Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

HÀNH CHÍNH học đại CƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.22 KB, 42 trang )

HÀNH CHÍNH HỌC ĐẠI CƯƠNG

Học liệu
Môn học

Hành chính học đại cương

1

Đoàn Trọng Tuyến (chủ biên). Hành chính học đại
cương. NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001.

2

Học viện Hành chính quốc gia Hà Nội. Thuật ngữ
hành chính. NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002.

3

Học viện Hành chính quốc gia Hà Nội. Tập bài giảng
một số vấn đế về hành chính học. NXB Chính trị
quốc gia Hà Nội, 2000.

4

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tìm hiểu
về khoa học chính sách công. NXB Chính trị quốc gia
Hà Nội, 1999.

5


Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên). Hành chính công.
NXB Thống kê Hà Nội, 2003

Chương I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

I. Tìm hiểu một số khái niệm cơ bản:
1. Hành chính là gì:
- Hành chính theo nghĩa rộng là chỉ những hoạt động, những tiến trình chủ
yếu có liên quan đến những biện pháp để thực thi các mục tiêu, nhiệm vụ đã
được xác định trước (VD: Mục tiêu phát triển nông nghiệp là sử dụng triệt
để các loại đất đai (đặc biệt là đồi núi trọc), Chính phủ đề ra mục tiêu trồng
rừng phủ xanh đồi trọc, giao đất, giao rừng cho nhân dân. Để đạt mục tiêu
dó, Chính phủ thực hiện các biện pháp như giao đất, giao rừng cho nhân dân,


cho vay vốn... và những hoạt động đó là các hoạt động hành chính, chỉ có cơ
quan nhà nước mới thực hiện được).
Khi có từ 2 người trở lên cùng làm việc với nhau, thì lúc đó xuất hiện một
hình thức thô sơ của quản lý. Dạng quản lý này chính là hoạt động hành
chính, hay nói cách khác, hành chính chính là một dạng của quản lý (quản lý
có nghĩa rộng hơn hành chính, nói hành chính nghĩa là đã bao hàm cả quản
lý).
Hành chính như là một loại hoạt động chung nhất của các nhóm người hợp
tác với nhau để hoàn thành các mục tiêu mà họ muốn hướng tới. Như vậy,
hành chính chính là những biện pháp tổ chức các nhóm người hợp tác trong
hoạt động với nhau để thực hiện những mục tiêu mà cả nhóm người đó
muốn hướng tới.
- Theo nghĩa hẹp, hành chính là những hoạt động quản lý các công việc của
nhà nước và như vậy, hành chính xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà

nước (khi nhà nước ra đời thì cũng xuất hiện ngay hoạt động hành chính, nó
cũng tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của nhà nước).
2. Hành chính và quản lý:
- Như trên đã nói, hành chính là một dạng quản lý đặc biệt nhất, nhất la dạng
quản lý nhà nước. Hành chính theo nguồn gốc từ cổ (la-tinh) có 2 nghĩa:
+ Hành chính là sự giúp đỡ, hỗ trợ, hay là phục vụ của một người, một nhóm
người đối với một người hoặc một nhóm người khác.
+ Hành chính là sự quản lý, hướng dẫn hay cai trị của một người, một nhóm
người này đối với một người hoặc một nhóm người khác (cai trị ở đây là sự
điều hành mang tính bắt buộc.
Theo nghĩa thứ 2, quản lý là điều khiển, là tổ chức thực hiện công việc theo
4 nhóm chức năng chính sau:
+ Lập kế hoạch, trong đó vạch ra mục tiêu cần đạt được. Chỉ ra các phương
thức để đạt được mục tiêu đó (VD: mục tiêu đặt ra là xoá đói, giảm nghèo
thì phải có biện pháp tạo công ăn việc làm, hướng dẫn sản xuất...).
+ Nhóm chức năng tổ chức phân cong, phối hợp các nguồn lực để thực hiện
các mục tiêu đã đặt ra.


+ Nhóm chức năng hướng dẫn, lãnh đạo đối với tất cả các lực lượng đó.
+ Nhóm chức năng kiểm tra, đôn đốc và xử lý các thông tin phản hồi (VD:
như Chính phủ thi hành chỉ thị cấm pháo nổ thì phải có đầu tư chuyển đổi
nghề cho các làng nghề sản xuất pháo...).
- Nội dung hành chính mà ta nghiên cứu không bao hàm toàn bộ nội dung
của quản lý. Nội dung toàn diện của quản lý như quản lý nhà nước bao gồm
cả quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, mà trong đó hành
chính chỉ là quyền hành pháp.
- Quản lý và hành chính là những hoạt động thực tiễn, nó mang tính quy
luật, do đó nó là một khoa học. Mặt khác, hành chính còn được coi là một
nghệ thuật, bởi vì đối tượng của quản lý hành chính là mọi công dân không

phân biệt trình độ, không phân biệt về chức vụ cũng như không phân biệt về
các lĩnh vực hoạt động của công dân đó.
3. Mối quan hệ giữa nền hành chính với các phạm trù có liên quan trong
nền hành chính:
a.Mối quan hệ giữa hành chính và tổ chức:
- Tổ chức là gì? Nói theo nghĩa rộng, đó là cơ cấu tồn tại của các sự vật, mỗi
sự vật không thể tồn tại mà không có một hình thức liên kết nhất định các
yếu tố thuộc về nội dung. Tổ chức vì vậy nó là một thuộc tính của bản thân
các sự vật.
- Hành chính liên quan đến việc ra các quyết định và hướng dẫn các tổ chức,
các cá nhân để đạt được mục tiêu mà các quyết định hành chính đó đề cập
đến (VD: UBND tp Hà Nội ra quyết định được thể hiện trong kế hoạch phát
triển tp đến năm 2020 thu nhập đầu người phải đạt 1.500 USD/năm; để đạt
được mục tiêu đó, UBND phải có KH, HD để các tổ chức, cá nhân tham gia
đẩy mạnh sản xuất, tăng thu nhập...).
b. Mối quan hệ giữa hành chính và chính trị:
- Hành chính là để thực thi chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Nhà nước
thiết lập ra nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của quốc gia đó. Như vậy nền
hành chính của một quốc gia được xây dựng nên chính là để thực hiện nhiệm
vụ chính trị của quốc gia.


