mạnh rằng:
“Cuộc cách mạng ấy phải được làm cho trở thành cần thiết, không những chỉ
vì nó là phương tiện duy nhất để lật đổ giai cấp thống trị, mà còn vì chỉ có cách
mạng mới khiến cho giai cấp đi lật đổ giai cấp khác có thể quét sạch mọi sự thối nát
của chế độ cũ đang bám chặt theo mình và trở thành có năng lực xây dựng xã hội
trên những cơ sở mới”[3-304].
Đến tác phẩm “Nguyên lý những người cộng sản” Ph.Ăngghen nêu định
nghĩa về chủ nghĩa cộng sản, về giai cấp vô sản:
“Chủ nghĩa cộng sản là học thuyết về những điều kiện giải phóng giai cấp vô
sản.
Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán
sức lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư bản
nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống còn
của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển biến tốt
hay xấu của công việc làm ăn, vào sự biến động của cuộc cạnh tranh không gì ngăn
nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp những người vô sản là giai cấp lao

động trong thế kỷ XIX”[4-456].

12


Đồng thời Ph.Ăngghen cũng luận giải làm sáng tỏ sự ra đời của giai cấp vô
sản là xuất phát từ cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh xảy ra từ nữa thế kỷ XVIII
và sau đó tái diễn ở tất cả các nước văn minh trên thế giới. Cuộc cách mạng ấy làm
thay đổi toàn bộ phương thức sản xuất tồn tại từ trước đến nay và loại những người
công nhân cũ và thay thế bằng những công nhân có trình độ cao hơn để điều khiển
máy móc. Như vậy, lao động ngày càng được phân công rộng rãi giữa công nhân
với nhau, thành thử người công nhân trước đây một mình làm trọn một công việc
thì nay chỉ làm một bộ phận công việc. Sự phân công lao động đó làm cho người ta
có thể sản xuất nhanh chóng hơn, do đó cũng rẽ hơn. Kết quả của sự phân công lao
động xã hội đó được Ph.Ăngghen chỉ ra rằng:
“Chúng ta thấy là trong các nước văn minh, việc sản xuất bằng công xưởng
đã được xác lập trong hầu hết tất cả các ngành lao động, và trong hầu hết tất cả các
ngành đó, thủ công nghiệp và công trường thủ công đều bị đại công nghiệp chèn
lấn.- vì vậy, tầng lớp trung gian trước đây, nhất là những người thợ cả thủ công
hạng nhỏ, ngày càng phá sản; địa vị trước đây của người sản xuất đã hoàn tòan thay
đổi và hai giai cấp mới được tạo ra dần dần cuốn hút tất cả các giai cấp khác vào
hàng ngũ của mình. Hai giai cấp đó là:
I. Giai cấp những nhà tư bản lớn. Hiện nay, trong tất cả các nước văn minh,
hầu như họ là những người độc chiếm mọi tư liệu sinh hoạt cả nguyên liệu, công cụ
( máy móc, công xưởng,vv.) cần thiết để sản xuất ra những tư liệu đó. Đó là giai
cấp những người tư sản hay giai cấp tư sản.
II. Giai cấp những người hoàn toàn không có của. Do tình hình như trên nên
họ buộc phải bán lao động của mình cho nhà tư sản để đổi lấy những tư liệu sinh
hoạt cần thiết cho cuộc sống của mình. Giai cấp đó gọi là giai cấp những người vô
sản hay giai cấp vô sản”[4-458,459].