- Nhà nước là một tổ chức công quyền nắm pháp quyền, và đó là công cụ có
tính chất cưỡng bức.
- Nhà nước đại diện cho lợi ích của toàn XH, bảo vệ lợi ích của XH và lợi
ích chính đáng của công dân.
- Hành chính mang tính kỹ thuật tương đối độc lập, vì vậy khi có sự thay đổi
về chế độ chính trị thì phần lớn những kỹ thuật nghiệp vụ hành chính vẫn
được tiếp thu và sử dụng cho việc quản lý đất nước.
Như vậy, nền hành chính của bất kỳ quốc gia nào cũng đều phục vụ mục tiêu

chính trị của quốc gia đó thông qua bộ máy nhà nước của quốc gia đó, và nó
tồn tại qua các thời kỳ tương đối độc lập.
c.Hành chính và pháp luật:
- Nhà nước quản lý XH bằng pháp luật thông qua hệ thống các cơ quan hành
chính được thiết lập ra.
- Các quốc gia hiện nay cơ bản đều theo xu hướng phát triển chung là xây
dựng nhà nước pháp quyền, tức là mọt nhà nước được điều hành, chỉ huy
bằng một hệ thống pháp luật thống nhất, và hệ thống pháp luật này được các
cơ quan hành chính nhà nước cụ thể hoá bằng những quy phạm dưới luật và
bằng các thủ tục hành chính cụ thể (VD: thực hiện Luật Quốc tịch thì hành
chính phải quy định đăng ký hộ khẩu thường trú, phải có các công đoạn xác
minh về con người, nhà ở...).
- Hành chính còn mang tính thuyết phục, giáo dục, động viên và tổ chức
quần chúng thực hiện pháp luật (bởi vì pháp luật chỉ được thực hiện nghiêm
khi người dân hiểu và nó phải hợp lý).
d. Hành chính và kinh tế:
- Hành chính thuộc về thượng tầng kiến trúc, trong khi đó kinh tế là hạ tầng
cơ sở. Do đó nó có mối quan hệ rất mật thiết với nhau. Kinh tế chỉ có thể
phát triển trong điều kiện môi trường pháp lý thuận lợi - môi trường pháp lý
đó chính là những quyết định hành chính (VD: Để phát triển kinh tế nước ta,
nhà nước phải ban hành hàng loạt các đạo luật như Luật Đầu tư, Liên doanh,
luật Thuế... do đó đã làm nảy sinh hàng loạt các văn bản hành chính hướng
dẫn thi hành).


- Hành chính giữ vai trò điều phối, ảnh hưởng và tác động đến toàn bộ nền
kinh tế quốc dân (VD: Với mỗi quốc gia phải có cơ cấu kinh tế phát triển
thuận lợi giữa các vùng, miền, các ngành... Do đó, vai trò của nhà nước là
điều tiết, chữ không để tự phát sẽ làm mất cân đối chung của quốc gia, mới
đảm bảo được sự phát triển hài hoà).

e.Hành chính và XH:
- Nhà nước là một sản phẩm của XH, trong khi đó hành chính là một sản
phẩm của nhà nước, như vậy, hành chính thực chất cũng là một sản phẩm
của XH. Nhưng trong mỗi chế độ XH nhất định, có những thiết chế tổ chức
hành chính riêng, và nó chịu ảnh hưởng nhiều của thiết chế XH đó (VD: ở
thời kỳ PK có tổ chức hành chính khác với thời kỳ TBNC).
4. Khoa học hành chính là gì:
- KN: Hành chính học là một khoa học nghiên cứu các quy luật quản lý có
hiệu quả những công việc XH của các tổ chức hành chính nhà nước (nói đến
quản lý trong hành chính là quyền lực phải phục tùng, tuy rằng một số vấn
đề không đáp ứng hết thảy mọi yêu cầu của người dân).
- Đối tượng của khoa học hành chính:
+ Là việc quản lý toàn bộ đời sống XH.
+ Những quy luật vận hành khách quan trong hoạt động quản lý của bộ máy
nhà nước (VD: quản lý buôn bán tại các cửa khẩu, nếu không quản lý tốt thì
hàng hoá từ bên ngoài vào sẽ tác động vào nền kinh tế trong nước, hơn nữa
nếu không quản lý chặt sẽ gây thất thu thuế cho ngân sách nhà nước, cho
nên quản lý nhà nước ở đây phải trên nhiều lĩnh vực).
- Nội dung cơ bản của hành chính bao gồm những vấn đề chính sau:
+ Nghiên cứu về chức năng hành chính nhà nước.
+ Nghiên cứu về thể chế hành chính nhà nước (các văn bản QPPL về ngành)
+ Tổ chức hành chính (tổ chức hành chính liên quan đến hiệu quả quản lý
của một nền hành chính nói chung, nếu tổ chức hành chính tốt thì hiệu quả
quản lý của nó sẽ được nâng cao).


+ Quyết định hành chính - là cách quản lý của hành chính.
+ Vấn đề công vụ và công chức.
+ Quản lý tài chính công (bộ máy hành chính nhà nước được hưởng ngân
sách nhà nước cấp theo biên chế à theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

từng cấp).
+ Nghiên cứu vấn đề liên quan đến hành chính công sở.
+ Nghiên cứu cải cách hành chính.
II. Nền hành chính nhà nước:
1. Hành chính công (hành chính nhà nước):
- Theo quan niệm của một số nhà nghiên cứu, học giả hành chính học thì họ
cho rằng, hành chính công bao gồm luật pháp, các quy tắc, quy chế, thiết
chế... để điều tiết hoạt động quyền hành pháp.
- Cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của tổ chức bộ máy hành chính cũng
như mối quan hệ mà trong đó các công chức làm việc.
- Hành chính công còn bao gồm những đội ngũ cán bộ công chức làm việc
trong bộ máy hành chính công quyền. Những người này là người có trách
nhiệm thực thi cong vụ nhà nước họ được giao.
Ba yếu tố trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, không thể quan niệm yếu
tố này quan trọng hơn yếu tố kia. Do đó, có thể đi đến ĐN chung vê hành
chính công như sau:
* Hành chính công là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực
nhà nước đối với các quá trình XH và hành vi hoạt động của công dân, do
các cơ quan trong hệ thống hành pháp từ TW đến cơ sở tiến hành để thực
hiện những chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ
XH, duy trì trật tự an ninh, thoả mãn nhu cầu hợp pháp của công dân.
2. Hành chính công và hành chính tư:


- Hành chính công và hành chính tư đều thuộc về lĩnh vực hành chính và có
những cơ sở giống nhau, đồng thời có một số điểm khác nhau về nguyên tắc,
sự khác nhau đó là:
+ Hành chính công nhằm phục vụ lợi ích công cộng (VD: NQ13 của Chính
phủ về đảm bảo trật tự an toàn giao thong thì nhằm phục vụ lợi ích công
cộng).

+ Bộ máy của Chính phủ là một bộ máy đặc biệt, nó có phạm vi điều chỉnh
toàn quốc. Còn hành chính tư thì phạm vi điều chỉnh hẹp (VD: trong 1 công
ty TNHH thì hành chính tư trong doanh nghiệp này chỉ trong phạm vi công
ty đó mà thôi).
+ Hành chính công luôn bị điều tiết rất chặt chẽ trong khuôn khổ hệ thống
pháp luật, nói cách khác, hành chính công dựa trên luật pháp nhà nước đề
điều chỉnh các mối quan hệ.
+ Hành chính công thì kỹ năng của nó rất đa dạng, rộng lớn so với hành
chính tư, nhưng hành chính công thường cồng kềnh, kém hiệu quả ở một số
khâu (VD: khi quyết định một vấn đề nào đó thì phải xin ý kiến, hội họp
nhiều bộ, ngành, cho nên thời gian lâu; còn hành chính tư nhỏ, có thể quyết
định ngay được vấn đề).
3. Hành chính nhà nước trong hệ thống tổ chức quyền lực nhà nước:
- Nhà nước bao giờ cũng gồm 3 bộ phận quyền lực: quyền lập pháp (giao
cho cơ quan duy nhất là Quốc hội); quyền hành pháp (đứng đầu là Chính
phủ ở cấp TW và UBND địa phương các cấp), quyền hành pháp gồm 2 bộ
phận quyền lực cụ thể: một là quyền lập quy (ban hành các văn bản QPPL
dưới luật), hai là quyền hành chính (tức là quyền tổ chức và vận hành bộ
máy hành chính nhà nước một cách hợp lý nhất); và quyền tư pháp.

(sơ đồ)


III. Nền hành chính nhà nước Việt Nam :
1. Ba yếu tố cấu thành nền hành chính nhà nước Việt Nam :
Nền hành chính nhà nước nói chung của các nước thường được cấu thành
bởi một số yếu tố tạo nên sự hoàn chỉnh của nó. Các yếu tố này có quan hệ
mật thiết với hau, không thể coi nhẹ yếu tố này hay yếu tố khác và cũng
không thể không có nó. Đối với nền hành chính nhà nước Việt Nam được tạo
nên bởi 3 yếu tố cơ bản sau:

- Hệ thống thể chế quản lý XH theo pháp luật, bao gồm: Hiến pháp, luật, các
bộ luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm dưới luật của các cơ quan hành
chính nhà nước có thẩm quyền ban hành tạo nên một khuôn khổ pháp lý cho
hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước. Tất cả các văn bản đó, người
ta coi là thể chế hành chính nhà nước.
- Cơ chế tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính các cấp các
ngành từ TW đến các địa phương (TW-tỉnh-huyện-xã). Vị trí của yếu tố này
là chuyển hệ thống thể chế nhà nước vào cuộc sống.
- Đội ngũ cán bộ công chức bao gồm những người thực thi công quyền trong
bộ máy hành chính công. Những công chức được nhà nước tuyển dụng, bổ
nhiệm làm một chức vụ thường xuyên và được hưởng lương từ ngân sách
nhà nước. Vị trí của yếu tố này rất quan trọng, nếu không có yếu tố này thì
bộ máy không có người điều hành, cho nên không thể vận hành được.
Ba yếu tố trên có quan hệ chặt chẽ, không thể thiếu yếu tố nào.
2. Những đặc tính chủ yếu của bộ máy nhà nước:


- Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị, vì: Hệ thống hành chính
được thiết lập ra để quản lý XH, làm cho XH phát triển một cách trật tự, lành
mạnh theo mục tiêu chính trị mà được nhà nước đó xác lập. Đối với mỗi
quốc gia, nhiệm vụ chính trị đó thường do đảng cầm quyền định ra và lãnh
đạo thống nhất (hệ thống chính trị nước ta có 3 bộ phận: Đảng CSVN, bộ
máy nhà nước, MTTQ và các tổ chức CT-XH khác).
- Tính pháp quyền: Theo xu hướng phát triển chung của nhà nước thì tất cả
các quốc gia trên thế giới đều phải tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền,
tức là nhà nước hoạt động dựa trên nền tảng luật pháp.
- Tính liên tục, tính ổn định và tính thích ứng: Quản lý nhà nước chính là
quản lý XH, mà XH phát triển liên tục, do đó nó phải thích ứng (VD: thời
đại ngày nay KHKT phát triển, ứng dụng nhiều công nghệ mới, do đó cán bộ
phải biết, phải học, phải thích ứng).

- Tính chuyên môn hoá và nghề nghiệp cao theo ngạch-bậc.
- Tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ. Bởi vì trong hệ thống hành chính được tổ
chức thành từng cấp (cấp TW quản lý gì, cấp tỉnh quản lý gì, mỗi cấp được
quyền quyết định những vấn đề gì, phạm vi đến đâu...).
- Tính không vụ lợi, tính vô tư, công tâm, trong sạch vì: bộ máy hành chính
là công cụ do nhân dân lập ra để quản lý XH, là chỗ dựa tin cậy của nhân
dân.
- Tính nhân đạo: là công cụ phục vụ nhân dân, không phải là đối lập với
nhân dân, cho nên nó là chỗ dựa cho nhân dân.
Tóm lại, bộ máy hành chính nhà nước chính là do nhân dân lập nên và phục
vụ nhân dân, cho nên nhân dân chính là chỗ dựa cho bộ máy hành chính nhà
nước, có nhân dân thì nó mới phát triển.
3. Nguyên tắc hoạt động của nền hành chính nhà nước Việt Nam :
- Đối với nền hành chính nhà nước Việt Nam, một trong những nguyên tắc
quan trọng được xác định từ ngay sau cách mạng tháng 8 thành công, đó là
nguyên tắc dựa vào dân, tập hợp dân để xây dựng nhà nước, lấy dân làm chỗ
dựa cơ bản cho nhà nước.
- Nguyên tắc quản lý nhà nước theo pháp luật và bằng pháp luật.