13


Ph.Ăngghen còn luận giải rất sâu sắc và khoa học về địa vị của giai cấp vô
sản trong xã hội tư bản, và sự khác nhau giữa những người vô sản khác người nô
lệ; khác người nông nô; khác người thợ thủ công; khác công nhân công trường thủ
công.
Giai cấp vô sản không thể chỉ giải phóng mình nếu không đồng thời giải
phóng toàn xã hội. Nhưng giai cấp vô sản không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử
nếu không tổ chức ra thành một chính Đảng của giai cấp (giai cấp vô sản). Đảng
phải được hình thành và phát triển xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản,
nhất là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, về đấu tranh giai
cấp, về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, về xây dựng chính đảng của
giai cấp vô sản được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày trong tác phẩm “Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản”.
Giai cấp vô sản hiện đại là người có sứ mệnh đào huyệt chôn chủ nghĩa tư
bản và sáng lập ra một xã hội mới tốt đẹp hơn. Đó là C.Mác và Ph.Ăngghen đã
khẳng định trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. Sứ mệnh lịch sử thế giới của
giai cấp vô sản do vị trí kinh tế - xã hội của giai cấp vô sản trong lịch sử quy định.

14


Một là: Do địa vị khách quan của mình giai cấp vô sản là sản phẩm của nền
đại công nghiệp. Cùng với sự trưởng thành phát triển của nền đại công nghiệp, các
giai cấp khác dần dần bị phân tán, suy tàn và tiêu vong. Chỉ có giai cấp vô sản sẽ
ngày càng lớn lên song song với sự phát triển của nền đại công nghiệp. Giai cấp vô
sản được tuyển lựa trong tất cả các giai cấp trong dân cư. Sự tiến bộ của nền đại
công nghiệp còn đẩy từng bộ phận trong giai cấp thống trị vào hàng ngũ giai cấp vô

sản bộ phận ấy cũng đem lại cho giai cấp vô sản những yếu tố tiến bộ. Hơn nữa khi
đấu tranh chống chế độ phong kiến, giai cấp tư sản buộc phải kêu gọi sự giúp đỡ
của giai cấp vô sản, và do đó đã lôi cuốn giai cấp vô sản vào cuộc vận động chính
trị, nghĩa là đã cung cấp cho giai cấp vô sản những yếu tố tri thức chính trị phổ
thông, những vũ khí mà sau này giai cấp vô sản sẽ sử dụng để chống lại giai cấp tư
sản.
“Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai
cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và
tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản
phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”4-610].

15


Hai là: Khác với các giai cấp khác giai cấp vô sản không có tư liệu sản xuất,
phải bán sức lao động cho tư sản, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh,
mọi sự lên xuống của thị trường nhưng giai cấp vô sản chẳng có gì là của mình để
bảo vệ, họ phải phá huỷ hết thảy những cái gì từ trước tới nay vẫn bảo đảm và bảo
vệ cho chế độ tư hữu. Giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng triệt để vì:
“Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những
xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới”. Còn các giai cấp trung gian
mang tính bảo thủ, trì trệ, hơn nữa còn là phản động, tìm cách làm cho bánh xe lịch
sử quay ngược trở lại. Đoàn kết thống nhất là một thuộc tính cơ bản của giai cấp vô
sản để đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Giai cấp vô sản luôn là sự áp bức cùng
cực bởi giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản đã không đảm bảo cho giai cấp vô sản
những điều kiện sinh hoạt tối thiểu do họ có thể sống được trong vòng nô lệ. Như
vậy, có nghĩa là, sự tồn tại của giai cấp tư sản không còn tương dung với sự tồn tại
về phát triển xã hội. Do đó, "sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp
vô sản đều là tất yếu như nhau".
Ba là: Mục đích của giai cấp vô sản là lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và thiết

lập một chế độ xã hội mới, hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển khách quan
của xã hội, như C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích một cách khoa học rằng, lợi ích
cơ bản của giai cấp vô sản thống nhất với lợi ích toàn thể nhân lao động. Cho nên
giai cấp vô sản được sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động.
Phong trào của giai cấp vô sản là phong trào của đa số, vì lợi ích của đa số. Sự
đồng tình và ủng hộ này làm cho giai cấp vô sản trở thành đại biểu của tuyệt đại đa
số nhân dân lao động và có khả năng thực hiện khối liên minh, đoàn kết xung
quanh tất cả những người lao động bị áp bức đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, xây
dựng xã hội mới. Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen
chỉ ra rằng:

16


“Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực
hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập
của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số. Giai cấp vô sản, tầng lớp ở bên
dưới nhất của xã hội hiện đại, không thể vùng dậy, vươn mình lên nếu không làm
nổ tung toàn bộ cái thượng tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội
quan phương.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội
dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức
đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh
toán xong giai cấp tư sản nước mình đã”[4-605].
Bốn là: Do giai cấp vô sản ra đời gắn liền với nền sản xuất hiện đại, nên nó
là giai cấp có tổ chức và kỷ luật cao mà các giai cấp khác không thể nào có được,
nó có khả năng lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp cách mạng rằng: “Trong các giai đọan
khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn đại biểu cho lợi ích
của toàn bộ phong trào”.
Tất cả những yếu tố đó đã quyết định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai

cấp công nhân. Song, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã chỉ ra rằng giai cấp vô sản chỉ
có thể hành động với tư cách là một giai cấp, khi nó được tổ chức thành một chính
đảng riêng biệt. C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ rõ cho giai cấp vô sản toàn thế giới
hiểu rõ nhiệm vụ và mục đích đấu tranh của mình, đồng thời vạch ra những biện
pháp để đạt được mục đích đó. Sau này, VI.Lênin đã đánh giá:
“Công lao vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của C.Mác và Ph.Ăngghen
là ở chỗ, hai ông đã vạch rõ cho những người vô sản ở tất cả các nước thấy vai trò
của họ, nhiệm vụ của họ, sứ mệnh của họ là: làm những người đầu tiên vùng lên
đấu tranh cách mạng chống tư bản, tập hợp xung quanh mình, trong cuộc đấu tranh
này, tất cả những người lao động và tất cả những người bị áp bức”[11-201,202].

17


Rằng, “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai
trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa”[10-1].
1.2. Mác- Ăngghen đấu tranh thống nhất về mặt tư tưởng trong phong
trào công nhân.
Bước vào trong những năm 1830-1840 của thế kỷ XIX phương thức sản xuất
của tư bản chủ nghĩa đã phát triển lên tầm cao mới từ đó đã trở thành một lực lượng
kinh tế thống trị ở một số nước tư bản phát triển đó là như nước Anh, Pháp, Đức và
cùng một số các nước Tây Âu. Sự phát triển đó đã làm bộc lộ lên những mâu thuẫn
bên trong vốn có đó, biểu hiện về mặt xã hội, đó là cuộc đấu tranh của phong trào
công nhân chống các nhà tư bản đã lan rộng khắp. Từ đó mà làm cho sự mâu thuẫn
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến ngày càng căng thẳng và gay
gắt thêm, khiến cho phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản mở rộng ra
một số nước Tây Âu.
C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập ra lý luận khoa học bằng tất cả thiên tài của
trí tuệ vào hoạt động thực tiễn. Hai ông đã cố gắng đoàn kết những phần tử tiên tiến

của phong trào vô sản và đồng thời trực tiếp thành lập Đảng vô sản, hai ông đều
nhận thức sâu sắc cần làm cho giai cấp vô sản trở thành một lực lượng độc lập
trong phong trào dân chủ tư sản, khiến cho họ tiến tới thực hiện mục đích cộng sản
chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng hiểu rằng lúc này cần phải có một đảng vô
sản triệt để cách mạng thật sự độc lập có cơ sở lý luận đúng đắn. Có được như vậy
giai cấp vô sản mới có khả năng thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình. C.Mác
và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng:
“Hiện nay, đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình bày trước
toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình; và phải có một Tuyên
ngôn của đảng của mình để đập lại câu chuyện hoang đường và bóng ma cộng
sản”[4-595].
18


Sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đòi hỏi một cách
bức thiết phải có một hệ thống lý luận soi đường và một Cương lĩnh chính trị làm
kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Vào tháng 12 năm 1947, Đại hội lần thứ II
Liên đoàn những người cộng sản đã thảo luận và thông qua “Những nguyên lý của
chủ nghĩa cộng sản”, do Ph.Ăngghen trình bày và đồng thời cũng đã được Đại hội
uỷ nhiệm cho C.Mác và Ph.Ăngghen thảo ra bản tuyên ngôn chính thức, đó là
"Tuyên ngôn của Đảng cộng sản".
Việc tuyên bố bản "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" cũng là sự thông báo về
sự ra đời của một học thuyết cách mạng, một thế giới quan khoa học của những tư
tưởng C.Mác và Ph.Ăngghen. “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” ra đời là một bước
ngoặt quan trong, đánh dấu cho sự thống nhất về tư tưởng trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Từ nay giai cấp công nhân, mà đại diện của nó là đảng
cộng sản, đội tiền phong của giai cấp công nhân đã có một hệ tư tưởng độc lập,
thống nhất chỉ đạo phong trào, đưa phong trào ngày càng phát triển và đến đích
cuối cùng.


Tư tưởng cơ bản của Tuyên ngôn được Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh

trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản 1883:
“Tư tưởng cơ bản chủ đạo của Tuyên ngôn là: Trong mỗi thời đại lịch sử, sản
xuất kinh tế và cơ cấu xã hội; cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra cả
hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đaị ấy,
do đó từ khi chế độ công xã ruộng đất nguyên thuỷ tan rã toàn bộ lịch sử là lịch sử
các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và giai cấp đi
bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của
sự phát triển xã hội của họ nhưng cuộc đấu tranh ấy đến nay đã đến một giai đoạn
mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vô sản) không có thể tự giải
phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa,
nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể từ xã hội khỏi ách bóc lột,
ách áp bức và khỏi những cuộc đấu tranh giai cấp “[1-509,510]
19


CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐỐI VỚI VIỆC
XÂY DỰNG ĐẢNG TA HIỆN NAY.
Những tư tưởng thiên tài của C.Mác và Ph.Ăngghen về chính đảng cách
mạng của giai cấp vô sản nói chung và những tư tưởng về xây dựng đảng về tư
tưởng và tổ chức nói riêng đã có ảnh hưởng to lớn và trực tiếp đến sự phát triển của
toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đồng thời đóng góp to lớn vào
việc ra đời hàng loạt các đảng cách mạng của giai cấp công nhân trên toàn thế giới.
Kế thừa những giá trị của học thuyết Mác – Ăng ghen về xây dựng đảng của
giai cấp công nhân, Lênin đã vận dụng sáng tạo xây xây dựng nên học thuyết về
chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân ở nước Nga, tạo sự đoàn kết thống
nhất, tạo nên sức mạnh vô địch cho Đảng Bôn-xê-vích Nga, làm nên cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới- Cách mạng tháng 10 Nga.
Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tạo và rèn luyện , đã

trải qua nhiều thử thách, trở thành một Đảng Mác - Lênin kiên cường , trưởng
thành về chính trị, thống nhất về tư tưởng, vững chắc về tổ chức, luôn vững vàng
trước những biến cố vô cùng khó khăn của lịch sử ở trong nước và trên thế giới. Đó
là thành công của học thuyết Mác - Lênin về Đảng được vận dựng sáng tạo vào

20


việc xây dựng một chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân trong một nước
có nền kinh tế chậm phát triển, vốn là xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã mang bản chất giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng luôn đứng vững trên lập trường
và trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, luôn vận dụng đúng đắn một cách
sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác về Đảng cộng sản vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam. Đảng luôn trung thành với chủ nghĩa Mác- lênin, luôn chăm lo
đến xây dựng củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng, đảm bảo sự thống nhất về tư
tưởng và tổ chức, củng cố hệ tư tưởng, phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới làm định hướng cho sự
nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ công nhiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Kinh nghiệm lịch sử của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã chứng
minh rằng, học thuyết Mác - Lênin về đảng cộng sản đến nay vẫn có giá trị to lớn .
Kinh nghiệm ở một số nước Đông Âu và Liên Xô(cũ) vừa qua cũng đã chứng minh
quan điểm đúng đắn của Đảng ta rằng: mọi thành công hay thất bại của cách mạng
vô sản đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng; bất cứ nơi nào và lúc nào, đảng nào
vận dựng nó một cách giáo điều, xơ cứng, duy ý chí, vi phạm nguyên lý về đảng
của giai cấp công nhân thì nhất định trước sau đảng đó sẽ phạm sai lầm, đội ngũ
chia rẽ, mất uy tín trước quần chúng, có thể đưa cách mạng đến thất bại nặng nề.
Hiện nay, trên thế giới bọn cơ hội, xét lại và giai cấp tư sản đang tìm mọi