- Nguyên tắc tập trung dân chủ, chống các khuynh hướng cục bộ địa
phương. Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc
về nhân dân, nhưng nhân dân thực hiện quyền lực đó thông qua hệ thống cơ
quan dân cử (Quốc hội, HĐND các cấp).
- Kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ nhằm phát huy thế
mạnh của từng ngành cũng như thế mạnh của từng vùng của Tổ quốc (VD:
ngành than có Tổng Cty than thuộc Bộ Công nghiệp, mà than tập trung
nhiều ở Quảng Ninh, Thái Nguyên..., do đó ngành này phải kết hợp với địa
phương để lãnh đạo, chỉ đạo...).
- Nguyên tắc phân biệt rõ quản lý nhà nước với nguyên tắc quản lý sản xuất

kinh doanh nhằm mục đích phát huy tính năng động, sáng tạo trong sản xuất
kinh doanh của các đơn vị, các tổ chức sản xuất kinh doanh; ở đây quản lý
nhà nước chỉ giữ vai trò định hướng phát triển, chứ không đi vào quản lý
trực tiếp sản xuất kinh doanh (VD: ngành sản xuất giầy da, trước đây Bộ
Công nghiệp quản lý theo kế hoạch - nhà nước trực tiếp can thiệp vào sản
xuất kinh doanh, bây giờ nhà nước chỉ định hướng, cho ngành quyền tự sản
xuất kinh doanh, không giao chỉ tiêu như trước nữa...).
- Nguyên tắc phân biệt hành chính điều hành và hành chính tài phán:
+ Hành chính điều hành là dựa vào các nghị quyết, a2 của Đảng và QH mà
tổ chức chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, quyết định
đó trong cuộc sống.
+ Hành chính tài phán có chức năng giải quyết những vi phạm pháp luật
hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước và công chức hành chính
đối với công dân nhằm đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật công bằng hơn,
khách quan hơn (VD: như hiện nay, nếu toà án xử oan sai thì phải xin lỗi
đương sự và phải bồi thường cho đương sự).
- Nguyên tắc kết hợp làm việc tập thể với chế độ một thủ trưởng.
+ Đó là những cơ quan thẩm quyền chung, hoạt động theo chế độ tập thể
quyết định (VD: khi ký TM. TTg, TM.UBND...).


+ Cơ quan thẩm quyền riêng là cơ quan hoạt động theo chế độ thủ trưởng
quyết định và người thủ trưởng đó phải chịu trách nhiệm với cấp trên cũng
như cơ quan, tổ chức của mình về toàn bộ những quyết định đó (khi ký VB,
người đứng đầu bao giờ cũng đề rõ chức danh).
4. Chức năng quản lý hành chính nhà nước:
Là hệ thống thống nhất phương hướng hoạt động cơ bản, tất yếu của các cơ
quan hành chính nhà nước phát sinh từ sự phân công chuyên môn hoá trong
hoạt động quản lý, nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã đặt ra.



Chương II:
CHỨC NĂNG HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
I. Khái niệm và ý nghĩa:
1. KN:
- Để hiểu rõ chức năng hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay, chúng ta
cần làm rõ vị trí của nó trong hệ thống chính trị của quốc gia, trong tổng thể
mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản, giữa Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam và các tổ chức đoàn thể quần chúng được tập hợp trong MTTQ Việt
Nam. Các bộ phận này hoạt động theo một cơ chế nhất định nhằm đảm bảo
cho quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân như quy định trong Hiến
pháp nước ta.
- Chức năng hành chính là một hoạt động hành chính được tách ra trong quá
trình phân công lao động của XH.

(Sơ đồ)

* Quyền lập quy: ở cấp TW do bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện; ban hành
các văn bản quy phạm dưới luật (VD: NĐ của Chính phủ, Thông tư của các
bộ...)
* Quyền hành chính: là quyền xây dựng, tổ chức, vận hành bộ máy hành
chính (VD: Chính phủ nghiên cứu tổ chức bộ máy hành chính của các tỉnh
mới tách, thành lập một số cơ quan...).
2. ý nghĩa:


- Việc làm rõ chức năng hành chính nhà nước để chúng ta hình dung rõ các
quá trình hoạt động hành chính diễn ra trong đời sống XH, để từ đó có
những điều chỉnh, bổ sung để làm cho nền hành chính ngày càng đáp ứng
được sự phát triển đa dạng của nền kinh tế.

- Việc làm rõ chức năng hành chính nhà nước để chúng ta có thể phát triển t
heo kịp sự phát triển chung của nền hành chính thế giới.
II. Nội dung chức năng hành chính nhà nước tổng quát:
1. Chức năng hành chính nhà nước đối với dân:
Đây được coi là một trong những chức năng hành chính nhà nước quan
trọng, bởi đối tượng điều chỉnh của bất kỳ nền hành chính nào cũng là nhân
dân.
2. Chức năng hành chính nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, gồm:
- Chức năng định hướng, dẫn dắt cho nền kinh tế thị trường phát triển theo
mục tiêu chung của quốc gia.

- Nền hành chính nhà nước khuyến khích, hỗ trợ cho các thành phần kinh tế
phát triển bằng các chủ trương, chính sách (VD: ta chuyển đổi từ bao cấp
sang kinh tế thị trường thì nhà nước đã có nhiều chủ trương khuyến khích
người nông dân sản xuất theo kinh tế hộ gia đình).
-Nhà nước giữ vai trò điều tiết, ngăn ngừa các biểu hiện tiêu cực trong nền
kinh tế thị trường (điều tiết bằng chính sách, tài chính, hoặc bằng những chủ
trương lớn khác khi điều chỉnh các vùng kinh tế trọng điểm; ngăn ngừa bằng
các chính sách như chống buôn lậu, gian lận thương mại...).
3. Chức năng hành chính đối với XH:
- Nền hành chính được thiết lập ra mục đích là để quản lý XH, làm cho XH
phát triển theo một trật tự nhất định.
- Khi XH phát triển, cũng đòi hỏi chức năng hành chính nhà nước đối với
XH cũng phát triển theo để đáp ứng yêu cầu XH đó. Chính vì vậy mà các


quốc gia do đó là quốc gia phát triển hay chậm phát triển cũng đều phải thực
hiện công cuộc cải cách hành chính.
4. Chức năng vận hành hành chính nhà nước, gồm các nội dung sau:
- Nội dung liên quan đến quy hoạch, kế hoạch phát triển của đất nước (là

điều tất yếu đặt ra đối với mỗi quốc gia, ví dụ như quy hoạch phát triển
vùng, miền, đồng đều giữa các ngành...).
- Nội dung liên quan đến vấn đề tổ chức, thiết kế bộ máy hành chính nhà
nước.
- Nội dung liên quan đến việc sắp xếp, bố trí nguồn nhân lực một cách hợp
lý, vì nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng trong sản xuất ra của cải, do đó
việc sắp xếp, bố trí nguồn nhân lực này có ý nghĩa quyết định đến sự phát
triển nhanh hay chậm của đất nước.
- Vấn đề ban hành ra các quyết định hành chính, vì quản lý hành chính là
thông qua các VB, mà quyết định hành chính là VB có tính QPPL, có tính
truyền đạt thực hiện các chủ trương, chính sách...
- Vấn đề điều hành, hướng dẫn, phối hợp việc thi hành các chủ trương của
nhà nước.
- Nội dung liên quan đến việc tổ chức quản lý tài chính: đây là nguồn tài
chính mà nhà nước phân bổ cho các bộ, ngành, cơ quan, địa phương. Vì vậy,
vấn đề quản lý và sử dụng hợp lý phải được đặc biệt quan tâm.
III. Phương tiện cơ bản để thực hiện chức năng hành chính nhà nước:

(Sơ đồ)


- Muốn thực hiện chức năng hành chính nhà nước thì phải có địa vị pháp lý.
Địa vị pháp lý có ở cơ quan thẩm quyền chung và cơ quan thẩm quyền riêng.
Từ đó xác đinh được phải làm gì và ai làm; trong quá trình thực thi nhiệm
vụ, cần có gì để thực hiện và kết quả công việc được thể hiện ở các quyết
định hành chính.

Chương III
THỂ CHẾ NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
I. Thể chế và thể chế nền hành chính nhà nước:

1. Thể chế là gì?
- Thể chế có thể hiểu là những quy tắc, những quy định, những quy chế,
những nội dung... được ban hành chính thức bằng văn bản hoặc không chính
thức để điều chỉnh, can thiệp vào mọi mối quan hệ XH. (chính trị, kinh tế,
văn hoá-XH...) nhằm bảo đảm cho những mối quan hệ đó phát triển theo
những chủ đích đã định trước.
- Thể chế trong hệ thống bộ máy nhà nước là hệ thống những quy định luật
lệ của một chế độ XH nhất định buộc mọi người phải tuân theo. Như vậy,
thể chế gắn liền với sự ra đời của nhà nước (VD: thời PK những quy định
cho người từ 18 tuổi trở lên phải nộp thuế thân... mà nó bắt buộc mọi người
phải tuân theo, đó chính là thể chế trong thời kỳ PK).
- Trong lịch sử nhân loại đã tồn tại 5 hình thái kinh tế-XH (nguyên thuỷ,
CHNL, PK, TBCN, CSCN), mỗi hình thái đó lại phân chia thành những thể
chế cụ thể như: thể chế chính trị, thế chế kinh tế, thể chế văn hoá, thể chế
nhà nước...
2. Thể chế nền hành chính nhà nước:


- KN: Thể chế nền hành chính nhà nước là một hệ thống bao gồm các luật,
văn bản quy phạm dưới luật tạo nên khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan
hành chính nhà nước hoạt động, vì:
+ Hoạt động hành chính nhà nước dựa trên nguyên tắc quyền lực phục tùng,
vì vậy nó đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật để điều chỉnh các mối quan
hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng (khách thể) qk,
- Thể chế hành chính nhà nước bao giờ cũng gắn liền với hệ thống chính trị
của quốc gia (hệ thống chính trị ở nước ta gồm 3 bộ phận: Đảng CSVN, Bộ
máy nhà nước, MTTQ và các tổ chức chính trị-XH khác; trong đó Đảng
CSVN giữ vai trò lãnh đạo nhà nước bằng các hủ trương, đường lối lớn; bộ
máy nhà nước gồm Chính phủ, các bộ, ban ngành, UBND các cấp tổ chức
thực hiện trên cơ sở các luật pháp ban hành; MTTQ giữ vai trò tập hợp các

lực lượng để thực thi các chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước).
3. Các yếu tố cấu thành nền hành chính nhà nước:
- Hệ thống các văn bản pháp luật do nhà nước đặt ra để quản lý XH (VD:
các luật, bộ luật, các NĐ, QĐ...).
- Các văn bản pháp quy quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
các cơ quan hành chính nhà nước từ TW đến địa phương (VD: về tổ chức bộ
máy nhà nước thì Hiến pháp quy định có 4 cấp, cụ thể hoá là Luật Tổ chức
bộ máy nhà nước, có NĐ của Chính phủ, các Thông tư hướng dẫn thi
hành...).
- Các văn bản quy định về chế độ công vụ và công chức (VD: Pháp lệnh cán
bộ công chức và các văn bản chi tiết như NĐ95 quy định về tuyển dụng
công chức, NĐ96 quy định chế độ thôi việc của công chức...).
- Các chế định về tài phán hành chính nhà nước (tài phán đảm bảo cho công
chức thực hiện nhiệm vụ của mình, nếu có vấn đề gì thì công chức được
khiếu nại lên cơ quan có thẩm quyền và được phán xét để đảm bảo quyền
bình đẳng của công chức nhà nước trước pháp luật).
- Hệ thống các thủ tục hành chính để giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước
với công dân, giữa nhà nước với các tổ chức XH (VD: cá thủ tục đăng ký hộ
khẩu gồm những loại giấy tờ gì, ai làm...).


5 yếu tố trên có quan hệ mật thiết với nhau, có yếu tố mang tính vĩ mô, có
yếu tố mang tính cụ thể... tổng hợp nên nền hành chính nhà nước.
II. Vai trò của thể chế nền hành chính nhà nước:
1. Cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý của nền hành chính nhà nước:
Như ta đã biết, thể chế nền hành chính nhà nước bao gồm nhiều yếu tố cấu
thành, tạo nên một khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh để làm căn cứ cho các cơ
quan trong quá trình hoạt động của mình (VD: đối với cơ quan xuất, nhập
cảnh phải có một loạt văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, có thẩm
quyền gì trong quản lý xuất, nhập cảnh, quy định các thủ tục để cơ đó thực

thi).
2. Cơ sở pháp lý để xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước:
Việc bố trí nhân sự trong bộ máy hành chính nhà nước tuỳ thuộc vào vị trí
của từng cấp hành chính (VD: UBND Hà Nội phải bố trí số lượng đại biểu
HĐND, các chức danh nhiều hơn một số tỉnh khác do Hà Nội có vị trí quan
trọng, dân số nhiều...; hoặc Chủ tịch UBND Tp Hà Nội có hàm tương đương
bộ trưởng mà một số tỉnh khác lại không được như vậy).
4. Cơ sở để xây dựng mối quan hệ cụ thể giữa nhà nước và công dân, nhà
nước và các tổ chức XH khác:

Trong XH ta hiện nay, các tổ chức XH ngày càng phát triển, do đó xây dựng
mối quan hệ cụ thể sẽ giúp nhà nước tiến hành quản lý, điều hành có hiệu
quả hơn, chặt chẽ hơn.
III. Nội dung cơ bản của thể chế nền hành chính nhà nước:
1. Quản lý hành chính nhà nước về kinh tế: gồm các vấn đề chính sau:
- Quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô (trách nhiệm này thuộc cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất là Chính phủ) như định hướng vùng, miền, xây dựng các
khung công nghiệp, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng...


- Ngăn ngừa (chủ yếu bằng cơ chế chính sách) các hoạt động bất hợp pháp
làm ảnh hưởng đến nền kinh tế (VD: cấm nhập khẩu một số mặt hàng hoặc
tạm thời hạn chế, đánh thuế cao đối với một số mặt hàng để điều tiết sản
xuất trong những, khuyến khích sản xuất trong nước).
2. Quản lý hành chính nhà nước về tiền tệ:
- Quản lý tài sản, tài nguyên của quốc gia.
- vấn đề thuế, vì thuế là nguồn thu quan trọng của quốc gia, do đó nhà nước
quản lý bằng luật chặt chẽ, gắn trách nhiệm của công dân vào việc nộp thuế.
- Quản lý, điều tiết các nguồn thu (từ buôn bán thương mại, dầu khí, các loại

phí, lệ phí, hàng hoá xuất nhập khẩu...).
- Quản lý thống nhất ngân sách nhà nước bằng Luật Ngân sách (cơ quan
được giao là Bộ Tài chính có trách nhiệm dự toán, tổng quyết toán).
- Quản lý tiền tệ tín dụng và ngân hàng (phát hành tiền tệ phải tính toán kỹ,
không ảnh hưởng đến nền kinh tế đất nước; hoặc tín dụng cho vay để phát
triển các thành phần kinh tế, tạo nguồn thu cho nhà nước; các ngân hàng
được nhà nước định hướng phát triển).
3. Quản lý, sử dụng lực lượng lao động:
- Lực lượng lao động là lực lượng quyết định đến việc sản xuất ra của cải
cho XH. Vì vậy, việc quản lý, sử dụng có hiệu quả lực lượng này hết sức
quan trọng (lực lượng lao động của nước ta hiện nay trình độ còn thấp, do đó
nhà nước cần đầu tư đào tạo, bồi dưỡng để dần hội nhập với khu vực và
quốc tế).
4. Quản lý hành chính nhà nước về trật tự an toàn XH, về an ninh-quốc
phòng:
- Liên quan đến bảo vệ chính trị nội bộ, đảm bảo đoàn kết thống nhất (không
chia đảng phái) để ổn định chính trị, tập trung xây dựng đất nước, để liên kết
khối đại đoàn kết dân tộc chống các thế lực bên ngoài can thiệp.
- Quản lý an ninh thông tin (đối với ngành lưu trữ có liên quan đến công văn
giấy tờ chứa những thông tin, cho nên phải quản lý chặt chẽ).


- Quản lý về hoạt động tôn giáo (vấn đề này hiện nay rất phức tạp mà các thế
lực thù địch bên ngoài thường hay lợi dụng để làm bàn đạp, chỗ dựa, là nội
gián để tấn công ta), chú ý là luật pháp nước ta cho phép tự do tín ngưỡng và
tự do không tín ngưỡng.
- Ngoài ra, nội dung quản lý nền hành chính nhà nước còn liên quan đến
quản lý nhà nước về văn hoá, khiếu nại, tố cáo của công dân để đảm bảo cho
các khiếu nại, khiếu kiện của nhân dân được giải quyết kịp thời.
Tóm lại, nội dung cơ bản của nó rất đa dạng, phức tạp, do đó đặt ra vấn đề

cải cách nền hành chính nhà nước.
5. Một số vấn đề về cải cách thể chế nền hành chính nhà nước:
- Phải hợp pháp hoá sự phân công quyền lực trong hệ thống chính trị đất
nước, trong đó xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà
nước thông qua các chủ trương, chính sách, các định hướng phát triển, chứ
không làm thay, bao biện.
+ Phải làm rõ quyền quản lý, điều hành bộ máy nhà nước, đặc biệt là bộ máy
hành chính nhà nước.
+ Đề cao vai trò tổ chức, vận động các tổ chức chính trị-XH và các tổ chức
của MTTQ Việt Nam.
- Sắp xếp bộ máy nhà nước một cách hợp lý và bố trí biên chế phù hợp với
bộ máy đó (các cơ quan sự nghiệp hiện nay tăng hợp đồng để giảm biên
chế).
- Hiện đại hoá các phương pháp và phương thức quản lý nhà nước, tiến tới
xây dựng Chính phủ điện tử.
- Tạo sức mạnh cho nền hành chính trong nền kinh tế thị trường phát triển
theo nhiều thành phần, trên cơ sở định hướng XHCN mà Đảng ta đã xác
định (nền hành chính không thực hiện chức năng cai trị, mà phải tạo điều
kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, là dịch vụ cho nền kinh tế).