cách xuyên tạc nhằm phủ nhận giá trị của học thuyết Mác - Lêninvề Đảng, thì việc
nghiên cứu thực chất các nguyên lý của học thuyết Mác - Lênin càng có ý nghĩa to
lớn, giúp chúng ta có những lý luận để quán triệt và vận dựng sáng tạo đường lối,
chính sách xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong cách

21


mạng, người lãnh đạo chính trị duy nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

22


PHẦN C: KẾT LUẬN
Học thuyết Mác về chính Đảng của giai cấp vô sản là một bộ phận cấu thành
chủ nghĩa Mác. Những di sản của C.Mác và Ph.Ăngghen về chính Đảng của giai
cấp vô sản đã soi sáng về công tác xây dựng đảng, những tư tưởng về xây dựng
đảng vô sản về tư tưởng và tổ chức của hai ông đến hơn một thế kỷ trôi qua, đến
nay vẫn còn nguyên giá trị.
Gần tám mươi năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt
Nam giành được những thắng lợi vĩ đại trong thế kỷ XX đó là, thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
( nay là nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến
tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới và từng bước đưa
nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cũng chính từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành người lãnh đạo duy nhất của dân tộc
Việt Nam. Toàn bộ thực tiễn cách mạng Việt Nam gần tám thập kỷ qua chứng minh
rằng sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt

Nam. Có được nhưng thắng lợi vĩ đại đó là, do Đảng Cộng sản Việt Nam có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có đường lối lãnh đạo đúng đắn, đã vận dụng, phát triển
một cách sáng tạo học thuyết về xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác, luôn mang
trong mình bản chất của chính đảng mácxít. Cũng trong quá trình lãnh đạo
cáchmạng, Đảng Cộng sản Việt Nam được tôi luyện và ngày càng trưởng thành, có
những đóng góp quan trọng và làm phong phú thêm kho tàng lý luận về chính đảng
của giai cấp vô sản.
Hơn hai mươi năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
nhân dân ta đã tiến hành công cuộc đổi mới và đã giành được những thành tựu rất
quan trọng và có ý nghĩa lịch sử. Hiện nay, Đảng và nhân dân ta tiếp tục công cuộc
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu vì mục tiêu
23


dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Điều đó đòi hỏi Đảng
Cộng sản Việt Nam phải luôn nâng cao trình độ lãnh đạo và sức chiến đấu ngang
tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Nhất là khi mà chủ nghĩa
xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình” hòng xoá bỏ chủ nghĩa xã hội thế
giới và chống phá cách mạng nước ta, thì việc Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định
bản chất cách mạng và khoa học của chính đảng của giai cấp vô sản, mà C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ ra càng có ý nghĩa to lớn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/C.Mác và Ph.Ăngghen (1980) , Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
2/C.Mác và Ph.Ănghen (1995), Tòan tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3/C.Mác và Ph.Ănghen (1995), Tòan tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4/C.Mác và Ph.Ănghen (1995), Tòan tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5/C.Mác và Ph.Ănghen (1995), Tòan tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6/C.Mác và Ph.Ănghen (1995), Tòan tập, tập 18, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7/C.Mác và Ph.Ănghen (1993), Tòan tập, tập 21, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8/C.Mác và Ph.Ănghen (1997), Tòan tập, tập 33, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9/VI.Lênin (1974), Tòan tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva,
10/VI.Lênin (1974), Tòan tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva,
24


11/VI.Lênin (1974), Tòan tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

25


×