Chương IV
TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

I. Nguyên tắc chung về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước:
1. Thống nhất chỉ huy và hệ thống thứ bậc:
Đối với bất kỳ nền hành chính của quốc gia nào cũng đều được chia theo thứ
bậc tuỳ theo đặc điểm lịch sử của mỗi quốc gia (VD: với những quốc gia
liên bang thì chia theo: bang-khu-tỉnh...; hoặc như nước ta từ TW đến địa
phương có 3 cấp). Trong hệ thống thứ bậc này, đều chịu sự chỉ huy thống

nhất của bộ máy nhà nước ở TW.
2. Nguyên tắc quyền lực và trách nhiệm gắn liền với nhau:
Mỗi một cấp hành chính của một quốc gia đều được trao những quyền hạn
nhất định, quyền hạn đó được khẳng định trong các văn bản luật (VD như
trong Hiến pháp hoặc Luật Tổ chức nền hành chính nhà nước đó). Đồng thời
với các quyền hạn đó, thì các cấp cũng có trách nhiệm rất lớn trong quản lý
điều hành nền hành chính nhà nước. Nguyên tắc quyền hạn và trách nhiệm
gắn liền với nhau, tạo mối quan hệ hài hoà trong thực thi quyền lực mà nhà
nước giao cho (chúng chính là 2 mặt của một vấn đề, có cái này thì phải có
cái kia).
3. Nguyên tắc phạm vi kiểm soát hợp lý:
- Mõi một cấp chính quyền đều có trách nhiện kiểm soát mọi công việc trong
phạm vi được giao. Công việc kiểm soát này được thể hiện trong hệ thống
các văn bản quy phạm rõ ràng (VD: cơ quan kiểm lâm thì phạm vi kiểm soát
của nó phải được xác định rõ được làm gì, phạm vi đến đâu...).
4. Bộ máy hành chính phải tinh giảm:
Nguyên tắc này hiện nay các quốc gia đều phải đang hướng tới. Vì hành
chính không trực tiếp làm ra của cải vật chất, mà nó chỉ tiêu tốn kinh phí.
Chi nên cải cách hành chính, tinh giảm bộ máy sao cho hợp lý, cơ cấu tổ
chức đơn giản, tránh nhiều tầng nấc... để giải quyết công việc có hiệu quả
hơn. Ở nước ta hiện nay, nền hành chính còn cồng kềnh, một số khâu giải


quyết còn nhiều cấp, nhiều cửa, cho nên mục tiêu tinh giảm, cải cách nền
hành chính cho hiệu quả được Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng và đã có
nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện cải cách nền hành chính nhà nước.
II. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước:
1. Những nguyên tắc mang tính chính trị:
- Nguyên tắc tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước ta, điều này được khẳng định trong HIến

pháp, trong Luật Tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức HĐND, UBND các cấp.
Theo nguyên tắc này, quyền lực nhà nước của nước ta thuộc về nhân dân,
nhân dân thực hiện quyền đó thông qua các cơ quan dân cử được bầu ra theo
nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
- Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ: Đối với
nước ta, ngành và lãnh thổ thống nhất với nhau, khác với một số nước được
chia thành các bang, có các hệ thống hành chính khác nhau.
- Nguyên tắc phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức
năng quản lý sản xuất kinh doanh nhằm tạo môi trường thuận lợi cho QHSX
kinh doanh phát triển, hỗ trợ cho các tổ chức sản xuất (vốn, đất đai, thị
trường, thông tin...). Nhà nước phải hoạch định và thực hiện các chính sách
XH thông nhất giữa phát triển kinh tế và đảm bảo công bằng XH để làm cho
sự phân hoá giàu-nghèo không lớn quá. Quản lý, kiểm soát tài nguyên, tài
sản quốc gia, tổ chức nền kinh tế quốc dân, xây dựng chiến lược quy hoạch
định hướng phát triển nền kinh tế. Thực hiện những hoạt động của các tổ
chức quần chúng để thực hiện quyền lực quản lý nhà nước.
2. Những nguyên tắc khoa học về tổ chức nền hành chính nhà nước:
- Nguyên tắc nền nghiên cứu phải phù hợp với những yêu cầu của chức năng
hành pháp, mà trong đó chính phủ là cơ quan đứng đầu hệ thống hành pháp
đó.
- Nguyên tắc hoàn chỉnh và thống nhất của nền hành chính (thể hiện ở chỗ,
nền hành chính được tổ chức từ TW tới địa phương, thống nhất trong phạm
vi cả nước. Ở những ta, hệ thống hành chính từ TW đến địa phương là 4 cấp
hoàn chỉnh và thống nhất: Chính phủ-tỉnh (thành) - huyện (thị) - xã
(phường).


- Nguyên tắc phân định thẩm quyền quản lý hợp lý cho tất cả các cấp, các
ngành. Đối với nước ta, nguyên tắc này càng ngày càng được làm rõ, có
nhiều văn bản QPPL để điều chỉnh rõ quyền phân cấp quản lý của mỗi cấp.

- Nguyên tắc phân định phạm vi quản lý và hệ thống các cấp quản lý cho
phù hợp.
- Nguyên tắc phân định thẩm quyền và trách nhiệm (tránh tình trạng lạm
dụng hoặc bỏ sót quyền).
- Ngoài ra, người ta còn quan tâm đến nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả; nhân
dân tham gia vào quá trình quản lý để phát huy tính tích cực của người dân
(tiết kiệm là vấn đề được Chính phủ đặt ra từ lâu, làm tốt khâu này sẽ tiết
kiệm được cho ngân sách để dùng vào việc phát triển kinh tế đất nước).
3. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước:
a. Ở Trung ương:
- Nguyên thủ quốc gia: Là người đứng đầu của quốc gia, do QH bầu ra tại kỳ
họp đầu tiên của mỗi khoá QH. Nguyên thủ quốc gia đại diện cho đất nước
về 2 phương diện: đối nội và đối ngoại. Về phương diện đối nội, nguyên thủ
quốc gia thực thi chức năng lập pháp bằng việc công bố các văn bản luật do
QH và UBTVQH thông qua. Về chức năng hành pháp, nguyên thủ quốc gia
là thống lĩnh các lực lượng vũ trang, quyết định những vấn đề như phong
tặng các danh hiệu nhà nước, quyết định đặc xá, ân xá, quyết định bổ nhiệm
đại sứ và các đại diện ngoại giao của ta ra nước ngoài và tiếp nhận các đại
diện ngoại giao các nước.
- Chính phủ: Là cơ quan hành chính cao nhất của nhà nước, là cơ quan
quyền lực cao nhất, do QH bầu ra trong kỳ họp đầu tiên của mỗi khoá. Chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là quản lý, điều hành toàn bộ đời
sống chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, an ninh-quốc phòng, đối ngoại...
của nước ta. Thành phần của Chính phủ bao gồm Thủ tướng Chính phủ, các
phó Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ.
- Các bộ: Bộ là cơ quan của Chính phủ, do QH bầu ra với chức năng, nhiệm
vụ là quản lý ngành hoặc lĩnh vực của nhà nước. Bộ là thành viên của Chính
phủ, người đứng đầu mỗi bộ là bộ trưởng; về chính trị, bộ trưởng là chính
khách (đại diện cho đảng cầm quyền) tổ chức thực hiện nhiệm vụ đảng đó
giao; về mặt hành chính, bộ trưởng là một nhà hành chính, nhà quản lý điều



hành 1 cơ quan của Chính phủ; khi thực thi quản lý hành chính thì phải tuân
thủ theo luật pháp. Vì vậy, chức năng hành chính này đã làm cho hoạt động
của các bộ ổn định, tránh chồng chéo.
Ngoài ra để giúp Chính phủ quản lý một số ngành, lĩnh vực khác thì Chính
phủ thành lập ra một số cơ quan trực thuộc. Những cơ quan này không phải
là thành viên của Chính phủ, giúp Chính phủ thực hiện quản lý một số
ngành, lĩnh vực. Ngày nay, theo hướng cải cách hành chính, các cơ quan này
đã giảm do sáp nhập vào các bộ.
b. Tổ chức chính quyền địa phương:
- Tổ chức chính quyền địa phương của các quốc gia trên thê giới không
giống nhau tuỳ theo đặc điểm tình hình mỗi nước có thể thiết kế ra các cấp
hành chính quốc gia khác nhau. Có nước có 4 cấp (TW-tỉnh-huyện-xã), có
nước có 3 cấp, có nước tổ chức theo liên bang... Nước ta có 4 cấp, theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, chính quyền địa phương được phân cấp quản
lý lĩnh vực đời sống XH của địa phương.
- Cơ cấu tổ chức chính quyền địa phương: Hiện nay ở nước ta thống nhất tổ
chức 3 cấp và nó là cấp chính quyền địa phương hoàn chỉnh, bao gồm có cơ
quan quyền lực nhà nước địa phương (HĐND các cấp), cơ quan hành chính
(UBND) và cơ quan tư pháp (TA và Viện Kiểm sát), riêng cơ quan này được
tổ chức tới cấp huyện và tương đương. Về địa vị pháp lý của chính quyền
địa phương gồm:
+ HĐND là cơ quan đại diện cho quyền lợi của nhân dân địa phương, do
nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, bỏ phiếu kín (lưu ý:
QH và HĐND các cấp đều do nhân dân bầu ra, QH không lãnh đạo HĐND,
mà chỉ giám sát, hướng dẫn thực hiện theo luật, các chủ trương chính sách
của nhà nước).
+ Cơ quan hành chính ở địa phương (UBND) các cấp do HĐND cùng cấp
bầu ra tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khoá hội đồng (nhiệm kỳ hiện nay là 5

năm). Thành phần gồm: chủ tịch, các phó chủ tịch và các uỷ viên (số lượng
tuỳ theo từng cấp, từng tỉnh). Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của UBND
các cấp là quản lý, điều hành toàn bộ mọi mặt hoạt động ở địa phương (kinh
tế, văn hoá-XH, quốc phòng-an ninh, trật tự trị an...). UBND thông thường 1
tháng họp 1 lần, Thường trực UBND có nhiệm vụ triệu tập các phiên họp
UBND.


Tóm lại, tổ chức bộ máy chính quyền ở cấp TW và địa phương là một trong
những chủ thể cơ bản và là một bộ phận quan trọng cấu thành nền hành
chính nhà nước ở nước ta.

Chương V
CÔNG VỤ VÀ CÔNG CHỨC

I. Công vụ:
1. KN: Công vụ là một loại lao động đặc thù thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước để thi hành luật pháp, đưa luật pháp vào đời sống, đồng thời cũng để
quản lý, sử dụng có hiệu quả tài sản chung (công sản) và ngân sách nhà nước
nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị của quốc gia.
Đặc điểm rút ra từ KN trên:
- Lao động đặc thù: Vì lao động này mang tính trừu tượng, khó đong đếm
hiệu quả bằng con số cụ thể (VD: TTg ra quyết định khoán 10, 100... làm
cho sản xuất nông nghiệp ở nước ta phát triển, người nông dân đủ ăn, tình
hình kinh tế-XH phát triển rõ rệt, đảm bảo lương thực cho XH và xuất
khẩu..., do đó khó có thể đánh giá được hiệu quả quyết định trên). Hoạt động
công vụ này phải dựa trên cơ sở sử dụng các quyền lực nhà nước, thể hiện ở
trong các văn bản luật và các văn bản quy phạm dưới luật.
- Hoạt động này do đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy nhà nước thực
hiện.

2. Nguyên tắc của công vụ:
- Nguyên tắc chung: Những quan điểm, những tư tưởng, những quy định
chung nhằm thực hiện một cách có hiệu quả công việc quản lý nhà nước
(VD: về quan điểm của nhà nước ta là do dân, vì dân, cho nên mọi tư tưởng,
quan điểm phải hướng về nhân dân).
- Nguyên tắc cụ thể:


+ Công cụ thể hiện ý chí và đáp ứng lợi ích của nhân dân và nhà nước.
+ Nó được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ (quyền lực tập trung
theo đa số, cá nhân phụ trách).
+ Được hình thành và phát triển theo kế hoạch, định hướng nhất định.
+ Nguyên tắc công vụ này phải tuân thủ pháp luật,bảo đảm pháp chế, thực
hiện đúng thẩm quyền, không lạm quyền, nhưng cũng không bỏ sót quyền
lực.
Ngay từ khi CMT8 thành công, Bác Hồ đã quan tâm đến công tác này,
nhưng vì ta phải trải qua các cuộc kháng chiến, cho nên mãi đến khi thống
nhất nước nhà thì nó mới thực sự được coi trọng.
II. Công chức:
1. KN:
- Hiện nay, quan niệm về công chức ở các quốc gia có nhiều cách hiểu khác
nhau. Nhìn chung đều quan niệm công chức là những người làm việc trong
các cơ quan nhà nước và được giới hạn trong phạm vi bộ máy nhà nước (3
bộ phận quyền lực). Ở nước ta, người ta dựa vào 3 tiêu chí cơ bản sau để xác
định công chức:
+ Là những người được tuyển dụng, được bổ nhiệm hoặc được bầu cử vào
làm việc trong biên chế chính thức bộ áy nhà nước của các tổ chức chính trị,
chính trị-XH.
+ Là những người được xếp vào ngạch bậc trong hệ thống ngạch bậc do nhà
nước thống nhất quy định.

+ Tất cả những người này đều được hưởng lương do ngân sách nhà nước
cấp.
- Quyền và nghĩa vụ của công chức:
+ Mọi công chức đều có những quyền, nghĩa vụ đảm bảo pháp lý như mọi
công dân được pháp luật quy định.


×